Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2020

BỘ MẶT CHIẾN TRANH 95

              Tình Bạn Quang Trung - Nhạc Lính VNCH Rất Ý Nghĩa Trong Đời Nhà Binh
 
Khi Người Lính VNCH Giả Từ Vũ Khí

-Trong tình trạng chiến tranh đầy chết chóc và tan hoang, bản chất sống của loài người trở nên cực hạn về mọi phía:
+Yêu thương vô vàn mà cũng hận thù vô song
+Thông minh trí tuệ bao nhiêu thì cũng ngu ngốc, mù quáng bấy nhiêu.
+Tuyệt đỉnh dũng cảm thì cũng tột cùng hèn nhát.
+Vừa là thánh thần vừa là quỉ dữ.
...
-Chiến tranh mang bộ mặt gớm ghiếc, tởm lợm đến khủng khiếp, không thể tả được, dù bôi son trát phấn như thế nào, tung hô ra sao.
-Chiến tranh là thể hiện sự thờ ơ, vô cảm khốn nạn tột cùng về việc hủy diệt tàn bạo cuộc sống và thân phận con người.
-Chiến tranh phi nghĩa là chiến tranh "nặn ra" lý do từ không có lý do, hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách không chính đáng. Chiến tranh chính nghĩa là chiến tranh  nảy sinh từ việc giải phóng hoặc chống chiến tranh phi nghĩa, được hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách chính đáng (?).
-Tóm lại, bộ mặt thật của chiến tranh nhìn từ mọi phía nói chung là độc ác, thiểu năng trí tuệ đến ngỡ ngàng của con người khôn ngoan, có lý trí.
-Ngày chiến thắng 30/4, lũ bán nước cay cú gọi là ngày quốc hận, người cộng sản cực đoan cho rằng đó là ngày toàn dân phải vui mừng, riêng cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, người cộng sản có vợ con đều chết trong chiến tranh, thì nói, đó là ngày có triệu người vui và cũng có triệu người buồn.
-Lão Tử, một đại hiền triết thời cổ đại của Trung Quốc, từng nói: "Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử".
-Giống như bóng tối không thể làm tiêu tan bóng tối, thì hận thù không thể xoa dịu được hận thù, và chiến tranh không thể xóa bỏ được chiến tranh.
-Chỉ khi con người thoát ra khỏi vòng tham muốn danh lợi, thấu hiểu ý nghĩa thiêng liêng của cuộc sống, thấu hiểu về sự vô nghĩa tột cùng của cái chết và sự cảm thông, yêu thương sâu sắc đồng loại, mới có thể loại trừ được gây hấn và chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội!
-Một khi còn tình cảm dân tộc hẹp hòi, lòng tham vị kỷ và cái tâm hận thù của con người, thì vẫn còn chiến tranh.  
 
Sabaton - Poltava music video [EN subtitles]
 
Sabaton - The Price of a Mile

------------------------------------------------
 (ĐC sưu tầm trên NET)
 
Lạnh Gáy 10 Cuộc Chiến Đẫm Máu Nhất Lịch Sử Nhân Loại - Nỗi Khiếp Sợ Hàng Ngàn Năm Của Thế Giới
 
10 trận " TĂNG CHIẾN " gây chấn động lịch sử thế giới hàng thập kỷ qua

Chỉ một phát minh, quân của Thành Cát Tư Hãn "bất khả chiến bại"

Thứ hai, ngày 20/07/2020 14:32 PM (GMT+7)
Aa Aa+
Phát minh đơn giản này trở thành vũ khí “độc nhất vô nhị”, giúp đại quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn thực hiện hàng loạt cuộc chinh phạt bất bại.
Bình luận 0
Đại quân Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn đứng đầu đã lập được chiến tích hiếm có trong lịch sử, đó là chinh phục tới một nửa thế giới và trở thành nỗi ám ảnh của nhiều đội quân nhờ khả năng chiến đấu uy mãnh, có nhiều chiến thuật quân sự độc đáo.
Theo đó, Thành Cát Tư Hãn thống nhất các bộ lạc Mông Cổ ở khu vực Đông Bắc châu Á vào năm 1206, cho tới khi ông qua đời vào năm 1227, lãnh thổ của đế chế Mông Cổ đã ngày càng lớn mạnh, trải rộng tới tận bờ biển Thái Bình Dương và biển Caspi.
Chỉ trong hơn 20 năm ngắn ngủi, đại quân Mông Cổ dưới sự lãnh đạo xuất chúng của Thành Cát Tư Hãn đã làm nên một việc hiếm thấy trong lịch sử thế giới. 




Chỉ một phát minh, quân của Thành Cát Tư Hãn "bất khả chiến bại" - Ảnh 1.
Thành Cát Tư Hãn, nhà quân sự xuất chúng trong lịch sử thế giới. Ảnh: Biographics
Sau đó, đến năm 1241, con cháu của vị khả hãn này đã tiến hành thôn tính Vienna (Áo) và đồng thời trở thành nỗi ám ảnh của các quốc gia ở Đông Âu trong suốt thời gian còn lại của thế kỷ 13.
Phát minh thay đổi cục diện chiến tranh và sự hùng mạnh của đế chế Mông Cổ
Được cho là đế chế sở hữu thuộc địa liền kề lớn nhất trong lịch sử, các nhà sử học tin rằng sức mạnh của đại quân Mông Cổ là bắt nguồn từ một phát minh, cải tiến kỹ thuật quân sự hết sức đơn giản, đó chính là chiếc bàn đạp yên ngựa.
Không ai biết chắc về chiếc bàn đạp yên ngựa đầu tiên được phát minh vào thời gian nào, nhưng vật dụng nhỏ bé này lại mang lại lợi ích rất lớn cho bất kỳ chiến binh, kỵ binh nào sử dụng chúng.
Thậm chí, dù chỉ là những chiếc bàn đạp thô sơ nhất như cái có dạng vòng da thì cũng giúp ích nhiều cho các chiến binh có thể ngồi trên lưng ngựa vững chắc và chiến đấu trên quãng đường dài hơn.
Minh chứng là thành công trong quân sự của các chiến binh Cozak, người Goth và người Hung xưa kia có được là nhờ một phần không nhỏ của việc sử dụng các bàn đạp làm bằng da khi cưỡi ngựa.
Một số người còn tin rằng chiếc bàn đạp yên ngựa thậm chí còn làm thay đổi cán cân quyền lực ở khu vực châu Âu, với sự thay đổi từ bộ binh sang kỵ binh.
Lực lượng kỵ binh này được nhà sử học Roman Johann Jarymowycz ví như là "xe tăng bọc thép" thời trung cổ.




Chỉ một phát minh, quân của Thành Cát Tư Hãn "bất khả chiến bại" - Ảnh 2.
Chiếc bàn đạp yên ngựa giúp người Mông Cổ chiến đấu điệu nghệ và bắn tên chính xác ngay trên lưng ngựa. Ảnh minh họa
Tuy nhiên, bước đột phá của bàn đạp yên ngựa phải kể tới người Mông Cổ. Họ đã giúp vật dụng bé nhỏ này phát triển lên một tầm cao mới. Các nhà sử học tin rằng người Mông Cổ không chỉ sáng tạo ra những chiếc bàn đạp yên ngựa bằng da mà còn có cả những cái sử dụng vật liệu kim loại.
Theo đó, vào năm 2016, các nhà khảo cổ tại Trung tâm Di sản Văn hóa Mông Cổ đã khai quật được một ngôi mộ của người phụ nữ Mông Cổ có niên đại từ thế kỷ thứ 10. Kết quả thật bất ngờ! Bên cạnh giày da và một số bộ y phục, người phụ nữ này còn được chôn cùng một chiếc yên ngựa và bàn đạp yên ngựa bằng kim loại, với chất lượng vẫn còn rất tốt.




Chỉ một phát minh, quân của Thành Cát Tư Hãn "bất khả chiến bại" - Ảnh 3.
Cặp bàn đạp 1100 năm tuổi được tìm thấy trong một ngôi mộ cổ, cho thấy đây là một vật dụng tuyệt vời giúp người Mông Cổ có thể ngồi vững và linh hoạt trong chiến đấu.
Quan sát chiếc bàn đạp yên ngựa tìm thấy trong ngôi mộ cổ có thể thấy, nó được làm bằng kim loại dày với phần đầu tròn vồng lên để cho vào dây treo yên ngựa, và phần chân đế tròn, phẳng để giúp người cưỡi ngựa đặt chân lên.
Bàn đạp rộng phải thoải mái nhưng cũng cần chắc chắn vì người Mông Cổ đã sử dụng vật liệu nhỏ này để cưỡi ngựa một cách hết sức điêu luyện, giúp ích rất nhiều trong quá trình chiến đấu và thực hiện các cuộc chinh phạt.
Một vị tướng của nhà Tống (960-1279) đã mô tả cách người Mông Cổ đứng trên bàn đạp yên ngựa, cụ thể là với phần lớn trọng lượng cơ thể được dồn vào bắp chân, trong khi chỉ dồn một phần nhỏ lực xuống bàn chân và mắt cá chân.
Chiếc bàn đạp giúp những người lính Mông Cổ có thể ngồi thẳng, vững trọng tâm trên lưng ngựa ở cả trong các tình huống hỗn loạn nhất. Chúng được treo vào yên ngựa làm bằng gỗ, cao nổi lên ở phía trước và sau.
Bằng cách dành nhiều thời gian chăm chỉ luyện tập, người Mông Cổ có khả năng cưỡi ngựa điệu nghệ và chiến đấu ngay trên lưng ngựa. Họ có thể giữ cân bằng rất tốt mà không cần phải dùng đến tay ngay cả khi con ngựa xoay chuyển hay người cưỡi dịch chuyển để tấn công kẻ địch.
Chính vì vậy, binh lính Mông Cổ có thể dùng tay để bắn tên theo bất kỳ hướng nào ngay trên lưng ngựa với độ chính xác rất cao.




Chỉ một phát minh, quân của Thành Cát Tư Hãn "bất khả chiến bại" - Ảnh 4.
Ngay cả khi xoay ngựa rời đi, kỵ binh Mông Cổ cũng có thể dễ dàng bắn tên về phía quân địch.
Bên cạnh khả năng bắn tên thiện xạ ngay trên lưng ngựa, đại quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn còn sở hữu một chiến thuật chiến đấu đặc biệt, giúp họ trở nên "bất bại". Đó là chiến thuật "giả vờ" rút lui.
Theo đó, vào thời điểm mà hầu hết các đội quân giành chiến thắng chỉ bằng cách cố hết sức tiến lên phía trước thì người Mông Cổ lúc bấy giờ lại lựa chọn cách vừa tiến vừa "giả vờ" rút lui trong các trận chiến.
Cụ thể, khi mặt đối mặt với đối thủ, kỵ binh Mông Cổ phi ngựa chạy nhanh như gió tiến về phía trước và đồng thời bắn tên liên tục để tạo thế trận tấn công dữ dội và đáng sợ. Sau đó, khi chỉ còn cách đối thủ chừng vài mét, kỵ binh Mông Cổ bất ngờ quay lưng lại và nhanh chóng rút đi.
Sức mạnh của chiến thuật "giả vờ" rút lui: Đại quân Mông Cổ "bách chiến bách thắng"
Nhận định về chiến thuật đặc biệt này, nhà sử học Thomas Craughwell giải thích rằng, với khả năng xoay chuyển vô cùng linh hoạt trên yên ngựa, nên các kỵ binh Mông Cổ vẫn có thể bắn tên về phía kẻ địch ngay cả khi họ quay lưng rút lui. Chiến thuật tấn công và liên tục rút lui kỳ lạ của người Mông Cổ khiến thế trận của đối phương trở nên hỗn loạn hơn.
Marco Polo, nhà thám hiểm gốc Venezia, người từng có cơ hội chứng kiến kỹ thuật tấn công đặc biệt của người Mông Cổ, mô tả: "Đội quân của họ không bao giờ để rơi vào tình thế cận chiến hay giáp lá cà thường xuyên, mà thay vào đó liên tục cưỡi ngựa vòng quanh và bắn tên vào kẻ thù".




Chỉ một phát minh, quân của Thành Cát Tư Hãn "bất khả chiến bại" - Ảnh 5.
Khả năng chiến đấu điệu nghệ trên lưng ngựa cùng chiến thuật độc đáo đã giúp đại quân của Thành Cát Tư Hãn trở thành nỗi ám ảnh trên các chiến trường Âu-Á. Ảnh: Wordpress
Nếu như quân đội truyền thống được coi như "xe tăng", thì kỵ binh Mông Cổ được ví như những phi công chiến đấu. Sự chủ động và linh hoạt trong di chuyển giúp họ trở nên bất khả chiến bại.
Đặc biệt, khi nhận thấy có nguy cơ thất bại, những binh sĩ Mông Cổ sẽ sử dụng chiến thuật tâm lý đặc biệt. Những kỵ binh khi đó sẽ quay lưng và giả vờ rút lui. Lúc bấy giờ, đối thủ thường mất cảnh giác sẽ đuổi theo và tin rằng thế trận đang nghiêng về phía họ.
Tuy nhiên, ngay khi nhận thấy "con mồi" sập bẫy đang tưởng mình chiến thắng tiến đến gần, những kỵ binh Mông Cổ sẽ bất ngờ quay lại, chạy vòng vòng cơ động và tiếp đến đội quân xạ thủ sẽ xông lên bắn "cơn mưa" mũi tên vào kẻ địch, và những kỵ binh mặc áo giáp nặng hơn sẽ tấn công bằng những vũ khí sắc nhọn như giáo, thương.
Khi đó, trận chiến như đã được an bài với phần thắng nghiêng về đại quân Mông Cổ.
Sự vùng lên nổi bật của Đế chế Mông Cổ cho thấy sức mạnh của cải tiến kỹ thuật, phát minh nhỏ bé nhưng đã tạo bước đệm cho phong cách chiến đấu mới mà hiếm có đội quân nào có thể chống lại được.
Đế chế hùng mạnh của người cầm quân xuất chúng Thành Cát Tư Hãn với sự "bành trướng" về thuộc địa lớn nhất trên thế giới, hình thành không chỉ nhờ có một vài yếu tố riêng lẻ mà là hàng nghìn yếu tố khác nhau.
Rất nhiều thứ tương trợ cùng khả năng rèn luyện nghiêm túc với kỷ luật cao đã giúp Thành Cát Tư Hãn và những hậu duệ của vị khả hãn tài ba này thực hiện thành công nhiều cuộc chinh phạt với phần lớn lục địa.
Trong đó, cải tiến nhỏ trên chiếc bàn đạp yên ngựa đóng vai trò rất quan trọng trong chuỗi thắng trận bất bại của đại quân Mông Cổ.
Phát minh chiếc bàn đạp yên ngựa với kỹ thuật và thiết kế hoàn hảo đã góp phần không hề nhỏ giúp kỵ binh Mông Cổ và quân đội của Thành Cát Tư Hãn làm nên những chiến tích "vô tiền khoáng hậu" và có vai trò, vị thế quan trọng trong lịch sử.
Nguyễn Hằng (Theo Helino)

Lính dù Mỹ từng chiến đấu cho Liên Xô

Ngày 6/6/1944, Joseph Beyrle cùng 24.000 binh sĩ khác nhảy dù xuống Normandy, nhưng anh vô tình rơi trúng nóc nhà thờ tại ngôi làng do Đức kiểm soát.



Beyrle, lính dù sinh năm 1923 tới từ Muskegon, bang Michigan, Mỹ, từng từ chối học bổng của Đại học Notre Dame để nhập ngũ. Anh phục vụ trong Trung đoàn Bộ binh dù số 506, thuộc sư đoàn 101, với chuyên môn về liên lạc vô tuyến và phá hoại hạ tầng của địch.
Trước cuộc đổ bộ lên bờ biển Normandy, Pháp, Beyrle đồn trú tại Ramsbury, Anh, và thường thực hiện các nhiệm vụ ở đằng sau chiến tuyến của địch, như hai lần xâm nhập vào khu vực Đức quốc xã chiếm đóng ở Pháp để cung cấp đồ viện trợ cho quân kháng chiến.
Sáng 6/6/1944, trước khi hơn 5.000 tàu chiến của quân Đồng minh đưa quân đổ bộ lên bãi biển Normandy, hàng nghìn lính dù đã nhảy xuống vùng lãnh thổ Đức kiểm soát và chịu thương vong lớn, nhưng Beyrle may mắn sống sót. Vận tải cơ Douglas C-47 Skytrain trúng pháo phòng không, buộc anh phải nhảy ra ngoài từ độ cao 120 m. Beyrle bung dù và đáp xuống mái nhà thờ St. Come-du-Mont.
John Beyrle, con trai Beyrle và là đại sứ Mỹ tại Nga nhiệm kỳ 2008-2012, cho biết cha mình đã cố gắng liên lạc lại với đồng đội xung quanh nhưng bất thành. Beyrle được cho là còn tranh thủ phá hủy vài công trình của địch, như làm nổ tung một trạm phát điện. Tuy nhiên, tới ngày thứ ba, trong lúc đang bò qua những bụi cây rậm rạp, Beyrle bị một nhóm lính Đức phát hiện và bắt giam.
Joseph Beyrle, lính dù người Mỹ từng chiến đấu cho tiểu đoàn xe tăng Liên Xô trong Thế chiến II. Ảnh: War History.
Joseph Beyrle, lính dù người Mỹ từng chiến đấu cho tiểu đoàn xe tăng Liên Xô trong Thế chiến II. Ảnh: War History.
Cùng với những tù binh khác, Beyrle dần được đưa về phía đông khi quân Đồng minh giành lại ngày càng nhiều lãnh thổ Pháp từ tay Đức. Trong quá trình này, anh đã tìm cách vượt ngục ba lần. Lần đào tẩu đầu tiên diễn ra tại Normandy, khi đoàn xe chở tù binh bị Mỹ tấn công. Beyrle lợi dụng tình thế hỗn loạn để trốn thoát, nhưng bị bắt lại ngay hôm sau.
Không lâu sau, vào mùa thu năm 1944, Beyrle tiếp tục lên kế hoạch đào thoát khỏi một trại tù binh ở Ba Lan. "Cha tôi chơi xúc xắc thực sự rất giỏi và không hút thuốc. Hồi ở trại, ông ấy thắng được 40 bao thuốc và dùng chúng để mua chuộc một lính gác người Đức", cựu đại sứ John cho biết.
Lính gác này đã quay lưng lại trong lúc Beyrle và các bạn tù leo qua hàng rào dây thép gai. Tuy nhiên, trong lúc hối hả chạy trốn, nhóm người đã bắt nhầm tàu. Thay vì tới thủ đô Warsaw của Ba Lan để bắt liên lạc với quân kháng chiến, họ xuống tàu ở Berlin và rơi vào tay lực lượng mật vụ Gestapo của Đức Quốc xã. Beyrle suýt chết vì bị tra tấn, do Gestapo cho rằng anh là một gián điệp Mỹ nhảy dù xuống Berlin.
Beyrle thoát khỏi cảnh "thừa sống thiếu chết" khi quân đội Đức Quốc xã (Wehrmacht) yêu cầu Gestapo giao nộp anh, sau đó đưa anh trở lại khu trại Stalag-III C ở làng Alt Drewitz, phía tây Ba Lan. Tại đây, Beyrle lần thứ ba nỗ lực tìm đến tự do vào tháng 1/1945 và đã thành công.
Lần này, Beyrle trốn trong một thùng xử lý rác, sau đó thoát khỏi sự truy đuổi bằng cách sử dụng la bàn hướng về phía tiếng pháo của Liên Xô. Beyrle chạy vào nơi đóng quân của một tiểu đoàn xe tăng Liên Xô, vẫy một gói thuốc lá, rồi lặp đi lặp lại câu tiếng Nga duy nhất anh biết: "Tôi là một đồng chí người Mỹ", đồng thời cầu nguyện không bị bắn ngay tại chỗ.
Người đứng đầu tiểu đoàn mà Beyrle cầu cứu là Alexandra Samusenko, nữ chỉ huy xe tăng duy nhất trong quân đội Liên Xô, từng được nhận Huân chương Sao đỏ và khi đó 22 tuổi, bằng tuổi Beyrle. Cô gia nhập Hồng quân để trả thù Đức quốc xã, những kẻ đã phá nhà và giết chồng cùng toàn bộ gia đình cô.
Theo lời kể của Beyrle, lính Hồng quân tỏ ra vô cùng ngạc nhiên, nhưng cuối cùng anh đã thuyết phục được Samusenko cứu mạng và cho phép anh chiến đấu cùng tiểu đoàn trước kẻ thù chung tại Berlin. "Họ đưa cho cha tôi một khẩu tiểu liên PPSH-41 mà ông ấy thường nói rằng tốt hơn nhiều so với khẩu Thompson của Mỹ", con trai Beyrle hồi tưởng.
Beyrle đã cùng những người đồng đội mới giải phóng Stalag-III C, khu trại cuối cùng mà anh bị giam cầm. Ký ức của người lính Mỹ về khoảng thời gian sát cánh với Hồng quân Liên Xô hầu như vô cùng tươi đẹp, với những lúc uống vodka cùng bạn bè, cùng nhau chúc sức khỏe Stalin và Roosevelt.
Tuy nhiên, khoảng thời gian này chỉ kéo dài một tháng. Tới đầu tháng 2/1945, Beyrle bị thương trong cuộc không kích của oanh tạc cơ Đức và được đưa tới một bệnh viện ở Ba Lan.
Nguyên soái Georgy Zhukov, phó tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô, đã đến thăm bệnh viện và chú ý tới người Mỹ duy nhất tại đây. Sau khi lắng nghe câu chuyện của Beyrle, Zhukov nhanh chóng giúp anh làm giấy tờ, đảm bảo Beyrle có thể đến được đại sứ quán Mỹ ở Moskva.
Tuy nhiên, hành trình trở về quê hương của Beyrle tiếp tục gặp trở ngại. Sau khi tới được thủ đô của Nga, Beyrle bị giam trong đại sứ quán Mỹ vài ngày, bởi anh được cho là đã chết khi thẻ tên được tìm thấy ở Normandy ngay sau cuộc đổ bộ. Gia đình anh tại Michigan nhận được giấy báo tử từ tháng 9/1944.
Đại sứ quán Mỹ tại Moskva không tin anh là Beyrle, thậm chí nghi ngờ liệu anh có phải điệp viên Đức hay không. Sau khi kiên quyết khẳng định danh tính bản thân, Beyrle đã thuyết phục được đại sứ quán lấy vân tay để xác nhận. Ngày 21/4/1945, Beyrle trở về Michigan. Thế chiến II và hành trình dài của anh cuối cùng đã kết thúc.
Tại quê nhà, cựu binh từng chiến đấu cho quân đội hai quốc gia trở về cuộc sống bình thường, làm việc cho một công ty, kết hôn, xây dựng gia đình và kể những câu chuyện thời chiến cho các con. Ông sau này đến thăm Moskva thêm 5 lần nữa.
Năm 1994, nhân dịp kỷ niệm 50 năm cuộc đổ bộ Normandy, Beyrle đã được tổng thống Mỹ khi đó là Bill Clinton và tổng thống Nga Boris Yeltsin vinh danh tại Nhà Trắng. Trong 10 năm tiếp theo, nhận được nhiều sự chú ý cả ở Mỹ và Nga vì hành trình tuyệt vời của mình, Beyrle trở thành biểu tượng đoàn kết giữa hai nước. Ông qua đời năm 2004, hưởng thọ 81 tuổi.
Ánh Ngọc (Theo RBTH, War History)

Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông?

Thứ sáu, ngày 24/07/2020 08:31 AM (GMT+7)
Aa Aa+
Liên Xô đã chấp nhận chịu thua trong Chiến tranh Mùa đông, buộc phải đàm phán với Phần Lan để chấm dứt cuộc chiến tàn khốc này.
Bình luận 0


Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 1.
Chiến tranh Mùa đông là cuộc xung đột quân sự quy mô lớn giữa một bên là Phần Lan và một bên là Liên Xô hùng mạnh. Cuộc chiến xảy ra với lý do ban đầu là sự tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước.
Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 2.
Cụ thể, quân đội Liên Xô muốn gây áp lực về mặt ngoại giao để Phần Lan rút bớt quân khỏi biên giới nước này, đặc biệt là khu vực tiếp giáp Leningrad - thành phố nằm trong tầm đạn pháo nếu Phần Lan triển khai pháo ra sát biên giới.
Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 3.
Sau khi gây áp lực ngoại giao không thành công, Liên Xô tiến hành tấn công trên toàn tuyến biên giới với Phần Lan vào 30/11/1939.
Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 4.
Do không có sự chuẩn bị từ trước kèm theo biến động về đội ngũ lãnh đạo quân sự vừa mới kết thúc vào năm 1938 khiến quân đội nước này thiếu quá nhiều tướng và chỉ huy tài giỏi, Liên Xô đã mắc phải sai lầm chiến lược khi dám gây chiến với Phần Lan vào... mùa đông.
Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 5.
Mùa đông năm 1939 tới năm 1940 cũng được xem là mùa đông khắc nghiệt bậc nhất ở châu Âu trong thế kỷ 20. Nhiệt độ thấp nhất được ghi nhận vào mùa đông năm này là -43 độ C - nguyên do chủ yếu dẫn tới thương vong khủng khiếp của cả hai bên.
Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 6.
Liên Xô huy động vào cuộc chiến này quân số khoảng 300.000 lính, trong đó có tới gần 200.000 lính thương vong chỉ sau 100 ngày chiến đấu. Nhiều nguồn tin khác còn cho biết, có thể Liên Xô đã tung ra tới 1 triệu quân và thiệt hại lên tới 300.000 lính thương vong.
Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 7.
Đổi lại phía Phần Lan tối đa chỉ có 300.000 quân và thiệt hại khoảng 70.000 lính trong đó có khoảng 26.000 lính thiệt mạng sau cuộc chiến khắc nghiệt này.
Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 8.
Một trong những lý do đơn giản khiến Liên Xô thiệt hại nặng đó là quân phục của Hồng quân có màu nâu và họ rất nổi bật trong nền tuyết trắng. Đổi lại, phía Phần Lan lại tỏ ra cực kỳ khôn ngoan khi trang bị cho binh lính của mình những bộ quần áo khoác ngoài màu trắng để nguỵ trang.
Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 9.
Những kinh nghiệm và các bài học đắt giá mà Hồng quân nhận được sau cuộc chiến này được cho là tiền để để Liên Xô cải tổ quân đội, giúp họ có khả năng đối đầu được với Đức vào mùa đông hai năm sau đó.
Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 10.
Quân phục của Hồng quân với màu nâu đen tỏ ra cực kỳ bắt mắt trong điều kiện khí hậu của mùa đông năm 1939 trên biên giới Phần Lan - Liên Xô.
Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 11.
Tuần lộc - thứ đặc sản chỉ có trong Chiến tranh Mùa đông giữa Phần Lan và Liên Xô năm 1939 - 1940.
Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 12.
Sau 100 ngày chiến đấu, Liên Xô buộc phải ngồi vào bàn đàm phán khi Phần Lan đã chịu nhượng bộ, cho Liên Xô thuê vùng Karelia để làm vùng đệm giữa Leningrad và nước này.
Liên Xô thua đau thế nào trong chiến tranh Mùa đông? - Ảnh 13.
Mặc dù vậy, thiệt hại quá lớn của Liên Xô dù là bên chủ động tấn công trước đã khiến nhiều sử gia tin rằng, Phần Lan mới thực sự giáng đòn chí mạng cho Moscow, khiến quân đội nước này phải lập tức được cải tổ lại chỉ một năm trước khi bị Đức tấn công. Nguồn ảnh:
Tuấn Anh (Theo Kiến Thức)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét