KÝ ỨC CHÓI LỌI 121
(ĐC sưu tầm trên NET)
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó giám đốc Học viện Chính trị – Quân sự.
Quân đội Việt Nam-sự sống trong bom đạn(army Vietnam)
Những quân binh chủng oai hùng của Quân đội Việt Nam
(Bình luận quân sự) - Một đội quân đáng gờm phải thỏa mãn những yếu tố sau: Bản lĩnh, ý chí chiến đấu cao; kinh nghiệm trận mạc dày dạn; lợi thế tác chiến...
Tổ chức Global Firepower (GFP)
đã xếp trong 25 quốc gia có quân đội mạnh nhất thế giới thì quân đội
Việt Nam đứng thứ 23. Tại khu vực ĐNA, Việt Nam xếp sau Indonesia.
Việc
xếp hạng này chủ yếu dựa vào các tiêu chí như lực lượng quân số; vũ khí
trang bị; nhiên liệu dự trữ cho các hoạt động quân sự…Nói chung sự so
sánh, xếp loại sức mạnh này như đã nói trên, cũng chỉ làm tham khảo, sự
so sánh đó chỉ đúng trong tư thế tĩnh, khi mà quân đội không ở trong
tình trạng tác chiến, bởi vì tạo ra sức mạnh cho quân đội còn rất nhiều
yếu tố như nghệ thuật quân sự, tư tưởng quân sự, bản lĩnh, kinh nghiệm
trận mạc, địa lợi…những điều này chỉ phát huy tác dụng, tạo nên sức mạnh
thực sự, lớn nhất khi chiến tranh xảy ra mà thôi.
Tuy
nhiên, một dân tộc cách đây 70 năm chưa có tên trên bản đồ thế giới và
quân đội chỉ có 34 người được trang bị súng kíp, giáo mác, mà nay được
thế giới xếp vào tốp 23 quốc gia có quân đội mạnh nhất địa cầu là một
niềm vinh dự, tự hào, một bước tiến như cổ tích thần thoại Phù Đổng của
dân tộc Việt Nam ta.
Yếu tố tạo nên sức mạnh của quân đội Nhân dân Việt Nam
Chính nghĩa là
yếu tố có vẽ như ai cũng hiểu nó mang tính chính trị, nhưng ở góc độ
quân sự quốc phòng thì đây yếu tố hàng đầu, cơ bản để hình thành, xây
dựng và phát triển nền nghệ thuật quân sự, tư tưởng quân sự, chiến thuật
độc đáo… của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Nếu như
cho rằng, nghệ thuật “chiến tranh nhân dân”, lối đánh sở trường…của Việt
Nam là vô địch, là không một thế lực nào có thể phá giải…thì tất cả
những điều đó không thể phù hợp để thăng hoa với một quân đội đi xâm
lược, bành trướng, một đội quân đi can thiệp vào công việc nội bộ nước
khác. Rõ ràng là quân đội Việt Nam chỉ tự vệ, phòng thủ BVTQ cho nên,
không có gì khó hiểu khi quân đội Việt Nam nhỏ nhưng không yếu, trang bị
không mạnh, quân số không đông nhưng luôn chiến thắng trước các thế lực
xâm lược hùng mạnh là thế. Chính nghĩa vừa là mục đích vừa là điều kiện
cho quân đội Việt Nam có sức mạnh.
Truyền thống đánh giặc cũng là yếu tố mới nghe có vẽ chính trị, tuyên truyền, nhưng rất quan trọng nếu hiểu sâu và quan tâm về nó.
Thực
ra, người Việt Nam chẳng ai muốn đánh giặc, muốn chiến tranh, nhưng
người Việt Nam lại sinh ra trên một đất nước hình chữ S, đất nước mà hết
triều đại này đến triều đại khác từ phương Bắc cứ muốn chiếm lấy bằng
được. Do đó, người Việt Nam trong hàng ngàn năm nay, từ đời này đến đời
khác, luôn phải chống giặc, đánh giặc để tồn tại, đánh giặc để bảo vệ
giang sơn…cho nên nó…truyền nhiễm vào máu (huyết thống) hay là thành GEN
di truyền, thế thôi.
Có thể thấy rất rõ điều này,
thứ nhất, bất kỳ một thanh niên Việt Nam nào bình thường trong rất hiền,
chậm chạp…nhưng khi xung trận là rất nhanh, rất sáng tạo, cứ như đã
được ai dạy.
Dễ hiểu là đâu phải một nước 1,4 tỷ
dân thì sẽ có nhiều cầu thủ bóng đá siêu đẳng, đội bóng sẽ vô địch thế
giới…mà phải có tố chất, có cái gọi là gen bóng đá mới có thể.
Thứ
hai là dân tộc Việt nói chung và quân đội nói riêng, luôn phải đối đầu
với quân xâm lược đông, mạnh, hung hăng…nên, quân đội Việt Nam là một
đội quân rất có bản lĩnh và phải có bản lĩnh. Nghĩa là, dù kẻ thù có
đông, mạnh, hung hăng…đến mấy cũng không sợ, dám đánh, quyết đánh và
quyết thắng.
Nói như Đại tướng Võ Nguyên Giáp là
“từ “sợ” không có trong từ điển quân sự Việt Nam”. Thứ ba là, trong lịch
sử, Việt Nam ta đã từng bị phương Tây xâm lăng, nhưng có một điều rất
khó giải thích rõ ràng, minh bạch, là hễ mỗi khi bị giặc phương Bắc đe
dọa, xâm lược là y như rằng cả dân tộc đều kết thành một khối, khí thế
chống giặc lại ngùn ngụt dâng cao ngất trời.
Chính
có truyền thống đánh giặc cho nên kinh nghiệm trận mạc để BVTQ ngày càng
dày dạn, đó là những kinh nghiệm quý báu được trả bằng máu xương của
thế hệ đi trước mà không phải quốc gia nào cũng có được.
Như
vậy, ngoài yếu tố vật chất như vũ khí trang bị… tạo ra sức mạnh cho
quân đội thì tính chính nghĩa và truyền thống đánh giặc là 2 phạm trù
lớn mang tính quyết định đến sức mạnh của quân đội Việt Nam.
Những quân binh chủng đáng gờm của quân đội Việt Nam.
Một
đội quân đáng gờm phải thỏa mãn những yếu tố sau: Bản lĩnh, ý chí chiến
đấu cao; kinh nghiệm trận mạc dày dạn; đặc biệt luôn có lợi thế tác
chiến và cuối cùng là vũ khí trang bị hiện đại, phù hợp với lối đánh,
địa thế.
Lục quân Việt Nam (bộ binh, xe tăng, pháo binh…) là
lực lượng hình thành đầu tiên của QQĐVN. Với lịch sử là luôn đối đầu
với những đạo quân xâm lược đông và mạnh hơn gấp nhiều lần và luôn chiến
thắng. Vì vậy, bản lĩnh và ý chí chiến đấu là khỏi phải bàn, đồng thời
kinh nghiệm trận mạc cũng dày dạn.
Đây là lực
lượng có nhiệm vụ phòng thủ BVTQ trên toàn tuyến biên giới, trên một địa
hình phức tạp, hiểm trở. Vì vậy, kẻ thù muốn triển khai, tổ chức một
cuộc tấn công lớn với hàng vạn quân, hàng vạn xe tăng , pháo binh tự
hành…ào ạt, đồng thời vào tuyến biên giới Việt Nam là rất khó khăn nếu
như không muốn nói là không thể.
Nói theo nghĩa
hình tượng thì địch chỉ có thể tấn công bằng đội hình “hàng dọc” chứ
không thể “hàng ngang” để phát huy thế mạnh của những đội quân đông. Vì
thế, lợi thế địa lý và với vũ khí trang bị hiện đại như ngày nay sẽ tạo
cho lục quân Việt Nam luôn chiếm ưu thế tác chiến.
Không quân Việt Nam xuất kích! |
Phòng không-không quân Việt Nam,
đây là lực lượng ra đời sau lục quân nhưng đã đụng đầu với một lực
lượng không quân hiện đại, thiện chiến bậc nhất thế giới-không quân Mỹ,
trong một cuộc chiến tranh hiện đại, đã tạo cho PK-KQ Việt Nam một “đẳng
cấp” cao. PK-KQ Việt Nam đã khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của mình,
nhưng đó chỉ là quá khứ, cái quan trọng nhất mà quân đội Việt Nam hưởng
được từ cha anh, phục vụ cho hiện tại là kinh nghiệm trận mạc.
Thế
trận phòng không nhân dân, các lưới lửa phòng không, chống tập kích
đường không, những trận không chiến khốc liệt…và ngay như để có cuốn
“cẩm nang bìa đỏ” thì hàng ngàn chiến sỹ, sỹ quan tên lửa đã phải anh
dũng hy sinh. Tất cả, tất cả, kinh nghiệm đó đều được viết lên bằng máu
xương của thế hệ cha anh chứ không phải bằng tập trận…mà có được.
Nếu
như trong cuộc chiến biên giới phía Bắc, tại hướng biển, Hải quân Trung
Quốc rất muốn tấn công, vì họ có lợi thế là lực lượng Hải quân Việt Nam
rất yếu, nhưng không thể, vì Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô đang
trấn giữ, thì tại sao Trung Quốc không dùng không quân tham gia tấn
công? Rõ ràng, lúc đó Trung Quốc rất muốn dạy cho Việt Nam, muốn tiến
sát Hà Nội càng tốt, nhưng PK-KQ Việt Nam là lực lượng đáng gờm, không
quân Mỹ còn ngán thì không quân Trung Quốc lúc đó…không dám thử.
Rất
dễ hiểu là ngày nay, lực lượng PK-KQ được Việt Nam ưu tiên tiến thẳng
lên hiện đại, đặc biệt là lực lượng không quân. Các máy bay chiến đấu
dòng SU-30 ngày càng tăng về số lượng, chất lượng để chiếm lĩnh vùng
trời khu vực tác chiến tạo nên trụ cột của sức mạnh.
Điều
đặc biệt là hiện nay, lực lượng không quân Việt Nam luôn luôn có đủ khả
năng tác chiến trên mọi vùng biển đảo xa nhất của Tổ quốc. Đây là thế
trận rất lợi hại mà từ lợi thế địa lý, Không quân Việt Nam với lối đánh
sở trường sẽ là mối nguy hiểm bậc nhất cho lực lượng tàu mặt nước của
đối phương và do đó, đây cũng là lực lượng đáng gờm nhất trên Biển
Đông.....
- Lê Ngọc Thống
Sự phát triển hợp quy luật từ "chiến tranh toàn dân" đến "chiến tranh nhân dân" trong lịch sử bảo vệ, giải phóng đất nước
Nguyễn Văn Tài(*)
Nguồn: Tạp chí Triết học, số 2 (201), tháng 2 - 2008
Khái quát và phân tích những đặc điểm
chủ yếu của hai loại chiến tranh – “chiến tranh toàn dân” và “chiến
tranh nhân dân” trong lịch sử dân tộc Việt Nam, tác giả đã đi đến kết
luận: Sự phát triển từ “chiến tranh toàn dân” thành “chiến tranh nhân
dân” không chỉ là một quá trình hết sức sống động, một sự nhảy vọt về
chất, mà hơn nữa, còn là sự phát triển hợp quy luật cả về mục tiêu,
phương thức, lực lượng tiến hành chiến tranh lẫn ý nghĩa và giá trị hiện
thực của nó, cũng như về nghệ thuật quân sự. Đây là một giá trị to lớn
và chủ đạo trong toàn bộ hệ giá trị văn hoá quân sự Việt Nam, là bài học
quý báu mà lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam
đã sáng tạo nên, liên tục kế thừa và không ngừng phát triển.
Ảnh tư liệu
Trong tất cả các cuộc chiến
tranh luôn xuất hiện hai vấn đề mà các bên tham chiến, dù với tính chất
chính trị – xã hội như thế nào, cũng không thể lẩn tránh: một là, phải tìm sức mạnh ở đâu để chiến thắng và hai là,
chiến thắng ấy đem lại lợi ích cho những ai. Các nhà nước khác nhau
trong lịch sử đã giải quyết vấn đề này bằng nhiều cách khác nhau. Song,
đối với các cuộc chiến tranh tự vệ, cả chiến tranh giải phóng và chiến
tranh bảo vệ, yếu tố NHÂN DÂN luôn chiếm vị trí ưu trội trong tính toán
của các nhà chiến lược để có thể tạo lập nền tảng vững chắc cho việc
tiến hành chiến tranh. Và, để làm được điều đó, trước hết phải xác định
và nêu bật được lợi ích của nhân dân trong cả quá trình chuẩn bị chiến
tranh lẫn quá trình tiến hành chiến tranh và đặc biệt là sau khi giành
được thắng lợi hoàn toàn.
Xét
đến cùng, quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. Cách nhìn này
không phải là sự suy diễn chủ quan, mà là một nguyên lý khoa học được
đúc kết từ chính thực tiễn lịch sử nhân loại, từ cổ chí kim, từ phương
Đông đến phương Tây… Đặc biệt, trong lĩnh vực đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc, cách mạng xã hội, chiến tranh – quân đội, thì giai cấp và
nhà nước nào thấu triệt vấn đề này sẽ tìm ra sức mạnh thực sự và khơi
dậy được tất cả những nhân tố tiềm ẩn trong nhân dân để giành thắng lợi.
Đối với dân tộc Việt Nam ta, vấn đề này càng trở nên hiển nhiên. Bởi
lẽ, lịch sử Việt Nam là lịch sử dựng nước luôn đi đôi với giữ nước; việc cố kết dân tộc để tạo sức mạnh cộng đồng chống chọi với cả thiên tai và địch hoạ
không những là nhu cầu cấp thiết, mà còn trở thành một giá trị truyền
thống mang tính vĩnh hằng. Dưới một khía cạnh khác, lịch sử cũng chỉ có
giá trị khi mang lại lợi ích cho đông đảo quần chúng nhân dân. Các giai
cấp, nhà nước, tập đoàn thống trị xã hội nào muốn tạo sức mạnh từ nhân
dân để thực hiện được lợi ích của mình thì ít nhiều, đều phải tính đến
lợi ích của dân chúng; còn khi giữa các lợi ích ấy có xung đột, nhất là
khi lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân không được đáp ứng thì sớm
hay muộn, “tầng lớp bên trên” sẽ bị lật nhào. Đó cũng là tính quy luật
của lịch sử. Với lĩnh vực đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, cách
mạng xã hội, chiến tranh – quân đội cũng vậy. Mặc dù chiến tranh không
ai muốn có, nhưng một khi nó đã xảy ra thì việc ứng xử với nó thế nào,
giải quyết nó ra sao đều dựa trên căn cứ lợi ích, trước hết là lợi ích
của những giai cấp và nhà nước tiến hành chiến tranh và xét đến cùng, là
lợi ích chung của quốc gia dân tộc khi tham gia cuộc chiến.
Cách
nhìn bao quát về những giá trị văn hoá - lịch sử của sự nghiệp bảo vệ,
giải phóng đất nước xuyên suốt tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam
phải dựa trên những căn cứ lý luận xác đáng ấy. Trong lịch sử các cuộc
chiến tranh cứu nước và giữ nước của dân tộc ta, kẻ thù thường là những
đội quân lành nghề, mạnh hơn hẳn chúng ta cả về tiềm lực quốc gia lẫn
thực lực quân sự trực tiếp tham chiến. Bối cảnh ấy đòi hỏi các nhà lãnh
đạo kháng chiến chỉ có con đường duy nhất là tìm sức mạnh trong nhân dân
để xây dựng cả tiềm lực lẫn thực lực kháng chiến và điều này có thể
thực hiện bởi lợi ích của việc cố kết cộng đồng mang lại đã thể hiện đậm
nét trong cả sự nghiệp dựng nước lẫn giữ nước. Hơn nữa, ý thức độc lập
dân tộc đã thấm sâu vào mỗi người dân nước Việt, trở thành cốt cách văn
hoá mang tính truyền thống, nên nhân dân ta không chỉ là người tạo hậu
thuẫn cho lực lượng kháng chiến, mà còn trực tiếp tham gia chiến đấu,
làm cho lực lượng ta lúc đầu nhỏ yếu cuối cùng cũng lớn vượt lên và làm
cho địch quân đông cũng hoá ra không mạnh. Thực tiễn lịch sử ấy, cái nét
văn hoá quân sự truyền thống đặc sắc ấy đã tỏ rõ sức sống bền vững và
phát triển mạnh mẽ qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam, nhất là từ khi Ngô Quyền giành được nền tự chủ cho đất nước.
Với người dân nước Việt, lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc đã trở
thành ý thức thường trực, khiến họ sẵn sàng gác lại những lợi ích riêng
trước những hiểm hoạ ngoại xâm để cùng nhau đánh lại bất cứ kẻ thù nào,
bất kể là triều đình có nhận ra sức mạnh ấy và tổ chức được nó lại hay
không. Các triều đại phong kiến tiến bộ đều nhận thức rõ vấn đề này và
từ đó, hình thành nên một phương thức tiến hành chiến tranh mang đậm bản
sắc Việt Nam – chiến tranh toàn dân giải phóng và bảo vệ đất nước.
Chiến tranh nhân dân Việt Nam
giải phóng và bảo vệ đất nước trong thời đại Hồ Chí Minh là sự tiếp nối
tất yếu các cuộc chiến tranh toàn dân nói trên, đồng thời có sự phát
triển nhảy vọt về chất bởi sự tích hợp giá trị trong suốt chiều dài mấy
nghìn năm lịch sử, cũng như bởi những thay đổi căn bản về nền tảng kinh tế – xã hội và chế độ chính trị có sự phát triển mới về chất
mang lại. Nói cách khác, giữa “chiến tranh toàn dân” qua các triều đại
phong kiến và “chiến tranh nhân dân” trong thời đại mới có cả sự tương
đồng lẫn sự khác biệt. Cái đại đồng chính là huy động được toàn dân tham gia,
dựa trên nền tảng nhân dân, được nhân dân đóng góp, ủng hộ, tạo thuận
lợi… cho cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ, giải phóng đất nước; lợi
ích chung của dân tộc được giành lại và gìn giữ khi tìm thấy chiến
thắng. Còn cái tiểu dị, song là cái tiểu dị dẫn đến việc phân
định sự khác biệt về chất, là ở chỗ, “chiến tranh toàn dân” qua các
triều đại phong kiến chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh “dĩ dân” (dựa vào dân);
còn khía cạnh “vi dân” (vì dân) cũng được hiện thực hoá, nhưng chỉ
trong giới hạn mà lợi ích của dân có sự nhất trí với việc củng cố quyền
lực và lợi ích của quý tộc phong kiến và do vậy, là vi dân không toàn
diện, không triệt để. Vượt lên trên trình độ đó, “chiến tranh nhân dân”
trong thời đại mới là sự hoà quyện hữu cơ giữa các khía cạnh “của dân”,
“do dân” và “vì dân”, bởi giai cấp lãnh đạo là giai cấp công nhân và lực
lượng lãnh đạo - Đảng Cộng sản Việt Nam – bao gồm những người ưu tú,
tiêu biểu trong các tầng lớp nhân dân lao động và cách mạng, không có
lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân. Hơn nữa, nghệ thuật chỉ đạo
chiến tranh là giá trị văn hoá đặc thù, có dòng chảy tương đối độc lập,
nên chiến tranh nhân dân có sự phát triển nhảy vọt cả về nghệ thuật
chiến tranh (nhân dân tham gia chuẩn bị chiến tranh ngay trong thời
bình) cũng như về nghệ thuật quân sự (phương thức tác chiến của nhân dân
hiện đại hơn, hiệp đồng chiến đấu, kết hợp giữa tiến công của các binh
đoàn chủ lực với nổi dậy rộng khắp của nhân dân…).
Trong thực tiễn lịch sử của dân tộc Việt Nam, sự phát triển từ “chiến tranh toàn dân” thời phong kiến thành “chiến tranh nhân dân” trong thời đại mới là một quá trình hết sức sống động.
Chiến tranh toàn dân thời kỳ mở nước là chiến tranh toàn dân tự phát nhằm định hình dân tộc.
Từ công cuộc giữ thành Cổ Loa của An Dương Vương đến các cuộc khởi
nghĩa chống ách đô hộ, toàn dân được huy động để đánh giặc, thậm chí lực
lượng quân sự không được tổ chức hoàn toàn chuyên biệt. Cách đánh phù
hợp với trang bị bạch khí, rất gần với cách sử dụng công cụ lao động sản
xuất thường ngày của người dân. Về mục tiêu, việc giành lại độc lập là
độc lập cho cả dân tộc, chứ không gắn với lợi ích cụ thể của một cá nhân
hay tập đoàn xã hội nào. Trong kháng chiến, có người đứng ra dấy nghĩa,
nhưng sự phân biệt quyền lực giữa bề trên với kẻ dưới, hay sự phân biệt
giữa lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc… đều rất mờ nhạt. Hơn nữa,
cuộc đấu tranh chống đồng hoá luôn chiếm vị trí ưu trội so với tiến hành đấu tranh vũ trang.
Chiến tranh toàn dân bảo vệ đất nước thời Lý – Trần là cuộc chiến tranh toàn dân trong điều kiện quốc gia độc lập có chủ quyền, nhân dân vừa là chỗ dựa của triều đình, của quân đội, vừa trực tiếp tham gia đánh giặc giữ nước, bảo vệ kinh thành. Nghệ thuật dựng binh
là lấy dân làm điểm tựa quan trọng. Cả nhà Lý và nhà Trần đều định chế
độ binh dịch theo kiểu “ngụ binh ư nông”, quân lính thời bình chia phiên
về sản xuất và khi có biến thì mọi đinh tráng đều được chiếu sổ gọi ra
phục vụ quân đội. Việc xây dựng lực lượng vũ trang đều theo cách thức
xây dựng nhiều thứ quân để huy động được nhân dân tham gia trực tiếp
chiến đấu: quân chủ lực của triều đình, quân các lộ (và quân của các
vương hầu), dân binh (hương binh các làng xã, thổ binh các bản, nguồn,
động…). Sức dân cũng được huy động mạnh mẽ trong xây dựng thế trận và
các tuyến phòng thủ, nhân dân luôn sát cánh sẵn sàng chiến đấu cùng các
thứ quân. Nhân dân cả nước tự giác thực hiện kế thanh dã triệt nguồn
lương thảo của giặc, làm hậu thuẫn cho triều đình và trực tiếp tham gia
đánh giặc tại chỗ… Đặc biệt, để huy động cao nhất sức dân, các đời vua
thời Lý – Trần đều chủ trương “khoan – giản – an – lạc”, cơi nới sức dân
để làm “kế sâu rễ bền gốc”. Về nghệ thuật dụng binh, chiến
tranh toàn dân thời Lý – Trần được thể hiện rất rõ qua việc vận hành thế
trận phòng thủ, phòng ngự, tổ chức cho quân và dân thực hành chiến đấu
trên các tuyến phòng thủ nhiều tầng hoặc đánh địch rộng khắp. Việc lập
thế liên kết giữa kinh thành với các vùng phụ cận đã tạo được hậu phương
chiến lược cho chiến tranh toàn dân. Chính vì vậy, quân nhà Lý chiến
đấu trên trận tuyến sông Cầu luôn an tâm ở phía sau đã có hậu phương cực
mạnh là kinh thành Thăng Long; còn nhà Trần, tuy phải rút lui chiến
lược, nhưng nhân dân đã tích cực góp phần cùng quân triều đình tạo thế
chuyển hoá dần lực lượng để phản công chiến lược. Lực lượng được tổ chức
hợp lý, phân công và phối hợp chặt chẽ giữa quân triều đình, quân các
lộ và dân binh, đồng thời huy động được nhân dân tham gia đúng thời cơ.
Do vậy, nhân dân đã được huy động tối đa để phục vụ chiến đấu trên phòng
tuyến (thời Lý), cũng như trực tiếp và phối hợp nổi dậy giành lại quyền
làm chủ đất nước (thời Trần).
Cách đánh
của chiến tranh toàn dân thời kỳ này đã được hình thành và phát triển
đa dạng: từ chủ động tiến công sang đất địch bằng nhiều hướng, nhiều
mũi, phòng thủ vững chắc trên phòng tuyến chuẩn bị sẵn và phản công truy
kích địch rút chạy… thời Lý đến cách đánh chặn bước tiến nhanh kết hợp
với chủ động rút lui bảo toàn lực lượng, bỏ thuyền chiến đánh thuyền
lương, chọn điểm đột phá trong phản công chiến lược… thời Trần. Tất cả
các cách đánh ấy chỉ thực hiện thành công và đạt hiệu quả tối ưu trên nền chiến tranh toàn dân.
Chính vì dựa được vào dân – “chúng chí thành thành”, nơi nào có dân là
giặc bị đánh – nên quân và dân nước Việt thời Lý – Trần đã hình thành
được các cách đánh phòng ngự – phản công rất đa dạng: khi phòng thủ
phòng tuyến, đánh diệt viện thì dĩ tịnh chế động; khi chủ động tấn công
trước vào căn cứ địch thì dĩ động chế tịnh; trong đánh vận động, truy
kích địch thì dĩ động chế động, dĩ đoản binh chế trường trận. Yếu tố
nhân dân tham chiến trực tiếp đã làm cho tất cả các cách đánh trong thế
trận phòng ngự ấy đều thấm đậm tinh thần tích cực tiến công và đánh giặc
rộng khắp.
Chiến tranh toàn dân bảo vệ đất nước thời Hậu Lê là cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân giành lại độc lập dân tộc,
nhân dân và lực lượng vũ trang phối hợp trên nhiều lĩnh vực khá toàn
diện, tính chất dĩ dân và tính chất vi dân bộc lộ rõ ràng hơn và được
kết hợp khá sâu sắc. Về nghệ thuật dựng binh, quan điểm dĩ dân thể hiện
trước hết ở tư tưởng chủ đạo chở thuyền và lật thuyền đều là dân do
Nguyễn Trãi đề xướng. Trên thực tế, toàn bộ sự nghiệp Lam Sơn đã dựa
vào dân để phát động khởi nghĩa và nêu cao đại nghĩa, từ nhân dân mà xây
dựng, phát triển lực lượng. Khi còn yếu thế, nghĩa quân luôn được nhân
dân nuôi dưỡng, đùm bọc, chở che. Khi đã lớn mạnh, đủ sức đánh chiếm các
thành, các vùng thì nhân dân hết lòng ủng hộ, nô nức đóng góp sức
người, sức của và làm hậu thuẫn tinh thần to lớn. Lực lượng khởi nghĩa
lớn mạnh đến mức cho phép bộ chỉ huy kháng chiến có thể “sĩ tốt kén
người hùng hổ, bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”, “đánh một trận sạch không kình
ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông”. Sở dĩ có thể thực hiện được
điều đó là nhờ chính sách vi dân nhất quán của Lê Lợi – Nguyễn Trãi, với
tư tưởng chủ đạo “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”. Trên thực tế, nghĩa
quân ở thời kỳ gây dựng lực lượng đã thực hiện tốt vai trò một “đội quân
công tác”, sẻ chia gánh nặng và cùng dân lo xây dựng hậu phương, căn cứ
địa kháng chiến; khi đánh chiếm kho lương của giặc đều chia cho dân để
bồi dưỡng sức dân. Chính sách bình công ban thưởng cả nước, miễn thuế
cho dân sau chiến thắng, nhất là kế sách “ngoại giao mềm” để dân yên ổn
làm ăn… đều thể hiện tinh thần vi dân sâu sắc.
Về nghệ thuật tiến hành chiến tranh và phát triển cách đánh
của chiến tranh giải phóng, tính chất toàn dân được thể hiện rất đậm
nét. Nghệ thuật mở đầu chiến tranh là vừa đánh, vừa gây dựng lực lượng,
nên cách đánh du kích là chủ yếu và theo đó, lực lượng vũ trang thực sự
đóng vai trò nòng cốt cho một cuộc chiến tranh đã manh nha dáng dấp của
kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện. Chính vì dựa được vào dân,
nên nghĩa quân không những vượt qua thời kỳ nguy hiểm, mà còn chuyển hoá
lực lượng, xây dựng hậu phương, căn cứ địa kháng chiến vững mạnh, thực
hiện được chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Đặc biệt, khi nghĩa
quân đã đủ lực lượng và thời cơ tiến ra Bắc vây thành Đông Quan – mục
tiêu cuối cùng của cuộc kháng chiến – thì đông đảo nhân dân trong kinh
thành đã cùng nghĩa quân giăng “thiên la địa võng”, thực hiện “mưu phạt
tâm công”, các đội dân binh, thổ binh vừa ủng hộ hết mình, vừa trực tiếp
tự vũ trang cùng nghĩa quân diệt tan viện binh địch tại Chi Lăng, buộc
Vương Thông ở Đông Quan phải đầu hàng. Nghệ thuật kết thúc chiến tranh
theo hướng thực hiện chính sách ứng xử nhân văn với tù, hàng binh và gây
lại hoà hiếu với nhà Minh cũng chỉ thành công khi được sự đồng tình, sẻ
chia của nhân dân, nhất là nhân dân Thăng Long đã từng phải chịu đựng
gian khổ, hy sinh hàng chục năm ròng dưới ách đô hộ vô cùng tàn bạo của
quân Minh xâm lược.
Chiến tranh toàn dân bảo vệ đất nước thời
Tây Sơn được phát triển từ cuộc khởi nghĩa nông dân chống áp bức phong
kiến thành cuộc chiến tranh toàn dân bảo vệ Tổ quốc, trong đó lực lượng
vũ trang làm nòng cốt. Trong cuộc chiến tranh này, tính chất của
dân, do dân, vì dân bộc lộ khá rõ, song vẫn chưa vượt ra khỏi ý thức hệ
phong kiến do nông dân nắm ngọn cờ. Đây thực sự đã là cuộc chiến tranh của dân,
bởi người lãnh đạo là thủ lĩnh nông dân, tôn chỉ là chống ách áp bức
cường quyền để cải thiện đời sống nhân dân, lực lượng khởi nghĩa chính
là những nông dân mặc áo lính, là nhân dân nổi dậy chống thù trong (dưới
danh nghĩa phù Lê) và chống giặc ngoài (đánh tan các đạo quân xâm lược
Xiêm, Mãn Thanh). Đây cũng là cuộc chiến tranh do dân: dân tự
nguyện đóng góp cả sức người và sức của, dân hậu thuẫn, dân ủng hộ, nuôi
dưỡng, dân trực tiếp cầm vũ khí phối hợp với nghĩa quân đánh giặc trên
mọi mặt trận. Đặc biệt, cuộc chiến tranh vì dân được bộc lộ ở
nhiều khía cạnh: khi là cuộc khởi nghĩa nông dân thì nhằm mục đích lật
ách áp bức cường quyền Trịnh – Nguyễn, thống nhất đất nước, thống nhất
dân tộc, xây nên chế độ mới theo tôn chỉ cơi nới sức dân; khi đánh quân
xâm lược Mãn Thanh thì “đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng, đánh
cho sử tri Nam quốc sơn hà chi hữu chủ”, vì độc lập dân tộc và sự tồn
vong của nền văn hiến nước Việt; sau chiến thắng, chính sách giao hảo
với nhà Thanh và ban hành một số chính sách mới nhằm khuyến dân của vua
Quang Trung cũng chính là sự thể hiện chính sách vì dân.
Về nghệ thuật tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự,
cuộc chiến tranh toàn dân trong thời kỳ này cũng có những bước phát
triển mới. Trước hết, để có thể dựa vào lòng dân nhằm bình định Bắc Hà,
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã coi trọng cuộc chiến thu phục nhân tâm hơn
là các đòn tiến công quân sự. Bởi lẽ, mặc dù ý chí “phá Trịnh, phục Lê”
lúc này đang cháy bỏng trong nhân dân và các nhân sĩ Bắc Hà, nhưng sự
nghi ngại về một thứ “giặc cỏ” (chỉ quân Tây Sơn) từ phía Nam ra chưa
thể ngay một lúc làm cho nhân dân Bắc Hà hân hoan chào đón đội quân giải
phóng. Lần tiến quân ra Bắc để đại phá quân xâm lược Mãn Thanh lại
khác, Nguyễn Huệ đã đủ uy tín để lên ngôi Hoàng đế, đặt hiệu Quang
Trung. Ngài vừa hành binh thần tốc, vừa phát triển lực lượng như vũ bão
nhờ nhân dân cả nước, nhất là nhân dân Bắc Hà, đã hoàn toàn thuận theo
và hết lòng ủng hộ. Đặc biệt, trận “rồng lửa Thăng Long” do quân và dân
sở tại phối hợp chặt chẽ với đại quân Tây Sơn đã mang dáng dấp của nghệ
thuật tác chiến chiến lược, kết hợp giữa tổng tiến công của các binh đoàn chủ lực với nổi dậy rộng khắp của nhân dân, thực sự là cả nước chung lòng, toàn dân đánh giặc.
Chiến tranh bảo vệ đất nước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược có thể nói là cuộc chiến tranh toàn dân “một nửa”, tức là chỉ thể hiện ở phía nhân dân (có tiếng nói ủng hộ của một số nhân vật chủ chiến trong triều đình), còn hầu hết triều đình đứng ngoài cuộc. Chính sự rời bỏ tư tưởng chiến tranh toàn dân đã làm cho nhà Nguyễn từng bước thất bại
ê chề, đầu hàng nhục nhã và cuối cùng hoàn toàn sụp đổ. Cũng có những
nhân vật trong phái “chủ chiến” để lại tấm gương trung liệt như Vua Duy
Tân, Vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu và
những chí sĩ yêu nước khác, song cái thế xuống dốc không phanh của phong
kiến Việt Nam thời kỳ suy tàn và tiêu vong, sự bị vượt qua về mặt hình
thái kinh tế – xã hội và sự thối nát về chính trị là tất yếu. Điển hình
như trong cuộc tử thủ thành Hà Nội, cách thức hoạt động quân sự hoàn
toàn kém hiệu quả, vì thiếu chỗ dựa là nhân dân, ỷ vào thành cao hào sâu
để cố thủ nên bị động, không chịu nổi sức công phá của đại bác quân
thù. Về phía nhân dân, tính chất toàn dân bộc lộ rất rõ ngay từ
đầu, như việc tự lập các đội vũ trang chống Pháp, bảo vệ làng xã, phố
phường, tiến hành các hoạt động du kích gây rối quân Pháp, sẵn sàng đem
lực lượng hỗ trợ quan quân giữ thành… Nhiều nét mới về tổ chức lực
lượng, tư tưởng vận động cách mạng và kháng chiến xuất hiện, như dựa vào
dân, giữ hiểm địa để tiến tới đánh vào vùng Hà Nội (khởi nghĩa Yên Thế,
khởi nghĩa Bãi Sậy); lập kế hoạch phối hợp giữa đánh chiếm bằng lực
lượng quân sự với nổi dậy của dân (vụ Hà thành đầu độc, khởi nghĩa Yên
Thế); thực hiện vận động chiến đánh địch càn quét (hai trận Cầu Giấy)…
Nhưng trong tình thế phải “vượt cạn” do thiếu sự lãnh đạo tập trung và
đường lối cứu nước đúng đắn, nên các phong trào toàn dân đánh giặc này
không đủ sức đi đến chiến thắng cuối cùng. Một số trào lưu khác chủ
trương ám sát cá nhân, đầu độc, manh động, bạo động non…, do không dựa
được vào dân, nên cuối cùng cũng thất bại.
Chiến tranh toàn dân bảo vệ và giải phóng đất nước trong
Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp là cuộc chiến tranh toàn
dân đã có sự phát triển nhảy vọt về chất, trở thành chiến tranh nhân dân
giải phóng với đầy đủ các yếu tố của dân, do dân, vì dân theo quan
điểm cách mạng tiến bộ, phù hợp với xu thế thời đại. Trong các triều
đại phong kiến, kể cả triều đại phong kiến tiến bộ nhất, điểm xuất phát
hình thành chiến tranh toàn dân vẫn trước hết là lợi ích của giai cấp
lãnh đạo, rồi mới tìm đến sức mạnh của nhân dân. Song, trong công cuộc
giành và giữ độc lập dân tộc do Đảng lãnh đạo, chính nhu cầu, nguyện
vọng và ý chí của dân về giải phóng, về độc lập dân tộc đã tìm ra người
lãnh đạo là giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam để hình thành
đường lối cứu nước mới. Chiến tranh nhân dân Việt Nam là bước phát triển
tiếp theo của chiến tranh toàn dân trước đây, song chỉ với ý nghĩa “dĩ
dân”, nó cũng đã có bước nhảy vọt về chất: cũng là toàn dân tham gia
nhưng tham gia tự giác, có tổ chức, lãnh đạo theo một đường lối chính
trị đúng đắn, tiên tiến; nhân dân tham gia toàn diện, liên tục từ đầu
đến cuối cuộc chiến tranh… Hơn nữa, chiến tranh nhân dân vượt hẳn chiến
tranh toàn dân thời phong kiến ở mục tiêu chiến tranh là không chỉ giành
và giữ độc lập dân tộc – lợi ích trừu tượng, mà còn gắn độc lập dân tộc
với “người cày có ruộng”, trực tiếp đem lại lợi ích căn bản, hữu hình,
lâu dài cho mọi tầng lớp nhân dân. Giai cấp lãnh đạo không có lợi ích
nào khác ngoài lợi ích của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi
ách xâm lược, đồng thời giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi xiềng xích
áp bức, bóc lột - điều mà các triều đại phong kiến không thể làm nổi,
dù là triều đại tiến bộ nhất. Nói cách khác, nếu chiến tranh toàn dân
trước đây nhấn mạnh “do dân” thì chiến tranh nhân dân trong thời đại mới
là tổng thể hữu cơ giữa “của dân”, “do dân” với “vì dân” - điểm khởi
đầu và điểm kết thúc đều là DÂN.
Cuộc
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền cũng như cuộc đấu tranh của nhân dân
và lực lượng vũ trang bảo vệ nền độc lập non trẻ trước hết là sự nghiệp
của nhân dân. Giành chính quyền tại Hà Nội và ở tất cả các địa phương
khác đều là cuộc nổi dậy đồng loạt của quần chúng nhân dân nhằm tạo khí
thế áp đảo, còn lực lượng vũ trang đóng vai trò sẵn sàng ứng chiến ngầm
và trên thực tế, chưa có xung đột vũ trang đẫm máu. Nhìn nhận về cuộc
Tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, có thể thấy, nó nằm trong
hình thái tổng thể của việc “tận dụng chiến tranh đế quốc để giành thắng
lợi cho cách mạng vô sản”, nhất là từ khi phát xít Nhật hất cẳng Pháp
tại Đông Dương, thì ở một khía cạnh nhất định, sự kiện này đã lôi cuốn
Việt Nam vào vòng xoáy của Chiến tranh thế giới thứ hai. Theo đó, chiến tranh nhân dân Việt Nam đã bắt đầu hình thành
và tiếp đó, đã thể hiện đầy đủ hình hài khi Hà Nội nổ súng mở đầu phong
trào toàn quốc kháng chiến. Cũng theo đó, chiến tranh nhân dân Việt Nam
trong thời đại mới chính là sự kế thừa và phát triển đến đỉnh cao những
tinh tuý của chiến tranh toàn dân cứu nước và giữ nước trong lịch sử
dân tộc. Với phương pháp loại suy – lôgíc thì chính “chiến tranh nhân
dân Thủ đô” được mở rộng thành “chiến tranh nhân dân giải phóng” trên
phạm vi toàn quốc kháng chiến, cũng như “chiến tranh nhân dân thành phố”
do được vận dụng vào điều kiện tác chiến ở các thành phố khác của đất
nước trong thời điểm lịch sử ấy và tiếp tục sau này. Vì thế, nói đến
phạm trù cặp ba “chiến tranh nhân dân” – “chiến tranh nhân dân thành
phố” – “chiến tranh nhân dân Thủ đô” là nói đến sự tích hợp giá trị từ
trong ra, chứ không phải sự ứng dụng chiến tranh nhân dân từ ngoài vào.
Điều
đó thể hiện nổi bật ở 60 ngày đêm “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của
quân và dân Thủ đô - điều mà trước đó, khi Nam Bộ kháng chiến, chiến
tranh nhân dân Việt Nam vẫn chưa đủ hình hài rõ nét. Giữ chính quyền
bằng hoạt động vũ trang là nét nổi trội, song yếu tố quyết định thắng
lợi của 60 ngày đêm ấy chính là sự hậu thuẫn và trực tiếp góp sức người,
sức của cực kỳ to lớn của nhân dân. Thế trận được lập bằng các chiến
luỹ đường phố, vật cản tại chỗ, nhưng có sự liên thông cao độ do nhân
dân Thủ đô tự nguyện đục nhà thông nhà nọ sang nhà kia, phố nọ sang phố
kia. Các lực lượng vũ trang có thể đánh địch rộng khắp, đánh bất cứ nơi
nào quân Pháp đặt chân đến chính là nhờ dựa được vào thế trận lòng dân.
Cùng với các chiến sĩ Trung đoàn Thăng Long, Trung đoàn Thủ đô, Tự vệ
Hoàng Diệu, Tự vệ thành Hoàng Diệu, công an xung phong và các Đội cảm tử
còn có nhiều thanh niên Hà Nội (trừ những người không đủ khả năng chiến
đấu vũ trang) đều được vũ trang tham gia chiến đấu và phục vụ chiến
đấu. Cách đánh cũng là của nhân dân, mang tính toàn dân tham gia, quân
với dân cùng đánh, điển hình như trận đánh tại chợ Đồng Xuân. Người dân
được vũ trang bằng mọi loại công cụ có thể dùng làm vũ khí để phối hợp
tham gia mọi hình thức tác chiến: tập kích hoả lực, đánh chốt chặn, đánh
tập kích, đánh vận động, đánh cảm tử (bằng bom ba càng), đánh vào mục
tiêu quan trọng, thực hiện nội thành và ngoại thành cùng đánh… Trong
suốt cuộc kháng chiến trường kỳ của cả nước, các lực lượng vũ trang ta
cũng chỉ hoạt động hiệu quả trong vòng tay che chở, đùm bọc của nhân
dân.
Chiến tranh toàn dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc chiến tranh toàn dân có sự phát triển cao về chất trong điều kiện mới – chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc ở miền Bắc và chiến tranh nhân dân giải phóng ở miền Nam. Đến thời kỳ này, phạm trù “chiến tranh nhân dân” đã định hình rõ nét,
phát huy tác dụng to lớn. Đặc biệt, nếu trong kháng chiến chống Pháp,
Hà Nội khởi đầu cho chiến tranh nhân dân giải phóng thì trong kháng
chiến chống Mỹ, Hà Nội lại khởi đầu chiến tranh nhân dân thuộc loại hình chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đó là loại hình chiến tranh nhân dân diễn ra trong điều kiện ta đã có
chủ quyền quốc gia, có thành quả cách mạng cần bảo vệ. Bảo vệ Tổ quốc
gắn liền với bảo vệ tính mạng, tài sản, cuộc sống lao động hoà bình của
nhân dân; bảo vệ Thủ đô gắn liền với bảo vệ trái tim thiêng liêng của cả
nước, bảo vệ niềm tự hào của dân tộc, bảo vệ lương tri và phẩm giá con
người… Nhân dân cả nước không chỉ đóng góp sức người, sức của cho hoạt
động chiến đấu của các lực lượng vũ trang, mà còn trực tiếp tham gia
chiến tranh. Ở miền Bắc, đó là những hoạt động phòng thủ dân sự, phục vụ
chiến đấu và vũ trang chiến đấu, tạo lưới lửa phòng không nhân dân
nhiều tầng và rộng khắp. Ở miền Nam, đó là sự đối mặt trực tiếp với Mỹ –
nguỵ của mọi tầng lớp nhân dân, từ các cụ già, em nhỏ đến những đội
quân tóc dài, những đội biệt động thành; trên tất cả các địa bàn rừng
núi, thành thị, nông thôn; bằng tất cả các hình thức đấu tranh sáng tạo
và đòn quyết định là cuộc tiến công thần tốc của các binh đoàn chủ lực
kết hợp với nổi dậy của toàn dân.
Về nghệ thuật quân sự,
ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa là thế trận phòng không nhân dân được xây
dựng nhiều tầng và rộng khắp, có phương án hiệp đồng và bảo đảm chu đáo
chuẩn bị kỹ cả thế phòng tránh (phòng không nhân dân) và thế đánh trả
(các trận địa); phân công các binh chủng hoả lực hợp với sở trường và
tính năng vũ khí; kết hợp vừa chiến đấu, vừa duy trì sản xuất, vừa bảo
đảm chi viện cho chiến trường… Ở miền Nam, đó là thế trận toàn dân đánh
giặc, “kết hợp hai chân, ba mũi, ba vùng”, nối thông giữa vùng tự do,
căn cứ địa và vùng địch hậu. Lực lượng trong chiến tranh nhân dân thời
kỳ này là lực lượng toàn dân và lực lượng vũ trang ba thứ quân. Cách
đánh của chiến tranh nhân dân cũng được phát triển cực kỳ đa dạng và
sáng tạo. Trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc ở miền Bắc, đó là
cách đánh chặn bảo vệ từ xa; đánh tiêu diệt lớn; đánh tập trung vào
hướng chủ yếu, tầm hoạt động trên không chủ yếu của địch; vạch nhiễu tìm
thù; đánh ba điểm, đánh gần; đánh đồng loạt nhiều tầng, đánh tập kích,
cơ động phục kích, nguỵ trang nghi binh lừa địch… Trong chiến tranh nhân
dân giải phóng đất nước ở miền Nam, đó là cách đánh du kích kết hợp với
cách đánh chiến dịch tiêu diệt lớn; các cuộc tập kích, phục kích chống
địch càn quét; kết hợp giữa tổng tiến công và nổi dậy. Nhân dân không
chỉ là lực lượng ủng hộ, mà thực sự đã trở thành chủ thể mấu chốt của
chiến tranh nhân dân ở cả hai miền đất nước.
Như
vậy, có thể nói, sự phát triển từ “chiến tranh toàn dân” thành “chiến
tranh nhân dân” trong lịch sử bảo vệ, giải phóng đất nước là sự phát
triển hợp quy luật, cả về mục tiêu, phương thức, lực lượng tiến hành
chiến tranh, cả về ý nghĩa và giá trị hiện thực của nó, cũng như về nghệ
thuật quân sự. Đây là một giá trị lớn và chủ đạo trong toàn bộ
hệ giá trị văn hoá quân sự Việt Nam, đồng thời là bài học mang tính đúc
kết cô đọng nhất mà lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc
Việt Nam đã sáng tạo nên, liên tục kế thừa và không ngừng phát triển.
Giá
trị văn hoá - lịch sử quân sự này đặc biệt phát huy tác dụng mạnh mẽ
đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình
hình mới. Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ sự
nghiệp phát triển kinh tế – xã hội gắn liền với củng cố quốc phòng – an
ninh, thì các chủ trương, chính sách được đề ra nhất thiết phải xuất
phát từ nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, thể hiện lợi ích
của dân và lợi ích đó luôn được đặt lên trên hết, đồng thời tạo thuận
lợi để huy động cao nhất các tầng lớp nhân dân cùng tổ chức thực hiện.
Việc hiện thực hoá ý chí của nhân dân trong đường lối quân sự – quốc
phòng, phát triển thế trận lòng dân, tạo khả năng cao nhất để huy động
tiềm lực to lớn của nhân dân… phải luôn gắn với các chính sách xã hội
nhằm bồi dưỡng sức dân và nâng cao dân trí, nhất là nâng cao ý thức quốc
phòng cho các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, việc chú trọng phát
triển lý luận và chuẩn bị thực tiễn cho chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc trong điều kiện sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược, kể cả chiến
tranh công nghệ cao, là cái có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, nếu chiến
tranh công nghệ cao xảy ra thì chiến tranh nhân dân vẫn là phương thức
cơ bản để bảo vệ Tổ quốc bằng trình độ tác chiến và vũ khí trang bị hiện
có. Đó cũng là nền tảng cơ bản để chúng ta nỗ lực nâng lên trình độ công nghệ cao chống lại công nghệ cao
của địch. Chỉ có thực hiện tốt các vấn đề trên đây thì mới có nền tảng
nhân dân vững chắc để giành thắng lợi trong quá trình thực hiện các
nhiệm vụ phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ và sẵn sàng
đánh thắng chiến tranh xâm lược kiểu mới của các thế lực thù địch.
Đã xem: 4119
Thời gian đăng: Thứ ba - 24/11/2015 17:19
Người đăng: Phạm Quang Duy
Thời gian đăng: Thứ ba - 24/11/2015 17:19
Người đăng: Phạm Quang Duy
Bản quyền bài viết thuộc về Viện Triết học, Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam. Việc đăng lại bài viết này tại các website hoặc các
phương tiện truyền thông khác mà không xin phép và ghi rõ nguồn
http://philosophy.vass.gov.vn là vi phạm bản quyền.
Nhận xét
Đăng nhận xét