Thứ Tư, 18 tháng 9, 2019

KÝ ỨC CHÓI LỌI (Những anh hùnh đặc công) 120/d

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
"Lò luyện thép" của Đặc công Việt Nam

Chuyện của chiến sĩ đặc công nước (Kỳ 1)

07:00 | 07/05/2018
|
Tôi vừa được dự buổi gặp mặt cựu chiến binh Tiểu đoàn Đặc công nước 471 - Quân khu 5. Chuyện của các ông trong những năm tháng đánh Mỹ ở Mặt trận 4 Quảng Đà như một chương sử bi tráng, hào hùng…
Bài 1: Chiến trường vẫy gọi
Trung tá Phạm Ngọc Bằng, quê Tiền Hải (Thái Bình), nguyên Chính trị viên phó Tiểu đoàn Đặc công nước 471, năm nay 80 tuổi nhưng trí nhớ của ông thật tuyệt. Ông có mặt từ ngày đầu thành lập, nên các mốc lịch sử của tiểu đoàn ông không bỏ sót một sự kiện nào.
Vừa hành quân, vừa tổ chức lực lượng
Trung tá Phạm Ngọc Bằng kể: Tiểu đoàn Đặc công nước 471 ra đời do yêu cầu bức thiết của chiến trường cánh Bắc Quảng Đà lúc bấy giờ. Từ năm 1967, tại Mặt trận 4 Quảng Đà đã có một đội đặc công nước hoạt động. Tuy nhiên qua quá trình tác chiến, lực lượng bị hao mòn không còn đủ sức tổ chức các trận đánh thọc sâu vào hậu cứ của địch, đặc biệt là các mục tiêu ở vịnh Đà Nẵng, cảng Tiên Sa và các căn cứ quân sự trên bán đảo Sơn Trà.
chuyen cua chien si dac cong nuoc ky 1
Cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 471 cùng với Phó đô đốc Nguyễn Văn Tình, nguyên Chính ủy Quân chủng Hải quân và các cơ sở cách mạng quận Liên Chiểu, Đà Nẵng
Ông bảo, lịch sử quân đội ta không hiếm gì các đơn vị vừa thành lập, vừa hành quân. Tiểu đoàn Đặc công nước 471 cũng vậy. Ngày 25-2-1971, vừa nhận quyết định thành lập thì sau đó 2 ngày tiểu đoàn đã hành quân đến vị trí mới.
Tiếng là tiểu đoàn nhưng lúc thành lập mới chỉ có “bộ khung” gồm vài chục đồng chí là cán bộ tiểu đoàn và cán bộ hai đội đặc công. Cán bộ khung do Quân khu 5 điều động từ các chiến trường về, chiến sĩ chưa có. Anh em tuy không nói ra nhưng đều có chung suy nghĩ: Không biết sẽ tổ chức “đánh đấm” ra sao khi trong tay chưa có lực lượng và chưa có những vũ khí đặc thù…
Suy nghĩ là vậy, song nhiệm vụ được giao không thể chần chừ. Vài chục con người lầm lũi cắt rừng từ thượng nguồn sông Tang, xã Trà Xinh, huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) về cánh Bắc Quảng Đà. Gần 1 tháng trời vừa hành quân, vừa tổ chức tiếp nhận bộ đội tại miền Bắc vào trên đường dây (đường 559).
Ngày 20-3-1971, tiểu đoàn đến địa điểm đóng quân do Quân khu quy định tại thôn Nà Bền, xã Đrai, huyện Đông Giang (sau này là huyện Hiên, Quảng Nam) xây dựng hậu cứ. Lúc này quân số toàn tiểu đoàn đã có 123 đồng chí. Đại đa số cán bộ chiến sĩ ở lại xây dựng lán trại và tìm sông suối lớn để huấn luyện. Một bộ phận tiền trạm đến cánh Bắc Quảng Đà tiếp nhận chiến trường.
Tiểu đoàn Đặc công nước 471 được thành lập tại Trà Bồng (Quảng Ngãi) trong những năm chiến tranh chống Mỹ; sau đó tiểu đoàn được chuyển ra hoạt động ở cánh Bắc Hòa Vang, thuộc Mặt trận 4 Quảng Đà, làm nhiệm vụ tác chiến các mục tiêu cố định của Mỹ - Ngụy… Sau giải phóng Đà Nẵng, đơn vị tham gia giải phóng Trường Sa.
Khi bộ phận tiền trạm tìm được địa điểm mới, khu vực đóng quân cũ trở thành hậu cứ sản xuất. Tiểu đoàn để lại một bộ phận cán bộ chiến sĩ sức khỏe yếu do sốt rét phát rẫy làm nương, trồng khoai, trồng sắn. Đại bộ phận tiếp tục khoác balô về phía biển.
Từ giờ phút ấy, những người lính Tiểu đoàn Đặc công nước 471 đã áp sát chiến trường cánh Bắc huyện Hòa Vang. Vừa xây dựng lán trại, vừa tổ chức trinh sát chuẩn bị chiến trường. Và ngay những ngày tháng sau đó, những trận đánh huyền thoại liên tiếp nổ ra ở trên vịnh Đà Nẵng, cảng Tiên Sa, khu radar trên bán đảo Sơn Trà và hệ thống cầu cống trên Quốc lộ 1; hệ thống kho tàng, sân bay trong khu vực…
Những ngày gian khó
Phải nói thêm rằng: Kể từ khi tiểu đoàn đặt chân đến thôn Nà Bền và lập hậu cứ tại đó, bộ phận tiền trạm mất cả mấy tháng trời cắt rừng mới tìm được địa điểm đóng quân mới. Dấu chân những người lính đặc công 471 đầu tiên về cánh Bắc Quảng Đà in khắp phía Nam dãy Bạch Mã, rồi phía Nam đèo Hải Vân, mới tìm được vị trí đóng quân bảo đảm các yếu tố: Áp sát chiến trường, nhưng phải bảo đảm bí mật, bất ngờ; bảo đảm “tiến thoái” an toàn.
9 tháng trời ròng rã “điều nghiên”, mãi đến đầu năm 1972, đơn vị mới ổn định và tổ chức đánh trận đầu. Lúc này khó khăn mới lại xuất hiện. Sau tết Mậu Thân 1968, quân đội Mỹ và chính quyền ngụy ráo riết đánh phá cơ sở cách mạng, tổ chức hành quân lấn chiếm lên các khu vực hậu cứ của ta.
chuyen cua chien si dac cong nuoc ky 1
Y sĩ Tạ Xuân Khoái và y tá Lê Quý Bình - hai người đã lấy chính bản thân mình để thí nghiệm cho phác đồ điều trị sốt rét ác tính theo sáng kiến của y sĩ Khoái
Đơn vị ở sát với địch, không thể móc nối cơ sở ở đồng bằng để mua lương thực, thuốc men. Phần chi viện theo đường dây giao liên cũng hết sức khó khăn. Nếu tính cả thời gian đi, về để đưa được cân gạo về hậu cứ cũng mất cả tháng trời. Lương thực nhận từ trạm do Quân khu cung cấp cũng chỉ đủ nuôi lực lượng gùi thồ, dư dật chẳng là bao.
Chính vì vậy, nhiệm vụ móc nối với cơ sở cách mạng để mua lương thực, thuốc men cũng quan trọng và cấp bách không khác gì nhiệm vụ chiến đấu. Bộ đội mới ở miền Bắc vào chưa quen thông thổ, vừa đói, vừa thiếu thuốc (chủ yếu là thuốc trị sốt rét). Có lúc đơn vị không còn lấy một đồng chí khỏe mạnh đúng nghĩa.
Tình hình đơn vị lúc đó vô cùng khó khăn. Không chỉ “nhạt muối, đói cơm”, mà còn thiếu thốn nhiều thứ, đặc biệt là thuốc chữa bệnh. Trung tá Phạm Ngọc Bằng nhớ lại: Mấy tháng trời liên tục bữa ăn của bộ đội chỉ có sắn và rau môn thục, rau tàu bay. Cả tiểu đoàn trong kho chỉ còn mấy chục cân gạo, số gạo ấy chỉ được sử dụng nấu cháo cho các đồng chí đau ốm.
Lo âu đổ xuống đầu các cấp chỉ huy, vết thương lòng hằn sâu trên khuôn mặt Tiểu đoàn trưởng Hồ Xuân Hòa. Ông Bằng kể: Khi ấy ông là Chính trị viên Đội 2, nhiều lần lên tiểu đoàn họp, ông đã chứng kiến người tiểu đoàn trưởng của mình đóng cửa ngồi một mình trong phòng, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt hốc hác.
Y sĩ Tạ Xuân Khoái, người con của đất tổ Hùng Vương, giờ đã “xưa nay hiếm” kể với tôi rằng: Thời điểm ấy, sốt rét ác tính cứ như là một “đại dịch”. Nghĩa trang của đơn vị dường như ngày nào cũng có thêm nấm mộ mới. Nhìn bộ đội lả dần trên tay đồng đội rồi lặng lẽ ra đi, ông thấy mình như có lỗi với những người đã khuất. Ông bảo: Chẳng lẽ bó tay, chẳng lẽ cứ để những chiến sĩ trẻ trung cứ lần lượt gục ngã trước kẻ thù vô hình…
“Ngộ biến phải tòng quyền”
Vậy là một quyết định táo bạo do chính ông Khoái đề xuất với lãnh đạo tiểu đoàn và ông lấy chính bản thân mình để thí nghiệm cho một phác đồ điều trị sốt rét do chính ông “sáng tạo” ra. Thời ấy thuốc điều trị sốt rét chỉ có hai loại duy nhất, thuốc uống là viên nén Quynine và thuốc tiêm bắp, tiêm mông, ngoài ra không có bất cứ thứ nào khác.
Sau nhiều trăn trở, y sĩ Tạ Xuân Khoái quyết định “pha chế” thuốc tiêm bắp với nước cất ở một tỷ lệ nhất định thành một loại thuốc tiêm thẳng vào tĩnh mạch. Theo lý giải của ông, chỉ có như vậy mới diệt được ký sinh trùng sốt rét nhanh nhất. Ông kể rằng: Sau khi trình bày ý tưởng của mình, nhiều ý kiến lo lắng không biết như thế có an toàn không, liệu có xảy ra tai biến gì không?... Hàng loạt các câu hỏi đặt ra.
Trước những nghi ngại ấy, ông đã gặp trực tiếp Đảng ủy và chỉ huy tiểu đoàn cam đoan lấy chính bản thân để thí nghiệm, nếu có rủi ro gì ông hoàn toàn chịu trách nhiệm. Mũi tiêm đầu an toàn, mũi thứ hai an toàn… Những cơn sốt trong ông giảm dần rồi cắt hẳn.
Tôi hỏi ông: Như vậy có liều quá không? Ông bảo: Xét về mặt khoa học và nguyên tắc, tớ “quyết” như thế là… liều thật. Nhưng điều kiện chiến trường lấy đâu ra phòng thí nghiệm, bản thân ông chỉ là y sĩ, chứ không phải dược sĩ pha chế, bào chế thuốc. “Ngộ biến thì phải tòng quyền”. Chưa biết kết quả như thế nào, nhưng chẳng lẽ bó tay chờ chết! Phải tìm “đường sống” trong cái chết.
Chao ôi! Cái cam go gian khổ của đồng đội tôi trong những năm nguy nan ấy không chỉ là súng đạn. Sự sống và cái chết còn phụ thuộc rất nhiều vào các hoàn cảnh, điều kiện khác. Không thể gọi “sáng kiến” của y sĩ Tạ Xuân Khoái thời ấy là liều lĩnh, mà phải coi đấy là sự sáng tạo trong cuộc đấu tranh sinh tồn của biết bao mạng người trước sự khắc nghiệt của hoàn cảnh.
Nước mắt tôi chảy dài, nước mắt nhiều người chảy dài chứng kiến cuộc hội ngộ, chứng kiến cảnh y sĩ Khoái trong vòng tay đồng đội. Nhiều người nói với tôi: Không có “sáng kiến” của y sĩ Khoái, không có sự hy sinh thầm lặng của ông thì tiểu đoàn không còn sức để chiến đấu. Và nhiều người sẽ mãi mãi ra đi vì sốt rét ác tính.
“Móc” hàng từ... sĩ quan ngụy
Thượng sĩ Trần Thế Phong, người con của quê hương Hải Hậu (Nam Định), hiện đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh, là một trong những người trực tiếp “đột” thẳng vào nhà riêng của viên trung úy quân tiếp vụ của chế độ cũ, gửi lại một lá thư yêu cầu cộng tác và giúp đỡ cách mạng bằng cách “mua giúp” cho cách mạng những loại thuốc men, lương thực cấp thiết…
Trong buổi gặp mặt mới đây, hỏi ông về nhiệm vụ ấy, ông cho hay: Lúc đó ông là cán bộ phân đội phó (tương tương trung đội phó bộ đội bộ binh). Ông đã cùng các đồng chí khác trong tổ công tác vượt qua sự vây ráp, bố phòng của địch xuống đồng bằng “móc nối” cơ sở để mua lương thực, thực phẩm.
Các cơ sở cách mạng ở làng Xuân Thiều (nay thuộc phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng) đã tận tình giúp đỡ mua gạo và thực phẩm (thực phẩm chủ yếu là mắm cái do chính nhân dân ở làng chài Nam Ô sản xuất) cho bộ đội. Tuy nhiên, những loại hàng hóa thiết yếu như thuốc quân y, các thiết bị phục cho công tác thông tin chỉ huy thì không thể nào mua được. Muốn có được nguồn hàng cao cấp ấy chỉ có “móc” từ chính quân đội ngụy.
Vậy là một quyết định táo bạo của tổ công tác là “đột” vào nhà của một viên trung úy quân tiếp vụ quân đội ngụy như đã nói trên. Không biết có phải do viên trung úy này giác ngộ, hay do lo sợ mà đã ngầm “bắt tay” với ta bằng cách đưa hàng về để cho vợ trở thành đầu mối cung cấp những hàng hóa thiết yếu cho ta.
Mấy năm trời liên tục, nhờ “móc” được “đường dây” này mà nguồn hàng quý hiếm, thiết yếu được cung cấp đều đặn, đặc biệt là các loại biệt dược điều trị sốt rét; các loại kháng sinh; các loại thực phẩm cao cấp dùng để điều trị, cứu chữa, bồi dưỡng cho binh sĩ ngụy bị đau ốm, thương tật đã được âm thầm vận chuyển về hậu cứ, góp phần không nhỏ vào việc nuôi dưỡng, điều trị thương, bệnh binh, trả lại cho đơn vị những chiến đấu viên xuất sắc sau này.
Trong những năm chiến tranh, Tiểu đoàn Đặc công nước 471 ở xa Quân khu, xa sự chi viện của cấp trên. Trước tình ấy, đơn vị đã nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, tổ chức tốt việc tăng gia sản xuất, bảo đảm phần lớn lương thực, thực phẩm, tổ chức nuôi quân khỏe, phòng chống dịch bệnh tốt, bảo đảm có đủ quân số để chiến đấu giành thắng lợi. Trong 5 năm (1971-1975), đơn vị đã sản xuất tự túc được 67 tấn lương thực, trong đó có 39 tấn gạo, 28 tấn khoai sắn, chăn nuôi được 154 con heo, hàng nghìn con gà. Đơn vị đã bám dân dưới vùng địch, mua trên 200 tấn gạo, hàng chục tấn thực phẩm. Đơn vị còn tự may hàng nghìn bộ quân phục và một số nhu cầu khác như: võng, bọc võng, balô, nilon, tấm đắp, áo ấm...; tự điều trị bệnh và chăm sóc thương binh, tự đào tạo y tá, dược tá, báo vụ viên để phục vụ cho nhiệm vụ chiến đấu.
(Xem tiếp kỳ sau)
Lâm Quý

Chuyện của chiến sĩ đặc công nước (Kỳ cuối)

07:00 | 10/05/2018
|
Đã có nhiều bài viết, nhiều câu chuyện về những chiến công huyền thoại của bộ đội đặc công. Song với các trận đánh của Tiểu đoàn Đặc công nước 471 - Quân khu 5 mà tôi chép ra dưới đây, ngoài tính “huyền thoại” còn có cả sự hy sinh oanh liệt, thể hiện phẩm chất anh hùng của các chiến sĩ đặc công nước khi xung trận.

Bài 2: Khúc tráng ca mang tên 471
Biển lửa trên vịnh Đà Nẵng
Thượng sĩ Phan Minh Hóa, quê Đông Lâm, Tiền Hải (Thái Bình), người còn sống trong 8 chiến sĩ xuất phát trận đầu đánh tàu trên vịnh Đà Nẵng vào đêm 7-4-1972, kể rằng: Trận đánh ấy mở màn cho hàng loạt các trận đánh sau này của tiểu đoàn.
chuyen cua chien si dac cong nuoc ky cuoi
Hai ông Phan Minh Hóa và Bùi Đức Tùy (áo trắng) tại buổi gặp mặt
Ông Hóa là lớp chiến sĩ thứ hai sau khi hoàn thành khóa huấn luyện ở Đoàn Đặc công Hải quân 126 vào Tiểu đoàn 471. Do mới vào chiến trường, chưa “nếm” trận sốt rét nào, sức khỏe còn tương đối tốt, nên ông là 1 trong 4 chiến sĩ mới được lựa chọn cùng với 4 chiến sĩ cũ nhận nhiệm vụ đánh trận mở màn.
Ánh mắt của người đàn ông gần 70, đã mấy chục năm rời quân ngũ như rực sáng khi kể lại trận đánh bi hùng ấy. Ông Hóa bảo: Trong cuộc đời binh ngũ của mình dù đã trải qua nhiều trận “vào sinh, ra tử”, nhưng chưa có trận nào mà cả Tiểu đoàn trưởng Hồ Xuân Hòa và Chính trị viên tiểu đoàn Trần Châu Á cùng xuống giao nhiệm vụ và động viên bộ đội như trận ấy.
Theo hồi tưởng của ông, khi nói về ý nghĩa của trận đánh này, Tiểu đoàn trưởng Hồ Xuân Hòa chỉ nói vài câu vắn tắt, đại ý rằng: Đây là trận đánh vô cùng quan trọng, là trận mở màn cho cả quá trình dài chuẩn bị, giành thắng lợi sẽ có ý nghĩa vô cùng to lớn về nhiều mặt. Đặc biệt đây là đòn đánh hiểm, đánh phủ đầu làm tổn thất phương tiện chiến tranh, làm nhụt ý chí của địch trong thời điểm đỉnh cao chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Đêm 6-4-1972, tổ tác chiến gồm 8 chiến sĩ, mỗi người khoác trên vai một khối thuốc nổ 30kg và 8 lon (lon sữa bò) gạo rang lặng lẽ cắt rừng vượt đường nhựa xuống mép nước ở chân đèo Hải Vân. Đội trưởng Nguyễn Hồng Quảng đưa anh em đến tận vị trí tập kết và cùng ở lại quan sát hoạt động của tàu địch trên vịnh Đà Nẵng.
Trong vòng 5 năm vừa xây dựng, vừa chiến đấu (4/1971-4/1975), Tiểu đoàn Đặc công nước 471 - Quân khu 5 đã đánh 41 trận (29 trận đánh dưới nước, 12 trận đánh trên cạn), tiêu diệt 800 tên địch (trong đó có một số cố vấn Mỹ), đánh chìm 10 tàu vận tải quân sự (1 tàu dầu, 1 pháo hạm) trọng tải 8-10 nghìn tấn, 1 hải thuyền, 1 cầu cảng Tiên Sa.
Màn đêm phủ dày. Mặt biển như một bầu trời đầy sao bởi ánh sáng của các phương tiện làm nghề biển của ngư dân. Đang yên tĩnh, không gian như bị xé toạc bởi những loạt đạn vu vơ của những chiếc bo bo, hải thuyền tuần tra trên vịnh Đà Nẵng. Sau những phút đắn đo, đội trưởng Quảng quyết định chưa cho bộ đội xuất kích.
Trước những ánh mắt chờ đợi của anh em. Ông bảo: Lương thực ít, không đủ lượng dự trữ, vì vậy không thể bơi sang bán đảo Sơn Trà được. Phải chờ thời cơ khi tàu địch neo đậu trên vịnh Đà Nẵng, ta xuất kích đánh và trở về ngay trong đêm mới bảo đảm an toàn.
Và thời gian chờ đợi không quá lâu. Ngay sáng 7-4, ta phát hiện 3 tàu địch lừ lừ tiến vào vịnh Đà Nẵng, mũi tàu hướng về phía kho xăng Liên Chiểu. Con tàu to nhất, có vẻ như chở đầy hàng, mạn tàu đằm và di chuyển rất chậm. 2 chiếc hộ tống hai bên đích thị là tàu chiến đấu, tháp pháo đã được tháo bạt, trên boong bọn lính lố nhố...
Sau một hồi quần thảo, cả 3 con tàu chọn vị trí thả neo. 2 chiếc bo bo từ 2 tàu chiến được thả xuống biển, chúng như con thoi tỏa ra hai hướng chạy vòng quanh tàu hàng. Cả 8 anh em chụm đầu nghe Đội trưởng Quảng phổ biến phương án tác chiến...
19 giờ, các tổ chiến đấu bắt đầu xuống nước. Siết chặt tay từng người, chờ cho anh em khuất dần trong bóng đêm, Đội trưởng Quảng mới cắt rừng về đài quan sát của tiểu đoàn. Thời gian chậm chạp trôi đi trong chờ đợi. 23 giờ, rồi 24 giờ vẫn chưa thấy “động tĩnh” gì. Tiểu đoàn trưởng Hồ Xuân Hòa, Chính trị viên Trần Châu Á trực tiếp cầm ống nhòm quan sát. Màn trời đêm như đặc quánh lại. Cùng lúc ấy một quầng lửa bùng trên mặt biển. Chiếc tàu đang bơm dầu vào kho xăng Liên Chiểu bốc cháy dữ dội. Trong quầng sáng chói lòa ấy đài quan sát thấy 2 chiếc tàu cùng neo trong khu vực hú còi nhổ neo. Nhưng tiếng còi tàu ấy cũng tắt lịm khi hai quầng lửa khác lại bùng lên…
chuyen cua chien si dac cong nuoc ky cuoi
Phó đô đốc Nguyễn Văn Tình nói chuyện với đơn vị trong ngày gặp mặt
Trận đầu ra quân thắng lợi vẻ vang, các chiến sĩ đội 1 thuộc Tiểu đoàn Đặc công nước 471 đã nhấn chìm 1 tàu vận tải cỡ lớn và 2 tàu chiến của địch, đốt cháy hàng triệu lít xăng. Song 6 chiến sĩ trong 8 người xuất kích hôm ấy đã mãi mãi nằm lại biển khơi. Thân xác các anh đã hòa cùng nước biển.
Trong buổi gặp mặt mới đây, Thượng sĩ Phan Minh Hóa lý giải về sự hy sinh 6 đồng đội. Theo ông, khi gắn khối nổ vào tàu xong, anh em đều đã thoát ra và bơi ngược về hướng sông Thủy Tú. Ở đó tổ đón đã chờ sẵn. Phương án như vậy, nhưng khi thoát ra khỏi tàu vào đúng lúc thủy triều xuống, nước sông Thủy Tú và sông Hàn chảy ra biển rất mạnh.
Bản thân ông Hóa và một đồng đội khác cũng bị đẩy ra rất xa, khi các ông vào được bờ thì đó đã thuộc địa phận tỉnh Thừa Thiên - Huế. 6 chiến sĩ hy sinh rất có thể do sức khỏe suy kiệt không đủ sức bơi vào bờ và đã bị thủy triều đẩy ra biển.
Sau trận chiến đấu ấy. Tiểu đoàn đã được Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba. Đội 1 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. 8 chiến sĩ được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì.
Những trang bi tráng
Đại tá Trần Văn Liên nay là Trưởng ban Liên lạc truyền thống Tiểu đoàn Đặc công nước 471 - Quân khu 5. Ông là một trong những người tham gia nhiều trận đánh và đánh giặc rất lì. Ông cũng là một trong những chiến sĩ thi đua toàn miền, năm 1974 được đi báo cáo điển hình tại Đại hội Chiến sĩ thi đua toàn quân khu.
chuyen cua chien si dac cong nuoc ky cuoi
Từ trái sang là: Đinh Văn Bình, Cù Bá Tứ, Hoàng Thanh Bình, Trần Thế Phong và Trần Thanh Hải - những người lập nhiều chiến công trong chiến đấu và xây dựng đơn vị
Thành tích đầy mình như vậy, nhưng khi kể với chúng tôi về những đồng đội của mình, ông bảo: So với các anh ấy thành tích của mình vẫn chưa thấm tháp gì. “Các anh ấy” là anh hùng liệt sĩ Đặng Tiến Lợi, quê Thái Bình, người cùng với một đồng đội kéo khối thuốc nổ 2 tạ vào đánh cầu Thủy Tú. Một viên đạn vu vơ của địch đã cướp đi mạng sống của đồng đội. Còn một mình với khối thuốc cách trụ cần hơn 2 mét, anh đã ôm khối đánh “cường tập”, nghĩa là đẩy thẳng khối thuốc vào trụ cầu, lấy thân mình ép chặt rồi rút chốt tức thì. Cầu sập và thân xác anh hòa vào dòng sông Thủy Tú.
“Các anh ấy” là liệt sĩ Nguyễn Hùng Mạnh, quê Thanh Hóa. Ông Liên bảo: Không hiểu vì sao anh Nguyễn Hùng Mạnh chưa được đề nghị truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân? Ông Liên kể rằng: Cầu Thủy Tú bị đánh đi đánh lại nhiều lần, vì vậy địch tổ chức bố phòng hết sức nghiêm ngặt. Cách cầu chừng 50 mét chúng giăng một lớp hàng rào bùng nhùng từ bờ bắc sang bờ nam. Các trụ cầu chúng gia cố thêm “vành đai” bảo vệ cùng với những ngọn đèn cao áp chiếu thẳng xuống mặt sông. Ngoài ra, chúng làm thêm các bè nổi bằng thùng phuy kết lại, trên bè lúc nào cũng có một tổ gồm 3 tên lăm lăm súng và ném lựu đạn cầm canh xuống dòng sông.

Vào mùa chiến dịch, trên yêu cầu bằng mọi cách phải đánh sập cầu Thủy Tú làm tê liệt tuyến vận chuyển huyết mạchcủa địch. Sau khi đưa khối vượt qua lớp hàng rào, tổ chiến đấu của Nguyễn Hùng Mạnh tổ chức tiềm nhập mố cầu. Chỉ còn cách mục tiêu vài mét loạt đạn của địch vãi trên sông đã cướp đi mạng sống của đồng đội. Cũng như Đặng Tiến Lợi, Nguyễn Hùng Mạnh đã ôm khối đẩy thẳng vào trụ cầu giật chốt tức thì.
“Các anh ấy” là Hoàng Cao Biền, người cùng tổ chiến đấu với Đại tá Trần Văn Liên đã cương quyết “cuộc chiến còn dài, không thể cùng một lúc hy sinh cả hai, anh ở lại đánh trận sau, trận này để em...”. Chỉ đơn giản như vậy, trong lúc quyết định sinh tử ấy, Trần Cao Biền đã giành phần hy sinh về mình.
“Các anh ấy” là Đinh Văn Bình, quê Giao Thủy; Hoàng Thanh Bình, quê Nghĩa Hưng, Nam Định nhận nhiệm vụ đánh tàu trên vịnh Đà Nẵng, dù kíp hẹn giờ chỉ có đúng 7 phút, nhưng các anh vẫn quyết định duy nhất một từ “đánh”. Và bằng lòng quả cảm, sự mưu trí, 2 chiến sĩ quê Nam Định đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, vừa nhấn chìm tàu địch vừa bảo toàn lực lượng.
“Các anh ấy” là Chuẩn úy Trần Văn Huân, Thượng sĩ Bùi Đức Tùy, Thượng sĩ Nguyễn Văn Hợi, Thượng sĩ Phan Minh Hóa, Trung sĩ Nguyễn Hữu Nghị, Trung sĩ Phan Văn Huỳnh. Những con người ấy trong một đêm đã đánh một trận “nở hoa trong lòng địch”, cùng một lúc vừa thiêu rụi và làm tê liệt dàn radar đối hải của địch trên bán đảo Sơn Trà và đánh chìm 1 tàu đang bốc hàng ngay tại cầu cảng Tiên Sa.
Trận đánh kép ấy làm cho địch “tối tăm mặt mũi”, không hiểu “mô tê răng rứa”, không hiểu Cộng sản tổ chức bao nhiêu lực lượng, đi bằng phương tiện gì mà đến được nơi coi là “bất khả xâm phạm” như chỗ không người, dùng những loại vũ khí gì... mà có sức công phá ghê gớm như vậy?
Một “kỳ tích”, nói như Thượng sĩ Bùi Đức Tùy, người bị thương trong trận đánh radar, phải nằm lại hang đá trên bán đảo Sơn Trà đến 45 ngày trong tình trạng bị bỏng tới 45% diện tích cơ thể, bị những mảnh tôn găm thấu phổi... không có quân y, chỉ có một cơ số thuốc sát trùng rất ít, vết thương rửa bằng nước biển nấu với lá rừng... vậy mà anh đã thoát khỏi “lưỡi hái của tử thần”, lại cùng đồng đội tổ chức một trận đánh bồi, nhấn chìm thêm tàu địch trước khi rời đảo vượt biển về hậu cứ...
Những trận đánh như những khúc tráng ca đầy chất bi hùng trong trang sử hào hùng của quân đội nói chung, của đặc công nước nói riêng. Rực sáng trong đó là tinh thần quả cảm, là hành động anh hùng, là sự mưu trí gan dạ, là tinh thần còn một người cũng đánh.
Dự buổi gặp mặt truyền thống với tiểu đoàn vừa qua có Phó đô đốc Nguyễn Văn Tình, Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Chính ủy Quân chủng hải quân. Người anh hùng thuộc lớp đầu tiên của Đặc công Hải quân 126, là thủ trưởng cũ của rất nhiều cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn Đặc công nước 471 - Quân khu 5. Nghe chiến sĩ mình kể chuyện, ông đã thốt lên: “Đây là một tập thể anh hùng, nhiều đồng chí rất xứng đáng được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân”.
Tiểu đoàn Đặc công nước 471 - Quân khu 5 được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: 2 Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba; 5 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất; 7 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì.
1 Cờ Quyết chiến quyết thắng của Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tặng. 1 Cờ Anh dũng diệt Mỹ do Ủy ban Cách mạng lâm thời Trung Trung Bộ tặng.
1 Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba, 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất được trao cho Đội 1.
1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất trao cho Đội 2.
2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì trao cho Đội 3.
Có một đồng chí được tuyên dương anh hùng là: Liệt sĩ Đặng Tiến Lợi, tuyên dương ngày 22-12-1973. Nhiều đồng chí được tặng thưởng các danh hiệu vinh dự khác.
Lâm Quý

Lữ đoàn Đặc công bộ 113: Công bố các quyết định phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Thứ Hai, 09/07/2018
Chiều 9/7/2018, Lữ đoàn Đặc công bộ 113 tổ chức trọng thể Lễ công bố các quyết định phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND) cho các cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Thừa ủy quyền của Chủ tịch nước, Thiếu tướng Đỗ Thanh Bình, Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Binh chủng Đặc công trao Quyết định phong tặng, truy tặng Danh hiệu Anh hùng LLVTND cho các cá nhân thuộc Lữ đoàn Đặc công bộ 113 do có thành tích đặc biệt xuất sắc. Ảnh Dương Hà

Tới dự, có các đồng chí: Thiếu tướng Đỗ Thanh Bình, Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Binh chủng Đặc công; Thiếu tướng Lê Thanh Hà, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Binh chủng Đặc công; các đồng chí nguyên thủ trưởng Bộ Tư lệnh Đặc công; thủ trưởng các cơ quan Bộ Tư lệnh Đặc công; lãnh đạo một số, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh Vĩnh Phúc; lãnh đạo các địa phương nơi Lữ đoàn Đặc công bộ 113 đóng quân, công tác; các đồng chí Anh hùng LLVTND của Lữ đoàn qua các thời kỳ; thân nhân các Anh hùng liệt sỹ; các đồng chí đại diện cấp ủy, chính quyền nơi cư trú của các cá nhân được phong tặng, truy tặng Danh hiệu Anh hùng LLVTND thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước...
Trải qua hơn 46 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, cán bộ, chiến sỹ của Lữ đoàn Đặc công bộ 113 đã lập nên những chiến công vang dội, giành nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và công tác, được Đảng, Nhà nước ba lần tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND, có 6 tập thể và 12 cá nhân được phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng LLVTND. Những thành tích đặc biệt xuất sắc trên đã góp phần tô thắm truyền thống vẻ vang của Binh chủng Đặc công 2 lần Anh hùng.
Có được những thành tích đặc biệt xuất sắc, những chiến công vang dội và truyền thống vẻ vang của Lữ đoàn Đặc công bộ 113, bên cạnh sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Thường vụ Đảng ủy, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh; sự giúp đỡ của các cơ quan Binh chủng; sự trở che, đùm bọc của cấp ủy, chính quyền, nhân dân, các cơ sở cách mạng, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn nơi đơn vị thực hiện nhiệm vụ, công tác; mà còn có sự cống hiến, hy sinh quên mình của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Lữ đoàn trong suốt chặng đường xây dựng, chiến đấu, chiến thắng, trưởng thành và phát triển.
Tại buổi lễ, thừa ủy quyền Chủ tịch nước, Thiếu tướng Đỗ Thanh Bình, Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Binh chủng Đặc công trao Quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho Đại tá Bùi Xuân Hình, Nguyên Phó Tham mưu trưởng, Trung đoàn 116, Sư đoàn 2 Đặc công, Binh chủng Đặc công; trao Quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho thân nhân các đồng chí: Đại tá Lê Thanh Tiến, nguyên Chính trị viên, Tiểu đoàn 27, Trung đoàn Đặc công 113; Đại tá Trần Thanh Trung, nguyên Chính trị viên, Tiểu đoàn 27, Trung đoàn Đặc công 113 và Liệt sỹ Thượng úy Nguyễn Đình Tiết, nguyên Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn 27, Trung đoàn Đặc công 113.
Thúy Hường

Họp mặt kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống Đoàn Đặc công 429 Anh Hùng

Các đại biểu giao lưu tại buổi họp mặt
(Thanhuytpcm.vn) - Sáng 30/12, Ban liên lạc truyền thống Đoàn đặc công 429 Anh Hùng tổ chức họp mặt kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống Đoàn Đặc công 429 Anh Hùng (04/02/1969 - 04/02/2019). Đến dự có Đại tá Phan Thế Ba, Phó Tư lệnh binh chủng đặc công; Đại tá Nguyễn Đức Khánh, Chính ủy Lữ Đoàn đặc công 429; Thiếu tướng Mai Văn Phúc, nguyên Phó Tư lệnh Quân Khu 7, nguyên Chính ủy Đặc công 429; Anh hùng lực lượng vũ trang Trung tướng Lê Phái Bê, nguyên Chính ủy trường sĩ quan Lục Quân 2, Bộ Quốc phòng, các đồng chí nguyên lãnh đạo Đoàn đặc công 429 và các đơn vị binh chủng đặc công.
Tại buổi họp mặt, các đại biểu cùng nhau ôn lại truyền thống vẻ vang của binh chủng đoàn đặc công 429 Anh Hùng. Trải qua suốt 50 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của Lữ đoàn đặc công luôn củng cố, xây dựng được hàng chục đơn vị, huấn luyện, đào tạo hàng vạn cán bộ, chiến sĩ cung cấp cho các chiến trường. Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Lữ đoàn đã xây dựng lực lượng đặc công biệt động tinh nhuệ, chính quy, hiện đại tham gia hầu hết các chiến dịch, các đợt hoạt động của các quân khu, bám sát địch ngay trong hậu phương chiến lược của địch, tạo thế đánh địch đúng thời cơ, kịp thời, tiêu diệt nhiều sinh lực quan trọng và phương tiện chiến đấu hiện đại của chúng, góp phần cùng Quân và Nhân dân cả nước bảo vệ vững chắc biên giới Tổ quốc Việt Nam và làm tròn nhiệm vụ Quốc tế cao cả.
Trong thời kỳ đổi mới, Lữ đoàn Đặc công đã củng cố, xây dựng phát triển toàn diện được Bộ Quốc phòng, Binh chủng Đặc công giao bổ sung thực hiện nhiệm vụ A2, chống khủng bố, tham gia bảo vệ các sự kiện chính trị trọng đại của Đảng, Nhà nước và Quân đội. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh, điều kiện nào, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Lữ đoàn cũng nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, vượt qua mọi khó khăn gian khổ và nỗ lực vươn lên nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Tin, ảnh: Đoàn Nam

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét