Thứ Hai, 20 tháng 7, 2020

TT&HĐ I - 10/n

                                                                      Dáng đứng Việt Nam

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”

CHƯƠNG X:  TRẦM TƯ MẶC TƯỞNG


"Dòng tư duy tiếp tục chảy; nhưng phần lớn các mảnh của nó rơi xuống vực thẳm không đáy của sự lãng quên. Với một số mảnh, không ký ức nào vượt qua được khoảng khắc chúng trôi qua. Với một số mảnh khác, chúng giới hạn trong một vài khoảng khắc, một vài giờ, hoặc một vài ngày. Lại có những mảnh để lại vết tích không thể xóa đi, và chúng có thể được nhớ lại chừng nào cuộc sống còn tiếp diễn." 
William James

"Có trí óc tốt vẫn chưa đủ, quan trọng là 
biết sử dụng nó." 
Rene Descartes

-Tự do, theo quan điểm siêu hình học của tôi, là quyền lực tự quyết trong một thực thể có tư duy. Nó đưa đến suy nghĩ, lựa chọn và sức mạnh.
-Hãy để trí óc con người tự do. Nó phải được tự do. Nó sẽ được tự do. Sự mê tín và giáo điều không thể giam cầm được nó.
John Adams
Người ta không lười biếng chỉ vì người ta chăm chú. Có lao động vô hình và lao động hữu hình. Suy tưởng là cần cù, nghỉ ngợi là thực hiện. Khoanh tay vẫn là làm việc và siết chặt tay vẫn là hành động. Đôi mắt ngước lên Thiên đường là sáng tạo.
Victor Hugo

Tư tưởng luôn luôn là sự khái quát, và sự khái quát là một thuộc tính của tư duy. Khái quát nghĩa là tư duy.
Hegel

Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Albert Einstein 
Khi con người từ bỏ quyền tư duy, cái bóng cuối cùng của tự do biến mất khỏi chân trời.
Thomas Paine 
Không chịu suy xét là người mù quáng, không thể suy xét là người ngu xuẩn và không dám suy xét là người nô lệ.

Lord Byron 
Chẳng có gì tồi tệ hơn những hành động không có sự sáng suốt.

Thomas Carlyle 
Nhà tư tưởng mới chỉ là người không biết về những gì mà những nhà tư tưởng cũ đã suy ngẫm.
Frank Moore Colby

Lời nói đúng là những thứ không chắc chắn, chúng thường nghe hay ho lắm nhưng lại mang ý nghĩa đối lập với những gì người ta nghĩ.
Agatha Christie 


 

(Tiếp theo)



                                   *** 

Rời nhà của lão hiền triết Trang Tử, chúng ta quay về phương Nam trên con tàu tốc hành vượt thời gian (con tàu này đúng là một... UFO, nhưng không phải của người ngoài hành tinh, là thực thể mà đến ngay những người có mặt trong đó cũng không xác định được (!), chỉ tạm gọi là..."con tàu", thế thôi!!!). Chặng hành trình lang thang trong xứ sở thời Xuân Thu - Chiến Quốc của chúng ta đã (tạm) kết thúc. Ai cũng thế, đều trở thành vô thức khi ở trên con tàu vượt thời gian đó và nó... đang bay. Dù chưa toại nguyện vì chưa được chứng thực hết mọi điều còn khuất tất trong chính sử, thì chúng ta vẫn vui mừng khôn xiết vì không bị ''mắc kẹt'' lại thời xa xưa đó... vĩnh viễn! Kể ra, cuộc hành trình cũng khá dài lâu, chúng ta cũng mắt thấy tai nghe được nhiều điều bổ ích, đã chiêm nghiệm được khá nhiều chân lý, dù chỉ mới như là "cưỡi ngựa xem hoa"...

...Một tiếng gầm long trời, lở đất, rền vang sông núi. Kế tiếp là cuồng phong nổi lên. Cái ngột ngạt oi nồng của thời tiết không còn nữa, lớp mồ hôi nhờn bám rịt da người đã biến mất, mùi binh đao thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã hết nồng nặc. Mây đen cuộn lên như những quái tượng khổng lồ. Đã lác đác vài giọt mưa chắc nịch rơi xuống nền đường vỡ tan, mất biến. Chúng ta chợt thấy mình đang đứng trước một tửu quán đã lên đèn tại Sài Gòn. Hợp lẽ tự nhiên nhất lúc này là để tránh một trận mưa có thể là như trút, chúng ta nên vào quán để uống vài chai bia ướp lạnh của thế kỷ XXI. Lâu quá rồi còn gì!?

Hóa ra vẫn là cái tửu quán quen thuộc có tên “Kiều Mi”, vẫn ông chủ quán đầu hói bóng như gương, lúc nào cũng thấy lúi húi đếm tiền. Vẫn cô gái chạy bàn tươi duyên mặc áo hở ngực đến độ mỗi khi cúi xuống là khách thấy hết cả “giang sơn”. Vẫn nàng tiếp thị bia nói năng lưu loát và tình tứ, có thân hình thon thả như người mẫu với đôi chân dài hoạt bát dưới làn váy ngắn làm cho lượng bia tiêu thụ luôn vượt quá sự mong đợi. Vẫn là bà bếp núc ních mỗi khi rảnh lại ra bàn khách quen nói vui ba điều bốn chuyện. Vẫn... Nói chung là vẫn vậy, xã hội hầu như không có gì thay đổi. Ấy vậy mà đã trên 2500 năm trôi qua rồi đấy nhé, ghê thật!

Người ta cứ cho rằng xã hội hiện tại văn hóa hơn xã hội ngày xưa. Chúng ta đã đi, chúng ta đã thấy và chúng ta đã từng trải. Vì thế mà chúng ta đột nhiên trở thành những kẻ ngây ngô khi tự hỏi: “Văn hóa là gì? Văn hóa từ đâu mà có? Lấy chuẩn mực nào để nói rằng hôm nay văn hóa hơn hôm qua?”.

Khi nói rằng một xã hội có văn hóa thì cũng có thể nói xã hội đó đã bớt mông muội, bớt dã man, không còn hoặc còn ít lối sống giống cầm thú, hay đã có chuẩn mực đạo đức xã hội, lịch sự hơn và có lễ nghĩa hơn. Nếu văn hóa được quan niệm như thế thì xã hội ngày nay đâu khác gì xã hội của Trung Hoa cổ đại cách đây 2500 năm, mà có khi còn “tệ bạc” hơn! Hay là lấy trình độ tiện nghi làm chuẩn mực so sánh? Không ổn! Vì như thế phải cho rằng người giàu sẽ văn hóa hơn người nghèo, cuộc sống no đủ văn hóa hơn cuộc sống đói khát. Nói đến cuộc sống no đủ thì phải nói đến nhu cầu. Mỗi thời đại có nhu cầu đòi hỏi khác nhau, mức độ thỏa mãn cuộc sống khác nhau, do đó sẽ có những thời kỳ trong quá khứ no đủ hơn bây giờ nhiều… Mặt khác, thực tế cho thấy đâu cứ phải giàu có hơn là đối nhân xử thế... ''tử tế'' hơn? Rốt cuộc thì văn hóa là gì, nó chỉ thị điều tốt hơn hay xấu hơn trong cuộc sống, thành tâm hơn hay diễn kịch hơn trong ứng xử giữa người với người? Câu hỏi này xin nhường cho... Đấng Tạo Hóa!


Mưa như trút thật! Và như thường lệ, rất mau tạnh. Trời đã tối từ lâu, gió mát lạnh. Tiếng sấm đã dời đi, tiếp tục gầm gừ ở đâu xa lắc, nhưng ánh chớp thì vẫn gửi về đây. Lâu lâu nhá lên như khoe như giấu. Thiên nhiên cũng có nỗi niềm riêng của nó?


Mải nhìn ra cửa sổ, không biết chủ quán đến bên tự lúc nào:

- Lâu quá không thấy các đại ca ghé? Mà hôm nay sao “tâm trạng” thế? - Chủ quán chìa gói thuốc lá ra mời – Làm điếu thuốc đi mấy huynh!...

Chúng ta quay lại và vốn bản tính xởi lởi, chúng ta cười nói:

- A, chào ông chủ! Lúc nãy mới vô chào ông chủ mà ông chủ không nghe, lo đếm tiền quá mà! - Phì phà hơi thuốc lá, chúng ta tiếp - Dạo này làm ăn ra sao hả ông chủ, hốt bao nhiêu cây vàng của thiên hạ rồi?

Chủ quán ngửng mặt lên trời cười ha ha:

- Mấy huynh bỏ quán đi hoài, làm sao mà giàu cho nổi!... Mấy đứa phục vụ ở đây cứ nhắc các anh hoài! Không biết có chuyện gì không mà không thấy các huynh ghé nữa?...

- Có chuyện phải đi xa… Mới về tức thì là ghé quán ông liền. Đây này, ông không thấy người ngợm quần áo chúng tôi toàn đất cát lấm lem sao?

Có người gọi, chủ quán líu ríu:

- Thôi, mấy anh thông cảm, ngồi chơi vui đi… – Ông chủ quay qua gọi nàng tiếp thị gần đó - Này Hoa, nhắc mấy ổng hoài mấy ổng lại ghé uống ủng hộ kìa, vui không? - Chủ quán vừa đi vừa quay lại chào, cười ha ha nữa.

Có hai loại khách mà chủ quán nào cũng thích, đó là khách xộp và khách chân tình. Chúng ta chắc chắn không phải khách xộp rồi nên tự hào là loại khách thứ hai.

- Thấy mấy anh ghé lại, ổng vui lắm đó! – Hoa bảo thế.

- Mà em có vui không?

- Quá vui! – Hoa nghiêng mặt, so vai, tóc lòa xòa bên má trắng mịn màng nhờ bốn mùa hoa trái của sông nước miền Tây Nam Bộ.

Trước khuôn mặt trái xoan vừa cố tình vừa tự nhiên làm duyên ấy, có lẽ đến Lão Tử cũng không thể giữ lòng hư tĩnh được, huống hồ chúng ta?! Có một nỗi niềm nào đó dội rất mạnh vào lòng. Hoa ơi, em đẹp lắm! Nhưng em còn nhỏ quá, chưa thấy được nhiều điều khốn nạn trong đời sống! Mong em đừng bao giờ thấy! Chúng ta nheo mắt nhìn Hoa cười, cầm ly bia lên, uống một hơi cạn đáy, rồi khà:

- Lâu ngày mới ghé, hôm nay tụi anh sẽ uống hết bia của em luôn!

- Uống xỉn sao mà về được? Về bà xã la chết đó! Uống vừa thôi, rồi mai mốt mấy anh ghé uống nữa.

Thì ra thế! Hình như cái đáng tôn sùng nhất ở cõi thế tục này là Tình Yêu Thương. Không có Tình Yêu Thương thì xã hội này tan rã từ lâu rồi, không thể tồn tại được, chứ nói chi đến... đạo đức làm người trong xã hội!?

Điều đó thật đơn giản và ai cũng biết. Nhưng tại sao cứ phải chiến tranh, tại sao vẫn là tàn nhẫn? Đây lại là điều rất ít người biết. Đó là vì ''thèm khát'' danh lợi thái quá! Xã hội loài người vĩnh viễn không bao giờ thoát được vòng danh lợi một khi tình yêu thương đồng loại chưa vượt thoát được tự giác để "lên" thành bản năng ở mỗi cá thể (thứ bản năng có được nhờ nhận thức dài lâu?!).

Thử hỏi ai mà không yêu mình? Bước vào đời, ai mà không ước ao danh lợi; ai mà không tìm danh, kiếm lợi? Và ai mà không tham muốn? Và làm sao biết thấm thía tình yêu nếu không biết ghét cay ghét đắng? Cho nên mới nói rằng yêu, ghét có mầm mống từ bản năng đã nảy lộc đâm chồi, vươn lên một tầm cao nhất định để có được một mức độ nhận thức nhất định. Yêu gồm mọi người thì cần có một nhận thức cao hơn nữa!...

Tham muốn và chưa đủ gồm yêu là đầu mối của thèm khát vị kỷ. Thèm khát vị kỷ làm nên ganh ghét, lòng tham vô độ lượng và sự nhẫn tâm là cái gốc của sự độc ác. Độc ác nào mà không gặt hái oán thù?

Thèm khát danh lợi một cách vị kỷ, vô tâm là con đường dẫn đến mọi sự xung đột và tột cùng của xung đột thì đó chính là đấu tranh vũ trang, là chiến tranh? Chiến tranh là sự tàn phá cái đã tốn công của tạo dựng, là cuộc chém giết lẫn nhau giữa hai lực lượng người để giành phần thắng, vì danh lợi (hay quyền lợi) của mỗi bên tham chiến, mà thực chất là hành động quyết liệt cuối cùng của đấu tranh sinh tồn, là hành động tiêu diệt sự sống để duy trì sự sống (!), kiểu một mất một còn. Dù cho rằng một trong hai lực lượng ấy là chính nghĩa, phát động chiến tranh để bảo vệ quyền sống chính đáng của mình, và chiến tranh là cần thiết đến cỡ nào đi chăng nữa để bảo toàn Đức Huyền Diệu hay nhân danh Tình Yêu Thương, thì chiến tranh bao giờ cũng tàn bạo!

Thời đại ngày nay, khi “kỹ nghệ ghét người và giết người” đạt đến mức “tuyệt vời” hơn bao giờ hết thì Tình Yêu Thương là vô cùng bức thiết. Chính Tình Yêu Thương sẽ làm cho sự tham muốn danh lợi biết dừng lại ở mức vừa đủ, sẽ làm cho những cái đầu “nóng” biết tôn trọng sinh mạng mọi con người; làm cho những tâm hồn vị kỷ đầy lãnh cảm biết nhường nhịn, biết rằng sự sống con người ở đâu và lúc nào cũng vậy, đều đáng quí như nhau, rằng đã là người thì cố gắng không gây ra đau khổ cho bất kỳ sự sống có tình nào. Còn nếu không, Tình Yêu Thương ít ra cũng sẽ an ủi được biết bao nhiêu thân phận không may, biết bao nhiêu mảnh đời bất hạnh, biết bao nhiêu tâm trạng cần được cảm thông. Và cuối cùng, nếu không được như vậy nữa thì chí ít, nó cũng tạo được chữ Hòa trong một xã hội mưu cầu danh lợi.

Nếu hiểu văn minh là bớt mê muội, là sáng suốt hơn, thì nên chăng lấy mức độ và cách thức thể hiện Tình Yêu Thương chân chính làm chuẩn mực của văn minh và mức độ văn minh là tùy thuộc sự lan toả và thấm thía Tình Yêu Thương trong xã hội, cũng như trong mỗi con người?


- Uống ủng hộ em chai nữa không mấy anh?

Tiếng Hoa trong vắt, ngân vang trong cái ồn ào xô bồ của tửu quán bình dân làm chúng ta bừng tỉnh. Quán đã đông khách hơn.

- Uống nữa chứ em. Tụi anh chưa say mà!… Mà có khi là đã say em mất rồi cũng không biết chừng…

Hoa nguýt, cười, tay khui bia lốp bốp, đã quen với sự cợt nhả:

- Sợ người chê thôi, chứ ai thương, em theo liền!...


Đẹp thật! Cô nàng đi qua bàn khác rồi mà mắt chúng ta cứ dán theo cặp đùi trắng suôn đuột. Không biết đó có phải là sự yêu mến có lý trí không? Hay đó đơn thuần chỉ là dục tính bản năng trỗi dậy vì bia, rượu?…
Đúng phóc là chẳng có gì thay đổi cả dù đã khoảng 2500 năm trôi qua! Tửu quán hồi đó cũng y hệt như tửu quán tối nay: vẫn là ông chủ quán, vẫn là bà bếp, vẫn là mấy em tiếp khách, vẫn là xô bồ đủ hạng tao nhân mặc khách, vẫn đầy ắp những thân phận, đầy ắp những thị phi và đầy ắp những nỗi niềm...

Không biết có lạc lõng không mà trong chúng ta bỗng âm vang những lời ca tiếng hát của một thời cả nước lên đường chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Gần một thế kỷ qua rồi mà sao mỗi lần những khúc ca ấy vang lên, lòng chúng ta lại chìm đắm trong Tình Yêu Thương. Chao ôi, tất cả mọi ngọn nguồn ngóc ngách tình cảm, kể cả tình cảm lứa đôi, đều hướng về, đều hun đúc nên một tình yêu quê hương đất nước thắm thiết, thiêng liêng, không gợn chút vị kỷ và trong sáng khi ca ngợi niềm vui lẫn cả khi tả lại nỗi buồn!
Chúng ta chợt nhớ về thơ Lê Anh Xuân của một thời cứu nước. Ôi, cái ngày xưa Tổ Quốc ngập tràn khói lửa chiến tranh, tơi bời chết chóc ấy sao mà đẹp Tình Yêu Thương đến thế? Cha anh của chúng ta đi vào cuộc chiến đấu một mất một còn với quân xâm lược sao mà hồn nhiên, thanh thản đến lạ kỳ? Mọi phân tích triết học như xuất thế vô vi, nhập thế hữu vi, chính danh, vô danh… đều chỉ là vô nghĩa, phi lý, vớ vẩn khi nói về họ:

“Ơi cơn mưa quê hương
Mưa là khúc nhạc của bài ca em hát
Những đêm ta nằm nghe mưa hát mưa ơi
Nghe mưa đập cánh tre, nghe mưa rơi tàu lá
Thì thầm rào rạt vang xa…
Có lúc bỗng phong ba dữ dội
Mưa đổ ào như thác dồn trăm lối
Giấc mơ xưa có chớp giật, sấm gầm.
Trang sử nhỏ nhà trường bỗng hóa cơn giông
Nghe như tiếng của cha ông dựng nước
Truyền con cháu phải ngẩng cao mà bước
Nghe như lời cây cỏ gió mưa,
Đang hát tiếp bài ca bất khuất ngàn xưa…”
(Trích “Nhớ mưa quê hương”)

“Đây rồi đoạn đường xưa
Nơi ta vẫn thường đi trong mộng
Kẽo kẹt nhà ai tiếng võng trưa
Ầu ơ… thương nhớ lắm
Ơi những bông trang trắng, những bông trang hồng
Như tấm lòng em trong trắng thủy chung
Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm
Con sông nhỏ tuổi thơ ta đã tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông”
(Trích “Trở về quê nội”)

Tình yêu như trời xanh không chút gợn ấy là do thiên nhiên thuận hòa làm nên lòng người thuần phác, hay là sự hun đúc từ ngàn đời tổ tiên đã từng chịu biết bao nhiêu đau thương mất mát nhưng cũng vô cùng gan góc giữ gìn trọn vẹn gấm vóc giang sơn?

“Mẹ lưng còng tóc bạc
Ngậm ngùi kể chuyện ta nghe
Tám em bé chết vì bom xăng đặc
Trên đường đi học trở về
Giặc giết mười người trong một ấp
Bà con khiêng xác chất đầy ghe
Chở lên Bến Tre đấu tranh với giặc
Làng ta mấy lần bom giội nát
Dừa ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre”
(Trích “Trở về quê nội”)

Tình yêu ấy là bản năng, là ý chí, hay là sự hòa quyện của cả hai làm nên truyền thống của một dân tộc? Truyền thống ấy ẩn giấu tiềm tàng trong máu chảy ruột mềm, trong khối óc con tim, trong từng hơi thở ở mỗi con người mà thế hệ cha anh chúng ta, trong ác liệt chiến tranh, đã thể hiện ra một thái độ sống, một quan niệm về bổn phận nhất quán và hết sức giản dị như vốn dĩ là thế, lẽ thường là thế chứ không thể khác được.

“Mẹ ta tần tảo sớm hôm
Nuôi các anh ta dưới hầm bí mật
Cả đời mẹ hy sinh gan góc
Hai mươi năm giữ đất, giữ làng
Ôi, mẹ là bà mẹ miền Nam
Ta có ngờ đâu em ta đấy
Dưới mái lều kia em đã lớn lên
Em đẹp lắm như mùa xuân bừng dậy
Súng trên vai cũng đẹp như em
Em ơi! Sao tóc em thơm vậy
Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng
Ta yêu giọng em cười trong trẻo
Ngọt ngào như nước dừa xiêm
Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo
Dịu dàng như những nàng tiên
Em là du kích, em là giao liên
Em chính là quê hương ta đó
Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương

Đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê hương
Sao thấy lòng ấm lạ
Dù ngoài trời tầm tã mưa tuôn
Tiếng đại bác gầm rung vách lá
Ôi quê hương ta đẹp quá!
Dù trên đường còn những hố bom
Dù áo em vẫn còn mảnh vá
Ta về đây chẳng mang gì cho em cả
Chỉ có trái tim chung thủy, sắt son
Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn.”
(Trích “Trở về quê nội”)

Yêu mình, ai mà không như thế. Cha anh chúng ta cũng thế, nhưng khái niệm yêu mình ở đây đã được mở rộng để gắn kết keo sơn với yêu gồm cả quê hương xứ sở. Có lẽ vì vậy mà trước cái hữu hạn của kiếp người, cha anh chúng ta không nói: sống là tạm đến, chết là tạm đi như Dương Chu mà nói: sống là gửi, chết là về (với muôn thuở quê hương!). Hãy nghe Trần Bình Trọng nói khi sa vào tay giặc, trước sự dụ dỗ của tướng giặc đối với ông: “Ta thà chết làm quỉ nước Nam, chứ không thèm sống làm Vương đất Bắc!”. Cái khí phách đó đã hiển hiện ra trong thời đại chống Mỹ cứu nước ở thế hệ cha anh chúng ta như thế này đây:

“… Anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quí
Anh vẫn đứng lặng yên như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị sáng trong.

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái Dáng - Đứng - Việt - Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sĩ Giải Phóng Quân

Tên Anh đã thành tên đất nước
Ơi Anh Giải Phóng Quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ Quốc bay lên bát ngát mùa xuân.”
(Trích “Dáng đứng Việt Nam”)
Leanhxuan.jpg

Lê Anh Xuân
Nhà thơ Lê Anh Xuân (1940-1968)
Sinh Ca Lê Hiến
thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre
Mất huyện Cần Đước, tỉnh Long An
Nguyên quán Việt Nam
Nghề nghiệp Nhà thơ, nhà báo
Tác phẩm nổi bật Dáng đứng Việt Nam

Cái khí phách ấy có tên gọi chính xác là gì nếu không phải là Bất Khuất?!...
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét