Một
trong những sở trường của giới tình báo Israel là “chui sâu, leo cao”,
tức là phái khiển gián điệp dưới các bình phong khác nhau xâm nhập vào
nước đối tượng, xây dựng quan hệ xã hội, từ đó thu thập tin tức tình báo
cần thiết.
Về mặt này, Israel có ưu thế rất rõ ràng.
Sau khi thành lập Nhà nước Israel, những người Do Thái vốn sinh sống ở
châu Âu đua nhau trở về quê hương, và từ một ý nghĩa nào đó, họ vẫn là
những người châu Âu.
Thứ hai, một bộ phận lớn người Do
Thái Israel từng sinh sống nhiều năm ở các nước Ảrập, hiểu rất rõ tập
tục văn hoá, ngôn ngữ Ảrập, có cơ sở rộng rãi trong xã hội Ảrập. Những
yếu tố này đã tạo điều kiện nguỵ trang tự nhiên cho hành động của người
Israel khi trở lại hoạt động tình báo ở các nước khác.
Biểu tượng của tình báo Mossad, Israel. Ảnh: Wikipedia
Thứ
ba, người Do Thái sống phân tán ở các nơi trên thế giới, song vẫn hướng
về và sẵn sàng giúp đỡ Israel, kể cả cung cấp tin tức tình báo, điều đó
càng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các cơ quan tình báo
Israel.
Một trong những điệp viên chui sâu xuất sắc
nhất của Israel là Wolfgang Lotz. Với kinh nghiệm sống nhiều năm ở Đức
dưới vỏ bọc một cựu sĩ quan phát xít, sau khi đứng chân ổn định ở Ai
Cập, Lotz đã nhanh chóng chui sâu leo cao vào xã hội thượng lưu của Ai
Cập, thu thập được rất nhiều tin tức tình báo quan trọng cho AMAN (Cơ
quan Tình báo quân sự Israel).
Một điệp viên nổi tiếng
khác là Ile Coen. Dưới sự chỉ đạo, tổ chức và sắp xếp cẩn thận của
AMAN, Coen đã cắm rễ lâu dài ở Syria, tìm cách tiếp xúc với tầng lớp
lãnh đạo cao cấp của nước này, được tin cậy đến mức suýt trở thành Bộ
trưởng Quốc phòng Syria.
Coen không những thu thập
được nhiều tin tức tình báo quân sự liên quan đến khu vực cao nguyên
Golan, mà còn thu thập được các tin tức tình báo chiến lược về hoạt động
chỉ huy, tình hình động viên quân đội và thực lực quân sự của Syria.
Chính
hoạt động gián điệp của Lotz và Coen đã góp phần cực kỳ quan trọng cho
việc Israel giành thắng lợi nhanh chóng trong cuộc “Chiến tranh 6 ngày”
(1967).
Gián điệp Israel không những có kỹ năng “chui
sâu” tương đối tốt, mà về mặt dụ dỗ, lôi kéo họ cũng tỏ ra khá thành
thục. Tình báo Israel từng vận dụng thành công phương thức tấn công tâm
lý và mua chuộc bằng tiền bạc, tuyển mộ được công trình sư của một công
ty Thuỵ Sĩ, qua đó có được bản thiết kế máy bay chiến đấu Mirage III.
Nhờ
bản thiết kế này, Israel đã tận dụng kỹ thuật của Pháp, nghiên cứu phát
triển thành công loại máy bay chiến đấu “Kfir” của riêng mình.
Tình báo tín hiệu hàng đầu thế giới
Trinh
sát vô tuyến điện luôn là một lĩnh vực cực kỳ bí mật trong hoạt động
tình báo của Israel. Ngay sau khi Israel thành lập nhà nước, Phòng thu
thập tình báo tín hiệu của AMAN đã xây dựng những trạm trinh sát do thám
cỡ lớn trong nước, đặc biệt là ở các khu vực gần biên giới.
Ngày nay, phạm vi thu thập của những trạm trinh sát này có thể bao quát các nước Syria, Iraq, Jordan và Ai Cập.
Israel
không những nhập khá nhiều các thiết bị kỹ thuật dịch/ phá mã, tổ chức
chặn thu thông tin vô tuyến điện, mà còn thường xuyên sử dụng các thủ
đoạn tình báo đặc nhiệm, thu thập các trang thiết bị kỹ thuật vô tuyến
điện của các nước Ảrập để tìm hiểu các tham số kỹ thuật.
Đặc nhiệm Mossad. Ảnh: Times of Israel
Năm
1967, để tìm hiểu tính năng kỹ thuật của các thiết bị thông tin kiểu
mới do Liên Xô chế tạo đang được các nước Ảrập sử dụng, cơ quan tình báo
Israel đã tổ chức một nhóm gồm 12 lính đặc nhiệm tập kích, đánh chiếm
và đưa trọn vẹn một trạm radar của Ai Cập về nước.
Thông
qua thu chặn thông tin vô tuyến điện của các nước Ảrập, Israel đã thu
được lượng lớn tin tức tình báo, những tin tức này phục vụ để lãnh đạo
quân đội Israel lập kế hoạch tác chiến trong cuộc đối đầu với các đối
thủ tại khu vực Trung Đông.
Đơn cử, trong cuộc “Chiến
tranh 6 ngày”, trạm trinh sát do thám của AMAN đã thu được kế hoạch tấn
công của các nước Ảrập, đặc biệt là Jordan và Ai Cập, các cuộc điện đàm
giữa nguyên thủ các nước này, đặt cơ sở cho việc Israel thực hiện thành
công nghi binh chiến lược, buộc các nước Ảrập thực hiện hành động chiến
tranh trước, lộ rõ ý đồ tác chiến, bảo đảm cho đòn phản công hiệu quả
của Israel.
Ngoài các trạm trinh sát do thám cỡ lớn,
không quân Israel còn sử dụng máy bay trinh sát điện tử không người lái
để thu chặn các tín hiệu radar mặt đất và thông tin tình báo.
Năm
1982, khi Israel xâm nhập vào Lebanon, họ cũng đã sử dụng máy bay trinh
sát không người lái thu chặn tín hiệu của radar phòng không Syria, phá
huỷ mọi hệ thống tên lửa phòng không của Syria ở thung lũng Beka.
Hiện
nay, không quân Israel còn sở hữu cả máy bay chỉ huy và báo động sớm
trên không E-2C, hình thành nên hệ thống thu chặn tình báo tín hiệu điện
tử hiện đại hàng đầu thế giới.
Mang một chân gỗ nhưng Virginia Hall hoạt động xông xáo, khiến phát xít Đức thất điên bát đảo. Ảnh: CIA
Lực
lượng Gestapo (Mật vụ) của Đức Quốc xã đã gọi Hall là “người nguy hiểm
nhất trong các điệp viên quân Đồng minh”. “Chúng ta phải lùng ra và tiêu
diệt cô ta”, chúng tuyên bố. Phát xít Đức cũng cho in những cảnh báo
như vậy trên hàng trăm poster truy nã kèm theo tiền thưởng hậu hĩnh cho
bất cứ thông tin nào về nữ điệp viên gây tổn thất nặng nề cho Đế chế thứ
Ba.
Đức Quốc xã đã giao trách nhiệm cho toàn bộ đội ngũ điệp viên
hai mang của họ thu thập bất cứ thông tin nào về người phụ nữ bí ẩn này
và loại bỏ cô ngay khi tìm thấy. Nhưng Gestapo và sĩ quan cao cấp phụ
trách săn lùng Virginia Hall là Klau Barbie đã không bao giờ tìm ra được
quốc tịch thật hay tên thật của nữ điệp viên mang biệt danh “Chân gỗ”.
Điều
này khiến Barbie tức giận đến nỗi hắn từng phát khóc trong một cơn
thịnh nộ. “Tôi sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì để có được bàn tay của con chó
cái Canada cụt chân đó”, hắn gầm lên.
Tất nhiên, Virginia Hall
không phải là người Canada. Và còn rất nhiều điều khác mà Đức quốc xã
chưa bao giờ biết về nữ điệp viên táo bạo này.
Virginia Hall sinh
ra ở Baltimore, Mỹ vào ngày 6/4/1906 trong một gia đình mục sư giàu có,
sống nơi nông trang thanh bình. Là một học sinh xuất sắc, cô được bầu
làm lớp trưởng tại Trường Quốc gia Roland Park, nơi cô còn là tổng biên
tập tờ báo trường và đội trưởng đội khúc côn cầu.
Sau những năm
học phổ thông đầy ấn tượng, Hall tiếp tục theo học tại trường Barnard và
Radcliffe, hai trong số những trường đại học nghệ thuật tự do danh giá
nhất nước Mỹ. Không dừng ở đó, Hall quyết định tiếp tục con đường học
vấn ở các thành phố châu Âu như Paris và Vienna. Ở nước ngoài, cô sở hữu
bằng tốt nghiệp về kinh tế và luật pháp quốc tế, thông thạo tiếng Pháp,
tiếng Ý và tiếng Đức.
Một bức ký họa Virginia Hall năm 1944.
Sau
khi hoàn thành việc học, không xin vào được Bộ Ngoại giao Mỹ, Hall đành
chấp nhận vị trí thư ký tại Đại sứ quán Mỹ ở Warsaw, Ba Lan vào năm
1931 trước khi được chuyển đến lãnh sự quán Mỹ tại Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ.
Tại đây, trong một chuyến dã ngoại săn bắn với bạn, Hall đã ngã bổ nhào
vào hàng rào dây thép gai và vô tình làm khẩu súng ngắn cướp cò, bắn
thẳng vào chân cô. Bị hoại tử vết thương, Hall phải cắt bỏ chân trái đến
đầu gối.
Nỗi bất hạnh bi thảm này đã dập tắt mọi hy vọng của Hall
được làm việc trong phái đoàn ngoại giao, bởi Bộ Ngoại giao Mỹ có các
quy tắc nghiêm ngặt về tuyển dụng người khuyết tật. Khi phục hồi sức
khỏe trở về nhà ở Maryland, Hall nộp đơn ứng tuyển vào Bộ Ngoại giao
song bị từ chối.
Không chịu từ bỏ, Hall học cách đi trên chiếc
chân giả mà cô đặt tên là “Cuthbert” của mình. Năm 1939, Hall xin nghỉ
làm thư ký rồi trở lại Pháp ngay trước đêm Đức Quốc xã xâm lược đất nước
hình lục lăng vào tháng 5/1940.
Với mong muốn đóng góp cho kháng
chiến, Hall tình nguyện làm lái xe cho dịch vụ cứu thương của Pháp. Tuy
nhiên, cô nhanh chóng phải chạy trốn tới London khi Paris thất thủ trước
sức mạnh quân Đức.
Ở London, cô tình nguyện phục vụ trong đơn vị
Điều hành Hoạt động đặc biệt (SOE), và được đào tạo về vũ khí cũng như
hoạt động kháng chiến. Chẳng bao lâu, Virginia Hall bắt đầu ứng dụng
thành thục những kỹ năng này và tự ghi tên mình vào lịch sử với tư cách
một trong những điệp viên huyền thoại nhất Thế chiến II.
Khi gia
nhập SOE, Virginia Hall (với mật danh Germaine) được cử đến Pháp để thu
thập thông tin tình báo về các hoạt động của quân Đức, đồng thời giúp tổ
chức và vũ trang cho lực lượng kháng chiến Pháp.
Thẻ căn cước cho công dân tên Marcelle Montagne mà Hall sử dụng trong thời gian Pháp bị Đức chiếm đóng. Ảnh: Wikimedia Commons
Sang
Pháp vào tháng 8/1941, cô tự nhận mình là một phóng viên tờ New York
Post. Và chỉ đến tháng 11, Hall đã thiết lập được một mạng lưới bí mật
những công dân Pháp trung thành với lực lượng kháng chiến, mang mật danh
là HECKLER.
HECKLER là một thành công đáng kinh ngạc, họ đã giúp
nhiều phi công Anh bị Đức bắn hạ chạy thoát an toàn, cung cấp thông tin
đáng giá cho quân Đồng minh và đưa một số đơn vị SOE mới vào Pháp.
Mật
thám Gestapo của Đức Quốc xã điên cuồng săn lùng "quý cô Chân gỗ" cùng
các chiến hữu của Hall. Trong chiến dịch này, chỉ huy Gestapo, Barbie có
thể đã bắt được nhiều đặc vụ HECKLER, nhưng không phải là Virginia
Hall.
Tới tháng 11/1942, Hall lại phải chạy trốn sang Tây Ban Nha
sau khi Đức chiếm giữ những phần lãnh thổ còn lại của Pháp. Nữ điệp viên
quả cảm đã phải dùng chiếc chân thật làm điểm tựa, rồi kéo lê chân giả
vượt qua hành trình mùa đông khắc nghiệt ở vùng núi Pyrenees, miền Nam
nước Pháp. Có thời điểm trong hành trình nguy hiểm, Hall truyền tin nhắn
về cho tổ chức của mình ở London, nói đùa rằng Cuthbert đang gây cho cô
một chút khó khăn. Nhóm SOE ở London không biết Cuthbert là mật danh
Hall đặt cho chiếc chân giả, đã trả lời rằng: “Nếu Cuthbert gây khó khăn
cho cô, hãy loại anh ta”.
Hall tới được Tây Ban Nhan an toàn,
nhưng bị bắt giữ ngay tại một nhà ga vì tội vượt biên trái phép. Cô bị
giam giữ trong sáu tuần, trước khi được giới chức Mỹ tại Barcelona bảo
lãnh cho cô tự do. Do SOE của Anh từ chối đưa Hall trở lại Pháp vì hoạt
động của cô đã bị lộ, “Chân gỗ” gia nhập Cơ quan Công tác Chiến lược Mỹ
(OSS), lực lượng tiền thân của Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) ngày
nay. Tháng 5/1944, cô được cử quay trở lại Pháp dưới vỏ bọc Marcelle
Montagne, một cô thôn nữ sống ở vùng nông thôn.
Tranh vẽ Virginia Hall đang hoạt động thu phát tin radio tình báo tại Pháp. Ảnh: CIA
Hall
nhuộm tóc tàu xám, đi lê chân để tránh lộ ra tiếng chân gỗ, và thậm chí
còn làm lại răng cho ra dáng phụ nữ Pháp. Nhiệm vụ của cô gái làng là
điều hành một trạm truyền tin radio và bí mật hỗ trợ cho các lực lượng
chống Đức cũng như tiếp tục dò la, báo tin về hoạt động của quân phát
xít.
Thậm chí còn hơn thế, Virginia Hall đã từng tấn công cả
quân Đức. Trong báo cáo cuối cùng của mình về tổ chức (OSS), Hall tuyên
bố rằng đội của cô đã phá hủy 4 cây cầu, làm trật bánh tàu hỏa, cắt đứt
tuyến đường sắt quan trọng ở nhiều nơi và phá hủy các đường dây điện
thoại. Họ cũng được báo cáo đã tiêu diệt khoảng 150 tên Đức và bắt 500
tên khác.
Bản báo cáo cuối cùng được đưa ra vào khoảng
tháng 9/1944, khi OSS chấm dứt nhận thông tin từ Hall vì lúc này lực
lượng Đồng minh đã giải phóng khu vực sau cuộc đổ bộ Normandy. Sự kiện
này cũng kết thúc những ngày tháng phi thường của Virginia Hall với tư
cách một điệp viên thời chiến.
Virginia Hall được trao Huân chương Bảo quốc Thập tự của Mỹ. Ảnh: CIA
Sau
chiến tranh, Chính phủ Pháp đã trao tặng cô Huân chương Chiến công Bội
tinh với Nhành dương liễu; người Anh dành cho Virginia Hall huân chương
Đế chế Anh và Tướng Mỹ William Donovan trao tặng cô huân chương Bảo quốc
Thập tự.
Tổng thống Mỹ Harry Truman muốn đích thân
trao huân chương cho Hall trong một buổi lễ công khai, nhưng "Chân gỗ"
từ chối vì tin rằng điều đó sẽ tiết lộ quá nhiều về cô cho những kẻ thù
vẫn còn đâu đó.
Với kinh nghiệm của một điệp viên
sừng sỏ, Virginia Hall tiếp tục làm việc cho CIA với tư cách là nhà phân
tích cho đến khi nghỉ hưu ở tuổi 60 vào năm 1966. Bà sống những ngày
còn lại ở bang Maryland và qua đời năm 1982 ở tuổi 76. Theo Baotintuc
'Thần đèn' và 'Nhện nhí' cùng cho 'Điệp viên ẩn danh' mượn giọng
browser not support iframe.
"Spies in Disguise" (Điệp viên ẩn danh)
là bộ phim hoạt hình được trông đợi nhất mùa cuối năm này, đặc biệt có
sự tham gia của hai ngôi sao đình đám Will Smith và Tom Holland. Ngay
khi ra mắt, phim đã được khen ngợi vì phần hình ảnh, nội dung, các cảnh
hành động và đặc biệt là giọng nói của Will Smith và Tom Holland.
Trong
phim, Will Smith đảm nhiệm nhân vật chính là siêu điệp viên Lance
Sterling trong khi “nhện nhí” Tom Holland vào vai chàng phụ tá vụng về
quen thuộc Walter Beckett của Lance Sterling.
Will
Smith mới đây gây ấn tượng với vai 'Thần đèn' trong phim "Aladdin" còn
Tom Holland thành công khi đảm nhiệm vai Người nhện mới của Marvel. Cả
hai sẽ cùng cho 'Điệp viên ẩn danh' mượn giọng.
Điệp viên ẩn danh hứa
hẹn sẽ tràn ngập tiếng cười bởi cốt truyện hấp dẫn và sự kết hợp giữa
căp đôi “hoàn cảnh” Lance Sterling và Walter Beckett. Nhân vật của Will
Smith vốn là một chàng điệp viên siêu cấp bá đạo chuyên xử lý những
nhiệm vụ khó hơn lên trời. Anh chàng không chỉ bình tĩnh trong mọi tình
huống mà còn phong cách và điển trai khó ai sánh bằng.
Trong khi
đó, Walter lại là một “mọt sách” chính hiệu khi chỉ biết ngồi trong
phòng thí nghiệm và chế tạo vũ khí. Ấy vậy mà những món đồ ấy cũng vô
dụng không kém gì cậu chủ vụng về, nhút nhát. Vì lỡ biến Sterling thành
chim bồ câu, Walter giờ đây phải tự tay hành động.
Không chỉ trên phim, cặp đôi vô cùng ăn ý khi xuất hiện trên thảm đỏ ngày ra mắt.
Điệp viên ẩn danh
chắc chắn sẽ là bộ phim hoạt hình kịch tính, hoành tráng và đậm chất
giải trí nhất trong những ngày cuối năm 2019. Phim chính thức ra mắt
khán giả Việt Nam từ 27/12.
browser not support iframe. Mỹ Anh
Động cơ của những người này hết sức khác nhau, song họ đều có một điểm chung là cuộc sống đầy mạo hiểm và không mấy khi có hậu.
Chưa
đến 15 năm sau khi gia nhập KGB với 2 lần được cử đi công tác nước
ngoài, Đại tá Zaparojsky hầu như đã có được tất cả những gì mà bất cứ
một người dân bình thường nào tại Liên Xô thời đó đều mơ ước như xe hơi
đời mới, biệt thự… và hai căn hộ.
Dù thành tích không
quá nổi bật, ông ta vẫn biết cách “thể hiện” mình, do vậy được đánh giá
là một “tình báo viên chuyên nghiệp”, một “chuyên gia phân tích có nghề”
và được chuyển sang Cục Phản gián ngoài nước thuộc SVR (Cơ quan Tình
báo đối ngoại), với vị trí Phó trưởng Ban châu Mỹ. Lúc này là năm 1994.
Những
hồi chuông cảnh báo đầu tiên trong các cơ quan tình báo Nga bắt đầu nổi
lên vào năm 1997, sau khi một số chiến dịch do SVR phối hợp tổ chức
cùng FSB (Cơ quan An ninh Liên bang) bị Mỹ dễ dàng vô hiệu hoá. Bắt đầu
xuất hiện nghi ngờ là nội bộ SVR có nội gián.
Tuy
nhiên, đây mới chỉ là phỏng đoán, do vậy, trước hết cần tiến hành kiểm
tra tỉ mỉ, kĩ lưỡng. Điều này đã đánh động Zaparojsky. Ông ta bắt đầu lo
lắng; nhiều lần các đồng nghiệp bắt gặp viên đại tá mở đầu ngày làm
việc với vài li Whisky, song mọi người cho là do công việc căng thẳng.
Trưởng trạm CIA ở Moscow, Steven Kappes. Ảnh: Wikipedia
Tháng
8/1997, Zaparojsky bất ngờ xin thôi việc vì “lí do sức khoẻ”. Điều này
thật vô lí vì ai cũng biết ông này rất khỏe mạnh. Sau khi nghỉ việc,
Zaparojsky lập tức cắt bỏ mọi liên hệ với cơ quan, bạn bè. Không ai biết
ông ta ở đâu, làm gì.
Đôi khi ông ta gọi điện cho một
số đồng nghiệp cũ, nhưng khi được đề nghị cho số máy thì Zaparojsky từ
chối, lấy cớ là đang “kinh doanh”, thường xuyên đi lại giữa Kaliningrad
và Saint Petersburg nên không có chỗ ở cố định. Thật ra, đó chính là
thời gian kẻ ăn ở hai lòng bí mật sang Praha để gặp gỡ các nhân viên
CIA, yêu cầu được chạy sang Mỹ.
Do đây là một con mồi
bự, từng có nhiều “thành tích” với tình báo Mỹ, nên đích thân Trưởng
trạm CIA tại Moscow - Steven Kappes đã đứng ra lo chuyện này. Thế rồi
vào một ngày tháng 6/1998, gia đình Zaparojsky rời Moscow mà không nói
một lời với ai, không một ai biết.
Chỉ
trước đó 1 ngày, bà vợ Galina tiết lộ với hàng xóm rằng chồng bà ta
chuẩn bị đi công tác – vì mọi người xung quanh nghĩ Zaparojsky vẫn còn
làm việc. Sang đến Mỹ, dường như cho bõ công những ngày lo lắng,
Zaparojsky tiếp tục trượt dài trên con đường phản bội bằng cách cung cấp
cho phía Mỹ nhiều thông tin gây phương hại cho lợi ích quốc gia Nga.
Trong
vụ việc này, sai lầm đầu tiên mà SVR phạm phải là đã không đánh giá
đúng bản chất của Zaparojsky. Đó là một con người tham vọng không giới
hạn; ông ta luôn cho mình cao hơn người khác một cái đầu, trong khi bản
thân không còn triển vọng thăng tiến.
Đó cũng là một
con người hám lợi, sùng bái đồng tiền. Thứ hai, mặc dù đã ít nhiều nghi
ngờ, song người ta đã bỏ qua những dấu hiệu bất bình thường nảy sinh ở
Zaparojsky, nhất là việc ông này xin nghỉ công tác, đến khi có kết luận
cuối cùng thì Zaparojsky đã cao chạy xa bay.
Và cuối
cùng là một sai lầm mang tính nguyên tắc. Theo quy định chung, những
người từng tiếp xúc với các tài liệu mật không được phép xuất cảnh trong
vòng 5 năm. Nhưng khi nghỉ việc, viên tình báo này đã không nộp lại hộ
chiếu.
Rất may là SVR đã kịp tổ chức thành công một
chiến dịch ru ngủ, đánh lừa và đã khéo léo nhử được Zaparojsky “về thăm
Tổ quốc”, với tư cách là một thương gia thành đạt tài trợ cho một hoạt
động của các cựu nhân viên SVR.
Ngày 9/11/2001,
Zaparojsky trở về Moscow với một danh sách những đối tượng có thể tuyển
mộ do Steven Kappes cung cấp, một vé máy bay khứ hồi cùng 10.000USD tiền
“tài trợ”. Ngay khi đặt chân xuống sân bay Sheremetrevo, một chiếc xe
sang trọng đã chờ sẵn viên cựu đại tá ngay tại đường băng. Bị 2 nhân
viên ngồi kẹp chặt hai bên, Zaparojsky gầm lên tuyệt vọng.
Công
việc điều tra kéo dài suốt nửa năm. Ngày 11/6/2003, Toà án quân sự
Moscow đưa ra phán quyết cuối cùng bằng cái án 18 năm tù giam dành cho
kẻ phản bội tổ quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét