CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 287
(ĐC sưu tầm trên NET)
Dân trí Một cựu tù nhân Triều
Tiên thừa nhận từng là điệp viên của CIA tại quốc gia Đông Á và đã sử
dụng một số phương pháp để thu thập tin tức quan trọng về chính phủ Bình
Nhưỡng.
Trả lời kênh truyền hình NDR của Đức, cựu tù nhân Triều Tiên Kim Dong-chul, 67 tuổi, thừa nhận ông từng là điệp viên của CIA, có nhiệm vụ thu thập thông tin mật về hạt nhân và chụp lại các bức ảnh với máy ảnh giấu trong đồng hồ đeo tay.
Ông Kim, một người Mỹ gốc Hàn Quốc, cho biết ông đã tiếp cận với các quan chức quân đội và nhà khoa học Triều Tiên mà ông biết được rằng những người này đang cần tiền.
Cựu điệp viên này là 1 trong 3 công dân Mỹ được Bình Nhưỡng thả hồi tháng 5/2018, trước thềm hội nghị thượng đỉnh đầu tiên giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un.
Cựu tù nhân Kim ngoài ra cũng có nhiệm vụ thu thập thông tin và bàn giao chúng cho cơ quan tình báo Hàn Quốc.
Ông Kim là một doanh nhân và từng là một nhà truyền giáo đạo Cơ Đốc. Ông từng điều hành một khách sạn ở đặc khu Rason của Triều Tiên nằm gần biên giới Nga và Trung Quốc từ năm 2001.
Ông bị bắt vào năm 2015 sau khi bị cáo buộc đã nhận một thiết bị lưu trữ (USB) có chứa dữ liệu liên quan tới hạt nhân và quân sự từ một cựu quân nhân Triều Tiên.
Năm 2016, ông bị Triều Tiên kết án 10 năm tù khổ sai vì tội gián điệp.
Cựu điệp viên cho biết ông được CIA tuyển mộ ở Hàn Quốc vào năm 2011, sau khi nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il qua đời.
Ngoài đồng hồ gắn camera để chụp hình, ông còn được CIA cung cấp một thiết bị nghe lén được đặt gọn trong tai cựu điệp viên. Ông Kim nói rằng ông từng chụp hình được những con tàu mà CIA chỉ có được hình ảnh vệ tinh không chính xác.
Ông Kim cũng “khoe” tấm hình chụp một thỏi kẽm có độ tinh khiết cao, một chất được sử dụng trong công nghệ vũ khí xuất xứ từ Liên Xô cũ. Ông nói rằng ông đã mua nó từ một nhà khoa học hạt nhân của Triều Tiên.
Đức Hoàng
Theo SCMP
Cố vấn Tổng thống Pháp đến Iran 'để giảm căng thẳng'
QUỲNH NHƯ
Các tiêu chuẩn cơ bản là ứng viên phải có xuất thân từ "gia đình cơ
bản" -không phải là cháu chắt của thành phần chủ đất, thương gia… và nếu
ứng viên trưởng thành trong gia đình là cán bộ chính quyền thì càng
"chuẩn", thứ đến là ngoại hình, sức khỏe, trình độ học vấn và quan trọng
nhất chính là lòng trung thành tuyệt đối với nhà lãnh đạo Triều Tiên.
Khi đã được chọn, ứng viên không có quyền khước từ và lập tức chia tay
gia đình để nhập học. Đó cũng có thể là lần cuối cùng họ được nhìn thấy
những người thân yêu nhất.
Trong quá trình học tập, họ phải cắt đứt mọi liên lạc với gia đình, và dịp năm mới chỉ được gửi thiệp về nhà nhưng không được ghi nơi gửi. Theo nhiều thông tin, các học viên được đưa tới ở Bình Nhưỡng. Chương trình học của họ gồm hai giai đoạn chính và có thể kéo dài trong ít nhất 10 năm.
Trong gian đoạn đầu tiên, học viên được đào tạo nhiều kỹ năng như rèn luyện thể lực, vượt hàng rào thép gai, trèo tường, bắn súng, võ thuật, chế tạo bom, sử dụng các loại vũ khí, mật mã...
Tuy nhiên, quan trọng nhất là rèn luyện về mặt tâm lý và tư tưởng. Như Kim Dong Shik, một cựu điệp viên Triều Tiên kể lại rằng, ông cùng những người đồng môn được rèn luyện để tuyệt đối trung thành với đất nước và sẵn sàng hy sinh bất cứ khi nào. Khi bị lộ thân phận và sắp rơi vào tay đối phương, họ sẽ phải nuốt các viên thuốc độc cyanur luôn mang theo bên mình hoặc tự sát chứ không được để bị bắt sống và thẩm tra.
"Chúng tôi phải sẵn sàng hy sinh. Nếu bị bắt sống, chúng tôi sẽ tìm cách tự sát. Từ đó, ý nghĩ về cái chết luôn trĩu nặng trong lòng chúng tôi... đó thật sự là một gánh nặng đối với những thanh niên phơi phới tuổi 19, 20 khi đó", Kim kể lại trong cuốn hồi ký ấn hành năm 2014 mang tựa đề "No One Reported Me" (Không ai báo về tôi).
Là con trai của một quan chức cấp tỉnh trong đảng cầm quyền Triều Tiên, năm 1981 khi mới 17 tuổi, Kim Dong Shik được tuyển vào Học viện quân sự chính trị Kumsong, nơi hun đúc nên những điệp viên ưu tú nằm vùng tại Hàn Quốc. Kim là một trong 200 sinh viên được tuyển mộ mỗi năm sau khi các nhà chức trách đã điều tra kỹ lưỡng về thân thế, gia đình, lực học và trên tất thảy là lòng trung thành vô điều kiện đối với đất nước mình.
Thế nhưng sức ép quá lớn từ các khóa đào tạo đã khiến hàng chục người phải bỏ cuộc nhưng Kim Dong Shik vẫn kiên trì, với mong muốn sớm được thăng tiến trong hàng ngũ lãnh đạo sau này.
Sau khi tốt nghiệp, trọng tâm đào tạo chuyển sang việc làm sao cho các điệp viên có tác phong sinh hoạt giống y như người dân Hàn Quốc. Tham gia phần huấn luyện này là những người Hàn Quốc bị bắt cóc và giữ lại Triều Tiên, họ dạy các điệp viên cách phát âm như người Hàn, nắm được lề thói sinh hoạt đời thường từ cách mua vé xe buýt, thói quen đi ăn đêm ở các quầy bán thức ăn trên đường phố đến việc am hiểu đời sống văn hóa cũng như chính trị ở Seoul.
Quá trình "thuần hóa" này mang lại cho họ những cảm nhận đầu tiên về cuộc sống bên kia biên giới, khi hàng ngày họ được nghe, xem các bộ phim, tạp chí, sách báo và truyền hình Hàn Quốc. Họ sẽ phải nằm lòng các bản nhạc và vũ điệu nổi tiếng tại Hàn Quốc cùng với tên tuổi, sự nghiệp của những ngôi sao điện ảnh, truyền hình và các tên tuổi lừng lẫy trong giới thể thao.
Nhưng những khác biệt này về đời sống tinh thần không làm lung lay những điệp viên tương lai của Triều Tiên. "Chúng tôi quá trung thành nên không bị lung lay bởi những thứ đó - Kim Dong Shik kể - Họ nói với chúng tôi rằng chỉ có những kẻ tư bản giàu có mới có thể tận hưởng những điều hay ho ở Hàn Quốc, và chúng tôi không hề ngờ vực điều gì".
Kang Myong-do, một cựu quan chức Triều Tiên từng làm việc ở Ủy ban Thống nhất năm 1984 đào thoát sang Hàn Quốc cho biết, mạng lưới điệp viên Triều Tiên hoạt động khắp nơi trên thế giới, kể cả Mỹ, nơi ông ước tính có hàng trăm người. Một trong những mục đích chính của họ là tìm cách chiêu mộ người Mỹ gốc Hàn có xu hướng thân Triều Tiên.
"Cơ quan tình báo Triều Tiên sử dụng ba chiến thuật khác nhau - ông nói - Đầu tiên là cung cấp cho những người được tuyển dụng thị thực tự do đến Triều Tiên. Thứ hai, cho họ quyền kinh doanh và kiếm tiền ở đó. Thứ ba, dùng mỹ nhân kế. Chiến thuật này được sử dụng rộng rãi từ những năm 80". Kang cho biết, nơi ông từng làm việc có cả nhiệm vụ gửi gián điệp đến Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Đồng tình với Kang, Kim Dong-shik cũng cho rằng: "Điệp viên được đối xử ngang hàng với tướng lĩnh quân đội, điều này đồng nghĩa với việc hưởng lương cao, được sống trong những căn hộ sang trọng, tiện nghi".
Bị "vô danh hóa" và lãng quên khi điệp vụ không thành
Không chỉ có Triều Tiên huấn luyện đào tạo gián điệp cài vào nước đối phương. Theo thống kê, trong suốt thời kỳ hơn 60 năm sau khi kết thúc Chiến tranh Triều Tiên, có khoảng 6.200 người Hàn Quốc sau khi đến phía bắc bán đảo đã hoàn toàn bặt vô âm tín. Nhờ các đồng nghiệp và người thân khiếu nại trong nhiều năm trời, chính quyền Seoul mới thực hiện chính sách bồi thường trong lặng lẽ cho người nhà của những người đã hy sinh.
Cho đến bây giờ, không ít người vẫn không hề hay biết chồng, con, cha
mình từng đảm trách những nhiệm vụ hiểm nguy để phục vụ cho đất nước,
hàng trăm người làm nhiệm vụ bí mật của cả hai nước đã bị làm cho vô
danh. Điệp viên Triều Tiên Kang Min-chul, người thi hành vụ đánh bom ở
Yangon (Myanmar) vào ngày 9-10-1983 là một trong số đó.
Hơn 30 năm sau vụ đánh bom, câu chuyện về Kang Min-chul lại được lật lại qua quyển sách mang tựa đề "Phần tử khủng bố bị quên lãng" của tác giả Ra Jong-yil - nguyên Phó Viện trưởng Viện Tình báo Hàn Quốc. Thông điệp mà quyển sách đưa ra là nhằm đả kích những hành vi, việc làm thường thấy của cả hai chính phủ Triều-Hàn: Một khi có sự vụ đổ bể, cấp trên của các điệp viên thẳng thừng phủ nhận sự tồn tại của các điệp viên, không cho người nhà của họ và công chúng biết được sự thật.
Cuốn sách của Ra Jong-yil được viết ra dựa trên những ghi chép, điều tra của tòa án Myanmar về Kang Min-chul cùng với những cuộc thăm hỏi những người bạn tù, quản lý trại giam, trong đó rất nhiều người từng giúp đỡ Kang Min-chul trong thời gian ông ta ở nhà tù Insein Yangoon.
Đối tượng ném bom ám sát mà Kang Min-chul nhằm vào chính là Tổng thống Hàn Quốc đương nhiệm Chun Doo-hwan, theo lịch trình của chuyến kinh lý sẽ đến đặt hoa tại Viện bảo tàng Yangon.
Bộ trưởng Ngoại giao Myanmar khi ấy có nhiệm vụ đến đón tổng thống Chun Doo-hwan đã tới muộn mấy phút, việc chậm trễ này đã cứu mạng tổng thống: Khi quả bom được điều khiển từ xa phát nổ, chiếc xe chở Tổng thống chưa đến, nhưng vẫn có 17 người Hàn Quốc, trong đó có 4 vị bộ trưởng nội các chết ngay tại chỗ.
Đứng từ xa thấy quả bom đã nổ, Kang Min-chul và hai điệp viên khác chạy ngay về phía bờ sông Yangon, theo kế hoạch, ở đó sẽ có chiếc ca nô cao tốc đợi sẵn, đón bọn họ đưa lên con thuyền chở hàng tiếp ứng của Triều Tiên. Nhưng chiếc ca nô vì lẽ gì đấy lại không tới, ba người đành phải chia nhau bỏ chạy theo đường bộ hoặc nhảy xuống sông. Cảnh sát Yangon phát hiện và đuổi kịp; một người trong số họ bị bắn chết.
Lựu đạn trong tay Kang Min-chul và điệp viên còn lại bất ngờ phát nổ khiến cả hai cùng bị trọng thương và bị bắt. Người kia mất một cánh tay, hỏng một mắt, bị xử tử hình vì không chịu trả lời bất kỳ một câu hỏi nào. Kang Min-chul cũng mất một cánh tay, ông ta nhận tội nên được hoãn thi hành án tử. Việc thi hành nhiệm vụ bất thành đã biến Kang Min-chul trở thành điệp viên vô thừa nhận.
Giới chức Triều Tiên tuyên bố không hề liên quan và cho rằng vụ ám sát này chính là do phía Hàn Quốc thực hiện để đổ vấy cho Hàn Quốc. Trong suốt 25 năm ở tù, không một ai từ quê hương tới thăm Kang Min-chul; nhưng chuỗi tháng ngày lê thê sau song sắt cũng giúp Kang Min-chul học được tiếng Myanmar và theo Cơ đốc giáo, được một người bạn tù đặt tên là Matthew.
Ra Jong-yil biết chuyện của Kang Min-chul một cách ngẫu nhiên. Năm 1998, khi đến Yangon để tìm tài liệu, ông chú ý đến một mẩu tin vắn nói rằng, "tên khủng bố Kang Min-chul" trong suốt thời gian ngồi tù chưa từng được ai đến thăm nên tâm trạng vô cùng tuyệt vọng.
Ra Jong-yil tìm cách thuyết phục người phụ trách bộ phận tình báo Myanmar đương nhiệm, sau này là tướng Khin Nyunt, cho phép mình tới thăm hỏi Kang Min-chul, mang thức ăn và tin tức về Hàn-Triều. Được tiếp xúc với một người có thể gọi là đồng hương, Kang Min-chul bộc bạch, nếu ông ta và bạn tù được thả ra, họ muốn được đến Hàn Quốc.
Năm 2004, sau khi Khin Nyunt bị bãi miễn chức vụ, những cuộc thăm viếng của Ra Jong-yil bị gián đoạn. Ông khẩn thiết xin chính phủ Hàn Quốc can thiệp cho tù nhân Kang Min-chul được tự do, nhưng thời kỳ đó, chính phủ Seoul đang nỗ lực thúc đẩy "chính sách Ánh Dương" để hòa giải với Bình Nhưỡng, nên không muốn làm bất cứ chuyện gì có thể gây ảnh hưởng đến mối quan hệ của hai bên.
"Đối với chính phủ hai nước Triều- Hàn mà nói, để Kang Min-chul cứ sống trong ngục càng đỡ phải lo phiền - Ra Jong-yil chỉ rõ- Triều Tiên chối bỏ ông ta, Hàn Quốc cũng quay mặt". Trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, Kang Min-chul vô cùng suy sụp.
"Ông ta sợ mình bị nguy hiểm đến tính mạng, ngày đêm nơm nớp lo lắng thức ăn của mình có độc. Ông ta thường nói với cai ngục và bạn tù, cho dù mình được thả, cũng chẳng biết đi đâu". "Phần tử khủng bố" bị quên lãng này chết vì ung thư gan vào năm 2008, khi đó mới 53 tuổi.
Hiếu Thảo (tổng hợp)
BÁO ĐỌC: Thâm nhập Đức Quốc xã, phát hiện tội ác tàn bạo nhất lịch sử nhân loại
SS là viết tắt của Schutzstaffel, một tổ chức vũ trang của Đảng Quốc xã
Đức được trùm phát xít Adolf Hitler thành lập ngày 4/4/1925 tại München.
Khi Heinrich Himmler được chỉ định làm Thống chế SS năm 1929, hắn ta đã
nhanh chóng biến SS thành lực lượng độc tôn trong Đảng Quốc xã Đức.
Mật vụ Gestapo, cảnh sát hình sự, tình báo và các trại tập trung đều là
những 'chân rết' thuộc SS. Tổ chức 'quân áo đen' (đồng phục của SS là
màu đen) này chịu trách nhiệm trong việc khủng bố và đàn áp thời Đức
Quốc xã, thực hiện các tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại
khủng khiếp, trong đó có diệt chủng Holocaust.
Dù vận quân phục của Đức Quốc xã, Kurt Gerstein không phải là một tên
phát xít bình thường như vẻ bề ngoài. Anh gia nhập Waffen-SS (Lực lượng
vũ trang SS, một 'chân rết' của SS) để vạch trần tội ác khủng khiếp của
nó.
Một ngày chớm Đông, vào tháng 9/1940, một người đàn ông 35 tuổi, gầy,
cao, khuôn mặt nghiêm nghị nổi lên đôi mắt thâm quầng đầy u tối tên là
Kurt Gerstein nộp đơn gia nhập Waffen-SS.
Chỉ cần liếc qua hồ sơ của Kurt Gerstein cũng thấy anh đủ tiêu chuẩn để
gia nhập Waffen-SS. Không chỉ có bảng thành tích tuyển dụng hoàn hảo,
quan trọng là gốc gác của Kurt Gerstein rất dễ khiến SS hài lòng: Anh
sinh ra (ngày 11/8/1905) trong một gia đình trung lưu với khuynh hướng
bảo thủ sâu sắc, cả bố và mẹ đều là những người ủng hộ phát xít nhiệt
tình và 'hoàn toàn tuân thủ chính quyền'.
Khác với cha mẹ mình, anh thanh niên Kurt Gerstein ở trường vốn nổi
tiếng xấc xược và hay trốn học. Vì mâu thuẫn với người cha (một cựu sĩ
quan Phổ, là một thẩm phán và một người độc đoán), Kurt Gerstein coi
Kinh thánh là nhà.
Nguoi Do Thai bi giet the chien 2
Cựu tù nhân Triều Tiên kể về thời kỳ làm gián điệp cho CIA ở Bình Nhưỡng
Dân trí Một cựu tù nhân Triều
Tiên thừa nhận từng là điệp viên của CIA tại quốc gia Đông Á và đã sử
dụng một số phương pháp để thu thập tin tức quan trọng về chính phủ Bình
Nhưỡng.
>>Tù nhân Mỹ tiết lộ thời gian bị bắt giam khổ sai ở Triều Tiên
>>Thả 3 tù nhân Mỹ, Triều Tiên dỡ rào cản cuối cùng trước thượng đỉnh lịch sử
>>Triều Tiên có thể thả 3 tù nhân Mỹ tại làng đình chiến hôm nay
Trả lời kênh truyền hình NDR của Đức, cựu tù nhân Triều Tiên Kim Dong-chul, 67 tuổi, thừa nhận ông từng là điệp viên của CIA, có nhiệm vụ thu thập thông tin mật về hạt nhân và chụp lại các bức ảnh với máy ảnh giấu trong đồng hồ đeo tay.
Ông Kim, một người Mỹ gốc Hàn Quốc, cho biết ông đã tiếp cận với các quan chức quân đội và nhà khoa học Triều Tiên mà ông biết được rằng những người này đang cần tiền.
Cựu điệp viên này là 1 trong 3 công dân Mỹ được Bình Nhưỡng thả hồi tháng 5/2018, trước thềm hội nghị thượng đỉnh đầu tiên giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un.
Cựu tù nhân Kim ngoài ra cũng có nhiệm vụ thu thập thông tin và bàn giao chúng cho cơ quan tình báo Hàn Quốc.
Ông Kim là một doanh nhân và từng là một nhà truyền giáo đạo Cơ Đốc. Ông từng điều hành một khách sạn ở đặc khu Rason của Triều Tiên nằm gần biên giới Nga và Trung Quốc từ năm 2001.
Ông bị bắt vào năm 2015 sau khi bị cáo buộc đã nhận một thiết bị lưu trữ (USB) có chứa dữ liệu liên quan tới hạt nhân và quân sự từ một cựu quân nhân Triều Tiên.
Năm 2016, ông bị Triều Tiên kết án 10 năm tù khổ sai vì tội gián điệp.
Cựu điệp viên cho biết ông được CIA tuyển mộ ở Hàn Quốc vào năm 2011, sau khi nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il qua đời.
Ngoài đồng hồ gắn camera để chụp hình, ông còn được CIA cung cấp một thiết bị nghe lén được đặt gọn trong tai cựu điệp viên. Ông Kim nói rằng ông từng chụp hình được những con tàu mà CIA chỉ có được hình ảnh vệ tinh không chính xác.
Ông Kim cũng “khoe” tấm hình chụp một thỏi kẽm có độ tinh khiết cao, một chất được sử dụng trong công nghệ vũ khí xuất xứ từ Liên Xô cũ. Ông nói rằng ông đã mua nó từ một nhà khoa học hạt nhân của Triều Tiên.
Đức Hoàng
Theo SCMP
5 chiến dịch khét tiếng của tình báo Mỹ chống phá Liên Xô
Cơ quan tình báo đối ngoại Mỹ (CIA) đã đầu tư khủng khiếp cho các chiến dịch quy mô cực lớn để phá hoại Liên Xô – thành trì XHCN một thời.
Chiến tranh biên giới 1979: Tiết lộ về 12 vận tải cơ khổng lồ Liên Xô
Người lính Liên Xô từng "tay không" thu phục 5.000 lính Nhật Bản là ai?
Liên Xô từng lên kế hoạch hủy diệt Mỹ bằng “bom sóng thần”
Choáng ngợp kho vũ khí của lục quân Hồng quân Liên Xô
Chiến tranh Biên giới 1979: Bí mật về trực thăng khổng lồ Liên Xô
1. Chiến dịch Aerodynamic
Trong hơn 40 năm, Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã sử dụng hiệu quả “lá bài Ukraine” trong cuộc chiến chống phá Liên Xô. Ngay sau khi Thế chiến 2 kết thúc, Langley (tổng hành dinh của CIA) đã thiết lập liên lạc chặt chẽ với Tổ chức những người Dân tộc chủ nghĩa Ukraine (OUN) và Quân Nổi dậy Ukraine (UPA) – đây là 2 tổ chức chống cộng, tập hợp lực lượng từ hàng ngàn người ở các nước phương Tây và hoạt động ngầm ở nước Ukraine Xô viết (thuộc Liên Xô).
Ban đầu CIA chủ động ủng hộ cuộc kháng cự vũ trang ở Ukraine, gửi đặc vụ và hướng dẫn viên tới đây, cung cấp tài chính cho các đơn vị quân sự chống Liên Xô. Họ cũng thu thập thông tin về các vị trí và tổ chức của Hồng quân.
Tuy nhiên, vào giữa thập niên 1950, khi các lực lượng OUN-UPA ở Ukraine và Đông Ba Lan đã cơ bản bị xóa sổ thì người Mỹ bắt đầu thay đổi chiến thuật. Giờ họ đánh vào ý thức hệ: họ bắt đầu xuất bản các tác phẩm văn học và tạp chí có nội dung chống cộng và ủng hộ các hoạt động chính trị bất hợp pháp tại Ukraine.
Năm 1990, với việc Liên Xô sắp sụp đổ đến nơi, ban lãnh đạo CIA đã đóng cửa chương trình này.
2. Chiến dịch Coldfeet
Tháng 5/1961, một máy bay trinh sát của Mỹ ở vùng Bắc cực phát hiện một trạm băng trôi nổi của Liên Xô bị bỏ hoang. Có vẻ như người Liên Xô đã vội vã rút khỏi trạm này do lo sợ băng sẽ tan ra.
CIA nhận thấy mình đang có cơ hội hoàn hảo để rờ tay vào các bí mật quân sự của Liên Xô. Họ đồ rằng trạm này có thể chứa đựng các thông tin giá trị về các mạng lưới theo dõi âm thanh Liên Xô, được sử dụng để giám sát các tàu ngầm Mỹ bên dưới lớp băng ở Bắc cực.
Không thể tới trạm này bằng tàu phá băng hay máy bay trực thăng nên hai đặc vụ của CIA đã được thả bằng dù từ oanh tạc cơ B-17 lên mặt băng, cùng với 8 hộp thiết bị.
Trong quá trình 3 ngày tại trạm, các đặc vụ Mỹ này đã thu thập hơn 80 tài liệu và chụp hàng trăm bức ảnh về thiết bị Liên Xô. Khi nhiệm vụ hoàn thành và đã thu được thông tin tình báo quý giá, nhóm đặc vụ này được một chiếc máy bay B-17 lôi ra khỏi trạm bằng một thiết bị giải cứu Fulton.
3. Dự án Azorian
Vào tháng 3/1971, do một số lý do không rõ, chiếc tàu ngầm K-129 của hải quân Liên Xô bị đắm ở Thái Bình Dương, cách Hawaii hơn 2.574km. Như nhiều lần khác, Liên Xô im hơi lặng tiếng về thảm kịch này và không chính thức công bố việc mất tàu ngầm. Do vậy, con tàu trên thực tế là “vô chủ” và về lý thuyết bất cứ nước nào cũng có thể tuyên bố nhận tàu này về mình. Dĩ nhiên người Mỹ không thể bỏ qua một cơ hội như thế.
Mỹ che giấu chiến dịch trục vớt bằng hoạt động khai thác mỏ. Họ đã chế tạo riêng một con tàu cho hoạt động trục vớt này. Con tàu Hughes Glomar Explorer mới nhìn thoáng qua trông như một tàu khoan thăm dò nhưng kỳ thực mục đích của nó là để kéo tàu ngầm Liên Xô từ đáy biển lên.
Công việc trục vớt không dễ dàng chút nào bởi vì tàu ngầm K-129 nằm ở độ sâu tới 5km dưới mặt nước đại dương. Hoạt động trục vớt bắt đầu vào năm 1974 – thời điểm 6 năm sau vụ đắm. Bản thân tàu ngầm này bị lún tiếp và người Mỹ chỉ có thể nâng được phần mũi tàu lên. Chi tiết về chiến dịch trục vớt này vẫn nằm trong vòng bí mật nhưng người ta tin rằng các nhân viên CIA đã lấy được 2 quả ngư lôi có đầu đạn hạt nhân, trong khi các tên lửa đạn đạo, các tài liệu và thiết bị quan trọng khác vẫn nằm ở đáy tàu.
Người Mỹ sau đó tuyên bố họ đã chôn cất thi thể của 6 thủy thủ Xô viết được tìm thấy trong các vị trí của tàu ngầm.
4. Dự án Dark Gene
Trong thời kỳ từ năm 1960-1970, khi Mỹ và Iran vẫn là bạn và đồng minh của nhau, CIA và lực lượng không quân Iran đã thực hiện các hoạt động trinh sát chung trên không ở khu vực miền nam Liên Xô. Chiến dịch này mang tên Dark Gene.
Các phi công Mỹ và Iran bay trên các chiến đấu cơ Iran đã thường xuyên bay qua biên giới Liên Xô để xác định các lỗ hổng trong hệ thống phòng không tại đây và kiểm tra độ hiệu quả của máy bay đánh chặn của Liên Xô khi ngăn chặn máy bay nước ngoài xâm nhập.
Trong khuôn khổ chiến dịch này, Iran đã mua vũ khí mới, bao gồm tiêm kích F-14 mà Mỹ khi đó không cung cấp cho bất cứ nước nào khác.
Vào ngày 23/11/1973, một chiếc phi cơ MiG-21SM do Gennady Yeliseev điều khiển đã cất cánh để chặn máy bay -4 Phantom II của Iran – chiếc máy bay vượt qua biên giới Liên Xô ở đồng bằng Mugan. Sau khi các tên lửa phóng ra đều không trúng mục tiêu, Yeliseev đã để cho cánh máy bay của mình va vào đuôi chiếc Phantom. Hậu quả chiếc F-4 Phantom bị rơi nhưng các phi công của nó nhảy dù kịp thời và bị bắt. Còn chiếc MiG đâm vào núi khiến Yeliseev hy sinh tại chỗ.
Trong thời kỳ này, 4 chiếc máy bay của Iran đã bị Liên Xô bắn rơi. Sau cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran năm 1979, dự án Dark Gene lập tức bị đóng cửa.
5. Chiến dịch Cyclone
Trong toàn bộ quá trình Liên Xô can thiệp vào Afghanistan từ năm 1979-1989, CIA đã thực hiện một trong các chiến dịch tốn kém nhất của mình, với chi phí lên tới vài trăm triệu USD mỗi năm. Mục tiêu của Cyclone là cung cấp cho các chiến binh thánh chiến Mujahideen các vũ khí và đạn dược cần thiết để đánh lại quân đội Liên Xô đồn trú tại đây.
Một chi tiết đáng lưu ý về Cyclone là việc cung cấp cho các Mujahideen các tên lửa phòng không vác vai vào năm 1986 – điều này đã gây ra thương vong lớn cho không quân Xô viết. Đặc nhiệm Liên Xô đã phải triển khai săn lùng các tên lửa Stinger.
Khi quân đội Liên Xô rút khỏi Afganishtan, chiến dịch Cyclone chấm dứt. CIA sau đó lãng quên đất nước này, nhưng điều này là không lâu, với sự can dự trở lại của nước Mỹ.
Theo Trung Hiếu (VOV)Trong hơn 40 năm, Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã sử dụng hiệu quả “lá bài Ukraine” trong cuộc chiến chống phá Liên Xô. Ngay sau khi Thế chiến 2 kết thúc, Langley (tổng hành dinh của CIA) đã thiết lập liên lạc chặt chẽ với Tổ chức những người Dân tộc chủ nghĩa Ukraine (OUN) và Quân Nổi dậy Ukraine (UPA) – đây là 2 tổ chức chống cộng, tập hợp lực lượng từ hàng ngàn người ở các nước phương Tây và hoạt động ngầm ở nước Ukraine Xô viết (thuộc Liên Xô).
(Ảnh: Public Domain)
Chiến dịch Cartel, với mục tiêu ủng hộ các phần tử dân tộc Ukraine,
đã hoạt động vào cuối thập niên 1940. Trong các năm đó chiến dịch này đã
đổi tên nhiều lần nhưng được biết nhiều hơn cả với cái tên Aerodynamic.Ban đầu CIA chủ động ủng hộ cuộc kháng cự vũ trang ở Ukraine, gửi đặc vụ và hướng dẫn viên tới đây, cung cấp tài chính cho các đơn vị quân sự chống Liên Xô. Họ cũng thu thập thông tin về các vị trí và tổ chức của Hồng quân.
Tuy nhiên, vào giữa thập niên 1950, khi các lực lượng OUN-UPA ở Ukraine và Đông Ba Lan đã cơ bản bị xóa sổ thì người Mỹ bắt đầu thay đổi chiến thuật. Giờ họ đánh vào ý thức hệ: họ bắt đầu xuất bản các tác phẩm văn học và tạp chí có nội dung chống cộng và ủng hộ các hoạt động chính trị bất hợp pháp tại Ukraine.
Năm 1990, với việc Liên Xô sắp sụp đổ đến nơi, ban lãnh đạo CIA đã đóng cửa chương trình này.
2. Chiến dịch Coldfeet
Tháng 5/1961, một máy bay trinh sát của Mỹ ở vùng Bắc cực phát hiện một trạm băng trôi nổi của Liên Xô bị bỏ hoang. Có vẻ như người Liên Xô đã vội vã rút khỏi trạm này do lo sợ băng sẽ tan ra.
CIA nhận thấy mình đang có cơ hội hoàn hảo để rờ tay vào các bí mật quân sự của Liên Xô. Họ đồ rằng trạm này có thể chứa đựng các thông tin giá trị về các mạng lưới theo dõi âm thanh Liên Xô, được sử dụng để giám sát các tàu ngầm Mỹ bên dưới lớp băng ở Bắc cực.
Không thể tới trạm này bằng tàu phá băng hay máy bay trực thăng nên hai đặc vụ của CIA đã được thả bằng dù từ oanh tạc cơ B-17 lên mặt băng, cùng với 8 hộp thiết bị.
Trong quá trình 3 ngày tại trạm, các đặc vụ Mỹ này đã thu thập hơn 80 tài liệu và chụp hàng trăm bức ảnh về thiết bị Liên Xô. Khi nhiệm vụ hoàn thành và đã thu được thông tin tình báo quý giá, nhóm đặc vụ này được một chiếc máy bay B-17 lôi ra khỏi trạm bằng một thiết bị giải cứu Fulton.
3. Dự án Azorian
Vào tháng 3/1971, do một số lý do không rõ, chiếc tàu ngầm K-129 của hải quân Liên Xô bị đắm ở Thái Bình Dương, cách Hawaii hơn 2.574km. Như nhiều lần khác, Liên Xô im hơi lặng tiếng về thảm kịch này và không chính thức công bố việc mất tàu ngầm. Do vậy, con tàu trên thực tế là “vô chủ” và về lý thuyết bất cứ nước nào cũng có thể tuyên bố nhận tàu này về mình. Dĩ nhiên người Mỹ không thể bỏ qua một cơ hội như thế.
Mỹ che giấu chiến dịch trục vớt bằng hoạt động khai thác mỏ. Họ đã chế tạo riêng một con tàu cho hoạt động trục vớt này. Con tàu Hughes Glomar Explorer mới nhìn thoáng qua trông như một tàu khoan thăm dò nhưng kỳ thực mục đích của nó là để kéo tàu ngầm Liên Xô từ đáy biển lên.
Công việc trục vớt không dễ dàng chút nào bởi vì tàu ngầm K-129 nằm ở độ sâu tới 5km dưới mặt nước đại dương. Hoạt động trục vớt bắt đầu vào năm 1974 – thời điểm 6 năm sau vụ đắm. Bản thân tàu ngầm này bị lún tiếp và người Mỹ chỉ có thể nâng được phần mũi tàu lên. Chi tiết về chiến dịch trục vớt này vẫn nằm trong vòng bí mật nhưng người ta tin rằng các nhân viên CIA đã lấy được 2 quả ngư lôi có đầu đạn hạt nhân, trong khi các tên lửa đạn đạo, các tài liệu và thiết bị quan trọng khác vẫn nằm ở đáy tàu.
Người Mỹ sau đó tuyên bố họ đã chôn cất thi thể của 6 thủy thủ Xô viết được tìm thấy trong các vị trí của tàu ngầm.
4. Dự án Dark Gene
Trong thời kỳ từ năm 1960-1970, khi Mỹ và Iran vẫn là bạn và đồng minh của nhau, CIA và lực lượng không quân Iran đã thực hiện các hoạt động trinh sát chung trên không ở khu vực miền nam Liên Xô. Chiến dịch này mang tên Dark Gene.
Các phi công Mỹ và Iran bay trên các chiến đấu cơ Iran đã thường xuyên bay qua biên giới Liên Xô để xác định các lỗ hổng trong hệ thống phòng không tại đây và kiểm tra độ hiệu quả của máy bay đánh chặn của Liên Xô khi ngăn chặn máy bay nước ngoài xâm nhập.
Trong khuôn khổ chiến dịch này, Iran đã mua vũ khí mới, bao gồm tiêm kích F-14 mà Mỹ khi đó không cung cấp cho bất cứ nước nào khác.
Vào ngày 23/11/1973, một chiếc phi cơ MiG-21SM do Gennady Yeliseev điều khiển đã cất cánh để chặn máy bay -4 Phantom II của Iran – chiếc máy bay vượt qua biên giới Liên Xô ở đồng bằng Mugan. Sau khi các tên lửa phóng ra đều không trúng mục tiêu, Yeliseev đã để cho cánh máy bay của mình va vào đuôi chiếc Phantom. Hậu quả chiếc F-4 Phantom bị rơi nhưng các phi công của nó nhảy dù kịp thời và bị bắt. Còn chiếc MiG đâm vào núi khiến Yeliseev hy sinh tại chỗ.
Trong thời kỳ này, 4 chiếc máy bay của Iran đã bị Liên Xô bắn rơi. Sau cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran năm 1979, dự án Dark Gene lập tức bị đóng cửa.
5. Chiến dịch Cyclone
Trong toàn bộ quá trình Liên Xô can thiệp vào Afghanistan từ năm 1979-1989, CIA đã thực hiện một trong các chiến dịch tốn kém nhất của mình, với chi phí lên tới vài trăm triệu USD mỗi năm. Mục tiêu của Cyclone là cung cấp cho các chiến binh thánh chiến Mujahideen các vũ khí và đạn dược cần thiết để đánh lại quân đội Liên Xô đồn trú tại đây.
(Ảnh: Getty)
Để tránh dính líu trực tiếp vào xung đột vũ trang này, CIA hợp tác
với Cơ quan Tình báo Quốc phòng của Pakistan (ISI), cơ quan sử dụng tiền
và vũ khí của Mỹ để tổ chức cung cấp tài chính, vũ khí và huấn luyện
cho các đơn vị vũ trang đối lập tại Afghanistan.Một chi tiết đáng lưu ý về Cyclone là việc cung cấp cho các Mujahideen các tên lửa phòng không vác vai vào năm 1986 – điều này đã gây ra thương vong lớn cho không quân Xô viết. Đặc nhiệm Liên Xô đã phải triển khai săn lùng các tên lửa Stinger.
Khi quân đội Liên Xô rút khỏi Afganishtan, chiến dịch Cyclone chấm dứt. CIA sau đó lãng quên đất nước này, nhưng điều này là không lâu, với sự can dự trở lại của nước Mỹ.
Iran muốn xử tử 'gián điệp' Mỹ
(PLO)- Tình báo Iran đã xác định được các điệp viên Mỹ hoạt động
trên toàn cầu và đã thông báo cho các đồng minh của Iran về các gián
điệp trong lãnh thổ của họ.
Các công tố viên Iran đang đề nghị án tử
hình đối với một số cá nhân bị buộc tội làm gián điệp cho Mỹ, phát ngôn
viên của bộ tư pháp Iran công bố hôm 2-7, đài NBC News đưa tin.
Phát ngôn viên của Bộ Tư pháp Iran, ông
Gholamhossein Esmaili nói trên truyền hình nhà nước rằng các nghi phạm
là gián điệp của Mỹ có liên quan đến quân đội Iran bị kết án tử hình vì
“mức độ nghiêm trọng của tội” này.
Hai nghi phạm khác cũng bị buộc tội làm
gián điệp cho Washington nhưng không liên quan đến quân đội đã nhận bản
án tù “dài”, ông nói thêm.
NBC News không thể độc lập xác
nhận các thông tin này và Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) cho biết
họ không có bình luận nào. Một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ nói:
"Chúng tôi không thể bình luận về các vấn đề tình báo".
Thông báo này được đưa ra khi căng thẳng giữa Tehran và Washington tiếp tục gia tăng. Hãng thông tấn nhà nước Iran IRNA đã đưa tin hôm 1-7 rằng Iran đã vi phạm giới hạn về lượng uranium đã làm giàu mà nước này được phép nắm giữ theo thỏa thuận hạt nhân năm 2015.
Tổng
thống Donald Trump, người đã rút Mỹ khỏi thỏa thuận hạt nhân năm ngoái,
đã phản ứng với quyết định của Tehran hôm 1-7 bằng tuyên bố rằng “Iran
đang đùa với lửa”.
Ông Esmaili đã không giải thích thêm chi
tiết về thời điểm các nghi phạm bị bắt hoặc có bao nhiêu người đang bị
giam giữ. Iran năm ngoái cho biết họ đã bắt giữ "hàng chục điệp viên"
trong các cơ quan nhà nước, nhiều người trong số họ có hai quốc tịch,
theo hãng tin Reuters.
Vào tháng 6, Tehran cho biết họ đã xử tử
một cựu nhân viên hợp đồng của cơ quan hàng không vũ trụ của Bộ Quốc
phòng với cáo buộc làm gián điệp cho CIA, theo hãng tin MEHR của Iran.
Ông Esmaili nói thêm rằng các cơ quan
tình báo Iran đã xác định được các điệp viên Mỹ hoạt động trên toàn cầu
và đã thông báo cho các đồng minh của Iran về các gián điệp bị tình nghi
trong lãnh thổ của họ.
Đây không phải là lần đầu tiên Iran đưa ra tuyên bố như vậy. Vào tháng 4, Bộ trưởng Tình báo Mahmoud Alavi cho biết Iran đã xác định được 290 điệp viên CIA trên khắp các quốc gia khác nhau, theo đài Press TV.
Vào tháng 2, một cựu nhân viên phản gián
của Không quân Mỹ trốn sang Iran đã bị buộc tội làm gián điệp cho Iran,
tiết lộ danh tính của một sĩ quan tình báo Mỹ và giúp Iran lần ra các
đồng nghiệp cũ của người này, theo Bộ Tư pháp Mỹ.
(PLO)- Cố vấn ngoại giao của Tổng thống Pháp
Emmanuel Macron, ông Emmanuel Bonne đã tới Iran để hội đàm với các quan
chức nước này với mục đích góp phần giảm bớt căng thẳng ở Vịnh Ba Tư.
Tình báo hai miền Triều Tiên trong hơn 60 năm đối đầu
22:10 18/04/2017Sau khi tốt nghiệp, trọng tâm đào tạo chuyển sang việc làm sao cho các điệp viên CHDCND Triều Tiên có tác phong sinh hoạt giống y như người dân Hàn Quốc. Tham gia phần huấn luyện này là những người Hàn Quốc bị bắt cóc và giữ lại Triều Tiên…
- Tình báo Hàn Quốc và vụ tai tiếng Koreagate
- Bê bối trong cơ quan tình báo Hàn Quốc
- Lá chắn biển "độc nhất vô nhị" của Triều Tiên
Cựu điệp viên Kim Dong Shik trong cuộc tiếp xúc với tờ New York Times. |
Trong quá trình học tập, họ phải cắt đứt mọi liên lạc với gia đình, và dịp năm mới chỉ được gửi thiệp về nhà nhưng không được ghi nơi gửi. Theo nhiều thông tin, các học viên được đưa tới ở Bình Nhưỡng. Chương trình học của họ gồm hai giai đoạn chính và có thể kéo dài trong ít nhất 10 năm.
Trong gian đoạn đầu tiên, học viên được đào tạo nhiều kỹ năng như rèn luyện thể lực, vượt hàng rào thép gai, trèo tường, bắn súng, võ thuật, chế tạo bom, sử dụng các loại vũ khí, mật mã...
Tuy nhiên, quan trọng nhất là rèn luyện về mặt tâm lý và tư tưởng. Như Kim Dong Shik, một cựu điệp viên Triều Tiên kể lại rằng, ông cùng những người đồng môn được rèn luyện để tuyệt đối trung thành với đất nước và sẵn sàng hy sinh bất cứ khi nào. Khi bị lộ thân phận và sắp rơi vào tay đối phương, họ sẽ phải nuốt các viên thuốc độc cyanur luôn mang theo bên mình hoặc tự sát chứ không được để bị bắt sống và thẩm tra.
"Chúng tôi phải sẵn sàng hy sinh. Nếu bị bắt sống, chúng tôi sẽ tìm cách tự sát. Từ đó, ý nghĩ về cái chết luôn trĩu nặng trong lòng chúng tôi... đó thật sự là một gánh nặng đối với những thanh niên phơi phới tuổi 19, 20 khi đó", Kim kể lại trong cuốn hồi ký ấn hành năm 2014 mang tựa đề "No One Reported Me" (Không ai báo về tôi).
Là con trai của một quan chức cấp tỉnh trong đảng cầm quyền Triều Tiên, năm 1981 khi mới 17 tuổi, Kim Dong Shik được tuyển vào Học viện quân sự chính trị Kumsong, nơi hun đúc nên những điệp viên ưu tú nằm vùng tại Hàn Quốc. Kim là một trong 200 sinh viên được tuyển mộ mỗi năm sau khi các nhà chức trách đã điều tra kỹ lưỡng về thân thế, gia đình, lực học và trên tất thảy là lòng trung thành vô điều kiện đối với đất nước mình.
Thế nhưng sức ép quá lớn từ các khóa đào tạo đã khiến hàng chục người phải bỏ cuộc nhưng Kim Dong Shik vẫn kiên trì, với mong muốn sớm được thăng tiến trong hàng ngũ lãnh đạo sau này.
Sau khi tốt nghiệp, trọng tâm đào tạo chuyển sang việc làm sao cho các điệp viên có tác phong sinh hoạt giống y như người dân Hàn Quốc. Tham gia phần huấn luyện này là những người Hàn Quốc bị bắt cóc và giữ lại Triều Tiên, họ dạy các điệp viên cách phát âm như người Hàn, nắm được lề thói sinh hoạt đời thường từ cách mua vé xe buýt, thói quen đi ăn đêm ở các quầy bán thức ăn trên đường phố đến việc am hiểu đời sống văn hóa cũng như chính trị ở Seoul.
Quá trình "thuần hóa" này mang lại cho họ những cảm nhận đầu tiên về cuộc sống bên kia biên giới, khi hàng ngày họ được nghe, xem các bộ phim, tạp chí, sách báo và truyền hình Hàn Quốc. Họ sẽ phải nằm lòng các bản nhạc và vũ điệu nổi tiếng tại Hàn Quốc cùng với tên tuổi, sự nghiệp của những ngôi sao điện ảnh, truyền hình và các tên tuổi lừng lẫy trong giới thể thao.
Nhưng những khác biệt này về đời sống tinh thần không làm lung lay những điệp viên tương lai của Triều Tiên. "Chúng tôi quá trung thành nên không bị lung lay bởi những thứ đó - Kim Dong Shik kể - Họ nói với chúng tôi rằng chỉ có những kẻ tư bản giàu có mới có thể tận hưởng những điều hay ho ở Hàn Quốc, và chúng tôi không hề ngờ vực điều gì".
Kang Myong-do, một cựu quan chức Triều Tiên từng làm việc ở Ủy ban Thống nhất năm 1984 đào thoát sang Hàn Quốc cho biết, mạng lưới điệp viên Triều Tiên hoạt động khắp nơi trên thế giới, kể cả Mỹ, nơi ông ước tính có hàng trăm người. Một trong những mục đích chính của họ là tìm cách chiêu mộ người Mỹ gốc Hàn có xu hướng thân Triều Tiên.
"Cơ quan tình báo Triều Tiên sử dụng ba chiến thuật khác nhau - ông nói - Đầu tiên là cung cấp cho những người được tuyển dụng thị thực tự do đến Triều Tiên. Thứ hai, cho họ quyền kinh doanh và kiếm tiền ở đó. Thứ ba, dùng mỹ nhân kế. Chiến thuật này được sử dụng rộng rãi từ những năm 80". Kang cho biết, nơi ông từng làm việc có cả nhiệm vụ gửi gián điệp đến Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Đồng tình với Kang, Kim Dong-shik cũng cho rằng: "Điệp viên được đối xử ngang hàng với tướng lĩnh quân đội, điều này đồng nghĩa với việc hưởng lương cao, được sống trong những căn hộ sang trọng, tiện nghi".
Bị "vô danh hóa" và lãng quên khi điệp vụ không thành
Không chỉ có Triều Tiên huấn luyện đào tạo gián điệp cài vào nước đối phương. Theo thống kê, trong suốt thời kỳ hơn 60 năm sau khi kết thúc Chiến tranh Triều Tiên, có khoảng 6.200 người Hàn Quốc sau khi đến phía bắc bán đảo đã hoàn toàn bặt vô âm tín. Nhờ các đồng nghiệp và người thân khiếu nại trong nhiều năm trời, chính quyền Seoul mới thực hiện chính sách bồi thường trong lặng lẽ cho người nhà của những người đã hy sinh.
Hình ảnh hiện trường vụ đánh bom âm mưu ám
sát Tổng thống Hàn Quốc và điệp viên Triều Tiên Kang Min-chul bị bắt giữ
trên báo chí Myanmar và quốc tế. |
Hơn 30 năm sau vụ đánh bom, câu chuyện về Kang Min-chul lại được lật lại qua quyển sách mang tựa đề "Phần tử khủng bố bị quên lãng" của tác giả Ra Jong-yil - nguyên Phó Viện trưởng Viện Tình báo Hàn Quốc. Thông điệp mà quyển sách đưa ra là nhằm đả kích những hành vi, việc làm thường thấy của cả hai chính phủ Triều-Hàn: Một khi có sự vụ đổ bể, cấp trên của các điệp viên thẳng thừng phủ nhận sự tồn tại của các điệp viên, không cho người nhà của họ và công chúng biết được sự thật.
Cuốn sách của Ra Jong-yil được viết ra dựa trên những ghi chép, điều tra của tòa án Myanmar về Kang Min-chul cùng với những cuộc thăm hỏi những người bạn tù, quản lý trại giam, trong đó rất nhiều người từng giúp đỡ Kang Min-chul trong thời gian ông ta ở nhà tù Insein Yangoon.
Đối tượng ném bom ám sát mà Kang Min-chul nhằm vào chính là Tổng thống Hàn Quốc đương nhiệm Chun Doo-hwan, theo lịch trình của chuyến kinh lý sẽ đến đặt hoa tại Viện bảo tàng Yangon.
Bộ trưởng Ngoại giao Myanmar khi ấy có nhiệm vụ đến đón tổng thống Chun Doo-hwan đã tới muộn mấy phút, việc chậm trễ này đã cứu mạng tổng thống: Khi quả bom được điều khiển từ xa phát nổ, chiếc xe chở Tổng thống chưa đến, nhưng vẫn có 17 người Hàn Quốc, trong đó có 4 vị bộ trưởng nội các chết ngay tại chỗ.
Đứng từ xa thấy quả bom đã nổ, Kang Min-chul và hai điệp viên khác chạy ngay về phía bờ sông Yangon, theo kế hoạch, ở đó sẽ có chiếc ca nô cao tốc đợi sẵn, đón bọn họ đưa lên con thuyền chở hàng tiếp ứng của Triều Tiên. Nhưng chiếc ca nô vì lẽ gì đấy lại không tới, ba người đành phải chia nhau bỏ chạy theo đường bộ hoặc nhảy xuống sông. Cảnh sát Yangon phát hiện và đuổi kịp; một người trong số họ bị bắn chết.
Lựu đạn trong tay Kang Min-chul và điệp viên còn lại bất ngờ phát nổ khiến cả hai cùng bị trọng thương và bị bắt. Người kia mất một cánh tay, hỏng một mắt, bị xử tử hình vì không chịu trả lời bất kỳ một câu hỏi nào. Kang Min-chul cũng mất một cánh tay, ông ta nhận tội nên được hoãn thi hành án tử. Việc thi hành nhiệm vụ bất thành đã biến Kang Min-chul trở thành điệp viên vô thừa nhận.
Giới chức Triều Tiên tuyên bố không hề liên quan và cho rằng vụ ám sát này chính là do phía Hàn Quốc thực hiện để đổ vấy cho Hàn Quốc. Trong suốt 25 năm ở tù, không một ai từ quê hương tới thăm Kang Min-chul; nhưng chuỗi tháng ngày lê thê sau song sắt cũng giúp Kang Min-chul học được tiếng Myanmar và theo Cơ đốc giáo, được một người bạn tù đặt tên là Matthew.
Ra Jong-yil biết chuyện của Kang Min-chul một cách ngẫu nhiên. Năm 1998, khi đến Yangon để tìm tài liệu, ông chú ý đến một mẩu tin vắn nói rằng, "tên khủng bố Kang Min-chul" trong suốt thời gian ngồi tù chưa từng được ai đến thăm nên tâm trạng vô cùng tuyệt vọng.
Ra Jong-yil tìm cách thuyết phục người phụ trách bộ phận tình báo Myanmar đương nhiệm, sau này là tướng Khin Nyunt, cho phép mình tới thăm hỏi Kang Min-chul, mang thức ăn và tin tức về Hàn-Triều. Được tiếp xúc với một người có thể gọi là đồng hương, Kang Min-chul bộc bạch, nếu ông ta và bạn tù được thả ra, họ muốn được đến Hàn Quốc.
Năm 2004, sau khi Khin Nyunt bị bãi miễn chức vụ, những cuộc thăm viếng của Ra Jong-yil bị gián đoạn. Ông khẩn thiết xin chính phủ Hàn Quốc can thiệp cho tù nhân Kang Min-chul được tự do, nhưng thời kỳ đó, chính phủ Seoul đang nỗ lực thúc đẩy "chính sách Ánh Dương" để hòa giải với Bình Nhưỡng, nên không muốn làm bất cứ chuyện gì có thể gây ảnh hưởng đến mối quan hệ của hai bên.
"Đối với chính phủ hai nước Triều- Hàn mà nói, để Kang Min-chul cứ sống trong ngục càng đỡ phải lo phiền - Ra Jong-yil chỉ rõ- Triều Tiên chối bỏ ông ta, Hàn Quốc cũng quay mặt". Trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, Kang Min-chul vô cùng suy sụp.
"Ông ta sợ mình bị nguy hiểm đến tính mạng, ngày đêm nơm nớp lo lắng thức ăn của mình có độc. Ông ta thường nói với cai ngục và bạn tù, cho dù mình được thả, cũng chẳng biết đi đâu". "Phần tử khủng bố" bị quên lãng này chết vì ung thư gan vào năm 2008, khi đó mới 53 tuổi.
Ngày 29-5-2014 tại Stockholm, Thụy Điển, đại diện
CHDCND Triều Tiên và Nhật Bản đã đạt được thỏa thuận về Triều Tiên sẽ
điều tra lại vấn đề các cơ quan tình báo của nước này bắt cóc công dân
Nhật vào những năm 70-80. Đổi lại, phía Nhật Bản sẽ dỡ bỏ một phần
chương trình cấm vận chống Bình Nhưỡng. Thời gian trước đây, vấn đề gay gắt nhất trong mối quan hệ giữa Bình Nhưỡng và Tokyo là "những công dân Nhật bị bắt cóc". Triều Tiên luôn từ chối bất cứ trách nhiệm nào liên quan, nhưng vào tháng 9- 2002, tại cuộc hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Koizumi, Chỉ tịch Kim Jong-il đã thừa nhận chuyện tình báo Triều Tiên bắt cóc những công dân Nhật là có. Từ đó, dư luận Nhật Bản không ngừng lên tiếng đòi Bình Nhưỡng sớm giao trả những người bị bắt cóc. Chính phủ Nhật Bản đã công bố danh sách 17 người bị Bình Nhưỡng bắt cóc nhưng phía Triều Tiên chỉ thừa nhận 13 trường hợp. Năm 2003, 5 người đã được trả về Nhật Bản. Về 8 người còn lại trong danh sách đó thì giới chức Triều Tiên cho biết, những người này đã qua đời. Phía Nhật không tin vào điều đó bởi vì đa số người bị bắt cóc, nếu còn sống, đều dưới 50 tuổi. Một số ý kiến bình luận cho rằng, việc đưa những người này trở về Nhật Bản sẽ gây ra những vấn đề mới cho Triều Tiên, bởi vì, những người Nhật mà Bình Nhưỡng xem là đã chết, có thể liên quan đến việc đào tạo các điệp viên Triều Tiên làm việc trên đất Nhật. Nếu những người này trở về Nhật Bản, thì mạng lưới điệp viên sẽ bị đe dọa. Tuy vậy, Bình Nhưỡng cần phải xem trọng đại cuộc - cải thiện quan hệ với Nhật Bản. Lối thoát duy nhất là sự thỏa hiệp, vì vậy cả hai bên đã thực hiện bước đi đầu tiên tiến tới bình thường hóa quan hệ bằng thỏa thuận tại Stockholm. |
Nhận xét
Đăng nhận xét