KÝ ỨC CHÓI LỌI (Những anh hùnh đặc công) 120/d
(ĐC sưu tầm trên NET)
Tin, ảnh: Đoàn Nam
"Lò luyện thép" của Đặc công Việt Nam
Chuyện của chiến sĩ đặc công nước (Kỳ 1)
Tôi
vừa được dự buổi gặp mặt cựu chiến binh Tiểu đoàn Đặc công nước 471 -
Quân khu 5. Chuyện của các ông trong những năm tháng đánh Mỹ ở Mặt trận 4
Quảng Đà như một chương sử bi tráng, hào hùng…
Bài 1: Chiến trường vẫy gọi
Trung tá Phạm Ngọc Bằng, quê Tiền Hải
(Thái Bình), nguyên Chính trị viên phó Tiểu đoàn Đặc công nước 471, năm
nay 80 tuổi nhưng trí nhớ của ông thật tuyệt. Ông có mặt từ ngày đầu
thành lập, nên các mốc lịch sử của tiểu đoàn ông không bỏ sót một sự
kiện nào.
Vừa hành quân, vừa tổ chức lực lượng
Trung tá Phạm Ngọc Bằng kể: Tiểu đoàn
Đặc công nước 471 ra đời do yêu cầu bức thiết của chiến trường cánh Bắc
Quảng Đà lúc bấy giờ. Từ năm 1967, tại Mặt trận 4 Quảng Đà đã có một đội
đặc công nước hoạt động. Tuy nhiên qua quá trình tác chiến, lực lượng
bị hao mòn không còn đủ sức tổ chức các trận đánh thọc sâu vào hậu cứ
của địch, đặc biệt là các mục tiêu ở vịnh Đà Nẵng, cảng Tiên Sa và các
căn cứ quân sự trên bán đảo Sơn Trà.
Cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 471 cùng với Phó đô đốc Nguyễn Văn Tình, nguyên Chính ủy Quân chủng Hải quân và các cơ sở cách mạng quận Liên Chiểu, Đà Nẵng |
Ông bảo, lịch sử quân đội ta không hiếm
gì các đơn vị vừa thành lập, vừa hành quân. Tiểu đoàn Đặc công nước 471
cũng vậy. Ngày 25-2-1971, vừa nhận quyết định thành lập thì sau đó 2
ngày tiểu đoàn đã hành quân đến vị trí mới.
Tiếng là tiểu đoàn nhưng lúc thành lập
mới chỉ có “bộ khung” gồm vài chục đồng chí là cán bộ tiểu đoàn và cán
bộ hai đội đặc công. Cán bộ khung do Quân khu 5 điều động từ các chiến
trường về, chiến sĩ chưa có. Anh em tuy không nói ra nhưng đều có chung
suy nghĩ: Không biết sẽ tổ chức “đánh đấm” ra sao khi trong tay chưa có
lực lượng và chưa có những vũ khí đặc thù…
Suy nghĩ là vậy, song nhiệm vụ được giao
không thể chần chừ. Vài chục con người lầm lũi cắt rừng từ thượng nguồn
sông Tang, xã Trà Xinh, huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) về cánh Bắc Quảng
Đà. Gần 1 tháng trời vừa hành quân, vừa tổ chức tiếp nhận bộ đội tại
miền Bắc vào trên đường dây (đường 559).
Ngày 20-3-1971, tiểu đoàn đến địa điểm
đóng quân do Quân khu quy định tại thôn Nà Bền, xã Đrai, huyện Đông
Giang (sau này là huyện Hiên, Quảng Nam) xây dựng hậu cứ. Lúc này quân
số toàn tiểu đoàn đã có 123 đồng chí. Đại đa số cán bộ chiến sĩ ở lại
xây dựng lán trại và tìm sông suối lớn để huấn luyện. Một bộ phận tiền
trạm đến cánh Bắc Quảng Đà tiếp nhận chiến trường.
Tiểu đoàn Đặc công nước 471 được thành lập tại Trà Bồng (Quảng Ngãi) trong những năm chiến tranh chống Mỹ; sau đó tiểu đoàn được chuyển ra hoạt động ở cánh Bắc Hòa Vang, thuộc Mặt trận 4 Quảng Đà, làm nhiệm vụ tác chiến các mục tiêu cố định của Mỹ - Ngụy… Sau giải phóng Đà Nẵng, đơn vị tham gia giải phóng Trường Sa. |
Khi bộ phận tiền trạm tìm được địa điểm
mới, khu vực đóng quân cũ trở thành hậu cứ sản xuất. Tiểu đoàn để lại
một bộ phận cán bộ chiến sĩ sức khỏe yếu do sốt rét phát rẫy làm nương,
trồng khoai, trồng sắn. Đại bộ phận tiếp tục khoác balô về phía biển.
Từ giờ phút ấy, những người lính Tiểu
đoàn Đặc công nước 471 đã áp sát chiến trường cánh Bắc huyện Hòa Vang.
Vừa xây dựng lán trại, vừa tổ chức trinh sát chuẩn bị chiến trường. Và
ngay những ngày tháng sau đó, những trận đánh huyền thoại liên tiếp nổ
ra ở trên vịnh Đà Nẵng, cảng Tiên Sa, khu radar trên bán đảo Sơn Trà và
hệ thống cầu cống trên Quốc lộ 1; hệ thống kho tàng, sân bay trong khu
vực…
Những ngày gian khó
Phải nói thêm rằng: Kể từ khi tiểu đoàn
đặt chân đến thôn Nà Bền và lập hậu cứ tại đó, bộ phận tiền trạm mất cả
mấy tháng trời cắt rừng mới tìm được địa điểm đóng quân mới. Dấu chân
những người lính đặc công 471 đầu tiên về cánh Bắc Quảng Đà in khắp phía
Nam dãy Bạch Mã, rồi phía Nam đèo Hải Vân, mới tìm được vị trí đóng
quân bảo đảm các yếu tố: Áp sát chiến trường, nhưng phải bảo đảm bí mật,
bất ngờ; bảo đảm “tiến thoái” an toàn.
9 tháng trời ròng rã “điều nghiên”, mãi
đến đầu năm 1972, đơn vị mới ổn định và tổ chức đánh trận đầu. Lúc này
khó khăn mới lại xuất hiện. Sau tết Mậu Thân 1968, quân đội Mỹ và chính
quyền ngụy ráo riết đánh phá cơ sở cách mạng, tổ chức hành quân lấn
chiếm lên các khu vực hậu cứ của ta.
Y sĩ Tạ Xuân Khoái và y tá Lê Quý Bình - hai người đã lấy chính bản thân mình để thí nghiệm cho phác đồ điều trị sốt rét ác tính theo sáng kiến của y sĩ Khoái |
Đơn vị ở sát với địch, không thể móc nối
cơ sở ở đồng bằng để mua lương thực, thuốc men. Phần chi viện theo
đường dây giao liên cũng hết sức khó khăn. Nếu tính cả thời gian đi, về
để đưa được cân gạo về hậu cứ cũng mất cả tháng trời. Lương thực nhận từ
trạm do Quân khu cung cấp cũng chỉ đủ nuôi lực lượng gùi thồ, dư dật
chẳng là bao.
Chính vì vậy, nhiệm vụ móc nối với cơ sở
cách mạng để mua lương thực, thuốc men cũng quan trọng và cấp bách
không khác gì nhiệm vụ chiến đấu. Bộ đội mới ở miền Bắc vào chưa quen
thông thổ, vừa đói, vừa thiếu thuốc (chủ yếu là thuốc trị sốt rét). Có
lúc đơn vị không còn lấy một đồng chí khỏe mạnh đúng nghĩa.
Tình hình đơn vị lúc đó vô cùng khó
khăn. Không chỉ “nhạt muối, đói cơm”, mà còn thiếu thốn nhiều thứ, đặc
biệt là thuốc chữa bệnh. Trung tá Phạm Ngọc Bằng nhớ lại: Mấy tháng trời
liên tục bữa ăn của bộ đội chỉ có sắn và rau môn thục, rau tàu bay. Cả
tiểu đoàn trong kho chỉ còn mấy chục cân gạo, số gạo ấy chỉ được sử dụng
nấu cháo cho các đồng chí đau ốm.
Lo âu đổ xuống đầu các cấp chỉ huy, vết
thương lòng hằn sâu trên khuôn mặt Tiểu đoàn trưởng Hồ Xuân Hòa. Ông
Bằng kể: Khi ấy ông là Chính trị viên Đội 2, nhiều lần lên tiểu đoàn
họp, ông đã chứng kiến người tiểu đoàn trưởng của mình đóng cửa ngồi một
mình trong phòng, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt hốc hác.
Y
sĩ Tạ Xuân Khoái, người con của đất tổ Hùng Vương, giờ đã “xưa nay
hiếm” kể với tôi rằng: Thời điểm ấy, sốt rét ác tính cứ như là một “đại
dịch”. Nghĩa trang của đơn vị dường như ngày nào cũng có thêm nấm mộ
mới. Nhìn bộ đội lả dần trên tay đồng đội rồi lặng lẽ ra đi, ông thấy
mình như có lỗi với những người đã khuất. Ông bảo: Chẳng lẽ bó tay,
chẳng lẽ cứ để những chiến sĩ trẻ trung cứ lần lượt gục ngã trước kẻ thù
vô hình…
“Ngộ biến phải tòng quyền”
Vậy là một quyết định táo bạo do chính
ông Khoái đề xuất với lãnh đạo tiểu đoàn và ông lấy chính bản thân mình
để thí nghiệm cho một phác đồ điều trị sốt rét do chính ông “sáng tạo”
ra. Thời ấy thuốc điều trị sốt rét chỉ có hai loại duy nhất, thuốc uống
là viên nén Quynine và thuốc tiêm bắp, tiêm mông, ngoài ra không có bất
cứ thứ nào khác.
Sau nhiều trăn trở, y sĩ Tạ Xuân Khoái
quyết định “pha chế” thuốc tiêm bắp với nước cất ở một tỷ lệ nhất định
thành một loại thuốc tiêm thẳng vào tĩnh mạch. Theo lý giải của ông, chỉ
có như vậy mới diệt được ký sinh trùng sốt rét nhanh nhất. Ông kể rằng:
Sau khi trình bày ý tưởng của mình, nhiều ý kiến lo lắng không biết như
thế có an toàn không, liệu có xảy ra tai biến gì không?... Hàng loạt
các câu hỏi đặt ra.
Trước những nghi ngại ấy, ông đã gặp
trực tiếp Đảng ủy và chỉ huy tiểu đoàn cam đoan lấy chính bản thân để
thí nghiệm, nếu có rủi ro gì ông hoàn toàn chịu trách nhiệm. Mũi tiêm
đầu an toàn, mũi thứ hai an toàn… Những cơn sốt trong ông giảm dần rồi
cắt hẳn.
Tôi hỏi ông: Như vậy có liều quá không?
Ông bảo: Xét về mặt khoa học và nguyên tắc, tớ “quyết” như thế là… liều
thật. Nhưng điều kiện chiến trường lấy đâu ra phòng thí nghiệm, bản thân
ông chỉ là y sĩ, chứ không phải dược sĩ pha chế, bào chế thuốc. “Ngộ
biến thì phải tòng quyền”. Chưa biết kết quả như thế nào, nhưng chẳng lẽ
bó tay chờ chết! Phải tìm “đường sống” trong cái chết.
Chao ôi! Cái cam go gian khổ của đồng
đội tôi trong những năm nguy nan ấy không chỉ là súng đạn. Sự sống và
cái chết còn phụ thuộc rất nhiều vào các hoàn cảnh, điều kiện khác.
Không thể gọi “sáng kiến” của y sĩ Tạ Xuân Khoái thời ấy là liều lĩnh,
mà phải coi đấy là sự sáng tạo trong cuộc đấu tranh sinh tồn của biết
bao mạng người trước sự khắc nghiệt của hoàn cảnh.
Nước mắt tôi chảy dài, nước mắt nhiều
người chảy dài chứng kiến cuộc hội ngộ, chứng kiến cảnh y sĩ Khoái trong
vòng tay đồng đội. Nhiều người nói với tôi: Không có “sáng kiến” của y
sĩ Khoái, không có sự hy sinh thầm lặng của ông thì tiểu đoàn không còn
sức để chiến đấu. Và nhiều người sẽ mãi mãi ra đi vì sốt rét ác tính.
“Móc” hàng từ... sĩ quan ngụy
Thượng sĩ Trần Thế Phong, người con của
quê hương Hải Hậu (Nam Định), hiện đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí
Minh, là một trong những người trực tiếp “đột” thẳng vào nhà riêng của
viên trung úy quân tiếp vụ của chế độ cũ, gửi lại một lá thư yêu cầu
cộng tác và giúp đỡ cách mạng bằng cách “mua giúp” cho cách mạng những
loại thuốc men, lương thực cấp thiết…
Trong buổi gặp mặt mới đây, hỏi ông về
nhiệm vụ ấy, ông cho hay: Lúc đó ông là cán bộ phân đội phó (tương tương
trung đội phó bộ đội bộ binh). Ông đã cùng các đồng chí khác trong tổ
công tác vượt qua sự vây ráp, bố phòng của địch xuống đồng bằng “móc
nối” cơ sở để mua lương thực, thực phẩm.
Các cơ sở cách mạng ở làng Xuân Thiều
(nay thuộc phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng) đã tận tình
giúp đỡ mua gạo và thực phẩm (thực phẩm chủ yếu là mắm cái do chính
nhân dân ở làng chài Nam Ô sản xuất) cho bộ đội. Tuy nhiên, những loại
hàng hóa thiết yếu như thuốc quân y, các thiết bị phục cho công tác
thông tin chỉ huy thì không thể nào mua được. Muốn có được nguồn hàng
cao cấp ấy chỉ có “móc” từ chính quân đội ngụy.
Vậy
là một quyết định táo bạo của tổ công tác là “đột” vào nhà của một viên
trung úy quân tiếp vụ quân đội ngụy như đã nói trên. Không biết có phải
do viên trung úy này giác ngộ, hay do lo sợ mà đã ngầm “bắt tay” với ta
bằng cách đưa hàng về để cho vợ trở thành đầu mối cung cấp những hàng
hóa thiết yếu cho ta.
Mấy năm trời liên tục, nhờ “móc” được
“đường dây” này mà nguồn hàng quý hiếm, thiết yếu được cung cấp đều đặn,
đặc biệt là các loại biệt dược điều trị sốt rét; các loại kháng sinh;
các loại thực phẩm cao cấp dùng để điều trị, cứu chữa, bồi dưỡng cho
binh sĩ ngụy bị đau ốm, thương tật đã được âm thầm vận chuyển về hậu cứ,
góp phần không nhỏ vào việc nuôi dưỡng, điều trị thương, bệnh binh, trả
lại cho đơn vị những chiến đấu viên xuất sắc sau này.
Trong những năm chiến tranh, Tiểu đoàn Đặc công nước 471 ở xa Quân khu, xa sự chi viện của cấp trên. Trước tình ấy, đơn vị đã nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, tổ chức tốt việc tăng gia sản xuất, bảo đảm phần lớn lương thực, thực phẩm, tổ chức nuôi quân khỏe, phòng chống dịch bệnh tốt, bảo đảm có đủ quân số để chiến đấu giành thắng lợi. Trong 5 năm (1971-1975), đơn vị đã sản xuất tự túc được 67 tấn lương thực, trong đó có 39 tấn gạo, 28 tấn khoai sắn, chăn nuôi được 154 con heo, hàng nghìn con gà. Đơn vị đã bám dân dưới vùng địch, mua trên 200 tấn gạo, hàng chục tấn thực phẩm. Đơn vị còn tự may hàng nghìn bộ quân phục và một số nhu cầu khác như: võng, bọc võng, balô, nilon, tấm đắp, áo ấm...; tự điều trị bệnh và chăm sóc thương binh, tự đào tạo y tá, dược tá, báo vụ viên để phục vụ cho nhiệm vụ chiến đấu. |
(Xem tiếp kỳ sau)
Lâm Quý
Chuyện của chiến sĩ đặc công nước (Kỳ cuối)
Đã
có nhiều bài viết, nhiều câu chuyện về những chiến công huyền thoại của
bộ đội đặc công. Song với các trận đánh của Tiểu đoàn Đặc công nước 471
- Quân khu 5 mà tôi chép ra dưới đây, ngoài tính “huyền thoại” còn có
cả sự hy sinh oanh liệt, thể hiện phẩm chất anh hùng của các chiến sĩ
đặc công nước khi xung trận.
Bài 2: Khúc tráng ca mang tên 471
Biển lửa trên vịnh Đà Nẵng
Thượng sĩ Phan Minh Hóa, quê Đông Lâm,
Tiền Hải (Thái Bình), người còn sống trong 8 chiến sĩ xuất phát trận đầu
đánh tàu trên vịnh Đà Nẵng vào đêm 7-4-1972, kể rằng: Trận đánh ấy mở
màn cho hàng loạt các trận đánh sau này của tiểu đoàn.
Hai ông Phan Minh Hóa và Bùi Đức Tùy (áo trắng) tại buổi gặp mặt |
Ông
Hóa là lớp chiến sĩ thứ hai sau khi hoàn thành khóa huấn luyện ở Đoàn
Đặc công Hải quân 126 vào Tiểu đoàn 471. Do mới vào chiến trường, chưa
“nếm” trận sốt rét nào, sức khỏe còn tương đối tốt, nên ông là 1 trong 4
chiến sĩ mới được lựa chọn cùng với 4 chiến sĩ cũ nhận nhiệm vụ đánh
trận mở màn.
Ánh mắt của người đàn ông gần 70, đã mấy
chục năm rời quân ngũ như rực sáng khi kể lại trận đánh bi hùng ấy. Ông
Hóa bảo: Trong cuộc đời binh ngũ của mình dù đã trải qua nhiều trận
“vào sinh, ra tử”, nhưng chưa có trận nào mà cả Tiểu đoàn trưởng Hồ Xuân
Hòa và Chính trị viên tiểu đoàn Trần Châu Á cùng xuống giao nhiệm vụ và
động viên bộ đội như trận ấy.
Theo hồi tưởng của ông, khi nói về ý
nghĩa của trận đánh này, Tiểu đoàn trưởng Hồ Xuân Hòa chỉ nói vài câu
vắn tắt, đại ý rằng: Đây là trận đánh vô cùng quan trọng, là trận mở màn
cho cả quá trình dài chuẩn bị, giành thắng lợi sẽ có ý nghĩa vô cùng to
lớn về nhiều mặt. Đặc biệt đây là đòn đánh hiểm, đánh phủ đầu làm tổn
thất phương tiện chiến tranh, làm nhụt ý chí của địch trong thời điểm
đỉnh cao chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Đêm 6-4-1972, tổ tác chiến gồm 8 chiến
sĩ, mỗi người khoác trên vai một khối thuốc nổ 30kg và 8 lon (lon sữa
bò) gạo rang lặng lẽ cắt rừng vượt đường nhựa xuống mép nước ở chân đèo
Hải Vân. Đội trưởng Nguyễn Hồng Quảng đưa anh em đến tận vị trí tập kết
và cùng ở lại quan sát hoạt động của tàu địch trên vịnh Đà Nẵng.
Trong vòng 5 năm vừa xây dựng, vừa chiến đấu (4/1971-4/1975), Tiểu đoàn Đặc công nước 471 - Quân khu 5 đã đánh 41 trận (29 trận đánh dưới nước, 12 trận đánh trên cạn), tiêu diệt 800 tên địch (trong đó có một số cố vấn Mỹ), đánh chìm 10 tàu vận tải quân sự (1 tàu dầu, 1 pháo hạm) trọng tải 8-10 nghìn tấn, 1 hải thuyền, 1 cầu cảng Tiên Sa. |
Màn đêm phủ dày. Mặt biển như một bầu
trời đầy sao bởi ánh sáng của các phương tiện làm nghề biển của ngư dân.
Đang yên tĩnh, không gian như bị xé toạc bởi những loạt đạn vu vơ của
những chiếc bo bo, hải thuyền tuần tra trên vịnh Đà Nẵng. Sau những phút
đắn đo, đội trưởng Quảng quyết định chưa cho bộ đội xuất kích.
Trước những ánh mắt chờ đợi của anh em.
Ông bảo: Lương thực ít, không đủ lượng dự trữ, vì vậy không thể bơi sang
bán đảo Sơn Trà được. Phải chờ thời cơ khi tàu địch neo đậu trên vịnh
Đà Nẵng, ta xuất kích đánh và trở về ngay trong đêm mới bảo đảm an toàn.
Và thời gian chờ đợi không quá lâu. Ngay
sáng 7-4, ta phát hiện 3 tàu địch lừ lừ tiến vào vịnh Đà Nẵng, mũi tàu
hướng về phía kho xăng Liên Chiểu. Con tàu to nhất, có vẻ như chở đầy
hàng, mạn tàu đằm và di chuyển rất chậm. 2 chiếc hộ tống hai bên đích
thị là tàu chiến đấu, tháp pháo đã được tháo bạt, trên boong bọn lính lố
nhố...
Sau một hồi quần thảo, cả 3 con tàu chọn
vị trí thả neo. 2 chiếc bo bo từ 2 tàu chiến được thả xuống biển, chúng
như con thoi tỏa ra hai hướng chạy vòng quanh tàu hàng. Cả 8 anh em
chụm đầu nghe Đội trưởng Quảng phổ biến phương án tác chiến...
19 giờ, các tổ chiến đấu bắt đầu xuống
nước. Siết chặt tay từng người, chờ cho anh em khuất dần trong bóng đêm,
Đội trưởng Quảng mới cắt rừng về đài quan sát của tiểu đoàn. Thời gian
chậm chạp trôi đi trong chờ đợi. 23 giờ, rồi 24 giờ vẫn chưa thấy “động
tĩnh” gì. Tiểu đoàn trưởng Hồ Xuân Hòa, Chính trị viên Trần Châu Á trực
tiếp cầm ống nhòm quan sát. Màn trời đêm như đặc quánh lại. Cùng lúc ấy
một quầng lửa bùng trên mặt biển. Chiếc tàu đang bơm dầu vào kho xăng
Liên Chiểu bốc cháy dữ dội. Trong quầng sáng chói lòa ấy đài quan sát
thấy 2 chiếc tàu cùng neo trong khu vực hú còi nhổ neo. Nhưng tiếng còi
tàu ấy cũng tắt lịm khi hai quầng lửa khác lại bùng lên…
Phó đô đốc Nguyễn Văn Tình nói chuyện với đơn vị trong ngày gặp mặt |
Trận đầu ra quân thắng lợi vẻ vang, các
chiến sĩ đội 1 thuộc Tiểu đoàn Đặc công nước 471 đã nhấn chìm 1 tàu vận
tải cỡ lớn và 2 tàu chiến của địch, đốt cháy hàng triệu lít xăng. Song 6
chiến sĩ trong 8 người xuất kích hôm ấy đã mãi mãi nằm lại biển khơi.
Thân xác các anh đã hòa cùng nước biển.
Trong buổi gặp mặt mới đây, Thượng sĩ
Phan Minh Hóa lý giải về sự hy sinh 6 đồng đội. Theo ông, khi gắn khối
nổ vào tàu xong, anh em đều đã thoát ra và bơi ngược về hướng sông Thủy
Tú. Ở đó tổ đón đã chờ sẵn. Phương án như vậy, nhưng khi thoát ra khỏi
tàu vào đúng lúc thủy triều xuống, nước sông Thủy Tú và sông Hàn chảy ra
biển rất mạnh.
Bản thân ông Hóa và một đồng đội khác
cũng bị đẩy ra rất xa, khi các ông vào được bờ thì đó đã thuộc địa phận
tỉnh Thừa Thiên - Huế. 6 chiến sĩ hy sinh rất có thể do sức khỏe suy
kiệt không đủ sức bơi vào bờ và đã bị thủy triều đẩy ra biển.
Sau trận chiến đấu ấy. Tiểu đoàn đã được
Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương
Quân công hạng Ba. Đội 1 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng
Nhất. 8 chiến sĩ được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì.
Những trang bi tráng
Đại tá Trần Văn Liên nay là Trưởng ban
Liên lạc truyền thống Tiểu đoàn Đặc công nước 471 - Quân khu 5. Ông là
một trong những người tham gia nhiều trận đánh và đánh giặc rất lì. Ông
cũng là một trong những chiến sĩ thi đua toàn miền, năm 1974 được đi báo
cáo điển hình tại Đại hội Chiến sĩ thi đua toàn quân khu.
Từ trái sang là: Đinh Văn Bình, Cù Bá Tứ, Hoàng Thanh Bình, Trần Thế Phong và Trần Thanh Hải - những người lập nhiều chiến công trong chiến đấu và xây dựng đơn vị |
Thành
tích đầy mình như vậy, nhưng khi kể với chúng tôi về những đồng đội của
mình, ông bảo: So với các anh ấy thành tích của mình vẫn chưa thấm tháp
gì. “Các anh ấy” là anh hùng liệt sĩ Đặng Tiến Lợi, quê Thái Bình,
người cùng với một đồng đội kéo khối thuốc nổ 2 tạ vào đánh cầu Thủy Tú.
Một viên đạn vu vơ của địch đã cướp đi mạng sống của đồng đội. Còn một
mình với khối thuốc cách trụ cần hơn 2 mét, anh đã ôm khối đánh “cường
tập”, nghĩa là đẩy thẳng khối thuốc vào trụ cầu, lấy thân mình ép chặt
rồi rút chốt tức thì. Cầu sập và thân xác anh hòa vào dòng sông Thủy Tú.
“Các anh ấy” là liệt sĩ Nguyễn Hùng
Mạnh, quê Thanh Hóa. Ông Liên bảo: Không hiểu vì sao anh Nguyễn Hùng
Mạnh chưa được đề nghị truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân? Ông Liên kể rằng: Cầu Thủy Tú bị đánh đi đánh lại nhiều lần,
vì vậy địch tổ chức bố phòng hết sức nghiêm ngặt. Cách cầu chừng 50 mét
chúng giăng một lớp hàng rào bùng nhùng từ bờ bắc sang bờ nam. Các trụ
cầu chúng gia cố thêm “vành đai” bảo vệ cùng với những ngọn đèn cao áp
chiếu thẳng xuống mặt sông. Ngoài ra, chúng làm thêm các bè nổi bằng
thùng phuy kết lại, trên bè lúc nào cũng có một tổ gồm 3 tên lăm lăm
súng và ném lựu đạn cầm canh xuống dòng sông.
Vào mùa chiến dịch, trên yêu cầu bằng
mọi cách phải đánh sập cầu Thủy Tú làm tê liệt tuyến vận chuyển huyết mạchcủa địch. Sau khi đưa khối vượt qua lớp hàng rào, tổ chiến đấu của
Nguyễn Hùng Mạnh tổ chức tiềm nhập mố cầu. Chỉ còn cách mục tiêu vài mét
loạt đạn của địch vãi trên sông đã cướp đi mạng sống của đồng đội. Cũng
như Đặng Tiến Lợi, Nguyễn Hùng Mạnh đã ôm khối đẩy thẳng vào trụ cầu
giật chốt tức thì.
“Các anh ấy” là Hoàng Cao Biền, người
cùng tổ chiến đấu với Đại tá Trần Văn Liên đã cương quyết “cuộc chiến
còn dài, không thể cùng một lúc hy sinh cả hai, anh ở lại đánh trận sau,
trận này để em...”. Chỉ đơn giản như vậy, trong lúc quyết định sinh tử
ấy, Trần Cao Biền đã giành phần hy sinh về mình.
“Các anh ấy” là Đinh Văn Bình, quê Giao
Thủy; Hoàng Thanh Bình, quê Nghĩa Hưng, Nam Định nhận nhiệm vụ đánh tàu
trên vịnh Đà Nẵng, dù kíp hẹn giờ chỉ có đúng 7 phút, nhưng các anh vẫn
quyết định duy nhất một từ “đánh”. Và bằng lòng quả cảm, sự mưu trí, 2
chiến sĩ quê Nam Định đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, vừa nhấn chìm tàu
địch vừa bảo toàn lực lượng.
“Các anh ấy” là Chuẩn úy Trần Văn Huân,
Thượng sĩ Bùi Đức Tùy, Thượng sĩ Nguyễn Văn Hợi, Thượng sĩ Phan Minh
Hóa, Trung sĩ Nguyễn Hữu Nghị, Trung sĩ Phan Văn Huỳnh. Những con người
ấy trong một đêm đã đánh một trận “nở hoa trong lòng địch”, cùng một lúc
vừa thiêu rụi và làm tê liệt dàn radar đối hải của địch trên bán đảo
Sơn Trà và đánh chìm 1 tàu đang bốc hàng ngay tại cầu cảng Tiên Sa.
Trận đánh kép ấy làm cho địch “tối tăm
mặt mũi”, không hiểu “mô tê răng rứa”, không hiểu Cộng sản tổ chức bao
nhiêu lực lượng, đi bằng phương tiện gì mà đến được nơi coi là “bất khả
xâm phạm” như chỗ không người, dùng những loại vũ khí gì... mà có sức
công phá ghê gớm như vậy?
Một “kỳ tích”, nói như Thượng sĩ Bùi Đức
Tùy, người bị thương trong trận đánh radar, phải nằm lại hang đá trên
bán đảo Sơn Trà đến 45 ngày trong tình trạng bị bỏng tới 45% diện tích
cơ thể, bị những mảnh tôn găm thấu phổi... không có quân y, chỉ có một
cơ số thuốc sát trùng rất ít, vết thương rửa bằng nước biển nấu với lá
rừng... vậy mà anh đã thoát khỏi “lưỡi hái của tử thần”, lại cùng đồng
đội tổ chức một trận đánh bồi, nhấn chìm thêm tàu địch trước khi rời đảo
vượt biển về hậu cứ...
Những
trận đánh như những khúc tráng ca đầy chất bi hùng trong trang sử hào
hùng của quân đội nói chung, của đặc công nước nói riêng. Rực sáng trong
đó là tinh thần quả cảm, là hành động anh hùng, là sự mưu trí gan dạ,
là tinh thần còn một người cũng đánh.
Dự buổi gặp mặt truyền thống với tiểu
đoàn vừa qua có Phó đô đốc Nguyễn Văn Tình, Anh hùng Lực lượng Vũ trang
nhân dân, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Chính ủy Quân chủng hải
quân. Người anh hùng thuộc lớp đầu tiên của Đặc công Hải quân 126, là
thủ trưởng cũ của rất nhiều cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn Đặc công nước 471
- Quân khu 5. Nghe chiến sĩ mình kể chuyện, ông đã thốt lên: “Đây là
một tập thể anh hùng, nhiều đồng chí rất xứng đáng được tuyên dương danh
hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân”.
Tiểu đoàn Đặc công nước 471 - Quân
khu 5 được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: 2 Huân chương Quân công giải
phóng hạng Ba; 5 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất; 7 Huân
chương Chiến công giải phóng hạng Nhì.
1 Cờ Quyết chiến quyết thắng của
Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tặng. 1 Cờ Anh dũng diệt
Mỹ do Ủy ban Cách mạng lâm thời Trung Trung Bộ tặng.
1 Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba, 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất được trao cho Đội 1.
1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất trao cho Đội 2.
2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì trao cho Đội 3.
Có một đồng chí được tuyên dương anh hùng là: Liệt sĩ Đặng Tiến
Lợi, tuyên dương ngày 22-12-1973. Nhiều đồng chí được tặng thưởng các
danh hiệu vinh dự khác. |
Lâm Quý
Lữ đoàn Đặc công bộ 113: Công bố các quyết định phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Thứ Hai, 09/07/2018
Chiều 9/7/2018, Lữ đoàn Đặc công bộ 113
tổ chức trọng thể Lễ công bố các quyết định phong tặng, truy tặng danh
hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND) cho các cá nhân có
thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
Tới
dự, có các đồng chí: Thiếu tướng Đỗ Thanh Bình, Phó Bí thư Đảng ủy, Tư
lệnh Binh chủng Đặc công; Thiếu tướng Lê Thanh Hà, Bí thư Đảng ủy, Chính
ủy Binh chủng Đặc công; các đồng chí nguyên thủ trưởng Bộ Tư lệnh Đặc
công; thủ trưởng các cơ quan Bộ Tư lệnh Đặc công; lãnh đạo một số, ban,
ngành, đoàn thể của tỉnh Vĩnh Phúc; lãnh đạo các địa phương nơi Lữ đoàn
Đặc công bộ 113 đóng quân, công tác; các đồng chí Anh hùng LLVTND của Lữ
đoàn qua các thời kỳ; thân nhân các Anh hùng liệt sỹ; các đồng chí đại
diện cấp ủy, chính quyền nơi cư trú của các cá nhân được phong tặng,
truy tặng Danh hiệu Anh hùng LLVTND thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu
nước...
Trải qua hơn 46 năm xây dựng,
chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, cán bộ, chiến sỹ của Lữ đoàn
Đặc công bộ 113 đã lập nên những chiến công vang dội, giành nhiều thành
tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và
công tác, được Đảng, Nhà nước ba lần tuyên dương danh hiệu Anh hùng
LLVTND, có 6 tập thể và 12 cá nhân được phong tặng danh hiệu cao quý Anh
hùng LLVTND. Những thành tích đặc biệt xuất sắc trên đã góp phần tô
thắm truyền thống vẻ vang của Binh chủng Đặc công 2 lần Anh hùng.
Có
được những thành tích đặc biệt xuất sắc, những chiến công vang dội và
truyền thống vẻ vang của Lữ đoàn Đặc công bộ 113, bên cạnh sự quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo của Thường vụ Đảng ủy, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh; sự giúp
đỡ của các cơ quan Binh chủng; sự trở che, đùm bọc của cấp ủy, chính
quyền, nhân dân, các cơ sở cách mạng, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn
nơi đơn vị thực hiện nhiệm vụ, công tác; mà còn có sự cống hiến, hy sinh
quên mình của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Lữ đoàn trong suốt chặng
đường xây dựng, chiến đấu, chiến thắng, trưởng thành và phát triển.
Tại
buổi lễ, thừa ủy quyền Chủ tịch nước, Thiếu tướng Đỗ Thanh Bình, Phó Bí
thư Đảng ủy, Tư lệnh Binh chủng Đặc công trao Quyết định phong tặng
danh hiệu Anh hùng LLVTND thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho Đại
tá Bùi Xuân Hình, Nguyên Phó Tham mưu trưởng, Trung đoàn 116, Sư đoàn 2
Đặc công, Binh chủng Đặc công; trao Quyết định truy tặng danh hiệu Anh
hùng LLVTND thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho thân nhân các đồng
chí: Đại tá Lê Thanh Tiến, nguyên Chính trị viên, Tiểu đoàn 27, Trung
đoàn Đặc công 113; Đại tá Trần Thanh Trung, nguyên Chính trị viên, Tiểu
đoàn 27, Trung đoàn Đặc công 113 và Liệt sỹ Thượng úy Nguyễn Đình Tiết,
nguyên Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn 27, Trung đoàn Đặc công 113.
Thúy Hường
Họp mặt kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống Đoàn Đặc công 429 Anh Hùng
Các đại biểu giao lưu tại buổi họp mặt
(Thanhuytpcm.vn)
- Sáng 30/12, Ban liên lạc truyền thống Đoàn đặc công 429 Anh Hùng tổ
chức họp mặt kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống Đoàn Đặc công 429 Anh Hùng
(04/02/1969 - 04/02/2019). Đến dự có Đại tá Phan Thế Ba, Phó Tư lệnh
binh chủng đặc công; Đại tá Nguyễn Đức Khánh, Chính ủy Lữ Đoàn đặc công
429; Thiếu tướng Mai Văn Phúc, nguyên Phó Tư lệnh Quân Khu 7, nguyên
Chính ủy Đặc công 429; Anh hùng lực lượng vũ trang Trung tướng Lê Phái
Bê, nguyên Chính ủy trường sĩ quan Lục Quân 2, Bộ Quốc phòng, các đồng
chí nguyên lãnh đạo Đoàn đặc công 429 và các đơn vị binh chủng đặc công.
Tại
buổi họp mặt, các đại biểu cùng nhau ôn lại truyền thống vẻ vang của
binh chủng đoàn đặc công 429 Anh Hùng. Trải qua suốt 50 năm chiến đấu,
xây dựng và trưởng thành của Lữ đoàn đặc công luôn củng cố, xây dựng
được hàng chục đơn vị, huấn luyện, đào tạo hàng vạn cán bộ, chiến sĩ
cung cấp cho các chiến trường. Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Lữ đoàn
đã xây dựng lực lượng đặc công biệt động tinh nhuệ, chính quy, hiện đại
tham gia hầu hết các chiến dịch, các đợt hoạt động của các quân khu, bám
sát địch ngay trong hậu phương chiến lược của địch, tạo thế đánh địch
đúng thời cơ, kịp thời, tiêu diệt nhiều sinh lực quan trọng và phương
tiện chiến đấu hiện đại của chúng, góp phần cùng Quân và Nhân dân cả
nước bảo vệ vững chắc biên giới Tổ quốc Việt Nam và làm tròn nhiệm vụ
Quốc tế cao cả.
Trong
thời kỳ đổi mới, Lữ đoàn Đặc công đã củng cố, xây dựng phát triển toàn
diện được Bộ Quốc phòng, Binh chủng Đặc công giao bổ sung thực hiện
nhiệm vụ A2, chống khủng bố, tham gia bảo vệ các sự kiện chính trị trọng
đại của Đảng, Nhà nước và Quân đội. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh, điều kiện
nào, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Lữ đoàn cũng nêu cao tinh thần
quyết chiến, quyết thắng, vượt qua mọi khó khăn gian khổ và nỗ lực vươn
lên nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Nhận xét
Đăng nhận xét