Chủ Nhật, 10 tháng 2, 2019

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 251

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Những chuyện chưa kể về lực lượng tình báo quân sự Việt Nam

Tình báo Mỹ: TQ hiện đại hóa quân đội, chuẩn bị chiến đấu tại Đài Loan




Theo báo cáo từ Cơ quan Tình báo Quốc phòng Mỹ, vài năm qua, Trung Quốc đã thực hiện loạt cải cách quân sự đầy tham vọng nhằm tăng khả năng chiến đấu tại khu vực, bao gồm Đài Loan.
"Mối quan tâm lâu dài của Bắc Kinh nhằm thúc đẩy sự thống nhất Đài Loan với đại lục và ngăn chặn mọi nỗ lực của Đài Loan trong việc tuyên bố độc lập đã đóng vai trò là động lực chính cho hiện đại hóa quân đội Trung Quốc", báo cáo của Cơ quan Tình báo Quốc phòng Mỹ có tựa đề "Sức mạnh quân sự của Trung Quốc" cho biết.
Báo cáo được công bố hôm 15/1 nói thêm rằng "dự đoán của Bắc Kinh rằng các lực lượng nước ngoài sẽ can thiệp vào một kịch bản Đài Loan đã khiến (Giải phóng quân Nhân dân) phát triển một loạt hệ thống để ngăn chặn và loại bỏ khả năng lực lượng khu vực nước ngoài can dự".
Báo cáo ước tính chi tiêu của Trung Quốc cho các lực lượng vũ trang của nước này "có thể vượt quá 200 tỷ USD" vào năm 2018, "tăng gấp ba lần kể từ năm 2002".
Tinh bao My: TQ hien dai hoa quan doi, chuan bi chien dau tai Dai Loan hinh anh 1
Máy bay ném bom H-6K của Trung Quốc bay trên Biển Đông tháng 7/2016. Ảnh: Xinhua.
Trong bài giới thiệu kèm theo báo cáo, Giám đốc Cơ quan Tình báo Quốc phòng Robert Ashley viết rằng Trung Quốc đã sử dụng nhiều phương tiện để có được công nghệ tiên tiến nhằm tăng cường khả năng quân sự của mình mặc dù một số quốc gia cố gắng hạn chế Bắc Kinh tiếp cận công nghệ.
"Trung Quốc đã chuyển tiền và nỗ lực để có được công nghệ bằng mọi cách. Luật pháp trong nước buộc các đối tác nước ngoài của liên doanh Trung Quốc phải phát hành công nghệ của họ để đổi lấy thị trường sinh lợi của Trung Quốc và Trung Quốc đã sử dụng các biện pháp khác để bảo đảm công nghệ và chuyên môn cần thiết", CNN dẫn lời ông Ashley.
Báo cáo thừa nhận rằng Trung Quốc chi ít hơn đáng kể cho quốc phòng so với khoản đầu tư 700 tỷ USD của Mỹ trong năm 2018. Tuy nhiên, Bắc Kinh có lợi thế do "không phải đầu tư vào R&D (nghiên cứu và phát triển) tốn kém cho các công nghệ mới với cấp độ tương đương Mỹ".
"Thay vào đó, Trung Quốc thường xuyên áp dụng các nền tảng tốt nhất và hiệu quả nhất được tìm thấy trong các quân đội nước ngoài thông qua mua trực tiếp, trang bị thêm hoặc đánh cắp tài sản trí tuệ. Bằng cách đó, Trung Quốc đã có thể tập trung vào việc đẩy mạnh hiện đại hóa quân sự của mình với một phần nhỏ chi phí ban đầu", báo cáo cho biết.


Tập tin mật của KGB tiết lộ cuộc đổ bộ của người ngoài hành tinh

Song Hy |


Tập tin mật của KGB tiết lộ cuộc đổ bộ của người ngoài hành tinh

Một cựu cố vấn điện Kremlin tiết lộ các tập tin mật của cơ quan tình báo Liên Xô KGB về kim tự tháp Ai Cập từng đề cập tới khả năng người ngoài hành tinh viếng thăm Trái đất.

KGB là cơ quan tình báo của Liên Xô được thành lập từ năm 1954, nhưng bị giải thể vào năm 1991 sau khi Liên Xô sụp đổ.
Ivanovich cho biết KGB đã ngầm tiếp cận với các quan chức trong chính phủ Ai Cập để thuyết phục họ ghi lén lại các cuộc điện thoại với các đồng nghiệp khi nghiên cứu Kim tự tháp.
Tập tin mật của KGB tiết lộ cuộc đổ bộ của người ngoài hành tinh - Ảnh 1.
Tiến sĩ Viktor Ivanovich, cựu cố vấn điện Kremlin
Năm 1960, Ivanovich đã đề nghị Sami Sharif, người khi đó là Chánh văn phòng Chính phủ Ai Cập ghi lại các cuộc hội thoại mà sau đó được phát trong bộ phim tài liệu "Tập tin mật của KGB" vào năm 2001.
Trong bộ phim, cựu cố vấn điện Kremlin, người qua đời năm 2013 cho biết: "Một trong các quan chức hàng đầu của Ai Cập đã gọi điện cho anh trai và tiết lộ 2 nhà khảo cổ học đã phát hiện 2 ngôi mộ giấu trong Kim tự tháp.
Họ dường như bị mê sảng trong vài ngày sau đó, trước khi được đưa đi bệnh viện. Trên đường tới đó, họ luôn miệng lặp lại cụm từ "ngôi mộ của các vị khách".
Theo ông Ivanovich, những ngôi mộ này có thể là ngôi mộ của người ngoài hành tinh , những người từng ghé thăm Ai Cập thời kỳ cổ đại.
Họ được cho là các vị thần tới từ một thế giới khác đến để truyền bá kiến thức và trí tuệ trước khi rời đi, nhưng đã chết trong chuyến thăm và được người Ai Cập xây mộ tôn thờ.
Giới chức Nga cho tới nay vẫn chưa bất cứ bình luận nào. Nhiều người cho rằng đây có thể là một sự lấp liếm, nhưng một số thì khẳng định nó quá sức nhảm nhí và không đáng để giới chức Nga phải bình luận
theo VTC News


Điệp viên huyền thoại CIA qua đời

Tuấn Anh |


Điệp viên huyền thoại CIA qua đời
Tony Mendez, điệp viên huyền thoại của CIA

Tony Mendez, điệp viên huyền thoại của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), người tham gia chiến dịch giải cứu 6 nhà ngoại giao Mỹ khỏi Iran sau cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran năm 1979, đã qua đời hôm 19-1 tại một cơ sở ở ngoại ô Washington, hưởng thọ 78 tuổi, Đài phát thanh WGBH đưa tin.



Mendez vẫn hoạt động bí mật trong gần hai thập kỷ sau chiến dịch ở Tehran, và chỉ được biết đến sau khi đạo diễn Ben Affleck quay bộ phim “Argo” vào năm 2012 .
“Ông ấy là một sĩ quan tình báo huyền thoại”, Chris Costa, Giám đốc điều hành International Spy Museum cho biết.
Năm 1979, Cách mạng Iran nổ ra, làn sóng chống Mỹ lan rộng. Đám đông sinh viên Iran tràn vào Đại sứ quán Mỹ ở Thủ đô Tehran, bắt toàn bộ công dân Mỹ trong Đại sứ quán làm con tin.
6 nhà ngoại giao Mỹ không có mặt tại Đại sứ quán Mỹ vào thời điểm đó, đã tìm tới Đại sứ quán Canada và ẩn náu ở đó.
Tháng 1-1980, Tony Mendez được điều tới Iran để đưa 6 người nói trên ra khỏi quốc gia Hồi giáo này. Để bản thân không bị nghi ngờ, Mendez nghĩ ra kế hoạch bay tới Tehran và giả dạng là thành viên đoàn làm phim tìm kiếm địa điểm quay cho một bộ phim khoa học viễn tưởng.
Sau chiến dịch giải cứu thành công này, Mendez đã được Tổng thống Mỹ Jimmy Carter trao Huy chương Ngôi sao Tình báo, một trong những giải thưởng cao quý nhất của CIA.
theo An ninh thủ đô


Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ

Hà Linh |


Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ
Giấy tờ tùy thân của các điệp viên.

Một viện bảo tàng mới mở tại New York (Mỹ) được coi là nơi duy nhất trên thế giới chỉ trưng bày về hoạt động của lực lượng tình báo KGB (Liên Xô).



Một viện bảo tàng mới mở tại New York (Mỹ) được coi là nơi duy nhất trên thế giới chỉ trưng bày về hoạt động của lực lượng tình báo KGB (Liên Xô).
Tờ Guardian (Anh) đưa tin viện bảo tàng này hiện trưng bày 3.500 hiện vật do người thiết kế Julius Urbaitis bỏ công sức sưu tập trong suốt 30 năm qua trên khắp thế giới.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 1.
Súng son môi "nụ hôn của thần chết" là súng ngụy trang dưới dạng son môi có đạn cỡ 4,5mm.




Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 2.
Các điệp viên từng sử dụng dụng cụ đánh giày gắn camera để chụp ảnh tài liệu, cơ sở quân sự, sân bay…
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 3.
Nhân viên KBG đã mang theo máy ghi âm dạng dây để thu lại những cuộc đối thoại hoặc nghe lén.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 4.
Mô phỏng về văn phòng của KGB.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 5.
Chiếc radio do thám Oriol được thiết kế với kích cỡ rất nhỏ để dễ dàng di chuyển và ngụy trang. Thiết bị này hoạt động với tần số vào khoảng 3MHz đến 30MHz.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 6.
Máy mật mã Fialka.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 7.
Điện thoại đặc biệt đảm bảo không bị nghe lén.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 8.
Khách đến bảo tàng có cơ hội được xem video về nơi giam giữ và phương pháp thẩm vấn của KGB.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 9.
Tiền thân của KGB là lực lượng cảnh sát mật Okhrana thành lập từ năm 1881 dưới thời Nga hoàng Nicholas II.
Thăm bảo tàng chuyên về điệp viên Liên Xô tại Mỹ - Ảnh 10.
KGB chính thức thành lập năm 1954 tại Moskva.


theo Báo Tin tức



George Koval – “Điệp viên nguyên tử”

Hồng Sơn |



George Koval – “Điệp viên nguyên tử”
Điệp viên George Koval.

Mười ba năm trước đây, đúng vào dịp khánh thành một tòa nhà mới của Tổng cục tình báo quân đội Nga vào năm 2006, Tổng thống Vladimir Putin có ghé thăm một bảo tàng nội bộ của tình báo quân sự. Nguyên thủ quốc gia Nga dừng lại trước phần giá trưng bày về một điệp viên gần như không mấy người biết đến có mật danh Delma, có tên thật là George Abramovich Koval.

Ông Putin yêu cầu thuyết minh tỉ mỉ hơn về nhân vật này. Nhờ đó, mọi người xung quanh mới biết được, trong suốt chiến dịch săn lùng thông tin về bom nguyên tử của tình báo Xôviết, chỉ duy nhất có Koval là người có thể lọt vào làm việc tại các phòng thí nghiệm chế tạo bom nguyên tử siêu bí mật của Mỹ.
Khi Tổng thống Putin ngỏ ý muốn làm quen với “điệp viên nguyên tử” này thì được biết, ông vừa mới qua đời không lâu trước đó vào ngày 31-1-2006. Phải nhờ đến sự kiện trên, một điều đáng ra đã phải diễn ra từ rất lâu mới có thể trở thành sự thật: George Koval được truy tặng danh hiệu Anh hùng nước Nga vào năm 2007.
Thời niên thiếu
Việc Koval sinh ra tại Mỹ bắt nguồn từ một câu chuyện tình đẹp của cha mẹ ông. Cha của ông vốn là một thợ mộc nghèo lại yêu cô con gái của một thủ lĩnh Do thái giáo tại Belarus. Năm 1910, ông quyết định sang nước Mỹ tìm kiếm cơ hội kiếm tiền mua nhà, trước khi đón người yêu sang sum họp.
Chỉ hai năm sau, ông đã mua được một căn nhà gỗ nhỏ có 5 buồng tại Sioux City (bang Iowa). Tình yêu của họ đã kết trái tại miền đất mới với thành quả là 3 đứa con, George là con thứ hai.
Ngay tại trường phổ thông, Koval đã thể hiện là một học sinh xuất sắc cả về học lực và thể thao. Cậu còn tham gia vào nhiều hoạt động xã hội, ủng hộ và bênh vực người nghèo khó. Koval đã từng bị cảnh sát Mỹ bắt giữ, cũng như ghi vào sổ đen vì nghi ngờ là thành viên của Liên đoàn cộng sản trẻ (YCL - Young Communist League).
Có thông tin còn cho biết, chàng thanh niên này còn tham dự một hội nghị của những người cộng sản tại bang Iowa. Tất cả những thông tin trên sau này được moi ra vào năm 1954, khi Giám đốc Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) Edgar Hoover bắt đầu nghi ngờ về việc Koval hoạt động cho tình báo Xôviết.
Khi cuộc đại suy thoái nổ ra, gia đình Koval quyết định lên một chiếc tàu của Liên Xô, rời khỏi nước Mỹ về định cư tại Birobidzhan, một tỉnh tự trị của người Do Thái tại Nga. Với học lực xuất sắc của mình, Koval đã được nhận vào Trường đại học công nghệ hóa mang tên Mendeleev tại Moscow vào năm 1934.
Ông lập gia đình và có được một cô con gái. Cuộc sống của Koval có lẽ sẽ yên bình trôi qua như vậy, nếu như cơ quan tình báo Xôviết không để mắt tới ông.
Con đường thành điệp viên
Có thể nói, Koval lọt vào tầm ngắm của cơ quan tình báo không chỉ nhờ vào học lực xuất sắc, lòng trung thành với lý tưởng của CNXH và nhờ có tiểu sử đặc biệt – ông từng sinh ra, lớn lên và học tập tại nước Mỹ, nói tiếng Anh tốt và nắm rõ những tập quán tại đây.
Rất nhanh chóng nhận lời sau khi được đề nghị, Koval trải qua một thời gian đào tạo về nghiệp vụ trước khi quay trở lại nước Mỹ.
George Koval – “Điệp viên nguyên tử” - Ảnh 1.
Bất cứ ai ra vào khu vực Oak Ridge đều bị người Mỹ kiểm soát nghiêm ngặt.
Koval đã được tính toán đến hai phương án đặt chân tới Mỹ. Đầu tiên là với một cái tên hoàn toàn mới, tất nhiên với giấy tờ giả do cơ quan tình báo chuẩn bị. Phương án thứ hai là quay trở lại đây với chính tên thật của mình. Vào thời điểm trước chiến tranh, Liên Xô chưa hề có khái niệm gì về việc chế tạo bom nguyên tử.
Chính vì vậy, Koval chỉ được dự tính sẽ tìm kiếm việc làm tại một cơ sở chuyên về hóa học nào đó, thích hợp với chuyên môn của ông. Thế là nghiên cứu sinh xuất sắc được nhiều người quen biết tại Trường Mendeleev được gọi nhập ngũ vào năm 1939. Ngoài người vợ, cả cha mẹ Koval cũng không biết chính xác ông đang ở đâu. Tháng 10-1940, Koval đặt chân lên đất Mỹ.
Koval ban đầu đã may mắn khi làm quen với thuyền trưởng một chiếc tàu chở dầu cập bến tại San-Francisco, nhờ đó mà qua được cửa kiểm soát nhập cảnh mà không bị hỏi han gì. Từ thành phố này, ông tìm đường tới New York theo kế hoạch để gặp một điệp viên tình báo quân sự, trước khi bắt tay vào tìm cách hoạt động tại đây.
Koval quyết định dùng giấy tờ với tên thật để xin vào làm việc tại một nhà máy chế tạo vũ khí hóa học tại Mỹ. Moscow đã nhận được một loạt những thông tin mật đầu tiên về các nguyên liệu từ nhà máy hóa học của quân đội này.
Thành công bất ngờ của điệp viên Delma
Cũng không phải mất nhiều thời gian, Koval đã nhận ra rằng, người Mỹ không coi vũ khí hóa học của quân Đức là mối đe dọa chính trong chiến tranh tương lai. Ông báo cáo về cho các lãnh đạo tại Moscow rằng, người Đức và chính xác hơn là cả người Mỹ đang tập trung nghiên cứu chế tạo một loại vũ khí mới có sức hủy diệt lớn hơn rất nhiều.
Trước yêu cầu của chiến tranh, Koval chính thức được gọi nhập ngũ vào năm 1942. Với kiến thức cơ bản rất tốt của mình, ông còn được quân đội Mỹ cử đi hoàn thiện trình độ về kỹ thuật điện tử tại City College (Manhattan). Koval còn rất ngạc nhiên khi thấy mình được đào tạo thêm về khả năng làm việc với các nguyên liệu phóng xạ.
Cho đến thời điểm năm 1944, dự án chế tạo bom hạt nhân của Mỹ đã bước sang giai đoạn cao điểm, khi mục đích cuối cùng đã gần cận kề. Tuy nhiên những rào cản cuối cùng chỉ có thể vượt qua bằng cách huy động không chỉ càng nhiều các nhà khoa học, mà còn cả những chuyên gia kỹ thuật xuất sắc.
George Koval với trình độ và chuyên môn tốt của mình nhanh chóng lọt vào mắt xanh của các tuyển trạch viên của dự án. Tháng 8-1944, ông chính thức được lệnh tới làm việc tại thành phố Oak Ridge (bang Tennessee).
Dù đã được nhắc nhở trước về việc sẽ phải làm việc với một số loại chất phóng xạ, Koval và cấp trên của mình vẫn không thể hình dung đã được chọn vào một cơ sở tuyệt mật như vậy. Cần nói thêm, nếu như phòng thí nghiệm Los Alamos đang nghiên cứu thiết kế bom nguyên tử, thì một số địa điểm bí mật khác, trong đó có Oak Ridge đang tập trung sản xuất uranium và plutonium làm giàu dành cho loại bom này.
Nhiệm vụ cụ thể của Koval tại đây là một chuyên gia đo và theo dõi mức độ phóng xạ. Do đặc thù của công việc, ông có thể đi lại tự do tại tất cả 3 địa điểm bí mật nhất tại đây, theo dõi mức độ phóng xạ có vượt quá giới hạn cho phép đối với các nhân viên.
Nhờ những thông tin từ điệp viên Delma (mật danh của Koval), Moscow biết được đang có gần 1.500 nhà khoa học và kỹ sư đang miệt mài làm việc tại Oak Ridge, phần nào lường được mức độ quan trọng của dự án. Cũng theo Koval, các chuyến bay quân sự được bảo vệ hết sức nghiêm ngặt đã thường xuyên chở uranium và plutonium làm giàu từ Oak Ridge tới Los Alamos.
Vào thời điểm đó, mọi nhân viên làm việc tại Oak Ridge đều phải tuân thủ những nguyên tắc hết sức nghiêm ngặt. Họ luôn bị giám sát chặt chẽ, kể cả các cuộc điện thoại, không được giao tiếp với nhau nếu không cần thiết. Nói một cách chính xác, điều kiện sống của họ chẳng khác gì trong các trại lính bí mật, chỉ có điều các điều kiện sinh hoạt tại đây rất đầy đủ và tiện nghi.
Trung tướng Leslie Groves – lãnh đạo bộ phận quân sự của dự án Manhattan – là người khi đó đảm trách về an ninh và bí mật tại các cơ sở nghiên cứu chế tạo vũ khí hạt nhân của Mỹ khi đó.
Groves sau này đã cho phát hành cuốn sách “Now It Can Be Told: The Story of the Manhattan Project” (Giờ đây có thể kể: Câu chuyện về dự án Manhattan), trong đó mô tả chi tiết về các biện pháp đảm bảo an ninh cho dự án.
Cũng theo viên tướng này, ông ta tự hào đã xây dựng được một bức rào sắt thực sự giữa các nhân viên trong dự án của mình với thế giới bên ngoài. Có điều “bức rào sắt” của Groves đã bị thủng lỗ chỗ trước những nỗ lực của tình báo Xôviết. Có không ít các nhà khoa học trong dự án này đã chủ động và tình nguyện tìm cách liên hệ và hợp tác với tình báo Xôviết.
Điển hình như nhà vật lý Theodore Hall đã trao cho điệp viên Leotine Cohen một loạt các bản vẽ thiết kế lấy từ Albuquerque. Nhà vật lý gốc Đức Klaus Fuchs khai thác thông tin từ Los Alamos, và sau đó là từ Anh để chuyển cho Moscow.
Nhà khoa học Italy Bruno Pontecorvo, là người đã chủ động tìm cách hợp tác với tình báo Xôviết, đóng vai trò lớn trong việc chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên của Liên Xô.
So với những người trên, vai trò của Koval lại có phần đặc biệt. Ông là người duy nhất mà số phận đưa đẩy trực tiếp có mặt tại một cơ sở bí mật, tận tay tận mắt tìm hiểu tất cả trước khi chuyển cho Moscow những dữ liệu vô giá. Một thời gian sau, Koval còn may mắn xin được nghỉ phép để có dịp gặp trực tiếp chỉ huy có mật danh “Faraday” của mình.
Ông đã chuyển cho người này tất cả thông tin về việc sản xuất nguyên liệu hạt nhân, cũng như cả thiết kế ngòi nổ trong quả bom nguyên tử tương lai. Tất cả những tài liệu quý giá trên được “Faraday” tìm cách chuyển gấp về Moscow, là nơi có Igor Kurchatov – cha đẻ của bom nguyên tử Xôviết đang nóng lòng chờ đợi.
Sự thừa nhận muộn màng
Sau chiến tranh, Koval được đề nghị tiếp tục ở lại làm việc tại cơ sở hạt nhân trên với tư cách một chuyên gia dân sự. Trước sự ngạc nhiên của những ông chủ cũ, Koval đã thẳng thừng từ chối với dự định sẽ trở về New York để tiếp tục học tập.
Năm 1946, trung sĩ-kỹ sư George Koval của quân đội Mỹ quyết định xuất ngũ. Koval có vẻ như đã rất may mắn khi đánh hơi thấy mối nguy hiểm đang tới gần.
Thật ra, đây cũng là kết quả của một sự phân tích kỹ lưỡng tình hình tại Mỹ lúc bấy giờ, sau sự kiện nhân viên mật mã Igor Guzenko tại Canada của Cơ quan tình báo quân đội (GRU) phản bội. Mật vụ Mỹ từ những thông tin thu được đã triển khai một chiến dịch săn lùng gián điệp trên khắp đất nước.
Koval cuối cùng đã quyết định phải rời khỏi nước Mỹ. Cũng theo Koval thổ lộ với người thân, ông còn nhận được một đề xuất làm việc hậu hĩnh nữa tại châu Âu và đã nhận được hộ chiếu để tới Pháp. Nhưng đến cuối năm 1948, Koval đã có mặt tại Moscow.
Thật ra, George Koval đã được người Mỹ để ý tới một cách khá tình cờ. Câu chuyện bắt đầu từ một tấm ảnh tuyên truyền đăng trên một tạp chí Xôviết mà phản gián Mỹ có được, trong đó chụp một gia đình Do Thái hạnh phúc vừa chạy trốn khỏi cái gọi là “thiên đường tư bản tại nước Mỹ” để tới được Birobidzhan.
Cậu con trai có mặt trong bức ảnh chính là Koval. Có điều mãi cho đến tận năm 1950, người Mỹ mới biết được chân tướng thực sự của George Koval.
Quay trở lại với cuộc sống tại Liên Xô, Koval đã chính thức rời khỏi quân đội vào tháng 6-1949, dù trong suốt cả chục năm phục vụ cho GRU, ông chưa bao giờ khoác lên mình một bộ đồng phục nào. Một năm sau, ông quay trở lại Trường Mendeleev để tiếp tục sự nghiệp học hành, bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ.
Cuộc sống của Koval từ đó về sau chỉ có thể gói gọn trong vài từ: yên bình và hạnh phúc, dù có đôi chút trắc trở. Có lần do gặp khó khăn trong chuyện tìm kiếm việc làm để nuôi vợ con, ông cực chẳng đã phải nhờ tới GRU.
Thế là chỉ huy GRU khi đó là Trung tướng Mikhail Shalin đã phải viết một lá thư cho Bộ trưởng Giáo dục, khẳng định ông đã có nhiều công lao đối với quân đội và đề nghị giúp đỡ cho ông. Nhờ đó, Koval tiếp tục được giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại trường đại học trong suốt 40 năm sau đó.
Phải đến đầu thế kỷ XXI, cơ quan tình báo quân sự bắt đầu nhớ tới cựu điệp viên xuất sắc của mình. Ông thường xuyên được mời tới các buổi gặp gỡ của cựu chiến binh, nhận hỗ trợ tiền bạc, được tặng thưởng huy chương “Vì những công lao cho tình báo quân sự” và cuối cùng là một tấm ảnh chú thích về điệp viên “Delma” trong bảo tàng nội bộ của GRU.
Nhưng phải nhờ tới mối quan tâm bất ngờ của Tổng thống Putin, công lao của Koval mới được ghi nhận xứng đáng với danh hiệu “Anh hùng nước Nga”.
theo Công an Nhân dân


Cuộc đời của đặc vụ Mossad - lực lượng tình báo Israel khiến thế giới kinh hoàng

PHƯƠNG PHƯƠNG |


Cuộc đời của đặc vụ Mossad - lực lượng tình báo Israel khiến thế giới kinh hoàng
Ông Yossi Alpher - cựu đặc vụ tình báo Mossad. Ảnh: Getty

Mossad từng là một trong những tổ chức tình báo kín tiếng và nguy hiểm nhất hành tinh nhưng ngày nay, các cựu đặc vụ có thể sống một cuộc đời đơn giản hơn rất nhiều.

Cựu đặc vụ Mossad Yossi Alpher mới đây đã có những chia sẻ chân thành về cuộc đời làm nhân viên tình báo và cả sau khi rút khỏi tổ chức. Ông Alpher sinh năm 1942 tại Washington, DC, nước Mỹ. Khi học cấp ba, ông được giới thiệu đến một chương trình phỏng vấn vào chiều Chủ nhật, phát sóng trên toàn quốc với tên gọi "Những gì tuổi trẻ muốn biết".
Chương trình cung cấp nhiều thông tin thú vị về những nhân vật chính trị cấp cao, chẳng hạn như ông John F. Kennedy trước khi trở thành Tổng thống Mỹ. Ông Alpher cho rằng, đó là một trải nghiệm rất đáng quý cho một thiếu niên, tạo cảm hứng cho ông quan tâm đến các vấn đề chiến lược khi trưởng thành.
Cha ông Alpher là một bác sĩ và mẹ là hiệu trưởng của trường tiểu học. Ông có một người anh trai. Gia đình ông có gốc Do Thái nhưng ông vẫn làm mọi người ngạc nhiên khi muốn đến Israel vì chưa từng bị ảnh hưởng bởi văn hoá, lối sống của người Do Thái.
Lần đầu tiên đến miền đất hứa Israel, ông Alpher mới 20 tuổi. Ông dành một năm học tiếng Do Thái, sau đó trở về Mỹ để hoàn thành năm học cuối cùng tại Đại học Columbia ở New York.
Năm 1964, khi 22 tuổi, ông gia nhập Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) vì chấp niệm rằng đó là cách duy nhất để ông có trở thành người Israel. Trên thực tế, đó là hành động rất bất thường đối với một người Mỹ gốc Do Thái vào thời điểm đó vì người đó sẽ bị tước quyền công dân Mỹ.
Phải đến một vài năm sau đó, ông Alpher mới tự tin xuất hiện tại đại sứ quán Mỹ để xin visa và ông đã thật bất ngờ khi được trả lại hộ chiếu. Ông đã tiếp tục được làm một công dân Mỹ vì Tòa án Tối cao phán quyết rằng việc tham gia đội của một quốc gia khác không phải là căn cứ để tước quyền công dân. Ông Alpher có 2 hộ chiếu kể từ đó.
Trong quân đội Israel, ông khẳng định muốn trở thành một sĩ quan và tham gia sâu vào hoạt động tình báo. Là một người nhập cư mới, con đường sự nghiệp của ông gặp nhiều khó khăn vì phải chứng minh quyết tâm và lòng trung thành. Ông Alpher đã dành tổng cộng 4 năm trong quân đội trước khi tiếp xúc với Mossad (Cơ quan Tình báo Israel).
Ông đã kết hôn khi tôi còn ở trong quân đội. Vợ ông cũng là người Mỹ và 2 người quen biết nhau tại nơi ông sinh ra và lớn lên. Tuy nhiên, cuộc sống ở IDF không phù hợp với gia đình nhỏ của ông, đặc biệt là khi 2 vợ chồng ông muốn sinh con.
Vào những năm cuối thập niên 60, những đứa trẻ có bố mẹ trong quân đội Israel được đưa vào một "ngôi nhà chung", tách biệt khỏi cha mẹ - một điều mà ông Alpher và vợ không thể nào chấp nhận được.
Một đêm nọ, gia đình ông được một số quan chức cấp cao đến thăm. Họ nói rằng đã quyết định bổ nhiệm ông về dạy môn Sinh học ở trường trung học địa phương.
Ông cảm thấy quá sức bất ngờ, hỏi lại rằng liệu ông có đủ trình độ để làm việc đó hay không nhưng phía IDF khẳng định ông là sinh viên tốt nghiệp đại học nên việc trở thành thầy giáo là không có gì đáng tranh cãi.
Trong khi đó, ông Alpher tốt nghiệp chuyên ngành nghiên cứu phương Đông nên ông đã từ chối và xin rời khỏi địa điểm đó. Hai vợ chồng ông chuyển đến ngoại ô Tel Aviv rồi ông bắt đầu làm việc cho Mossad.
Cuộc đời của đặc vụ Mossad - lực lượng tình báo Israel khiến thế giới kinh hoàng - Ảnh 1.
Ông Alpher phục vụ cho Mossad suốt 13 năm. Ảnh: Getty
Phục vụ như một đặc vụ Mossad trong suốt 13 năm, đến 1981, ông Alpher được chuyển đến Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Jaffee, thuộc Đại học Tel Aviv. Trung tâm này là kết quả của "thảm họa chiến tranh Yom Kippur" (nổ ra vào tháng 10/1973 khi liên minh các quốc gia Ả Rập phát động một cuộc tấn công bất ngờ vào Israel).
Cơ sở được tạo thành từ những cựu đặc vụ Mossad và ông Alpher đã lần đầu tiên thú nhận mình từng là nhân viên tình báo khi xuất bản một cuốn sách mang tên "Ngoại vi: Tìm kiếm đồng minh Trung Đông cho Israel" vào năm 2015.
Sau đó, ông được phỏng vấn cho bộ phim gián điệp năm 2017 của Israel tên là Shelter. Ông Alpher đã chia sẻ về các hoạt động bí mật khác nhau mà bản thân đã tham gia bao gồm thu thập, phân tích thông tin tình báo, tuyển dụng và ngoại giao.
Mossad hiện đã áp dụng một cách tiếp cận thân thiện hơn rất nhiều so với trước đây, đó là để cho các cựu đặc vụ tiết lộ ít nhiều thông tin về tổ chức.
Ông Alpher cho rằng, việc chuyển từ quân đội đến trung tâm là bước chuyển biến quan trọng trong cuộc đời làm chính trị của ông từ tư duy tình báo sang tư duy chiến lược.
Theo ông, khi chuyển sang tư duy chiến lược, bản thân trở thành nhân tố chính trong các vấn đề quan trọng của Israel còn khi làm đặc vụ, ông chỉ nghĩ về kẻ thù.
Ông rời Trung tâm Jaffee vào năm 1995 và dành 5 năm tiếp hoạt động với tư cách là giám đốc của Ủy ban Do Thái Mỹ, Văn phòng Israel/Trung Đông tại Jerusalem. Ông đã gặp gỡ và trao đổi với chính trị gia người Palestine Ghassan Khatib.
Đến năm 2000, ông Ghassan và ông Alpher đã quyết định thành lập Bitterlemons – tập trung khai thác internet để thúc đẩy đối thoại giữa người Israel và người Palestine. Tổ chức thu hút sự tham gia của người Iran, người định cư và cả người Hamas. Mỗi tuần họ chọn một chủ đề và tập trung viết, sau đó mọi người có thể thoải mái đưa ra quan điểm.
Tuy nhiên, đến năm 2011, các cuộc cách mạng đã nổ ra trên khắp thế giới Ả Rập, cái gọi là mùa xuân Ả Rập đã đẩy tình hình Trung Đông trở nên rối ren hơn. Đến năm 2012, tổ chức bị buộc phải đóng cửa. Theo ông Alpher, hoà bình giữa Israel và Palestine rất khó có thể được thiết lập và duy trì.
theo Đời sống & Pháp luật

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét