-Tỷ phú là những người thiên bẩm kiếm tiền. Họ là những con người tưởng tài giỏi nhưng thật ra là quá ngu ngốc! -Biết vậy nhưng ai cũng thích mình ngu ngốc!!!
--------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
LÂM HUÊ HỒ - Vua Cõi Phế Liệu Khu Chợ Lớn Thời VNCH Đã Làm Giàu Thế Nào, Sau 1975 Ra Sao
Sinh ra tại Phúc Kiến Trung Quốc, đi lên từ tiệm tạp hóa nhỏ trở thành
một ông chủ đầy quyền lực trong giới thương nhân người Hoa tại Sài Gòn
trước năm 1975 Lâm Huê Hồ cũng lại đánh mất tất cả sau ngày 30/4/1975.
LÝ LONG THÂN
ÔNG VUA KHÔNG NGAI TRONG CHỢ LỚN
Trước năm 1975, tin
đồn và cả báo chí đều loan truyền về những ông vua không ngai của những
người Việt gốc Hoa trong Chợ Lớn. Vua phế liệu và tín dụng Lâm Huê Hồ,
vua lúa gạo Mã Hĩ và bà Lại Kim Dung (nữ hoàng gạo), vua bột ngọt Vị
Hương Tố, Trưởng bang Triều Châu là Trần Thành, vua dệt và sắt thép Lý
Long Thân…
Trong đó nổi bật nhất là Lý Long
Thân. Tin đồn đãi cường điệu hóa sai sự thật cho rằng, ở Sài Gòn Chợ
Lớn chỉ có hai người muốn gặp Tổng thống Thiệu lúc nào cũng được, đó là
Lý Long Thân và Trần Thành, miễn là cứ đến Dinh Độc Lập thì được mở
cửa mời vào. Lý do được ưu đãi là vì hai người nầy đã bỏ tiền ra giúp
Tổng thống Thiệu trong cuộc tranh cử.
Người bình dân lười suy nghĩ, nhẹ dạ dễ tin thì cho rằng đó là sự thật,
nhưng nghĩ ra thì hoàn toàn vô lý. Sự thật đơn giản là, bất cứ một ai,
khi muốn gặp một người lớn mình, hay ngưòi ngang hàng như bạn bè, hoặc
người nhỏ hơn mình như thuộc cấp hay con cháu, thì cũng phải báo trước
để xem người mình muốn gặp có ở nhà hay không ?. Nếu ra ngoài thì chừng
nào về ?
Nhất là đối với các cấp
chỉ huy quân đội, lãnh đạo quốc gia, thì việc giải quyết chiến trường là
tối quan trọng, có ảnh hưởng đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc,
không ai có thì giờ nhàn rỗi để sẵn sàng tiếp những tên cha căn chú
kiết nào đó để nói chuyện tào lao cả. Hơn nữa, các cấp chỉ huy đều có
tùy viên hoặc chánh văn phòng phụ trách những cuộc tiếp xúc, gặp gỡ, để
xếp thứ tự ưu tiên tùy theo tính cách quan trọng của sự việc. Những
ông vua đã không có “ngai vàng” trong một thành phố nhỏ như Chợ Lớn thì
làm sao mà sánh được với ông vua thực sự là Tổng thống, thì làm gì mà
Tổng thống phải nể sợ ?
1/- Những giai thoại về Lý Long Thân Giai thoại là những câu chuyện có
liên quan đến con người thật, đuợc truyền miệng trong dân gian nhưng
không có tài liệu xác nhận là thật hay giả, đúng hay sai.
A/- Lý Long Thân với cơn sốt chim cút :
Những năm 1970, Sài Gòn rầm rộ dấy lên phong trào nuôi chim cút, lấy
trứng và bán thịt cho các nhà hàng, tiệm ăn. Dư luận cho rằng tỷ phú
người Hoa Lý Long Thân là người đã tạo ra cơn sốt chim cút làm cho rất
nhiều người phải tán gia bại sản, trái lại Lý Long Thân thu vào một số
tiền kết xù trong một thời gian ngắn. Chim cút được nuôi ít nhất là từng
cặp, trống, mái. Hai tháng sau khi nở, cút mái đẻ từ 10 đến 12 trứng
mỗi đợt. Sau khi không còn đẻ nữa thì được bán làm thịt.
Cơn sốt chim cút là gíá bán tăng lên một cách kinh khủng từng ngày,
từng giờ một, cùng với tin đồn dồn dập “cút đẻ ra vàng”. Quảng cáo trên
báo, người cần mua một cặp cút giá 5,000 đồng, người cần bán 3 cặp
chim cút với giá 8,000$ một cặp. Thế rồi giá bán, giá mua được phổ biến
tăng lên đến điểm đỉnh lá 15,000$ một cặp. Nhiều tay chơi bạo muốn làm
giàu nhanh chóng, bán xe, vay nợ, mang hết tài sản ra mua chim cút để
hốt bạc, nhưng bỗng dưng không còn ai mua cút nữa, thế là tán gia bại
sản, cút đem rô ti nhậu chơi.
- Thủ đoạn của gian thương :Trước
hết, nắm được số lượng chim cút của phong trào mới bắt đầu, tỷ phú
tung tiền ra cho đám thuộc hạ là hệ thống chân rết thu gom một số lượng
lớn với giá rẻ để tích trữ, chờ khi giá lên cao tung ra bán để hốt
bạc. Đồng thời phát động những tin đồn “cút đẻ ra vàng” ra khắp nơi.
Các mục quảng cáo trên báo liên tục đưa tin tăng giá, tăng đến cao điểm
là 15,000 một cặp cút đang đẻ. Người đăng báo muốn mua và muốn bán
thật ra cũng chỉ là người trong đám chân rết của đại gia mà thôi. Nhiều
người thật sự đã thu lời do bán một vài ba cặp cút, nhưng sau đó lại
bỏ thêm tiền mua vào để kiếm lời nhiều hơn nữa.
Tóm lại, cơn sốt chim cút chỉ là việc
đầu cơ tích trữ, tạo khan hiếm giả tạo để nâng giá, và cuối tung tung
số lượng tích trữ ra bán giá cao để thu lợi. Gian thương hốt bạc, những
người muốn làm giàu nhanh chóng mà không có kinh nghiệm thương trường
lãnh đủ. Trắng tay. B/- Lý Long Thân với vụ tàu chở giấy Viễn Đông : Vụ cơn sốt chim cút do tăng giá để hốt bạc, vụ tàu giấy Viễn Đông do hạ giá để hốt bạc. Ngày 12/5/1974, văn phòng công ty Đại
Nam của Lý Long Thân nhận được điện tín của một nhân viên thuộc hạ ở
ngoại quốc báo tin, lúc 6 giờ sáng cùng ngày tàu Viễn Đông đã rời cảng
Stockhohm (Thụy Điển) chở về Sài Gòn cho công ty X 6,000 tấn giấy, gồm
4,000 tấn giấy vở học sinh và 2,000 tấn giấy in báo. Đồng thời bức điện
cũng cho biết giá giấy trên thị trường quốc tế.Đọc
xong bản tin, Lý Long Thân tính nhẩm ngay ra số tiền lời có thể thu
được, mặc dù tàu giấy đó không phải của anh ta, mà cũng không phải giấy
là ngành nghề kinh doanh của họ Lý.
- Kế hoạch hạ giá :Lập
tức, Lý hạ lịnh cho các cửa hàng trong hệ thống chân rết của anh ta,
hạ giá giấy 10%, riêng khu vực Sài Gòn hạ 20%, rồi 30%, đồng thời đăng
quảng cáo rầm rộ là có 2 tàu chở giấy sẽ cập bến Sài Gòn với giấy tốt,
giá rẻ.Tin tức quá ồn
ào. Giá giấy hạ xuống đột ngột khiến các nhà in, các tờ báo, các nhà
kinh doanh giấy đều e ngại, không dám tích trữ giấy, cũng không dám mua
vào vì sợ tiêu thụ không được. Đích thân ông chủ công ty X đi chào
hàng, nhưng đến đâu cũng nhận được những cái lắc đầu mà thôi. Độc hơn nữa, khi tàu gần cập bến, Lý
lại cho người mang giấy trắng ra phát không cho những người người bán
quà bánh, bán rong trong khu vực cảng, mỗi người vài tập giấy trắng
tinh. Tàu Viễn Đông cập
bến, ông chủ công ty X ra đón, thấy giấy trắng gói hàng trắng xoá nằm
vung vãi trên mặt đất, bèn hỏi và được trả lời : “Giấy rẻ như cho không,
không gói quà thì để làm gì ?” Tàu
Viễn Đông nằm suốt mấy ngày mà chưa có người mua đến chở hàng. Bãi
trường mùa hè lại đến, học sinh nghỉ hè nên chưa vội mua sắm tập vở.
Các cơ sở bán lẻ giấy cũng chờ đợi giá cả nên không thu vào.Đúng
lúc đó, người của công ty Đại Nam đặt vấn đề mua trọn số giấy trên tàu
với giá hạ 50%. Bị lỗ nặng, nhưng không bán không xong, lại phải chịu
lỗ thêm về cước phí vận chuyễn. Vậy là, 6,000 tấn giấy vào kho của Lý
Long Thân. Sau đó, một số báo “khám phá” ra rằng, tàu chở giấy về Sài
Gòn chỉ là “tin vịt”, bố láo, khiến cho giấy lại lên giá và Lý Long
Thân lại hốt bạc. Trước
đó, giới thương gia ít có người biết dùng gián điệp kinh tế, báo chí,
và phao tin đồn thất thiệt trong việc cạnh tranh trên thương trường.
C/- Dùng tiền mua quyền lực để kinh doanh - Tổ chức “Nhất dạ đế vương” chiêu đãi Bảy Viễn :Khi
đã giàu có, Lý Long Thân rải tiền ra để mua chuộc, kết giao với những
nhân vật có quyền thế trong giới kinh doanh, những nhân vật có tên tuổi
trong những bang hội người Hoa. Họ Lý cũng dần dà quen lớn với những
tai to mặt lớn trong chính quyền và quân đội, trong đó có Thiếu tướng
Lê Văn Viễn, tự là Bảy Viễn, biệt danh con cọp Rừng Sác, cùng hai quân
sư tin cậy là Lại Hữu Tài và Lại Hữu Sang. Cuối năm 1954, Lý bỏ ra 4 triệu đồng
để tổ chức một đêm “Nhất dạ đế vương” mua vui cho Bảy Viễn và một số
chức quyền khác. Tại nhà hàng Đại La Thiên, Lý độc quyền bao một vũ nữ
nổi tiếng là hoa hậu Phúc Kiến tên Lý Bing Bing. Biết Bảy Viễn ham của
lạ và ham vui nên Lý đã ép Lý Bing Bing phục vụ cho Bảy Viễn.
Sáng hôm sau, trước mặt Bảy Viễn và mọi người, Lý Long Thân đã ký
check cho vũ nữ hoa hậu một số tiền mà ai ai cũng ngạc nhiên, 50,000$.
Với đòn độc nầy, Lý đã thu phục được thủ lãnh Bình Xuyên, thế là những
công cuộc kinh doanh bắt đầu thực hiện.
- Thành lập hảng xe đò Nghĩa Hiệp và hệ thống khách sạn ở Vũng Tàu : Khi
Bảy Viễn được người Pháp giao cho nhiệm vụ mở đường và giữ an ninh con
đường 15 Sài Gòn – Vủng Tàu, Lý Long Thân bỏ ra 500 lượng vàng thành
lập hảng xe đò Nghĩa Hiệp, độc quyền vận tải Sài Gòn – Vủng Tàu. Bảy
Viễn không bỏ tiền nhưng đứng tên phần hùn và chia tiền lời 50%. Sau
đó, Lý vay vốn của ngân hàng Việt Nam Thương Tín để mở một hệ thống nhà
hàng khách sạn ở thành phố biển Vủng Tàu. Bảy Viễn cũng đứng tên chia
tiền lời.Lý Long Thân biết nắm lấy thời cơ và thu phục quyền lực để kinh doanh và cạnh tranh trên thương trường.
- Hợp tác với Bảy Viễn mua bán á phiện :
Lý Long Thân khởi xướng việc mua bán á phiện, đó là một tổ chức gồm
những người đứng tên trong bóng tối là Lý Long Thân, Bảy Viễn, trung tá
tình báo Pháp (Phòng Nhì) Antonio Savani, chủ khách sạn Continental
Palace là Mathew Franchini. Khách sạn Continental thuộc 4 sao, tại số
132-134 đường Tự Do, ngang bên hông Hạ Viện. Được xây dựng năm 1878,
cao 4 tầng, có 86 phòng. Phòng họp chứa đến 800 người.
Những người lộ diện thực hiện là Trần
Phước, Franchini và Mã Tuyên cùng một số đàn em. Trung tá Savani là
người móc nối Bảy Viễn bỏ Việt Minh về với chính phủ Quốc Gia của vua
Bảo Đại, nên sự liên lạc giữa hai người rất mật thiết.Trần
Phước là tay kinh tài của Bảy Viễn. Trước kia Bảy Viễn làm tài xế cho
ông chủ người Hoa giàu có là Trần Phước. Khi Bảy Viễn lên Thiếu tướng
và có quyền hành lớn của ngành công an, cảnh sát và quân đội Bình
Xuyên, Bảy Viễn đem Trần Phước về nắm nguồn tiền của mình. Lý Long Thân
đến với Bảy Viễn qua tay Trần Phước. Số
là năm 1951, tình báo Pháp thành lập một đội quân bí mật mang tên “Lực
lượng biệt kích không vận phối hợp” thuộc cơ quan Tình báo Đối ngoại
và Phản gián. Nhiệm vụ không vận tiếp tế và huấn luyện những đơn vị
biệt kích tại những khu tự trị của người thiểu số Thái, Mèo, HMông ở
phía Tây Bắc Bắc Việt và phía Đông Bắc nước Lào. Những toán quân nầy
quấy rối các mật khu của Việt Minh ở Việt Bắc và của Lào ở Sầm Nứa.Khi
trở về, những phi cơ vận tải chở theo á phiện. Đến phi trường Tân Sơn
Nhất, á phiện được các xe vũ trang của cảnh sát, hộ tống về nhà kho của
Bảy Viễn ở số 43 đường Lacaze (Nguyễn Biểu, Q.5). Từ đó, Lý Long Thân chỉ đạo phân phối thuốc phiện đến gần 2,500 tiệm hút và nhà hàng ở Sài Gòn – Chợ Lớn và các tỉnh lân cận. Số
lớn á phiện còn lại thì Franchini chuyển về hải cảng Marseille (Pháp)
để cho nhóm Mafia Atoine Gurini chế biến thành heroine cung cấp cho thị
trường châu Âu và Hoa Kỳ. Về việc phân phối đến các tiệm hút thì Lý
Long Thân điều khiển trong bóng tối và người thi hành là Mã Tuyên, cho
nên họ Lý nầy không để lại dấu vết nào cả.
Dư luận cho rằng Bảo Đại biết được vụ làm ăn nầy nhưng lờ đi cho nên
những yêu cầu về tiền bạc của nhà vua được đáp ứng không một chút mặc
cả nào. Dư luận còn đồn rằng, một lần cao hứng, nhà vua đòi nửa triệu
đô la trong vòng 72 giờ để cung cấp cho cô bồ nhí người Tàu lai Tây tên
Hoàng Tiểu Lan (Jenny Woong) đã có một đứa con gái với Bảo Đại, tên là
Nguyễn Phúc Phương Ân. Không
có sẵn tiền đô la, Lý Long Thân và Bảy Viễn tung đàn em đi lùng vét
mua đô la với giá cao, khiến cho Sài Gòn hết sạch tiền Mỹ. Lúc đó, Bảy
Viễn nắm nguồn tiền từ hai sòng bài Kim Chung và Đại Thế Giới, khu mãi
dâm Xóm Bình Khang, hảng xe đò và hệ thống nhà hàng khách sạn Vủng Tàu,
mua bán á phiện… nên có đủ khả năng đáp ứng một số tiền khổng lồ như
thế. Tốc độ làm giàu của
Lý Long Thân trong giai đoạn nầy nhanh đến chóng mặt, nhưng đã khôn
khéo không để lại dấu vết của những cuộc làm ăn phi pháp. Tiền bạc quá
nhiều, nên Lý Long Thân cũng có mưu kế chuyển tài sản ra ngoại quốc
thông qua những công ty xuất nhập cảng của người Hoa trong Chợ Lớn, lợi
dụng ngay cả viên phó tổng lãnh sự tên Hồng Cảnh Tùng của Đài Loan tại
Sài Gòn. D/-Lý Long Thân bán đứng Mã Tuyên :
Những năm 1960, Mã Tuyên làm trưởng mười bang người Hoa trong Chợ Lớn,
trong đó có những băng nhóm xã hội đen như nhóm Tam Hoàng do Hoàng
Long làm thủ lãnh, băng nhóm của Tín Mã Nàm đã từng gây kinh hồn khiếp
vía trong cộng đồng Hoa kiều nầy. Quyền
thế Mã Tuyên rất lớn và được anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm tin cậy,
đã từ Dinh Gia Long vào lánh nạn trong nhà Mã Tuyên đêm 1/11/1963. Sau
khi Đệ nhất Cộng hoà bị sụp đổ, Mã Tuyên bị cho là làm kinh tài cho
gia đình Tổng thống Diệm, nên phải trốn chui trốn nhủi trước sự truy
lùng của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Đến ngày 6/11/1963, Mã Tuyên trốn được vào nhà của Lý Long Thân. Mã
Tuyên đã từng hợp tác với họ Lý trong việc mua bán á phiện, từng làm
thủ lãnh 10 bang hội, nhưng nay đã hết thời nên họ Lý không dám bảo bọc
sợ mang họa vào thân. Lý dùng lời lẻ ngọt ngào khuyên và đề nghị giúp
Mã Tuyên trốn ngay tức khắc sang Nam Vang.Đến 8 giờ tối hôm đó, khi Mã Tuyên ra khỏi nhà khoảng 300 mét thì bị cảnh sát chờ sẵn bắt đi. Để
tránh tiếng phản bạn và tránh những ánh mắt nghi ngờ trong giới người
Hoa, nên ngày 26/11/1963 Lý Long Thân gởi đơn đến Đô trưởng Sài Gòn xin
bảo lãnh cho Mã Tuyên được ra bịnh viện Grall chữa bịnh. Không ai biết
cuộc vận động thế nào, nhưng đơn xin được chấp thuận. Tại bịnh viện
Grall, cuộc thăm viếng giữa Mã Tuyên với Lý Long Thân chỉ kéo dài trong
vòng vài ba phút vì Mã Tuyên nhất định không muốn thấy mặt Lý Long
Thân. Thế là Mã Tuyên ra toà lãnh 3 năm tù. Tài sản bị tịch thu bán đấu
giá, những đồng hương người Hoa mua lại và trao trả lại cho gia đình
ông. Sau 1975, Mã Tuyên bị tù cải tạo 4 năm. Năm 1983 sang định cư ở
Đài Bắc (Đài Loan). Tháng 2 năm 1992, Mã Tuyên cùng một phần gia đình
trở về sống ở Sài Gòn và qua đời vào tháng 9 năm 1994, đuợc chôn tại
nhị tỳ người Hoa. E/- Cách dùng người của Lý Long Thân :
Khác với truyền thống kinh doanh của người Hoa là đưa con cháu hoặc
thân nhân vào giữ những vị trí then chốt trong bộ máy làm ăn, Lý Long
Thân không làm như vậy. Ông thường nói “Kẻ nào biết rõ về ta, kẻ ấy
thắng ta một nửa”. Do đó, họ Lý chủ trương tuyển dụng những tay chân
thân tín ở ngoài dòng họ, nhất là chiêu mộ những người xuất sắc, có thực
tài, có uy thế và khả năng làm được việc lớn, đã từng quen biết qua
những vụ làm ăn. Một trong những người đó là Châu Trần
Tọa, đồng hương Phúc Kiến, là một thành viên của Quốc Dân Đảng thuộc
loại gộc ở Đài Loan. Trần Tọa được chính quyền Việt Nam cho phép hoạt
động trong chi bộ Quốc Dân Đảng của Trần Y Linh, bí thư của Đại sứ quán
Trung hoa Dân Quốc (Đài Loan) ở Sài Gòn. Tọa đã có 4 lần qua Đài Loan
mừng thọ của Tưởng Giới Thạch với tư cách khách mời.
Sau khi Mã Tuyên bị tù, Lý Long Thân
bỏ tiền ra và vận động quyên góp 13 triệu đồng để bảo lãnh Châu Trần
Tọa trám vào chức vụ “mại bản” (Compradore) tại ngân hàng Việt Nam
Thương Tín mà Mã Tuyên đã giữ trước đó.Ở
mỗi công ty, nhà máy, cửa hàng, các ban bệ… Lý Long Thân đều đặt thêm
tai mắt thân tín để giám sát mọi viêc. Lý không cho con cái tham gia
công việc mà gởi hai con là Lee Poon Leung và Lee Sok Wah đến Đại học
Kowloon (Đài Loan). Thời thế thay đổi, tay trắng khó làm nên sự nghiệp.Một
trong những lý do không cho con cái tham gia công việc làm ăn, là đến
khi cần thiết thì không e ngại bán đứng người đã hết lòng chung lưng
đâu cật gầy dựng sản nghiệp cho mình. Mã Tuyên là một ví dụ. 2/- Tổng quát về Lý Long Thân A/- Vài nét về lý lịch :
Người dân Sài Gòn-Chợ Lớn ít nhiều đã nghe tiếng về một thương gia
người Hoa mà báo chí thường nhắc đến như một ông vua không ngai trong
nền kinh tế miền Nam, đó là Lý Long Thân. Tìm hiểu về con người nầy hơi
khó bởi vì ông ta cũng sống bình thường, khá giản dị và kín đáo.
Lý Long Thân sinh ngày 27/8/1918 tại Amoy tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa.
Cha là Lý Ngọc, mẹ tên Trương Thị. Gia đình nông dân đông con, bữa đói
bữa no, nên ngay từ nhỏ, Lý đã có khát vọng cho một cuộc đổi đời.Năm
1938, lúc 20 tuổi, Lý và người bạn tên A Chảy đi làm thuê, góp tiền
làm lộ phí, đến giữa năm đó thì họ có mặt ở Hải Phòng. Nhưng hải cảng
nầy không phải là nơi dung thân của họ Lý. Hắn lại trốn lên tàu, làm
thuê, mò đường vào Sài Gòn. Anh ta tìm đến bang hội Phúc Kiến ở Chợ Lớn
để nhờ giúp đở.Do mặt
mày sáng sủa, ăn nói lễ độ, tay chân nhanh nhẹn, thu phục được tình cảm
của Bang chủ, nên anh ta được giới thiệu vào làm việc tại một hiệu kim
hoàng nổi tiếng là Kim Thành.
B/- Tay trắng làm nên sự nghiệp - Phần hùn trong tiệm vàng Kim Thành:
Lý Long Thân thông minh, sáng dạ, cần mẫn và chăm chỉ nên được chủ
tiệm tin cậy. Do bặt thiệp, dễ mến, Lý sốt sắng chỉ mối, giúp đổi tiền,
làm trung gian giữa khách hàng và chủ tiệm trong việc mua và bán vàng.
Khách hàng là những người có địa vị, làm ăn lớn, giàu có, trúng mánh
nhờ cờ bạc hoặc áp phe buôn bán. Qua trung gian ăn chặn, hưởng hoa
hồng, nhờ thông minh, nhạy bén nắm bắt thời cơ khi giá vàng lên, xuống,
trong 5 năm Lý đã có một số vốn khá to, bỏ tiền vào phần hùn của tiệm.
Kim Thành là một tiệm mua bán vàng uy tín lớn ở Đông Nam Á, từ Sài
Gòn, Hà Nội, Nam Vang (Phnom Penh) và Lào…
Vàng Kim Thành nổi tiếng với hình trái núi, độ vàng ròng tinh khiết
999.9 % nên được gọi là vàng 4 số 9. Một lượng vàng lá nặng 37.5 g, gồm
2 miếng rưởi. Hai miếng nặng 15g/miếng và 1 miếng nhỏ nặng 7.5g. Cả 3
lá được gói trong một bao giấy dầu hiệu Kim Thành.
- Mở công ty môi giới địa ốc Tong Yuan và Savico :
Khi vốn đã lên tới bạc triệu, Lý bỏ Kim Thành, ra lập công ty môi giới
địa ốc Tong Yuan. Nhờ kinh nghiệm môi giới, quen biết rộng rãi, việc
làm ăn phát đạt thu về hàng vạn bạc mỗi tháng. Năm
1943, Lý đem hết tiền mua cổ phần công ty SAVICO (Địa ốc thương cuộc)
rồi mở mang sang việc xuất nhập cảng dựa trên quan hệ Hoa kiều Chợ Lớn
với người Hoa Hồng Kông, Đài Loan và cả Hoa lục nữa, mà Lý là một mắt
xích. Việc kinh doanh mang tầm vóc quốc tế.
3/- Ông vua hai ngai A/ Ngành dệt tơ sợi :
Chính quyền Đệ nhất Cộng Hòa cấm người Hoa kinh doanh một số ngành
nghề, ngay lập tức, Lý Long Thân xin nhập quốc tịch Việt Nam.
Vào tháng 3 năm 1959, Lý Long Thân ký quỹ một số tiền rất lớn để được
giữ chức vụ Hoa Vụ Kinh Lý tại ngân hàng Việt Nam Thương Tín. Ở chức vụ
nầy họ Lý chuyên trách thu hút đầu tư của các đại xì thẩu người Hoa,
để thành lập hai công ty VINATEXCO (Việt Nam Vải Sợi Công Ty) và
VINATEFINCO (Việt Nam Vải Sợi Hoàn Tất Công Ty). Vừa sản xuất, vừa kinh
doanh xuất nhập cảng nên Lý Long Thân thao túng phần lớn thị trường
vải sợi miền Nam.
Tại nhà kho ngay cầu Tham Lương, gần ngã tư Bảy Hiền, vật liệu và hoá
chất phục vụ cho dệt nhuộm nhiều đến nổi cung cấp liên tục trong 3 năm
không hết.
B/- Ngành sắt thép và máy móc :
Lý Long Thân không ngừng phát triển kinh doanh, ngành nghề nào hái ra
tiền thì chớp thời cơ nhảy vào hốt bạc. Từ dệt tơ sợi, nhảy sang sắt
thép. Thành lập nhà máy cán thép VISACA. Đến năm 1974 nhà máy nầy có số
vốn là 600 triệu đồng.“Người
cày có ruộng”. Nông thôn chuyển mình. Nắm bắt cơ hội, Lý Long Thân cho
ra đời hàng chục công ty lớn nhỏ, nhập cảng ào ạt các loại máy móc
nông nghiệp, ngư cụ và hàng tiêu dùng. Dưới tay họ Lý, 19 kho hàng và
hàng chục cơ xưởng rải ra khắp Sài Gòn – Chợ Lớn. Bất cứ lúc nào, những
nhà kho trong Phú Thọ Hoà cũng có sẵn hàng trăm chiếc máy cày hiệu
Kohler, Kubota, máy bơm nước, máy phát điện nhỏ, máy đuôi tôm, nhập
cảng từ Nhật Bản. Hàng loạt nhà kho chứa đầy phụ tùng các loại xe gắn
máy, hàng tiêu dùng… Để quản lý khối tài sản khổng lồ
thuộc nhiều ngành nghề khác nhau, Lý Long Thân đã tạo ra những liên
minh quyền lực chằng chịt dày đặc. Và Lý Long Thân đã trở thành ông vua
hai ngai, ngành dệt vải và máy móc
4/- Vài nét về lịch sử thành phố Chợ Lớn A/- Thành phố Chợ Lớn :
Có hai việc cần phân biệt là thành phố Chợ Lớn và ngôi chợ mang tên
Chợ Lớn, vì sau khi ngôi chợ đầu tiên bị cháy rụi, một ngôi chợ khác
được xây dựng, mang tên Chợ Lớn Mới hay Chợ Bình Tây hoặc chợ Quách
Đàm. Đó là ngôi chợ ngày nay trong thành phố Chợ Lớn.Thành phố Chợ Lớn có đông người Hoa sinh sống, nằm ven kinh Tè, trải dài từ quận 5 và quận 6 ở Sài Gòn.
- Nguồn gốc : Năm 1778, những người Hoa chạy tránh chiến tranh
giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, từ Biên Hoà, Mỹ Tho, Hà Tiên về tập trung
sinh sống tại khu vực nầy. Phần lớn là gốc Quảng Đông, Triều Châu,
nhưng cũng có một số gốc Phúc Kiến, Hẹ, Quảng Tây từ cù lao Phố (Biên
Hoà) cũng chạy về sống trong cộng đồng nầy.
Chợ Lớn được chính thức công nhận là Thành Phố Chợ Lớn ngày 6/6/1865. Trong thành phố có một ngôi chợ cũng mang tên Chợ Lớn. Sau một vụ cháy, ngôi chợ đã từng nằm
ngay nhà Bưu Điện Chợ Lớn ngày nay, bị thiêu rụi và sau đó, một ngôi
chợ xây cất lên trong thành phố, gọi là Chợ Lớn Mới. Người Hoa sinh
sống đông nhất ở quận 5 của thành phố Chợ Lớn.
- Chợ Lớn Mới hay Chợ Bình Tây
: Năm 1927, một thương gia người Hoa là Quách Đàm mua một khu đất và
bỏ tiền ra xây một ngôi chợ đồ sộ, xi măng cốt sắt, mặt tiền ngôi chợ
nằm trên đường Tháp Mười, giữa đường Hải Thượng Lãn Ông (còn gọi là
đường Khổng Tử) và đường Hậu Giang, quận 6.Chợ Lớn Mới còn gọi là Chợ Bình Tây hoặc Chợ Quách Đàm, bên trong chợ có đặt một tượng đồng của Quách Đàm ngay ở cửa chính.
Kết luận Rất nhiều người Việt gốc Hoa đã góp
phần xây dựng nền kinh tế của Việt Nam Cộng Hòa, tuy nhiên trong thế
giới người Hoa ở Chợ Lớn cũng có nhiều gian thương đã từng làm mưa làm
gió trên thị trường, lủng đoạn nền kinh tế quốc gia mà chính quyền phải
bó tay. Thương gia
người Hoa thường có một hệ thống chân rết bên dưới, chuyên thu mua gom
hàng hoá, tích trữ, tạo khan hiếm giả tạo, làm cho giá cả tăng cao rồi
tung hàng ra bán để hốt bạc. Đầu cơ tích trữ là cái mánh ruột của gian
thương.
Việc lập pháp trường cát thời Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy Ban Hành
Pháp TW, xử bắn Tạ Vinh chỉ là một đòn dằn mặt cảnh cáo, nhưng chưa
chắc gì chấm dứt được đầu cơ tích trữ, vì hàng hoá phân tán rộng rãi
trong hệ thống chân rết, không tập trung tại một nhà kho, thì làm sao
mà lập biên bản tích trữ số lượng hàng hoá lớn cho được? Tạ Vinh, giám đốc công ty xuất nhập
cảng Sui Hing, bị tòa án quân sự đặc biệt kết án tử hình về các tội
lủng đoạn nền kinh tế, đầu cơ tích trữ, chuyển ngân bất hợp pháp và hối
lộ.
Ngày 14/3/1966, lúc
sáng sớm, Tạ Vinh (34 tuổi) bị xử bắn tại pháp trường cát trước cửa chợ
Sài Gòn. Toán xạ thủ gồm 10 quân cảnh sử dụng súng carbine bắn vào
ngực. Sau loạt đạn, Tạ Vinh quỵ xuống trong bộ đồ complet, cà vạt. Bà
vợ cố vượt qua vòng kẻm gai để nhào đến bên chồng nhưng bị cảnh sát
chận lại. Bên cạnh đó, có đặt một cái quan tài. Đương sự để lại vợ và 7
con. Tạ Vinh bị xử tử là Tạ Vinh thật, không phải tử tội bị thay thế
bởi một người khác như dư luận loan truyền.
Lý Long Thân có một thành tích buôn bán phi pháp nhưng đã khôn khéo bạch hóa hồ sơ trở thành một công dân bình thường.
Rất may là Lý Long Thân nhanh chân dọt trước ngày 30/4/1975 nên không
chịu cảnh tù tội như Mã Tuyên, phải gở 4 quyển lịch trong trại tù cải
tạo vì là tư sản mại bản.
Theo Trúc Giang – Minnesota ngày 13/6/2013
Rạng sáng ngày 14/3/1966, một người Việt gốc Hoa (Triều Châu) là Tạ Vinh
đã bị đưa ra pháp trường Cát rồi sau đó bị xử bắn vì tội danh "lũng
đoạn nền kinh tế quốc gia". Pháp trường này nằm trước Trụ sở Hỏa xa Sài
Gòn (nay là Công ty vận tải hành khách đường sắt Sài Gòn), nhìn sang bên
kia chợ Bến Thành.
Mặc dù Tạ Vinh không phải là thành viên Tam Hoàng nhưng ngay khi ông
ta bị bắt rồi bị đưa ra xét xử trong một phiên tòa chớp nhoáng, cả Tam
Hoàng Chợ Lớn lẫn Tam Hoàng Hồng Kông đều ra sức cứu Tạ Vinh bởi lẽ "Nếu
không nhanh chóng dập đám cháy nhỏ bằng một thùng nước thì sẽ phải dập
bằng cả một hồ nước"… Bối cảnh của vụ xử bắn Tạ Vinh
Trước khi nói đến chuyện Tạ Vinh bị đưa ra pháp trường cát và bị xử
bắn thì thiết tưởng cũng nên nhìn qua bối cảnh chính trị ở miền Nam Việt
Nam lúc bấy giờ. Sau khi tướng Nguyễn Khánh quậy nát thể chế Việt Nam
Cộng hòa rồi bốc một "nắm đất quê hương" đi lưu vong, Thủ tướng Trần Văn
Hương lại phải đương đầu với cuộc khủng hoảng trong nội bộ Thượng Hội
đồng Quốc gia (THĐQG - là một nhóm gồm 17 chính trị gia được sự ủng hộ
của các tướng lĩnh, đã đứng ra điều hành đất nước). Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, quyền Chủ
tịch THĐQG phản đối ông Hương vì cho rằng thành phần chính phủ không
phản ảnh đúng nguyện vọng của các đảng phái. Tiếp theo, Chữ lôi kéo sinh
viên và nhiều tổ chức tôn giáo khác, tiến hành những cuộc hội thảo,
nhóm họp, biểu tình, đòi Hương phải cải tổ nội các.
Trước sức ép ấy, Trần Văn Hương vẫn cương quyết giữ vững lập trường.
Ông ta tuyên bố: "Nhất định không cải tổ, không lùi bước, bằng mọi cách
phải tái lập trật tự". Chả thế mà báo chí hồi đó đã đặt cho ông ta cái
biệt danh là "Ông già gân".
Nhận thấy tình hình rối ren, không thể khoanh tay đứng nhìn, ngày
24/1/1965 Hội đồng tướng lĩnh nhóm họp để tìm phương cách giải quyết.
Sau 3 ngày thảo luận, các tướng lĩnh cho rằng đã đến lúc cần phải vãn
hồi trật tự xã hội đồng thời cũng để xoa dịu sự chống đối, Hội đồng
quyết định giữ nguyên chức vụ Quốc trưởng của Phan Khắc Sửu, bãi nhiệm
Thủ tướng Trần Văn Hương và đưa đi quản thúc tại Vũng Tàu, đề cử Phó thủ
tướng Nguyễn Xuân Oánh làm thủ tướng để thành lập nội các mới.
Tuy nhiên, ông Oánh xin từ nhiệm vì ông bị áp lực phải dành chức Tổng
trưởng Nội vụ cho trung tướng Nguyễn Chánh Thi. Thế nên, nội các chưa
thành hình thì đã chết yểu rồi được thay thế bằng chính phủ của Thủ
tướng Phan Huy Quát, trong đó Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng
là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng Ngoại
giao là bác sĩ Trần Văn Đỗ, Phó thủ tướng phụ trách kế hoạch là luật sư
Trần Văn Tuyên.
Một ngày sau khi nội các Phan Huy Quát trình diện Quốc trưởng Phan
Khắc Sửu, Hội đồng Quân lực ra quyết định thành lập Hội đồng Quốc gia
Lập pháp để thay thế THĐQG đã bị giải tán.
Ngày 20/5/1965, đại tá Phạm Ngọc Thảo làm đảo chính nhưng không
thành. Bảy ngày sau, một phái đoàn đại diện "Lực lượng Công giáo đoàn
kết" do linh mục Hoàng Quỳnh cầm đầu đến gặp Quốc trưởng Phan Khắc Sửu
và Hội đồng Quốc gia Lập pháp, trình kiến nghị yêu cầu giải nhiệm chính
phủ của Quát vì "chính phủ này không được sự ủng hộ của đồng bào miền
Nam, chỉ phục vụ quyền lợi đảng phái, gây chia rẽ nghiêm trọng…".
Đến đầu tháng 6/1965, nhiều phái đoàn tôn giáo và đảng phái chính trị
khác lại tiếp tục đòi Phan Huy Quát từ chức. Ngày 11/6/1965, Quát triệu
tập một phiên họp đặc biệt dưới sự chủ tọa của Quốc trưởng Phan Khắc
Sửu, gồm trung tướng Phạm Xuân Chiểu, Chủ tịch Hội đồng Quốc gia Lập
pháp; trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Phó chủ tịch kiêm Tổng trưởng Quốc
phòng, thiếu tướng Linh Quang Viên, Tổng trưởng Thông tin... Trong cuộc
họp này, cả Sửu lẫn Quát không ai nhượng bộ ai. Bất ngờ, Quát tuyên bố
từ chức và giải tán chính phủ, Sửu thấy vậy cũng đành phải tuyên bố từ
chức theo.
Ngay hôm sau, Nguyễn Văn Thiệu với cương vị Tổng trưởng Quốc phòng,
triệu tập phiên họp các tướng lĩnh rồi đề nghị trung tướng Nguyễn Chánh
Thi lên làm thủ tướng nhưng Thi từ chối. Thiệu hỏi: "Anh Thi không
nhận. Vậy có vị nào chịu đảm trách vai trò này không?".
Vài phút yên lặng trôi qua. Cuối cùng, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ lên
tiếng nhận trách nhiệm. Kết thúc buổi họp, các tướng lĩnh đồng ý để
tướng Kỳ làm thủ tướng với danh xưng mới: "Chủ tịch Ủy ban Hành pháp
Trung ương", còn Nguyễn Văn Thiệu là "Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc
gia".
Trở thành thủ tướng, ông Kỳ thành lập một nội các mới mà ông gọi là
"nội các chiến tranh". Ngoài việc "chống Cộng đến cùng", một trong những
mục tiêu của nội các này là "tiêu diệt gian thương và trừ khử các băng
nhóm du đãng".
Ngày 26/6/1965, "nội các chiến tranh" cho ra đời hai tổ chức gọi là
"Tổng đoàn trừ gian" để chống đầu cơ, tích trữ, và "Biệt đội bài trừ du
đãng" nhằm xóa sổ xã hội đen. Bên cạnh đó, ông Kỳ cho lập "pháp trường
cát" ngay giữa đô thành Sài Gòn để xử bắn gian thương, du đãng. Thế
nhưng chỉ thời gian ngắn sau, người ta phát giác ra rằng chính các thành
viên trong "Tổng đoàn trừ gian" lại bao che cho gian thương nên chúng
vẫn lộng hành, còn một số người trong "Biệt đội bài trừ du đãng" lại trở
thành "cha đỡ đầu" của các "đại ca số má"! Những hoàng đế không ngai
Sinh năm 1932 tại một làng miền núi thuộc huyện Triều Dương, tỉnh
Quảng Đông, Trung Quốc, lên 4 tuổi Tạ Vinh theo gia đình sang Chợ Lớn,
Việt Nam. Cha mẹ ông ta lúc ấy sống bằng nghề làm đồ tiểu thủ công và
buôn bán nhỏ. Thời điểm năm 1965, có khoảng 200
nghìn người Hoa sống tại miền Nam Việt Nam, chia thành 5 bang, gồm
Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hẹ (hay còn gọi là Khách gia, Hà Cá)
và Hải Nam. Trong đó bang Quảng Đông có khoảng 80 ngàn người đã nhập
quốc tịch Việt. Đa số người Hoa lúc ấy chỉ cần biết tiếng Việt đủ để
giao tiếp chứ không học sâu hơn, còn trong nội bộ thì tiếng Quảng, tiếng
Tiều, tiếng Hải Nam, Phúc Kiến vẫn là ngôn ngữ chính. Vì vậy người Việt
mới có cụm từ "hoảng tiều" (hoảng: Quảng, tiều: Triều), chẳng hạn như:
"Mày nói cái gì hoảng tiều vậy?" - nghĩa là nói tùm lum, chẳng hiểu gì
hết!
Theo truyền thống, người Quảng giỏi về buôn bán và công nghệ, đa số
các xưởng cơ khí, chế tạo khuôn mẫu, máy móc, dệt may ở Chợ Lớn đều do
người Quảng Đông làm chủ. Người Phúc Kiến giỏi về giao thương với hàng
loạt các công ty vận tải đường thủy, đường bộ. Người Triều Châu làm ăn
nhỏ lẻ bằng cách mở tiệm ăn, tiệm tạp hóa, người Hẹ chuyên về tiểu thủ
công nghiệp như lập lò rèn, nhà máy nước đá, đóng giày, làm bánh. Người
Hải Nam chuyên kinh doanh thủy hải sản.
Một báo cáo của Quan thuế Sài Gòn (chức năng như ngành Hải quan bây
giờ) cho thấy năm 1965, người Hoa ở miền Nam Việt Nam kiểm soát 80% việc
mua bán lúa gạo, 78% ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất,
luyện kim và gần như độc quyền trong thương mại. Về bán buôn, họ nắm
100%, bán lẻ nắm hơn 50% còn xuất nhập khẩu thì họ chiếm 90% nên chả
trách Hoa kiều miền Nam lúc ấy gần như kiểm soát hoàn toàn giá cả thị
trường.
Tại Chợ Lớn (là khu vực quận 5 và một phần quận 6, TP HCM hiện nay),
số lượng người Hoa gốc Triều Châu chiếm khá đông. Bên cạnh đó, họ còn có
mặt ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Hà Tiên…, đa số đều mang họ Trần,
Trương, Lý, Lâm, Mã, Quách, Tạ, Trầm, Nhiêu..., phần lớn đều không thích
đi làm mướn cho người khác - hoặc giả có phải làm mướn chăng nữa thì
cũng là làm mướn cho những người cùng bang hội như một cách ẩn nhẫn chờ
thời trước khi lên làm chủ - dù chỉ là chủ của một tiệm tạp hóa bé tí
xíu.
Một khu phố người Hoa ở Chợ Lớn, năm 1966.
Tạ Vinh cũng không nằm ngoài quỹ đạo này. Mới 27 tuổi, ông ta đã là Giám
đốc Công ty xuất nhập khẩu Sui Hing, chuyên kinh doanh lúa gạo, sắt
thép, đường sữa. Mặc dù không thể sánh bằng những ông "vua không ngai"
khác như Mã Hỷ, chủ nhiều hãng tàu đò chạy khắp lục tỉnh Nam Kỳ, hoặc
Lại Kim Dung, trùm các "chành" lúa gạo, hay như Lý Long Thân, từ một
người mua bán đồ phế liệu rồi trở thành đại gia trên thị trường sắt thép
xây dựng với tài sản "nổi" là Nhà máy luyện cán thép Vicasa, Hãng dệt
Vinatexco, Vimytex, Hãng nhuộm Vinatefinco, hãng dầu ăn Nakyco, Hãng
bánh ngọt Lubico, Ngân hàng Nam Việt, Ngân hàng Trung Nam, khách sạn Arc
en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…, hoặc Trần Thành, "ông vua" bột ngọt, chủ
hãng bột ngọt Vị Hương Tố, người đã đẩy lùi cuộc "xâm lăng" của tập đoàn
sản xuất bột ngọt lừng danh Nhật Bản Ajinomoto vào thị trường miền Nam
lúc bấy giờ, hoặc như Tạ Phong, vua thuốc lá, Trương Vĩ Nhiên, vua nhập
khẩu phim ảnh, là chủ nhiều rạp chiếu phim ở Chợ Lớn, Vương Đạo Nghĩa,
chủ hãng kem đánh răng Hynos, Đào Mậu, vua ngân hàng…, nhưng Tạ Vinh
cũng "không phải loại xoàng đâu". Bằng cách liên kết với những ông "vua
không ngai" cùng ngành nghề, Tạ Vinh dần dà có một chỗ đứng cho riêng
mình.
Tạ Vinh và ngôi sao “quả tạ”
Trở lại với việc tướng Kỳ thành lập "Tổng đoàn trừ gian", thời gian
đầu những người thuộc tổng đoàn này hoạt động rất xông xáo. Họ cử nhân
viên đến những tiệm buôn lớn nhỏ của người Hoa ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia
Định cùng các tỉnh miền Tây nơi có nhiều Hoa kiều sinh sống, dò hỏi giá
cả của những mặt hàng thiết yếu như gạo, đường, sữa, vải, ximăng, sắt
thép, phân bón… rồi báo cáo trực tiếp cho tướng Kỳ mỗi khi có biến động.
Trong một bản tường trình của "Tổng đoàn trừ gian" gửi tướng Kỳ có
đoạn: "Họ (tức những "xì thẩu" người Hoa) chi phối giá cả từ trên xuống
dưới. Vàng chẳng hạn, cứ mỗi tối họ điện thoại sang Hồng Kông để nắm giá
rồi sáng hôm sau, họ thông báo giá vàng trong ngày cho tất cả những đầu
mối ở Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh miền Tây. Phân bón cũng vậy, qua tin
mật báo của cảm tình viên Tổng đoàn, trong 6 kho ở bến Chương Dương,
bến Hàm Tử, bến Bình Đông hiện vẫn còn trên dưới 50 nghìn tấn nhưng trên
thị trường, họ ra lệnh cho các đại lý chỉ bán nhỏ giọt vì họ nắm được
thông tin là phân sẽ lên giá…".
Sôi máu, tướng Kỳ ra lệnh cho "Tổng đoàn trừ gian" phải tìm cho được
những nhân vật cụ thể, những hành vi cụ thể về việc "lũng đoạn nền kinh
tế quốc gia". Chẳng mấy chốc, các điều tra viên của Tổng đoàn đã có đầy
đủ chứng cứ về một người Hoa gốc Triều Châu là Tạ Vinh, khi tiến hành
xây dựng doanh trại cho lính Mỹ đã chỉ đạo nhà thầu ăn bớt sắt thép,
đồng thời hối lộ cảnh sát để mang số sắt thép này bán ra thị trường. Bên
cạnh đó, "Tổng đoàn" còn tìm được chứng cứ Tạ Vinh đang tích trữ gạo
chờ thời cơ lên giá, chuyển tiền "chui" sang Hồng Kông…
Và thế là số phận của "xì thẩu" này xem như đã được định đoạt… (Còn tiếp)
Theo An Ninh Thế Giới
Ông vua nghành phế liệu và tín dụng đen Chợ Lớn Lâm Huê Hồ: Của thiên trả địa
05:35 16/03/2012
Sinh ra tại Phúc Kiến Trung Quốc, đi lên từ tiệm tạp hóa nhỏ
trở thành một ông chủ đầy quyền lực trong giới thương nhân người Hoa tại
Sài Gòn trước năm 1975 Lâm Huê Hồ cũng lại đánh mất tất cả sau ngày
30/4/1975.
Chợ Bình Tây, một trong những nơi tập trung giao thương của giới thương nhân người Hoa vùng Chợ Lớn.
“Ăn” từ xác tàu đến... vỏ đạn đại bác
Nhìn vào hình thức và dáng dấp bên ngoài, Lâm Huê Hồ chẳng khác
nào một kẻ khố rách, áo ôm. Thật ra, tiền vận của Lâm Huê Hồ cũng chẳng
hơn gì. Sinh năm 1923 tại Phúc Kiến (Trung Quốc), sang Việt Nam và cư
trú tại khu vực Chợ Lớn trước Cách mạng Tháng Tám (1945), với hai bàn
tay trắng, chỉ mong kiếm đủ cái ăn. Lâm Huê Hồ hoàn toàn mất liên lạc
với gia đình, chẳng biết cha mẹ sống chết ra sao! Số phận bèo bọt gặp
nhau, Lâm Huê Hồ lấy vợ là bà Huỳnh Hương, một phụ nữ mồ côi cả cha lẫn
mẹ.
Bắt đầu từ nghề làm công cho một cơ sở kinh doanh mễ cốc của
một người đồng hương, cái nghèo đã khiến Lâm Huê Hồ tiện tặn, chắt bóp
từng đồng, từng cắc. Sau vài năm, ông ta tích lũy được một số vốn nho
nhỏ, đủ để mở một tiệm tạp hóa. Cái nghề buôn bán tạp hóa là sở trường
của người Hoa. Lợi nhuận thu được từ cửa tiệm này, được Lâm Huê Hồ tích
cóp, mở thêm cửa tiệm khác. Cứ thế, chẳng bao lâu ông ta đã là chủ nhân
của nhiều cửa tiệm tạp hóa.
Thời mới lưu lạc sang Việt Nam, Lâm Huê Hồ cũng từng quảy gánh
đi rong khắp hang cùng ngõ hẻm để mua bán ve chai. Vì thế mà ông ta rất
rành cái nghề lam lũ, nhưng cũng kiếm được tiền này. Ông ta nảy ra suy
nghĩ, nếu như có một cơ sở thu mua phế liệu, thì cũng không khó để làm
giàu. Thế là Lâm Huê Hồ hăm hở khai trương cơ sở thu mua phế liệu. Với
kinh nghiệm sẵn có, ông ta tuyển mộ một số nhân công giỏi chuyên phân
loại và tân trang những thứ mà người ta bỏ đi, để mua vào với giá hời.
Thế là có những món ông ta chỉ bỏ ra 1 đồng nhưng thu lại đến 10 đồng.
Đến năm 1956, ông ta không còn thu mua lẻ tẻ, mà bắt đầu bỏ
vốn đánh những chuyến hàng phế liệu lớn, như các loại sắt, thép của quân
đội không còn sử dụng, đang cần thanh lý. Ra quân lần đầu, Lâm Huê Hồ
được một người quen cho biết: Hải đoàn 24, trú đóng tại Cát Lái, đang
muốn thanh lý một số lượng khá lớn sắt, thép không còn sử dụng. Sau đó,
Lâm Huê Hồ được kẻ môi giới tiến cử với viên chỉ huy đơn vị này là
Nguyễn Thúc Phụng.
Thoạt đầu, nhìn Lâm Huê Hồ, Phụng tỏ ra thất vọng và coi thường
dáng vẻ nghèo nàn của đối tác. Nhưng Lâm Huê Hồ nhanh chóng chìa ra món
tiền lót tay khá hậu hĩ. Vậy là hơn 30 tấn sắt, gần 400 kg vừa nhôm,
vừa đồng được Nguyễn Thúc Phụng bán cho Lâm Huê Hồ với giá 40.000 đồng.
Tiền trao, cháo múc. Lâm Huê Hồ hí hửng điều xe tải đến Cát Lái
chở hàng về kho. Nhưng khi vừa ra đến xa lộ, thuộc địa phận Thủ Đức,
đoàn xe bị nhân viên thuế quan chặn lại và hốt trọn do không có giấy tờ
hợp lệ. Ngay sau đó, Lâm Huê Hồ phải móc hầu bao ra chung chi cho mấy
“con hạm” ở Cơ quan An ninh Bộ Quốc phòng đang điều tra vụ việc để khỏi
bị truy tố về tội danh: “Mua bán bất hợp pháp hàng quân dụng”. Thua to
vố này, khiến Lâm Huê Hồ rút ra bài học xương máu, để tự biết mình chưa
đủ thế lực đụng đến phế liệu quân dụng. Ông ta quay sang mặt hàng phế
liệu dân dụng cho an toàn để chờ thời.
Năm 1961, do đã quá hạn sử dụng nên Hãng tàu kéo Satav cho
thanh lý tàu Algol. Lâm Huê Hồ đã trúng vụ thầu này, nhưng bị Đại tá Đỗ
Mậu, Giám đốc Nha An ninh quân đội Sài Gòn, làm văn thư gửi đến các cơ
quan hữu quan, yêu cầu bác bỏ kết quả này, với lý do: Tránh hậu quả Lâm
Huê Hồ tiếp tục làm ăn phi pháp, bởi lẽ ông ta là một gian thương có
nhiều thành tích bất hảo. Lúc bấy giờ Lâm Huê Hồ đã có nhiều tiền và
cũng đã biết kết thân với một vài nhân vật có thế lực trong guồng máy
chính quyền và quân đội Sài Gòn để chống lưng. Vì thế ông ta đâu chịu
buông tay.
Lâm Huê Hồ đã thông qua bùa phép của các quân sư, nhờ người
khác đứng tên. Kết quả, Lâm Huê Hồ không phải chỉ mua được con tàu nói
trên, mà ông ta còn trúng đến 6 con tàu phế liệu cũng của Hãng Satav.
Lâm Huê Hồ nhanh chóng tân trang những con tàu này thành tàu chở hàng.
Nhưng lo sợ nếu mình đứng ra khai thác, sẽ bị những đối thủ cạnh tranh
và các thế lực đối nghịch tố cáo về tội gian lận thương mại. Thế là ông
ta nhanh tay bán nó đi để thu về một số lời khá lớn.
Sẵn tiền trong tay, ông ta thường xuyên đi đêm với các chức sắc
cao cấp của ngành hỏa xa, lót tay cho họ những khoản hoa hồng hậu hĩ,
để độc quyền thu mua hầu như tất cả đầu máy, đường ray, tà vẹt, toa xe
và cả những đoàn tàu từ thời Pháp để lại đang được phép thanh lý theo
mặt hàng phế liệu. Sau khi những núi hàng khổng lồ này đã lọt vào tay
Lâm Huê Hồ, các quan chức hỏa xa không còn gì để ăn, nhiều đoạn đường
sắt, nhiều toa xe còn tốt. được họ báo cáo “bị Việt Cộng đặt mìn phá
hủy”, phải thay thế. Lâm Huê Hồ lại có hàng để mua.
Cũng vào thời điểm này, quân đội Mỹ chủ trương tái vũ trang cho
quân đội Việt Nam Cộng hòa những loại vũ khí tối tân. Hàng trăm nghìn
khẩu súng do Pháp để lại, như: Grant M1, tiểu liên Thompson, tiểu liên
M3, trung liên bar, đại liên 30 và cả xe nồi đồng đều được gom về các
kho của Lục quân Công xưởng, nấu chảy ra, thành phế liệu, trước khi
thanh lý, theo quy định. Lâm Huê Hồ lại thu gom được món hàng béo bở
này.
Thứ mà ông ta thích nhất là vỏ đạn bằng đồng của đại bác 105
ly, bởi vì kim loại này rất được giá. Thế nhưng, khi thấy nguồn lợi từ
ngành này quá lớn, và Lâm Huê Hồ đã ăn được những quả quá ngon, nên ông
vua vải sợi Lý Long Thân, có cơ sở cán thép xây dựng, và thượng nghị sĩ
Hoàng Kim Quy, “ông vua ngành sản xuất cọc sắt, hàng rào kẽm gai, lưới
chống đạn B40” phục vụ cho quân đội đã nhảy vào chia phần.
Ý thức được thế lực ngầm lẫn công khai của hai đối thủ này, một
mặt Lâm Huê Hồ đã khôn khéo xuống nước chịu làm nhà cung cấp nguyên
liệu cho cả hai phía để cầu thân. Ông ta nghĩ, bán cho ai cũng là bán,
miễn sao có lời thì thôi. Một mặt, Lâm Huê Hồ lo ngại về lâu, về dài sẽ
bị lật kèo và nhiều bất trắc sẽ xảy ra. Thế là ông ta bắt đầu để mắt
sang lĩnh vực cho vay vốn đang thịnh hành trong cộng đồng người Việt gốc
Hoa tại Sài Gòn - Chợ Lớn. Một kiểu tín dụng đen, bởi chỉ hoạt động
chui, không được cấp phép và tất nhiên là không hợp pháp.
Tòa nhà Ngân hàng Quốc gia Việt Nam trước năm 1975.
Ông chủ của “siêu ngân hàng”
Trước năm 1975, tại miền Nam chỉ có
một ngân hàng duy nhất thuộc quyền chế độ Sài Gòn là Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam, với trương mục tiết kiệm nổi tiếng "Con gà ấp trứng vàng". Còn
lại, tất cả những ngân hàng khác, đều do tư nhân đầu tư, hoạt động dưới
sự kiểm soát chặt chẽ của Bộ Tài chính. Trong số đó, hơn một nửa là các
ngân hàng khá bề thế của nước ngoài, như: Chase Manhattan của Tập đoàn
dầu lửa Mỹ Rockefeller, Banque Francaise Commerciale (BFC - Pháp),
Banque Francaise Asiatique (BFA - Pháp), Trung Hoa Ngân hàng, Thượng Hải
Ngân hàng, của các tập đoàn tư bản Hồng Công và Đài Loan… Cùng với một
số ngân hàng do người Việt Nam làm chủ. Trong số này chỉ có một người
Hoa duy nhất hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, đó là tỉ phú Đào Mậu,
Tổng giám đốc Trung Quốc ngân hàng.
Sự thật thì, các nhà tỉ phú người Hoa Chợ Lớn, không thích đầu
tư vào hoạt động ngân hàng. Bởi vì ngành nghề này đòi hỏi phải có trình
độ chuyên môn cao. Cho dù họ thừa khả năng để thuê mướn những chuyên
viên giỏi về quản lý, kế toán, tài chính. Nhưng hầu hết họ đều có chung
một tâm lý: chỉ muốn trực tiếp điều hành, tính toán công việc làm ăn
trong những ngành ít vướng mắc đến thủ tục, giấy tờ. Nhất là càng ít
liên hệ với chính quyền càng tốt. Chính vì thế mà Lâm Huê Hồ bước vào
kinh doanh tiền tệ không bằng cách mở ngân hàng, mà chỉ dưới hình thức
cho vay, lấy tín chấp làm chính mà không cần tín dụng.
Vào thời điểm đó, tình trạng cho vay tiền góp, mua bán hàng hóa
bằng hình thức trả góp chưa thịnh hành như bây giờ. Khi cần tiền, người
có nhu cầu phải vay với lãi suất cắt cổ. Phổ biến nhất là mấy tay người
Chà Và Ấn Độ, thống lĩnh các con đường Gia Long (Lý Tự Trọng ngày nay),
Nguyễn Phi, Trương Định và các khu vực vây quanh chợ Bến Thành, chợ Cũ,
chợ Cầu Ông Lãnh… chẳng biết do đâu mà người dân gọi họ là "Chà
sét-ty", chuyên cho vay với lãi suất "xanh xít - đít đu" (5 thành 6, 10
thành 12). Biết là thế, nhưng đa số dân chúng vẫn tìm đến họ, vì chưa
quen với việc vay vốn ngân hàng, mới nghe đến giấy tờ, thủ tục rườm rà
họ đã xá dài.
Tại Chợ Lớn cũng thế, nơi mà các hoạt động kinh doanh khá sôi
nổi và phát triển. Ngoại trừ một ít những nhà tư sản, làm ăn lớn, có
hãng xưởng hẳn hoi, khi cần vốn mới quan hệ với ngân hàng để vay. Tuyệt
đại đa số còn lại, họ chỉ biết tìm tới những người dư dả cùng bang,
trong cộng đồng để hỏi vay. Đặc biệt, giữa người Hoa với nhau, lãi suất
được chủ nợ tính rất nhẹ nhàng, hợp lý.
Con số người đứng ra cho vay chuyên nghiệp tại Chợ Lớn cũng chỉ
trên dưới 10 người. Lượng tiền huy động cho mỗi thân chủ vay cũng đến
mức 100 triệu là tối đa. Nhưng từ khi Lâm Huê Hồ nhập cuộc thì khác hẳn.
Tùy theo thân thế và sự nghiệp của mỗi người, ông ta cho vay từ năm,
bảy chục ngàn đến vài tỉ. Lâm Huê Hồ đặt cơ sở cho vay tại hai địa chỉ:
70 Trần Chánh Chiếu và 12 Trần Thanh Cần. Mỗi nơi chỉ có vài nhân viên
thư ký và tài phú trực tiếp làm việc với khách hàng. Thủ tục vay hết sức
đơn giản. Nếu không được những người quen biết, hoặc có uy tín giới
thiệu: con nợ phải chứng minh được địa chỉ, nơi cư trú một cách chính
xác và rõ ràng. Kế đến, ghi vào một cuốn sổ tên họ, số tiền vay và cam
kết hoàn trả đúng ngày. Tất cả được các thư ký đưa tới cho Lâm Huê Hồ
duyệt xét, và người vay ký tên trước mặt ông ta là xong.
Lãi suất mà Lâm Huê Hồ đưa ra, cao nhất là 3% mỗi tháng, đối
với những khoản tiền lớn. Còn những khoản tiền nhỏ, của những người kinh
doanh cò con, Lâm Huê Hồ chỉ thu từ 1 - 2%. Thủ tục đã đơn giản mà mọi
việc đều được tiến hành một cách nhanh chóng. Lúc nào Lâm Huê Hồ cũng có
sẵn một lượng tiền mặt rất lớn để phục vụ khách hàng. Nhiều "đại xì
thẩu" tiếng tăm lừng lẫy, như Lý Long Thân, Trần Thành, La Thành Nghệ,
Mã Hý, Trương Văn Khôi… từng là con nợ của ông ta. Nhưng chỉ riêng hai
nhân vật Lý Long Thân và Trần Thành, thì số tiền họ vay có lớn đến mấy,
Lâm Huê Hồ chỉ tính lãi từ 1 - 1,5%. Đôi khi thời gian vay không lâu,
ông ta... cống hỷ luôn.
Câu hỏi được đặt ra là Lâm Huê Hồ lấy đâu một lượng tiền khổng
lồ như thế để kinh doanh tín dụng đen? Chắc chắn đó không phải là vốn
liếng của riêng một mình ông ta, mà do một số bà con người Hoa, có tiền
nhàn rỗi, không làm ăn gì, thấy cơ ngơi và thế lực của Lâm Huê Hồ quá
lớn, họ đã tin tưởng, mang tới gửi cho ông ta với lãi suất chỉ 1%. Ông
ta dùng khoản tiền đó cho vay xoay vòng với lãi suất gấp đôi để thu lợi.
Vấn đề là Lâm Huê Hồ rất đúng hẹn, không bao giờ trả lãi chậm cho số
người này. Đồng thời, bất cứ lúc nào họ muốn rút vốn ra, cũng được Lâm
Huê Hồ vui vẻ đáp ứng ngay.
Sau ngày 30/4/1975, giống như hầu hết các ông vua không ngai
khác, Lâm Huê Hồ đã tìm cách tẩu tán tài sản của mình. Ông ta còn cầm
đầu một đường dây với quy mô lớn, thu tiền của nhiều nhà tỉ phú khác, để
mua vàng tẩu tán qua Hồng Công. Lâm Huê Hồ đã tạo ra tình trạng chảy
máu vàng nghiêm trọng và là nguyên nhân gây xáo trộn thị trường, làm cho
giá vàng vào thời điểm đó tăng nhanh đến chóng mặt.
Khi đánh hơi được việc làm phi pháp, gây tác hại nghiêm trọng
cho đất nước và xã hội của mình sẽ bị Cơ quan An ninh chính quyền mới
phát giác, Lâm Huê Hồ và những kẻ đồng hội đồng thuyền, chuẩn bị vượt
biên. Nhưng tất cả đã muộn màng. Ngày 10/9/1975, Lâm Huê Hồ cùng đồng
bọn, bao gồm Mã Tuyên, Trần Thanh Hà, Trang Trịnh Nghi, vua xăng dầu Đào
Tắc Kinh… và đám tay chân bộ hạ đang tụ tập tại nhà ông ta, chuẩn bị
xuống tàu thì bị sa lưới Đoàn Thiên Lý
Cái kết đắng của “tỷ phú ngân hàng” Sài Gòn
Trở thành tỷ phú một cách nhanh chóng, cuộc đời Lâm Huê Hồ rẽ sang một hướng khác khi bắt tay vào lĩnh vực ngân hàng.
Vào những năm đầu thập niên 1960, tại Sài Gòn ai có trong tay bạc triệu được xem là người giàu nứt đố đổ vách. Lâm Huê Hồ đã đạt được danh hiệu đó cũng nhờ vào mua bán phế liệu. Nhưng danh triệu phú chưa làm Lâm hài lòng...
"Trùm" thu mua phế liệu
Tháng 8/1961, các nhật báo tại Sài Gònđăng
tải cáo thị gọi thầu. Đơn vị gọi thầu là hãng tàu kéo Satav cần thanh
lý tàu Algol vì bị hư hỏng nặng. Lâm Huê Hồ dự thầu và đã trúng thầu.
Sau tàu Algol, Lâm được mua thêm 6 chiếc tàu nữa cũng từ công ty Satav. Các phi vụ này giúp Lâm có được "món hời" không nhỏ.
Sẵn tiền, Lâm thường xuyên đi đêm với
các nhân vật cộm cán của ngành đường sắt. Vì thế những toa xe, những
thanh tà vẹt, những khúc đường ray thậm chí có khi cả đoàn tàu cũng được
thanh lý theo dạng hàng phế thải.
Lâm ôm hàng núi hàng thanh lý đó và không mấy chốc đã biến chúng thành những khoản lợi nhuận khổng lồ. Lâm Huê Hồ nhanh chóng trở thành tỷ phú.
Tuy nhiên cuộc đời ông sau đó rẽ vào một bước ngoặt khác khi bắt tay vào lĩnh vực ngân hàng.
Lập ngân hàng "ma"
Trước năm 1975, thị trường ngân hàng
tại Sài Gòn rất sôi động. Trong số các ngân hàng tư nhân có hơn một nửa
là chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài.
Ngôi nhà 70 Trần Chánh Chiếu, ở Chợ Lớn (mũi tên), nơi hơn nửa thế kỷ trước Lâm Huê Hồ dùng làm điểm giao dịch cho vay.
Các hoạt động tín dụng thời bấy giờ không
chú trọng nhiều đến cho vay trả góp hoặc mua hàng trả góp. Mọi dịch vụ
cho vay nặng lãi thường nằm trong tay những người Chà Và (Ấn Độ).
Lãnh địa của giới cho vay này ở quanh chợ Bến Thành và tập trung nhiều nhất là trên đường Gia Long (Lý Tự Trọng bây giờ).
Người có nhu cầu thường đến đó để vay
với một lãi suất cao ngất ngưởng, 12% mỗi tháng. Tuy biết lãi suất cao
nhưng người dân vẫn chấp nhận bởi họ rất ngán ngẩm thủ tục giấy tờ ở các
ngân hàng rườm rà và rắc rối.
Lâm Huê Hồ nắm bắt được điều này nên
ông đã mạnh dạn bước vào kinh doanh tiền tệ. Trong kinh doanh, Lâm là
người đặt chữ tín lên hàng đầu. Trước khi bước vào lĩnh vực kinh doanh
tiền tệ, Lâm cũng đã từng vay mượn.
Nhiều người cho Lâm vay rất thích ông
vì ông trả gốc và lãi rất đúng hẹn. Bởi thế khi cần huy động vốn Lâm gặp
rất nhiều thuận lợi.
Vì vậy, cả người cần vay tiền lẫn
người có tiền dư đều thích tìm đến 70 Trần Chánh Chiếu và 12 Trần Thanh
Cần nơi Lâm đặt văn phòng giao dịch. Mỗi nơi chỉ có vài nhân viên thư ký
và tài phú trực tiếp làm việc với khách hàng. Thủ tục vay hết sức đơn
giản. Ngược lại, khi có người nhờ vả, Lâm cũng luôn sẵn sàng giúp đỡ mà
không đòi hỏi hay đặt điều kiện gì quá đáng.
Không bao lâu, Lâm Huê Hồ đã trở thành
một tỷ phú cỡ lớn và cơ sở hoạt động của ông không khác gì một ngân
hàng. Có khác chăng đây chỉ là một ngân hàng "ma" không phép.
Của thiên trả địa
Nhu cầu cần tiền trong giới kinh doanh
luôn bất tận. Lâm Huê Hồ giàu có đến cỡ nào đi nữa thì một mình ông
cũng không thể đáp ứng xuể. Bởi thế, ông phải huy động thêm vốn từ những
nhà đầu tư khác. Những người này rót vốn cho ông để lấy lãi 1% và ông
dùng tiền này cho vay với lãi suất gấp 2 gấp 3.
Với những nhà đầu tư rót vốn cho ông,
ông trả lãi rất đúng hẹn và họ muốn rút ra lúc nào ông đều vui vẻ đáp
ứng. Với những khách hàng vay vốn của ông, thủ tục vay cũng hết sức đơn
giản.
Thị trường tín dụng đen tại Chợ Lớn
lúc bấy giờ chỉ có khoảng 10 người với số vốn cho vay không nhiều. Từ
khi có Lâm tham gia, thị trường sôi động hẳn lên và những tay cò con kia
vắng khách. Chỉ còn cách duy nhất để tồn tại là họ góp vốn vào cho Lâm
để cùng kinh doanh.
Lãi suất Lâm cho vay thường là 3% đối với những con nợ lớn. Những khoản vay nhỏ ông chỉ lấy từ 1- 2%.
Một khoản ưu tiên dành riêng cho 2
nhân vật khác là Lý Long Thân - vua vải sợi đã từng làm ăn với ông trong
suốt thời gian buôn phế liệu và Trần Thành - vua bột ngọt Vị Hương Tố,
thì số tiền họ vay có lớn đến mấy, Lâm Huê Hồ chỉ tính lãi từ 1 - 1,5%.
Đôi khi thời gian vay không lâu, ông ta miễn tính lãi xem như một chiêu
khuyến mãi hậu hĩnh.
Bước vào lĩnh vực cho vay, Lâm đã
thành công hơn cả các ngân hàng. Giới làm ăn đánh giá ông là "vua ngân
hàng của các ngân hàng" mặc dù trên danh nghĩa ông không hề nắm một ngân
hàng nào trong tay.
Sau ngày 30/4/1975, Lâm Huê Hồ tìm
cách tẩu tán tài sản. Theo báo Công an Nhân dân: "Ông ta còn cầm đầu một
đường dây với quy mô lớn, thu tiền của nhiều nhà tỷ phú khác, để mua
vàng tẩu tán qua Hồng Kông.
Lâm Huê Hồ đã tạo ra tình trạng chảy
máu vàng nghiêm trọng và là nguyên nhân gây xáo trộn thị trường, làm cho
giá vàng vào thời điểm đó tăng nhanh đến chóng mặt.
Khi đánh hơi được việc làm phi pháp,
gây tác hại nghiêm trọng cho đất nước và xã hội của mình sẽ bị Cơ quan
An ninh chính quyền mới phát giác, Lâm Huê Hồ và những kẻ đồng hội đồng
thuyền lên kế hoạch vượt biên. Tuy nhiên, ngày 10/9/1975, Lâm đã bị bắt
khi đang cùng đồng bọn chuẩn bị xuống tàu".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét