-Thằng Lê Dũng Vova này là thằng có học nhưng đã bị loạn trí! -Hiện tượng tâm linh là có thật nhưng nguyên nhân để xảy ra hiện tượng ấy thì đến nay cả thế giới vẫn mù tịt. -Lê Dũng Vova biết gì về tâm linh mà bàn!? -Bôi bác người chết là tội lỗi!
----------------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Lê Dũng Vova: Quá Sốc Với Việc Kẻ Dời Lư Hương Thánh Trần Qua Đời Ở Tuổi 53 - Nhân Quả Thấy NGay
Di dời lư hương ở tượng Trần Hưng Đạo về nơi thờ phụng
Bí thư quận 1 (TP.HCM) Trần
Kim Yến cho biết việc lư hương đang đặt ở tượng Trần Hưng Đạo là nơi
công cộng, không phù hợp là nơi thờ phụng.
Sáng 18/2, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân có buổi làm
việc với Ban thường vụ Quận ủy quận 1 về cải cách hành chính và ghi nhận
sự hài lòng của người dân.
Tại đây, Bí thư quận 1 Trần Kim Yến báo cáo việc quận đang tiến hành
tu sửa, tôn tạo tượng đài Trần Hưng Đạo (tại Công trường Mê Linh, Bến
Nghé, quận 1), di chuyển lư hương đang đặt ở đây về đền thờ Đức thánh
Trần Hưng Đạo (số 36 đường Võ Thị Sáu, phường Tân Định, quận 1). Việc di
chuyển sẽ hoàn thành vào ngày 16 tháng Giêng (ngày 20/2).
Bí thư quận 1 Trần Kim Yến. Ảnh: Ngân Giang.
Trước nhiều ý kiến trái chiều về việc di chuyển lư hương, bà Yến cho rằng việc di dời này là bình thường.
"Tượng Trần Hưng Đạo đặt nơi công cộng, không đúng với tâm linh của
người dân, không phù hợp là nơi thờ phụng. Quận tiến hành đưa lư hương
vào đền thờ. Nhiều người cho rằng đây là vấn đề nhạy cảm, nhưng quận
thấy đây là việc rất bình thường", bà Yến nói.
Bên cạnh việc di chuyển lư hương, khu vực đặt tượng Trần Hưng Đạo đang được sửa sang, dọn dẹp.
Bí thư Thành ủy Nguyễn Thiện Nhân làm việc với Ban thường vụ Quận ủy quận 1. Ảnh: Ngân Giang.
Theo Bí thư quận 1, trước Tết, thành phố và các quận, huyện đều tiến
hành trang trí các địa điểm công cộng, trong số đó có tượng Trần Hưng
Đạo để làm nơi người dân tới thưởng lãm, tham quan, chụp hình. Địa điểm
này là một trong những nơi thể hiện sự phát triển, bộ mặt du lịch của
thành phố.
"Sau Tết, ngày 17/2, quận cho chỉnh trang, thay hoa mới. Việc giăng
dây, đặt thùng rác để tiến hành dọn dẹp. Sau khi dọn dẹp lại trả không
gian về như cũ. Đây là hoạt động thường xuyên, không có gì lạ như một số
người đang đẩy vấn đề đi quá xa", bà Yến khẳng định.
Trước đó, UBND TP.HCM đã giao UBND quận 1 thực hiện việc tu sửa, tôn
tạo công trình tượng đài Trần Hưng Đạo và tượng đài Thánh Gióng.
Tượng Trần Hưng Đạo đặt ở Công trường Mê Linh. Ảnh: B.Đ.
Theo Sở Văn hóa và Thể thao, tượng đài Trần Hưng Đạo hiện nằm tại
công trường Mê Linh, quận 1, cao 4 m, được đặt trên bệ hình 3 cạnh cao
12 m, ốp đá màu nâu, 3 mặt đế tượng có 6 mảng phù điêu tả các trận tiêu
diệt giặc ngoại xâm.
Cả hai tượng đài này hiện chưa được xếp hạng di tích và không thuộc
danh mục kiểm kê di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn TP. Hai công trình
đều được xây dựng từ trước năm 1975 bằng bê tông cốt thép, đến nay đã
xuống cấp cần được tu sửa để đảm bảo an toàn, do đó việc tu sửa, tôn tạo
là cần thiết để đảm bảo an toàn và cảnh quan trung tâm TP.HCM.
Quận 1 lên tiếng về việc di dời lư hương trước tượng đài Trần Hưng Đạo
Dân trí Bà Trần Kim Yến, Bí thư
Quận ủy quận 1, cho biết việc dời lư hương ở tượng đài Trần Hưng Đạo là
hợp lý: “Việc thờ phụng nên đặt ở đình, đền, chùa sẽ đúng hơn. Đó là
việc hết sức bình thường. Mình phải đưa việc thờ phụng về đúng vị trí để
trang nghiêm hơn”.
Tại buổi làm việc với Bí thư Thành ủy
TPHCM Nguyễn Thiện Nhân sáng 18/2, Bí thư Quận ủy quận 1 Trần Kim Yến đã
thông tin việc dời lư hương trước tượng đài Trần Hưng Đạo về đền thờ
Đức Thánh Trần trên đường Võ Thị Sáu (phường Tân Định, quận 1).
Theo bà Yến, từ ngày 17/2, quận 1 đã trang trí lại khu vực trước
tượng đài Trần Hưng Đạo (công trường Mê Linh, quận 1) để phục vụ người
dân tham quan.
“Còn việc thờ cúng, dâng hương dâng hoa, theo chủ trương chúng tôi
đưa về đền thờ Đức Thánh Trần để việc thờ phụng được đúng chỗ, trang
nghiêm hơn. Chỉ còn một bước nhỏ là đặt vào đúng vị trí”, bà Yến nói.
Chia sẻ thêm với báo chí, bà Yến cho biết có một số ý kiến cho rằng
việc di dời là “nhạy cảm”. Tuy nhiên, theo bà Yến, đây là việc bình
thường và hợp lý. Việc đặt lư hương giữa công viên để thờ phụng là không
đúng với tâm linh của người dân.
Cũng theo bà Yến, vào dịp Tết mỗi năm, quận đều trang trí nơi công
cộng để người dân thưởng lãm trong những ngày xuân, trong đó có tượng
đài Trần Hưng Đạo. Sau Tết, các nơi đều được chỉnh trang, trồng hoa mới.
Sẵn dịp này, quận cho di dời lư hương vào đền Đức Thánh Trần.
“Khu vực tượng đài chỉ là nơi tham quan, trong khuôn viên này mà đặt
lư hương thì không phù hợp. Việc thờ phụng nên được đặt ở đình, đền,
chùa sẽ đúng hơn. Đó là việc bình thường và hợp lý", bà Yến chia sẻ.
Theo Bí thư Quận ủy quận 1, việc đặt lư hương đúng vị trí tại đền thờ
Đức Thánh Trần sẽ hoàn thành vào ngày 20/2 (tức 16 tháng Giêng).
Trước đó, ngày 17/2, trên mạng xã hội đã xuất hiện thông tin, hình ảnh khu vực tượng đài Trần Hưng Đạo không còn lư hương.
Quốc Anh
Một tư liệu về Tượng Đức Thánh Trần (dưới thời Việt Nam Cộng Hòa)
Tác giả: Phuong Nam (theo FB Tuan Vu) KD: Mấy ngày qua, dư luận XH
sôi sục vụ cẩu Lư hương Tượng đài Đức Thánh Trần về Đền thờ Đức Thánh
Trần của bà Bí thư Quận 01, bạn bè trên mạng vừa gửi cho bài viết này-
tư liệu xung quanh việc dựng tượng Đức Thánh Trần dưới thời VNCH. Xin đăng mang tính chất tư liệu để bạn đọc tham khảo Title bài, chủ Blog xin đặt lại cho phù hợp ————–
Việc suy tôn Đức Trần Hưng
Đạo TRẦN HƯNG ĐẠ0 làm Thánh Tổ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa do quyết định
từ đâu, văn kiện nào, tôi không thể truy cứu được. Nhưng riêng việc dựng
tượng Ngài thì tôi biết, vì có ít nhiều tham dự vào việc này.
Năm 1967, khi Chính Phủ Quân Nhân do Thiếu tướng Nguyễn Cao
Kỳ làm Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (tức Thủ tướng) sửa soạn
trao quyền lại cho Chính Phủ Dân Sự, Chính Phủ muốn để lại một cái gì
cho thành phố Sàigòn, đánh dấu thời gian Quân Đội tham chánh, nhất là
tạo cho Thủ Đô Sài gòn thành một thành phố có màu sắc lịch sử và đẹp
xứng đáng là một Thủ Đô, Chính Phủ muốn dựng các tượng danh nhân lịch sử
tại các công trường trong Thủ Đô. Việc này Chính Phủ giao cho Quân Đội
thực hiện, cụ thể là Cục Tâm Lý Chiến thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính
Trị, Bộ Quốc Phòng phụ trách.
Lúc ấy Cục Tâm Lý Chiến do Đại tá Vũ Quang làm Cục trưởng.
Một buổi họp tại Cục Tâm Lý Chiến do Đại tá Vũ Quang chủ tọa, để phân
nhiệm cho các Quân Binh Chủng trách nhiệm dựng tượng Thánh Tổ của mình
tại các công trường được chỉ định. Đa số các Quân Binh Chủng đều tôn
vinh các vị anh hùng, danh nhân trong lịch sử làm Thánh Tổ. Riêng Không
Quân không tìm được vị anh hùng nào trong lịch sử, nên công trường được
giao phó là khuôn viên trước Tòa Đô Chánh Sài Gòn, Không Quân đã dựng
một tác phẩm điêu khắc kỷ hà, nói lên tinh thần bảo vệ không gian của Tổ
Quốc. Thủy Quân Lục Chiến cũng vậy. Anh em Thủy Quân Lục Chiến dựng
tượng hai người lính trong tư thế xung phong tại vườn hoa trước tòa nhà
Quốc Hội. Cả hai công trường này, sau 30 tháng 4 năm 1975, đã bị dẹp đi. Riêng Hải Quân, được giao dựng tượng tại công trường Mê Linh,
sau đổi là công trường Bạch Đằng, ở ngay bờ sông , cuối đường Hai Bà
Trưng. Việc tế nhị và khó khăn của việc dựng tượng Thánh Tổ Hải Quân ở
đây là làm thế nào có thể sử dụng được cái bệ đã có sẵn. Nguyên khi nền
Đệ Nhất Cộng Hòa đây là công trường Mê Linh, được ông Ngô Viết Thụ lập
đồ án dựng tượng Hai Bà Trưng. Kiến trúc đẹp, mới được coi là một công
trình nghệ thuật của Thủ Đô Sài gòn, tạo một hấp lực cho cảnh trí bến
Bạch Đằng, xứng đáng là cửa ngõ của Thủ Đô Việt Nam Cộng Hòa. Tượng Hai Bà Trưng đẹp, nét điêu khắc sắc và mới, được dựng
trên một bệ cao 3 chân phảng phất một đầu voi với hai chân trước và cái
vòi voi. Khi khánh thành công trình này, chính Bà Ngô Đình Nhu, với tư
cách là Chủ tịch Hội Phụ Nữ Liên Đới tới khánh thành. Tất nhiên đây là
tượng Hai Bà Trưng, nhị vị nữ lưu lừng lẫy của lịch sử nước nhà, nhưng
việc điêu khắc mới quá, phảng phất như hai mẹ con bà Nhu. Dân Sài gòn đã
nhìn tượng này qua ấn tượng là hình ảnh của bà Nhu, nên khi nền Đệ Nhất
Cộng Hòa sụp đổ năm 1963, lòng người trong cơn cuồng nộ, đã ào ào kéo
tới công trường này và đã kéo đổ tượng Hai Bà xuống, như muốn xóa sạch
vết tích của bà Nhu. Đầu hai pho tượng đã được để lên xe xích lô đi diễu
trên các phố, nhiều báo đã có in hình này. Sau này không hiểu đầu hai
pho tượng ấy lưu lạc nơi đâu. Vì thế, từ năm 1963 đến năm 1967, 4 năm
trời “đầu voi” tại công trường bỏ trống, không có tượng nào trên đó cả. Khi công trường này được giao cho Hải Quân được đổi tên là
công trường Bạch Đằng, vừa là quân cảng, và bến sông tiếp nhận các tàu
bè từ biển tới Thủ Đô Sài gòn. Công việc dựng tượng do Chính Phủ Quân
Nhân khởi xướng, như trên đã nói, muốn làm cho nhanh, trong vòng năm bảy
tháng, hầu kịp thời gian khi chuyển quyền từ Quân Đội qua Dân Sự. Trên
căn bản các chi phí do Chính Phủ cung cấp. Tôi không còn nhớ kỹ, nhưng
đâu như Chính Phủ cấp cho mỗi Quân Binh Chủng một ngân khoản độ mấy chục
ngàn mà thôi. Ngân khoản quá nhỏ. Hầu như tất cả Quân Binh Chủng, muốn
làm tượng Thánh Tổ của mình cho thật đẹp, các Quân Binh Chủng liên hệ
đều phải bỏ công và của vào rất nhiều. Riêng Hải Quân, đây là một công
trình to tát và mang nhiều ý nghĩa. Vì vị Thánh Tổ Hải Quân, Đức Trần
Hưng Đạo, chẳng những văn võ song toàn, một vị đại anh hùng của dân tộc,
và đây còn là cửa ngỏ của Thủ Đô, sát ngay Bộ Tư Lệnh Hải Quân, nên Hải
Quân đã tích cực và thi hành công trình thật chu đáo và to tát. Lúc ấy, vị Tư lệnh Hải Quân là HQ. Đại tá Trần Văn Chơn,
người cùng mang họ Trần, người rất sùng kính và ngưỡng mộ công đức của
Đức Thánh Trần. Ông là vị Tư Lệnh thứ nhì, (vị Tư lệnh đầu tiên của HQVN
là HQ. Đại tá Lê Quang Mỹ) từ năm 1957 đến năm 1959. Ông rời chức vụ để
đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ, và trao chức vụ này cho HQ. Đại tá Hồ Tấn
Quyền làm Tư lệnh. Khi từ Mỹ du học về, là thời gian nhiều biến động
trên chính trường Miền Nam. Các chức vụ quan trọng của các đơn vị lớn
trong Quân Đội cũng bị ảnh hưởng và xáo trộn. Từ năm 1963, HQ. Đại tá
Quyền bị giết chết trong ngày binh biến 1 tháng 11 năm 1963, có các vị
sau đây lần lượt đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Hải Quân: – HQ Đại tá Chung Tấn Cang (sau thăng Phó Đô Đốc) từ năm 1964
đến 1965. Và cũng là vị Tư lệnh cuối cùng của Hải Quân khi Việt Nam
Cộng Hòa sụp đổ. – HQ. Đại tá Trần Văn Phấn từ 1965 đến 1966. Trung tướng Cao Văn Viên và Trung tướng Lê Nguyên Khang từ
các năm 1965 đến 1966. Đó là thời gian rối loạn nhất của đất nước, và
cũng nhiều xáo trộn nhất của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Như thế, từ năm
1959 đến năm 1966, qua nhiều vị Tư lệnh, HQ. Đại tá Trần Văn Chơn, được
chỉ định làm Chỉ huy trưởng Liên Đoàn Tuần Giang, một tổ chức phụ thuộc
của Hải Quân, có nhiệm vụ hổ trợ cho các tỉnh trong Vùng 3 và Vùng 4
chiến thuật. Một đơn vị khiêm tốn, hầu như ít được nhắc đến vì ít có
công trận, không có công tác gì quan trọng. Khi các Tiểu khu cần hoạt
động lớn, thì các địa phương lại nhờ các đơn vị thiện chiến của Hải Quân
là các giang đoàn xung phong, và đôi khi có các chiến hạm loại đổ bộ,
với hỏa lực hùng hậu, hổ trợ. Từng là Tư lệnh Hải Quân, bây giờ là Chỉ
huy trưởng Liên Đoàn Tuần Giang, một cái bóng mờ bên cạnh một Hải Quân
đang bắt đầu lớn mạnh. Dù bình tĩnh cách nào, ai cũng thấy là Đại tá
Chơn, sau khi du học Mỹ về đã xuống chức thấy rõ. Bộ chỉ huy Liên Đoàn Tuần Giang đóng bên bờ sông Sàigòn, Thủ
Thiêm, hầu như đối diện với Bộ Tư Lệnh Hải Quân đồ sộ ở bên này bờ sông.
Suốt mấy năm ở chức vụ này, anh em Hải Quân hầu như đã quên Đại tá
Chơn. Ngoài công việc điều hành Liên Đoàn Tuần Giang, nhiều người nói
lại, Đại tá Chơn có rất nhiều hoạt động liên hệ với Hội Thánh Trần tại
Thủ Thiêm. Do đó khi được trở lại đảm nhiệm vài trò Tư lệnh Hải Quân lại
có dịp dựng tượng Đức Thánh Trần, vị đại anh hùng của đất nước, mà ông
cũng tình cờ mang cùng họ : Họ Trần, nên nỗi vui, niềm hãnh diện ở nơi
ông về việc dựng tượng Đức Thánh Trần, quả là một việc làm rất phấn khởi
và cũng đã có một phần huyền nhiệm. Đức Thánh Trần, vị Thánh tổ của Hải
Quân đã được Hải Quân cố gắng làm sáng danh ngài và nức lòng học tập,
noi gương Ngài. Các chiến hạm, ngoài quốc kỳ, chiến kỳ được chính thức
có thêm Thánh kỳ để cắm nơi mũi tàu khi có đại lễ, Thánh kỳ là một lá cờ
ngũ sắc, có tua răng cưa, một loại cờ cổ ta thường gặp tại các đền thờ,
các nơi đình đám của ngày hội tổ chức theo phong tục cũ. Giữa lòng lá
cờ có một chữ đại tự bằng chữ nho: chữ Trần. Trong các ngày đại lễ, toán
hầu kỳ gồm có : Quân, Quốc và Thánh kỳ. Suốt bao nhiêu năm Hải Quân
hoạt động, các ngày lễ lớn, các chiến hạm kéo Đại kỳ rực rỡ, xa đã thấy
Thánh kỳ sặc sỡ cắm nơi cột tại mũi tàu. Đó là một hình ảnh rất khác lạ
so với các chiến hạm của các quốc gia khác. Một trang trí rất đẹp và đầy
uy linh của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa một thời. Trở lại với việc dựng tượng Thánh Tổ Hải Quân, Đức Trần Hưng
Đạo tại công trường Bạch Đằng, sau nhiều bàn cãi, có những quyết định
như sau. Về bệ tượng, cần hủy bỏ 3 chân của bệ, và vị Thánh Tổ Hải Quân
được biết đến như một vị tướng tài chỉ huy thủy chiến, không, hoặc ít có
liên hệ đến hình ảnh của con voi, nhất là cần phải làm khác, hầu như
xóa đi cái ấn tượng và liên hệ đến bà Nhu. Nhưng việc phá đi bệ này vừa
không phải dễ làm, và còn phí phạm một công trình kiến trúc rất đồ sộ,
khó khăn. Cuối cùng đi tới kết luận là vẫn để nguyên 3 chân bệ, nhưng
được xây kín lại thành một bệ hình khối tam giác, mà mũi nhọn hướng ra
sông, như một mũi thuyền trong tư thế lướt sóng. Còn lúc đầu nhờ điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, người nổi
tiếng với tượng Tiếc Thương tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa thực hiện.
Ông Thu (do tôi giới thiệu) nghĩ rằng, Đức Thánh Trần là một vị tướng
mà cốt tủy của công trạng là tinh thần tham mưu, đó là điều khởi đầu và
quan trọng hơn là việc xông pha nơi đầu sóng ngọn gió. Do đó ông Thu đã
tạo một mẫu tượng Đức Thánh Trần trong tư thế ngồi, tay trái đè lên đốc
kiếm tay phải cầm cuốn sách, được coi như là Binh thư. Ngài hướng mặt về
phương Bắc, vừa là biểu tượng của người đi biển hướng về sao Bắc đẩu,
vừa là nỗi lo âu muôn đời của người Việt, phải đối đầu với Bắc phương. Ý
này một phần góp ý của chính tôi với điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu. Mẫu tượng này được đem ra một Hội Đồng của Hải Quân để xem
xét, và so sánh với mẫu tượng khác. Mẫu khác của người nào đó bên Hội
Thánh Trần bên Thủ Thiêm đề nghị, đó là mẫu tượng được chấp nhận làm nên
tượng Ngài hiện nay. Đó là hình ảnh của vị Đại tướng trong y phục võ
tướng, một tay tỳ lên độc kiếm, một tay chỉ xuống lòng sông và nói :
“Phen này nếu ta không phá xong giặc Nguyên, thề không trở lại khúc sông
này nữa”. Lời thề của Ngài đã được sử sách ghi lại, như một lời nguyền
làm nức lòng bao nhiêu thế hệ sau này, mỗi khi giở lại trang sách cũ. Do
đó, mẫu tượng đó, của một người ít được biết đến, lại được chấp thuận.
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu rất buồn. Buồn vì mất một cơ hội góp
công, góp tim óc cho một công trình đầy sử tính của một Sài gòn, Thủ đô
của Việt Nam Cộng Hòa. Tôi cũng buồn, vì đã giới thiệu một người bạn,
một điêu khắc gia nổi tiếng bậc nhất lúc ấy, mà lại không thành công.
Nhưng tôi cũng phải nhận rằng, lời thề trên sông Hóa quả mang nhiều ý
nghĩa, đã gắn liền với các chiến công của Đức Thánh Trần, với tước hiệu
đầy đủ của Ngài. Thánh Tổ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa Bình Bắc Đại Nguyên Soái – Hưng Đạo Đại Vương Một Vài Câu Chuyện Bên Lề Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa với nhiều phương tiện của Hải Quân
Công Xưởng, và sự đóng góp tiền bạc của tất cả quân nhân Hải Quân các
cấp, đã hoàn thành một công trình mang đầy ý nghĩa lịch sử, nghệ thuật
cho Thủ Đô Sài gòn. Ngày khánh thành, vì một vài lý do bất khả kháng,
Đại tướng Cao Văn Viên được chỉ định vào phút chót, thay mặt Chính Phủ
đến chủ tọa, thay vì một giới chức cao hơn, khiến ban tổ chức gặp rất
nhiều phiền toái. Vì các vị Bộ trưởng đã đến, ngoại giao đoàn đã đến.
Trên hệ thống hành chánh, các vị Bộ Trưởng ở vị thế cao hơn Đại tướng.
Nhưng làm sao được, và ghế đã xếp, chương trình đã định. Và Đại tướng
Viên tới, mọi người cũng đương nhiên chấp nhận một cách vui vẻ. Một trở ngại kỹ thuật khác, cho đến gần phút khánh thành, ban
tổ chức mới thấy khó khăn. Tượng làm xong từ Hải Quân Công Xưởng do
từng mảnh ghép lại, được cần trục câu lên ghép lại. Câu các mảnh ấy như
câu các kiện hàng, nhưng ghép lại phải khéo để không thấy các mối ghép.
Ghép xong mới tô và cho các vết ghép được nhuần nhuyễn như một khối đồng
đen. Thực ra đó là các mảnh xi măng đúc từ Hải Quân Công Xưởng. Tượng
làm xong, các giới chức Hải Quân ra ngắm nghía, ra điều ưng ý lắm. Nhưng
theo nguyên tắc, và tạo sự linh thiêng, đột ngột, sau phần nghi lễ,
tượng mới được mở ra để mọi người thưởng lãm và chiêm bái. Nhưng tìm vải
phủ đã khó. Cái khó hơn, và khó nhất là làm cách nào để vị chủ lễ mở
tượng ra, khó quá. Tìm vải cả mấy tuần mệt, tôi có ý kiến và thưa với vị
Thiếu tá Phan Phi Phụng, Trưởng phòng Tâm Lý Chiến rằng : “không khó
đâu Commandant, Commandant có nhớ tại Bắc Việt, các đền thờ Đức Thánh,
người ta thường tìm đến để xin di vật của đền về yểm trừ tà ma…” Tôi vừa
nói đến đó Thiếu tá Phụng cười : ” Cậu này, chắc cậu nhớ đến việc Ngài
đã trừ diệt hồn ma Phạm Nhan…”. Tôi cười. Từ đó, chúng tôi đưa ý kiến là
nhờ bên Hội Thánh Trần cung cấp các thước vải đỏ, độ 200 thước vuông,
để phủ tượng. Khi xong lễ, các thước vải linh thiêng này sẽ được trao
lại cho Hội Thánh Trần để phân chia cho những ai muốn có chút di vật của
Ngài để cầu may và trừ tà ma…. Ý kiến ấy được Hội Thánh bên Thủ Thiêm
tán thành nhiệt liệt, và cung cấp vải đỏ rất đầy đủ và rất mau. Nhưng phần vải thì dễ rồi. Mở ra làm sao. Mở cho dễ, cho đẹp,
và không vướng mắc vào giờ phút linh thiêng của buổi lễ. Ý kiến này,
Hải Quân Công Xưởng chịu thua. Phủ thì được, mở ra khó quá. Sau một đêm,
hôm sau ông Phụng vào sở, đem theo một cuộn giây chì, đường kính 3
milimetre. Cuộn giây chì được cắt ra từng đoạn, bẻ lại thành các vòng
tròn, chì này vừa đủ mạnh để ghim các mảnh vải phủ tượng vào nhau. Khi
cần mở vải phủ, từ giây thừng đã gài ở khoen cao nhất. Được Đại tướng
Viên từ từ kéo xuống, các vòng chì rãn ra nhẹ nhàng. Và để chắc ăn, có
thêm 2 giây như thế, tất cả là 3 giây, có thêm hai vị nữa, một là HQ.
Đại tá Trần Văn Chơn, một là Hội trưởng Hội Thánh Trần, ba sợi giây cùng
kéo, các mảnh vải đã được bóc ra như là bóc một quả cam bổ dọc. Các
mảnh vải được gió sông Sài gòn thổi bay và từ từ là xuống, tượng Đức
Thánh Tổ Hải Quân hiện ra trước mắt mọi người, hiện lên bầu trời cao
xanh ngắt, giữa tiếng vỗ tay vang dội của quan khách, nhất là của phái
đoàn dân sự của Hội Thánh Trần. Các mảnh vải này đã được Hội Thánh trân
trọng thu góp lại, và cắt ra từng miếng nhỏ, phát cho những ai muốn được
hưởng lộc của Ngài. Tôi cũng được thỉnh một vuông vải nhỏ bằng cái khăn
ăn. Vuông vải linh thiêng này được vợ tôi giữ kỹ lắm, và sau đó còn
phải cắt ra để chia cho các một số bạn làm vật cầu may. Sáng kiến cái
khoen chì hoàn toàn là của Thiếu Tá Phan Phi Phụng, tôi chỉ có chút sáng
kiến đi xin vải mà thôi. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số tượng bị phá hủy, trong
đó có công trình điêu khắc Tổ Quốc và Không Gian của Không Quân và tượng
hai người lính Thủy Quân Lục Chiến. Riêng tượng Thánh tổ Hải Quân vẫn
còn, tất nhiên huy hiệu và mấy chữ có liên hệ đến Hải Quân VNCH đã bị
phá bỏ. Bến Bạch Đằng kể từ ngày đó là hình ảnh của chia lìa, đau khổ.
Có những quân nhân Hải Quân cũ, trở lại khu này, bùi ngùi nhớ một thời
vàng son, oai nghiêm cũ, nay nhìn lên chỉ thấy pho tượng đã cũ, như một
nét bùi ngùi. Là quân nhân Hải Quân cũ, nhiều người đã đứng lại chiêm
bái Ngài. Nhiều người buồn vì đã chậm chân không di tản được. Mà người
ra đi, trong các năm sau 75 thì quá đông. Đa số ra đi bằng đường biển.
Vì thế, nhìn lên tượng Ngài. Ngài vẫn chỉ ngón tay xuống dòng sông, con
sông Hóa của lịch sử, hay là con sông Sài gòn, là cửa ngõ của biển khơi.
Người ra đi đã vừa hài hước vừa vui mừng mà nói rằng :”Ngài nói lâu
rồi. Theo ngón tay Ngài chỉ, tìm đường thủy mà đi”. Câu chuyện này một
thời đã làm cả Sài gòn, cả Miền Nam biết đến, cả triệu người đã vượt
biển tìm tự do. —— Phan Lạc Tiếp Shared by Mr Phung Chi Kien
Chuyện ít biết về các tượng đài trước năm 1975 ở Sài Gòn
07/04/2018 13:49
Nơi đặt tượng Trần Hưng Đạo,
Phù Đổng Thiên Vương, An Dương Vương hay Trần Nguyên Hãn là những địa
điểm quen thuộc với người dân Sài Gòn. Không chỉ đơn thuần là những biểu
tượng của thành phố, mà gắn…
Tượng Phù Đổng Thiên Vương những năm 60 của thế kỷ trước (Ảnh tư liệu)
Nơi đặt tượng Trần Hưng Đạo, Phù Đổng Thiên Vương, An Dương Vương
hay Trần Nguyên Hãn là những địa điểm quen thuộc với người dân Sài Gòn.
Không chỉ đơn thuần là những biểu tượng của thành phố, mà gắn liền với
mỗi tượng đài xưa cũ này đều là những câu chuyện thú vị không phải ai
cũng biết.
Chuyện tượng Trần Hưng Đạo thay thế Hai Bà Trưng canh giữ bến Bạch Đằng
Tượng Trần Hưng Đạo hiện nay - Ảnh: Hoàng Nam
Mỗi khi đi ngang qua công trường Mê Linh, quận 1, người ta sẽ bắt
gặp hình ảnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đứng trên một bệ đá cao, oai
phong chỉ tay về phía bến Bạch Đằng, bên cạnh là những tòa nhà cao tầng
mọc lên san sát.
Nhưng ít người biết ở vị trí này đã vài phen đổi tượng. Từ thời
Pháp thuộc, công trường này đã được xây dựng và đặt tên Rigault de
Genouilly, tên của Đô đốc thủy quân người Pháp và từng là Thống đốc Nam
Kỳ. Khi ấy chính quyền cũng đặt một bức tượng của viên đô đốc - thống
đốc tại công trường. Sau khi người Pháp rút khỏi Việt Nam một thời gian,
năm 1962, chính quyền ông Ngô Đình Diệm đã thay thế bằng tượng Hai Bà
Trưng để vinh danh hai nữ tướng đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Người
Sài Gòn thời bấy giờ vẫn quen gọi tượng đặt ở nơi này là tượng Hai Bà.
Tuy nhiên, sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, một số người
đã đến giật đổ bức tượng vì cho rằng tượng được điêu khắc có nét giống
mẹ con bà Trần Lệ Xuân - phu nhân của cố vấn Ngô Đình Nhu. Trụ tượng bỏ
trống, mãi 5 năm sau, đến năm 1967, tượng Trần Hưng Đạo mới được thiết
kế và dựng thay thế, đặt ngay trên trụ ba chân mà trước đó đã dùng để
đặt tượng Hai Bà. Kể từ đó, qua nhiều biến cố lịch sử, tượng Hưng Đạo
Vương vẫn sừng sững tồn tại như một phần không thể thiếu của Sài Gòn.
Ngay tại vị trí tượng Trần Hưng Đạo bây giờ, trước kia là tượng Hai Bà Trưng (Ảnh tư liệu)
Tượng Phù Đổng Thiên Vương - một chú bé con
Ở quận 1, ngoài tượng Trần Hưng Đạo, còn có một bức tượng vô cùng
nổi tiếng khác là tượng Phù Đổng Thiên Vương nằm tại ngã sáu đầu đường
Nguyễn Trãi. Tượng nổi tiếng đến mức tên tượng trở thành tên của cả một
giao lộ, bùng binh, người dân thường gọi là “ngã sáu Phù Đổng”.
Tượng Thánh Gióng được dựng năm 1966, tức là đã tồn tại hơn 50 năm
qua cùng với đời sống của người Sài thành. Bên cạnh đó, bức tượng còn có
một chi tiết mà nếu không phải cư dân sống ở khu vực này sẽ ít khi có
thể để ý: Thánh Gióng cầm cây tre, ngồi trên lưng ngựa sắt vẫn còn là
một chú bé, khác với truyện Phù Đổng Thiên Vương được truyền miệng trong
dân gian, với Thánh Gióng lớn nhanh như thổi, khi sứ giả mang ngựa sắt,
giáp sắt… đến thì chú bé vươn vai đứng dậy trở thành một tráng sĩ cao
lớn để đi đánh giặc ngoại xâm. Nhưng chính nhờ sự khác này mà bức tượng
Phù Đổng Thiên Vương ở Sài Gòn đã trở nên đặc biệt, đồng thời với việc
nhấn mạnh truyền thống yêu nước, quyết tâm bảo vệ đất nước trước quân
xâm lược, dù chỉ là một đứa trẻ cũng có thể vì quê hương mà đánh giặc.
Tượng An Dương Vương chia ranh giới hai quận
Tượng An Dương Vương trên nút giao thông nhộn nhịp - Ảnh: Hoàng Nam
Trải qua nhiều năm tháng chịu sự bào mòn của thời gian, nhưng bức
tượng An Dương Vương cầm nỏ, đặt trên đỉnh cột trắng cao vút tọa lạc
giữa ngã sáu Nguyễn Tri Phương vẫn giữ nguyên dáng vẻ vững chãi, chắc
chắn, thẳng lên bầu trời. Trước năm 1975, tượng An Dương Vương được coi
là biểu trưng cho Thánh tổ của binh chủng công binh thuộc quân đội VNCH.
Sau 1975, tượng đóng vai trò là cột mốc quen thuộc không chỉ với người
dân trong khu vực mà cả với những bác tài xế lưu thông từ 6 ngả đường,
nhờ chiều cao và vị trí nổi bật của nó.
Một cụ già sống tại khu vực này bảo: “Tui gắn bó với bức tượng từ
những năm thiếu niên. Ngày trước khi mới được dựng, cột tượng mang màu
trắng trông bắt mắt lắm, chỉ cần đi từ xa về hướng ngã sáu là nhận ra
ngay. Tiếc là sau nhiều năm không còn giữ được màu trắng nguyên thủy
nữa”. Một điểm đặc biệt khác là tượng An Dương Vương nằm trên ranh giới
giữa quận 5 và quận 10, cũng là ranh giới mang tính tương đối giữa hai
khu người Hoa và người Việt. Chính vì điều này, bức tượng cũng đồng thời
trở thành nơi giao nhau giữa hai khu vực văn hóa đặc sắc của Sài Gòn.
Tượng Trần Nguyên Hãn ở trung tâm Sài thành
Tượng Trần Nguyên Hãn lúc chưa bị di dời - Ảnh: Hoàng Nam
Được dựng từ năm 1965, tượng danh tướng Trần Nguyên Hãn cưỡi ngựa
đứng trên một bệ đá cao tại vòng xoay trước chợ Bến Thành đã trở thành
hình ảnh khó quên với người dân sống ở Sài Gòn suốt nhiều thập niên.
Nhưng câu chuyện về bức tượng lại chính là một câu chuyện buồn. Từ 4 năm
trước, nhằm phục vụ việc thi công nhà ga metro Bến Thành - Suối Tiên,
tượng đã được di dời khỏi vị trí trước chợ Bến Thành và đưa vào bảo quản
tại công viên Phú Lâm, quận 6. Trong ấn tượng của những người trẻ,
những người vừa tới thành phố sinh sống hay khách du lịch, giờ nơi này
chỉ còn là một công trường thi công khổng lồ với hàng rào chắn và tiếng
máy móc hoạt động bên trong. Đáng buồn hơn, sau nhiều năm chịu tác động
của môi trường, tượng đã có dấu hiệu xuống cấp.
Ngày nay, khi ghé thăm công viên Phú Lâm, người ta cũng không còn
nhìn thấy bức tượng, vì công trình cũng bị phủ một lớp bạt để che chắn,
bảo quản và nằm lặng lẽ trong một góc khuôn viên. Theo lời người chăm
sóc cây cảnh của công viên, bức tượng ngày trước được làm bằng xi măng,
dù đã được trùng tu một vài lần nhưng vẫn gặp phải tình trạng xuống cấp
do vật liệu làm tượng có tuổi thọ và độ bền không cao. Chỉ hy vọng sau
khi tuyến metro được xây dựng xong, bức tượng sẽ được trùng tu và lại
được trở về với vị trí khi xưa, tiếp tục chứng kiến sự thay đổi và phát
triển của thành phố.
Theo Một thế giới
Tượng Trần Hưng Đạo nằm ở công trường Mê Linh, quận 1. Thời Pháp
thuộc, công trường này được đặt theo tên Đô đốc thủy quân người Pháp và
từng là Thống đốc Nam Kỳ, Rigault de Genouilly. Ban đầu tượng của vị đô
đốc thủy quân cũng được đặt nơi đây.
Sau đó đến thời Ngô Đình Diệm công trường đó được đổi tên là công
trường Mê Linh, chính quyền cho xây tượng đài Hai Bà Trưng ở đó.
Sau đó khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ năm 1963, do tượng đài
này có khuôn mặt được tạc theo chân dung bà Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình
Nhu) và con gái là Trần Lệ Thủy nên tượng đài này bị phá đi.
Năm 1966, khi Nguyễn Cao Kỳ giao cho mỗi binh chủng được dựng biểu
tượng ở một vườn hoa công cộng trong đô thành Sài Gòn thì binh chủng Hải
Quân đã chọn bến Bạch Đằng để dựng tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn,
người được xem là thánh tổ hải quân và điêu khắc gia Phạm
Thông được lãnh nhiệm vụ đó. Tượng đài hoàn tất năm 1967.
Là nơi giao nhau giữa sáu con đường: Thi Sách, Hai Bà Trưng, Phan Văn
Đạt, Hồ Huấn Nghiệp, Ngô Đức Kế và Tôn Đức Thắng, đối diện tượng Trần
Hương Đạo là bến Bạch Đằng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét