Bí ẩn bầu trời ở Nga bỗng dưng tối đen "như tận thế" giữa ban ngày
Ngọc Bích |
16
Khung cảnh tối đen như mực dù đang là ban ngày. Ảnh: SIBERIA TIMES
Theo lời người dân tại đây, Mặt trời đột nhiên biến mất và biến nơi đây thành cảnh tượng như ngày tận thế.
Mới đây, một đoạn phim gây sốc, quay lại cảnh tượng toàn bộ
khu vực Yakutsk, Siberia, Nga bỗng dưng rơi vào bóng tối dù khoảng thời
gian đó thực tế đang là ban ngày. Vụ việc diễn ra vào khoảng ngày 23/8,
tuy nhiên, tới 29/8, nó mới chính thức được công bố.
Trong suốt 4
tiếng liên tục, từ 11h30 - 2 chiều (giờ địa phương), Yakutsk chìm trong
một màu đen kịt. Theo lời người dân tại đây, mặt trời đột nhiên biến
mất và biến nơi đây thành cảnh tượng như ngày tận thế.
Ngay
sau khi sự việc kỳ quái này xảy ra, khoảng 50 xác mòng biển cũng bất
ngờ xuất hiện trên bờ hồ Baibal-Kuel gần đó. Một số người dân khẳng
định, những chiếc xe điện của họ cũng đột ngột cạn kiệt.
Hiện
tại, Bộ Quốc phòng Nga vẫn không đưa ra bất kỳ bình luận nào về vấn đề
trên. Trong khi đó, cư dân mạng truyền tai nhau hàng loạt thuyết âm mưu.
Một số người cho rằng, vụ việc trên là do người ngoài hành tinh gây ra.
Và đây là bằng chứng cho thấy họ đang có một cuộc tấn công vào Trái
Đất.
Một quan chức Bộ Tình trạng khẩn cấp Nga tại Yakutsk cho biết: “Chúng tôi có những nhận định riêng về sự việc trên, tuy nhiên, lại không được phép tiết lộ”.
Ivan Gorokhov, người đứng đầu quận Eveno-Batynaisky, chia sẻ: “Lúc
đó trời rất tối. Vào thời điểm này những năm trước, mặt trời thường mọc
cao. Tôi thử đưa tay tắt điện trong văn phòng làm việc và không gian
bỗng trở nên tối đen như mực. Chúng tôi đã gửi thông báo và yêu cầu nhận
được lời giải thích chính xác cho sự việc trên, tuy nhiên không nhận
được hồi âm”.
Natalia Kovalyova, người đứng đầu bộ phận dự
báo khí tượng và nông nghiệp, lại cho rằng cháy rừng là nguyên nhân gây
ra hiện tượng trên: “Theo kết luận sơ bộ từ những thông tin mà chúng tôi nhận được, đây chỉ là một phần của khí tượng học”, bà nói.
Trước đây, tại khu vực này cũng từng xuất hiện trận “mưa máu” khiến cả một thị trấn bị nhuộm đỏ.
Soha
Bí ẩn về Ngày đen tối ở New England
Bầu trời vùng New England, Mỹ, một buổi sáng
tháng 5/1780 đột ngột tối sầm. Người dân trong vùng hoảng hốt lo sợ Ngày
Phán xét cuối cùng đã tới.
Bức họa mô tả bóng tối giữa ban ngày sáng 19/5/1790 trích từ "Our First History” của Richard Devens, 1876. Ảnh: Ancient Origins
10 giờ sáng ngày 19/5/1780, ánh Mặt Trời ở New England mất hút giữa bóng
tối như ban đêm. Những bông hoa co cụp khép cánh, gia cầm chạy nhanh về
chuồng trú ẩn. Người dân chứng kiến Mặt Trăng tỏa ra ánh sáng có màu đỏ
như máu khi bóng tối nhấn chìm một loạt thành phố từ tiểu bang Maine
đến New Jersey. Nỗi sợ hãi, hoảng loạn bao trùm khắp nơi. Sự kiện kỳ bí
này nổi tiếng trong lịch sử với tên gọi Ngày đen tối ở New England.
Sự kiện này được ghi lại trong nhiều quyển nhật ký, thơ ca và sách vở.
Nhân chứng khi đó mô tả sự hoảng loạn diễn ra khi ánh sáng ban ngày lụi
dần và bóng tối đáng sợ ập tới. Lúc bóng tối thống trị, thậm chí cả Mặt
Trăng và những vì sao cũng bị che khuất.
Niềm tin về Ngày Phán xét
Bối rối và lo sợ càng dâng cao trong điều kiện thông tin liên lạc chưa
phát triển vào thời kỳ này. Không có điện tín hay các bản tin radio,
người dân hoang mang không biết điều gì đang xảy ra hay nguyên nhân nào
khiến bóng tối đột ngột thống trị giữa ban ngày. Trong sự thiếu vắng
thông tin và những lý giải khoa học, họ chỉ còn cách tìm lời giải thích
bằng niềm tin tôn giáo.
Một hình ảnh trăng máu. Ảnh: Sudhamshu Hebbar/Flickr
Những đoạn mô tả trong Kinh Thánh như "Mặt Trời chuyển tối đen và Mặt
Trăng sẽ đỏ như máu, trước khi ngày vĩ đại và khủng khiếp nhất của Chúa
đến", hay "Mặt Trời hóa đen và cả Mặt Trăng biến thành máu, các vì sao
trên trời rơi xuống Trái Đất". Những lời dạy của Kinh Thánh khiến người
dân tin rằng, Ngày Phán xét cuối cùng đã tới. Nhiều người đổ ra đường và
hét vang về Ngày Phán xét. Cư dân New England thời kỳ này rất sùng đạo,
đối với họ, các hiện tượng tự nhiên chính là lời cảnh báo của đấng tối
cao.
Những giả thiết về Ngày đen tối
Xảy ra cách đây 235 năm, Ngày đen tối khiến con người đưa ra nhiều giả
thiết. Có ý kiến cho rằng, bóng tối bí ẩn có thể là kết quả của nhật
thực, một cơn giông mạnh, đám cháy, núi lửa phun trào, bầu khí quyển
chứa màn hơi nước phản sáng, đỉnh núi khổng lồ che khuất Mặt Trời hay
thiên thạch rơi.
Qua thời gian, nhiều giả thiết trong số này bị bác bỏ. Các tài liệu
thiên văn học xác định không có hiện tượng nhật thực xảy ra vào thời
điểm này. Ghi chép lịch sử loại trừ khả năng giông tố mạnh là nguyên
nhân ánh sáng giữa ban ngày bị nuốt chửng. Giả thiết đám mây tro bụi dày
che khuất Mặt Trời cũng là điều không thể, bởi không có ghi chép hay
bằng chứng nào về hoạt động núi lửa năm 1780, theo Thomas Choularton
-giáo sư khoa học khí quyển đại học Manchester, Anh.
"Ngày đen tối ở Bắc Mỹ là một trong những hiện tượng tuyệt vời của thiên
nhiên mà triết học không thể tìm ra lời giải", John Herschel, một nhà
toán học, thiên văn học Anh đã phải thừa nhận.
Lời giải khoa học ẩn trong thân cây
Bí ẩn Ngày đen tối ở New England vẫn là một chủ đề hấp dẫn giới khoa
học. Cuối cùng vào năm 2008, các nhà khoa học đại học Missouri đã tìm
được lời giải cho bí ẩn kéo dài suốt hơn hai thế kỷ. Vòng gỗ trên mặt
cắt thân cây tại bang Ontario, Canada tiết lộ một trận cháy rừng dữ dội
xảy ra ở Canada năm 1780, có thể là nguyên nhân gây bóng tối ma quái
vùng New England.
Bằng chứng từ những vòng cây cho thấy, một vụ cháy rừng dữ dội ở Canada
là nguyên nhân gây ra bóng tối bí ẩn tại New England. Ảnh: Geograph.ie
"Vòng gỗ luôn là lời giải đáp cho mọi câu chuyện", Erin McMurry, trợ lý
nghiên cứu từ trường Nông nghiệp, thực phẩm và tài nguyên thiên nhiên,
thuộc đại học Missouri cho biết.
Lần lại lịch sử từ những vòng gỗ trong thân cây, nhà khoa học này ví von
rằng vòng cây là một hiện vật lịch sử tự nhiên. Bằng cách xác định tuổi
của vòng cây, các nhà khoa học có thể biết thời điểm xảy ra các vụ cháy
rừng và hạn hán trong lịch sử.
"Nhờ đó, chúng tôi có thể giải mã bí ẩn giấu kín hàng trăm năm bên trong thân cây", McMurry nói.
Báo cáo "Những vết sẹo lửa tiết lộ nguyên nhân Ngày đen tối ở New
England năm 1780", đăng trên tạp chí quốc tế về Những vụ cháy rừng, các
nhà khoa học giải thích, vụ cháy khi đó tạo ra những cột khói dày lan
vào tầng khí quyển cao, kết hợp với sương mù gây ảnh hưởng rộng tới hàng
trăm km.
Kết luận này phù hợp với nhiều báo cáo nói về mùi khói xuất hiện tại khu
vực New England. Nhà địa lý Jeremy Belknap, Boston, năm 1780 trong thư
gửi Ebenezer Hazard viết rằng không khí "có mùi như ở xưởng ủ mạch nha
hoặc lò than”, và mô tả các dòng suối đầy muội than và đen kịt.
"Đây là một cơ hội hiếm hoi trong việc kết hợp các ghi chép lịch sử với
công nghệ hiện đại cùng những chứng cứ vật thể từ vòng cây để giải mã bí
ẩn bằng khoa học", McMurry kết luận.
LẦN THỨ NHẤT: 13 tháng 05. Chúa
nhật 13.05.1917, một ngày nắng chói chang, bầu trời trong suốt. Sau
thánh lễ, ba trẻ em chăn chiên, với bữa ăn trưa trong túi xách, lùa đàn
chiên của các em đi về phía Cova da Iria, một thung lũng nhỏ
các Aljustrel, làng các em đang ở chừng 2 cây số. Trong
khi đàn chiên đang nhởn nhơ gặm cỏ, các em ăn sáng qua loa rồi tiếp tục
chơi. Lucia cho biết “Thình lình chúng tôi thấy một ánh sáng như sấm
chớp. Chúng tôi quyết định trở về nhà. Khi chúng tôi lùa đàn chiên đi
được một vài bước, thì xa hơn một chút, chúng tôi thoáng thấy trên một
cây sồi xanh nhỏ, một Bà mặt áo trắng, chói lọi hơn mặt trời. Từ Bà tỏa
ra một ánh sáng rực rỡ hơn, lấp lánh hơn một ly thủy tinh đầy nước trong
bị những tia mặt trời gay gắt nhất xuyên qua.”
Bà ấy bảo: “Các con đừng sợ, Ta không làm hại các con đâu.”Lucia thay mặt cho các em của mình, hỏi: “ Bà từ đâu tới?” Bà đáp: “Ta từ trời đến”. Lucia hỏi tiếp: “Bà muốn chúng con làm gì?”. “Ta
yêu cầu các con đến tại nơi này tất cả các ngày 13, trong sáu tháng
liên tiếp, cũng vào giờ này. Sau đó Ta sẽ nói cho các con biết Ta là ai
và muốn các con làm gì.” Một lúc sau Bà lại nói tiếp: “Các con có sẵn
sàng dâng mình cho Thiên Chúa và đón nhận tất cả mọi đau khổ Người sẽ
gởi đến cho các con để đền bù những tội lỗi đã xúc phạm đến Người, và
khẩn cầu Người ban ơn cho kẻ có tội được ăn năn trở lại không?”. “Vâng,
chúng con muốn.” Lucia thay mặt các em trả lời chắc chắn. “Tốt, các con sẽ phải chịu đau khổ nhiều, nhưng ơn Chúa sẽ là nguồn trợ lực cho các con.” Lúc bấy giờ bà mặc áo trắng nói: “Các con hãy lần chuỗi mỗi ngày cầu cho chiến tránh chấm dứt và thế giới được hòa bình.” Khi
ấy Lucia nói: “Bà bắt đầu bay lên từ từ về phía đông cho đến khi biến
mất trong khoảng không bao la, với một luồng ánh sáng rực rỡ bao quanh
giống như mở đường đi giữa các vì sao.” Các trẻ em
chăn chiên vẫn còn kinh ngạc, mắt đăm đăm nhìn lên trời cao. Rồi các em
đứng dậy, và sau khi ở lại Cova da Iria suốt cả buổi xế trưa, các em
quyết định không nói với ai hết về việc Đức Mẹ hiện ra. Tuy nhiên, dù đã
hứa với nhau như thế, nhưng em trẻ nhất là Jacinta (lúc đó mới 7 tuổi),
ngay buổi chiều hôm đó đã kể cho mẹ em nghe về biến cố này. Đây
chỉ mới là bước khởi đầu của các em và gia đình các em trong thời gian
dài chịu sỉ nhục và đau khổ mà Đức Mẹ đã báo trước. Những người không
tin chế giễu các em và gia đình. LẦN THỨ HAI: 13 tháng 06. Tin
tức về lần hiện ra ngày 13 tháng 05 lan truyền nhanh chóng trong giáo
xứ Fatima. Không có mấy người tin vào điều các trẻ chăn chiên nói và họ
bắt đầu ngược đãi các em. Ngày 13 tháng 06 đã đến.
Người ta cử hành Thánh Antôn Bồ Đào Nha (tức Thánh Antôn Pađôva), bổn
mạng của nước Bồ Đào Nha. Lúc đó, có 50 người tụ tập tại Cova da Iria,
và Bà mặc áo trắng xuất hiện như đã hứa. “Ta muốn các
con đến đây ngày 13 tháng tới và lần chuỗi”. Sau đó Bà hứa không bao
lâu nữa sẽ mang Fraciscô và Jacinta về trời. Riêng Lucia thì còn ở lại
trần gian để giúp phổ biến trên toàn thế giới lòng tôn sùng Trái Tim Vô
Nhiễm của Đức Maria. Lucia buồn bã khi biết chỉ một mình em còn ở lại
trần gian. Nhưng Bà mặc áo trắng trấn an em: “Ta sẽ không bao giờ bỏ rơi
cơn. Trái Tim Vô Nhiễm của Ta sẽ là nơi ẩn náu của con và là con đường
dẫn đưa con tới cùng Thiên Chúa.” “Lúc đó Bà mở hai bàn tay ra, trong
bàn tay phải của Bà, có một trái tim với nhiều gai nhọn bao quanh. Chúng
con hiểu rằng đó là Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria, bị tội lỗi của nhân
loại xúc phạm và muốn được đền tạ.” (Lucia). LẦN THỨ BA: 13 tháng 07. Các
trẻ chăn chiên đã phải đối diện với nhiều khó khăn vì gia đình và láng
giềng nói: “Đó là công việc của ma quỷ”, hoặc “Đó là một sáng kiến của
hỏa ngục.” Nhưng khi Bà từ trời nói với ba trẻ chăn
chiên lần thứ ba rằng Bà đến từ trời và trong hỏa ngục không có ánh sáng
rực rỡ như vậy đâu. Nhất là người ta không tìm thấy ở đó lòng tốt, sự
dịu dàng, và bảo các em hãy tiếp tục lần chuỗi mỗi ngày, thì Lucia xin
Bà làm một phép lạ để mọi người đều tin. Bà trả lời rằng: “Vào tháng 10,
Ta sẽ nói Ta là ai và điều Ta muốn gì. Và để tất cả mọi người đều tin,
Ta sẽ làm một phép lạ để mọi người đều thấy. Rất sung
sướng và để khỏi mất thời giờ, Lucia trình bày với Bà một số vấn đề của
một vài người, khẩn cầu được ơn lành bệnh và ơn trở lại. Bà có câu trả
lời cho tất cả mọi vấn đề. Bà còn yêu cầu lần chuỗi nữa. Rồi bà nói
tiếp: “Các con hãy hy sinh cho kẻ có tội và thường xuyên nói, nhất là
khi các con làm một việc hy sinh nào đó: “Lạy Chúa Giêsu, vì lòng yêu
mến Chúa để cho kẻ tội lỗi được ăn năn trở lại, và để đền bù tội lỗi đã
phạm chống lại Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria.” Lucia kể
lại: Lúc đó, Đức Trinh Nữ mở đôi bàn tay ra và các trẻ chăn chiên thấy
một hình ảnh kinh khủng, các em thấy hỏa ngục và những kẻ bị kết án đang
ở đó. Gương mặt các em trở nên trắng bệch giống như xác chết, như nhiều
nhân chứng xác nhận. Chính vào lúc đó, Lucia kêu lên: “A, Đức Trinh
Nữ Maria.” Cuối thị kiến, Bà nói: “Các con đã thấy hỏa ngục, trong đó
các linh hồn tội lỗi đáng thương sẽ phải đi vào. Để
cứu thoát các linh hồn ấy, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới lòng
tôn sung Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ. Nếu các con làm điều Mẹ bảo, một số
đông người sẽ được cứu thoát và thế giới sẽ có hòa bình. Chiến
tranh sắp kết thúc, nhưng nếu người ta không ngừng xúc phạm Thiên Chúa,
sẽ có xảy ra một cuộc chiến tranh khác, còn khốc liệt hơn nữa. Khi nào
các con thấy một đêm tối bừng sáng do một ánh sáng xa lạ, các con hiểu
rằng đó là điềm báo quan trọng Chúa muốn gởi đến cho các con, trước khi
trừng phạt thế gian vì tội ác đã phạm, bằng chiến tranh, đói khát, những
cuộc bách hại Giáo Hội và Đức Thánh Cha. Để tránh việc đó, Mẹ sẽ trở
lại xin dâng nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ và rước lễ các ngày
Thứ Bảy hàng tháng. Nếu người ta nghe lời yêu cầu của
Mẹ, nước Nga sẽ trở lại và thế giới sẽ có hòa bình. Nếu nước Nga gieo
rắc những sai lầm trên toàn thế giới, gây ra chiến tranh và những cuộc
bách hại chống lại Giáo Hội, người lành sẽ lãnh triều thiên tử đạo, Đức
Thánh Cha sẽ chịu đau khổ khủng khiếp, nhiều quốc gia sẽ bị hủy diệt.
Cuối cùng, Trái Tim Mẹ sẽ thắng… Con đừng kể những điều này cho bất cứ
ai…” Thị kiến về hỏa mục và những lời tiên tri liên
quan đến nước Nga và tương lai bất định của thế giới, là hai phần đầu
của bí mật Fatima, bí mật này sẽ gây ra biết bao đau khổ cho các trẻ
chăn chiên. Cuối cùng, Bà nói thêm: “Khi lần chuỗi,
sau mỗi chục các con hãy đọc: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng
con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên
đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn.” LẦN THỨ TƯ: 19 Tháng 08. Báo
chí bắt đầu quan tâm đến những lần hiện ra ở Fatima, cáo buộc nhà cầm
quyền địa phương bất lực, không đủ khả năng để dẹp tan “trò hề”
ở Cova da Iria. Tức giận vì bị công kích dữ dội, nên thị
trưởng Vila Nova de Ourem (Fatima nằm trên địa bàn của thành phố này)
soạn thảo hẳn một kế hoạch để đối phó. Sáng sớm ngày
13 tháng 08, giả vờ muốn tham dự những lần hiện ra, ông ta ra lệnh đưa
ba trẻ chăn chiên lên xe ngựa của ông ta, nhưng thay vì đưa các em
đến Cova da Iria, chiếc xe chạy thẳng đến Vila Nova de Ourem. Ở đó, lúc
đầu các em đi chung với nhau, nhưng lúc đó bị tách riêng ra, bị thẩm vấn
gắt gao, bị đe dọa sẽ bị hành hạ và cả cái chết kinh khủng nữa (như ném
các em vào chảo dầu sôi), để bắt buộc các em nói sự thật và phủ nhận
những lần “hiện ra”, các em không hề sợ đe dọa, nhất định không nói gì
cả, và ngày 15 tháng 08, các em được đưa trở về nhà. Ngày
19 tháng 08, hoảng sợ vì lỗi hẹn với Bà, các em liền lùa đàn chiên đi
đến Valinhos “những thung lũng nhỏ”. Những dấu hiệu quen thuộc trước các
cuộc hiện ra lại xuất hiện :trời mát mẻ hơn, ánh mặt trời bớt gay gắt
hơn. Bà hiện ra, đứng trên một cây sồi xanh. Một lần nữa, Bà hứa sẽ có
phép lạ vào tháng 10, để mọi người đều tin vào những lần hiện ra. Bà
cũng nói đến việc cần phải xây dựng một nhà nguyện nhỏ
tại Cova da Iria. Rồi Bà thêm: “Các con hãy cầu nguyên, hãy cầu nguyện
nhiều và làm nhiều việc hy sinh để cầu cho kẻ có tội. Nhiều linh hồn sẽ
phải sa hỏa ngục vì không ai cầu nguyện và làm nhiều việc hy sinh cho
họ.” Rồi Bà biến mất trên bầu trời. Kể từ lúc đó, các em luôn cố gắng
cầu nguyện nhiều hơn và gia tăng các việc hy sinh hãm mình để cầu nguyện
cho kẻ có tội. Các em không ăn trưa và không uống nước, ngay cả trong
những ngày hè nóng bức. Để chịu đau khổ nhiều hơn nữa, các em thắt chặt
lưng bằng một sợi dây thừng. Francisco và Jacinta tiếp tục mang dây này
ngay cả khi bệnh hoạn cho đến lúc chết. LẦN THỨ NĂM: 13 tháng 09. Có mâu
thuẫn về thái độ phải có đối với những lần hiện ra: một đàng, người ta
tìm cách dẹp bỏ “trò hề” Fatima; đàng khác, nhiều người bắt đầu tin vào
sự kiện này.
Do
đó, ngày 13 tháng 09, khoảng gần hai mươi lăm ngàn người có mặt tại nơi
hẹn với bà. Lucia hỏi: “Bà muốn con làm gì?”, Bà đáp: “Con hãy tiếp tục
lần chuỗi mỗi ngày để chiến tranh sớm kết thúc”. Và một lần nữa, Bà hứa
sẽ có phép lạ vào tháng 10. Từ ngày 13 tháng 09 đến 13 tháng 10, đời
sống của ba trẻ chăn chiên bị quấy rối hơn lúc nào hết. Cảnh sát và các
kẻ thù của tôn giáo hớn hở vì tin rằng những lần hiện ra chỉ là chuyện
bịa, và chắc chắn sẽ thất bại. Ngoài ra, tại Aljustrel, nơi các em đang
sinh sống, đa số dân chúng dường như không tin và tỏ ra thù địch. Các
linh mục và các gia định ép buộc các em phải thú nhận rằng các em đã nói
dối. Một số người khác thì dọa nạt. Sáng sớm ngày 12 tháng 10, mẹ
của Lucia đánh thức em dậy và bảo hai mẹ con cần phải đi xưng tội, vì
ngày mai hai mẹ con mình sẽ bị giết chết, nếu Bà không làm phép lạ như
đã hứa. Vậy tốt hơn là hai mẹ con phải đi xưng tội dể dọn mình chết
lành. Lucia nhẹ nhàng trả lời: “Nếu mẹ cần đi xưng
tội con sẽ đi theo mẹ, nhưng không phải để xưng tội vì con không sợ. Con
tin chắc ngày mai Bà sẽ làm tất cả những gì Bà đã hứa.” Một linh mục
vốn bận tâm về việc hiện ra, nên sau khi trò chuyện với các em, đã
khuyên: “Tốt hơn cả là gởi điện báo khắp nơi rằng những lần hiện ra chỉ
là dối trá.” LẦN THỨ SÁU: 13 tháng 10.
Vào
ngày hôm đó, khoảng bảy mươi ngàn người có mặt ở Cova da Iria : những
người tôn sung Đức Mẹ, lắm kẻ tò mò, nhiều người không tin, vô thần, ký
giả, những đặc phái viên nhằm “vạch trần chuyện lừa bịp này”. Tất cả mọi
người ở đó đều ướt sũng, vì trời vẫn mưa tầm tã cho tới lúc Đức Mẹ hiện
ra. Lúc đó, mẹ của Lucia khóc ròng, bà đi theo con
gái mình và nói: “Nếu con gái tôi chết, tôi cũng sẽ chết theo nó.” Tâm
trạng của những người chờ đợi thật nặng nề. Lúc 12 giờ trưa, Lucia kêu
to: “Im lặng, im lặng. Bà đến.” Lúc đó, Lucia hoàn toàn dửng dung đối
với những gì vây quanh mình. Lucia lên tiếng hỏi: “Bà
muốn con làm gì?” “Mẹ là Đức Mẹ Mân Côi. Mẹ muốn con hãy xin xây dựng ở
đây một nhà nguyện kinh Mẹ. Con hãy tiếp tục lần chuỗi mỗi ngày. Chiến
tranh sắp chấm dứt.” Lucia đã dâng lên Đức Mẹ những lời cầu xin cho rất
nhiều người, lời cầu xin của một vài người được chấp nhận, nhưng nhiều
người khác thì không được chấp nhận: “Họ phải sửa mình.” Bà nói như vậy.
Biết bao lời cầu xin tha thứ lỗi lầm của kẻ tội lỗi…chiến tranh sắp
chấm dứt…Đừng xúc phạm đến Chúa nữa, vì Người đã bị xúc phạm quá nhiều
rồi. Khi hẹn lần cuối với ba trẻ em tâm phúc, Bà mở đôi bàn tay ra, đưa
về phía ánh nắng Mặt tròi và trong khi Bà đi lên cao, ánh sáng của Người
không ngừng phản chiếu trên chiếc đĩa rực sáng. Thị kiến đỏ rực rỡ hơn
cả mặt trời! Gần mặt trời, các em thấy những thị kiến
khác nhau nữa: Thánh Giuse, Chúa Giêsu Hài Đồng và Đức Trinh Nữ Maria;
Chúa Giêsu và Đức Mẹ Sầu Bi; Chúa Giêsu chúc lành cho thế giới, Đức
Trinh Nữ núi Cát Minh. Thình lình Lucia kêu to: “Nhìn
mặt trời kìa!” Lúc đó cả đám đông đều thấy biến cố mà sau này được gọi
là phép là mặt trời. Sau đây là chứng từ của Avêlinô Almeida, đặc phái
viên của nhật báo chống hàng giáo sĩ ở Ô Sêculô: “Mặt trời giống như một
đĩa bạc mờ mờ, và ta có thể bắt dừng lại mà không phải cố gắng gì cả.
Mặt trời không làm ai mù mắt hết. Người ta bảo là đã xảy ra nhật thực.
Nhưng bỗng có một tiếng kêu to: “Phép lạ! Kỳ diệu, kỳ diệu!” Đám đông
trố mắt nhìn, sợ xanh mặt, ngửa cổ nhìn trời xanh, thấy mặt trời run
lên. Mặt trời có những động tác bất ngờ, chưa ai thấy bao giờ và trái
ngược với tất cả mọi định luật trong vũ trụ: mặt trời nhảy múa, theo
kiểu nhảy múa của các nông dân…” “Tất cả đều hướng
mắt nhìn trời (cha của Jacinta kể lại) khi vào một lúc nhất định nào đó,
mặt trời dừng lại rồi bắt đầu nhảy múa và nổ tung. Một lần nữa mặt trời
dừng lại, rồi lại nhảy múa cho tới lúc hình như tác khỏi bầy trời
và lao nhanh xuống chúng tối như một bánh xe lửa khổng lồ. Lúc đó thật
là khủng khiếp!… Nhiều người la to: “Lạy Chúa Giêsu, tất cả chúng con
sắp chết ở đây!” Nhiều người khác kêu to “ Lạy Đức Mẹ, xin cứu chúng
con!”. Một người nào đó lớn tiếng xưng tỉ mỉ những
tội riêng mình đã phạm. Cuối cùng mặt trời dừng lại và trở lại vị trí cũ
trên bầu trời. Điều kỳ lạ cuối cùng không thể giải thích được, là tất
cả mọi người ướt sũng, thì bây giờ hoàn toàn khô ráo. Và những lần hiện ra tại Fatima chấm dứt. LM. INHAXIO HỒ VĂN XUÂN
Những lời nguyền cổ xưa bí ẩn nhất trái đất (phần 1)
Phương Đăng Thứ Hai, ngày 19/12/2016 20:00 PM (GMT+7)
(Dân Việt) Con
người, đặc biệt là người thời xưa thường buông lời nguyền độc địa nhằm
gieo rắc chết chóc hoặc bất hạnh cho những kẻ thù của họ. Dưới đây là 10
lời nguyền cổ xưa bí ẩn nhất trên trái đất, theo trang Listverse tổng
hợp.
1. Lời Nguyền Của vua Casimir
Vài ngày sau khi các nhà khảo cổ mở ngôi mộ của vua Casimir IV
Jagiellon năm 1973, 4 trong số 12 nhà nghiên cứu bất ngờ chết bất đắc kỳ
tử. Trong vài năm sau đó, nhiều nhà nghiên cứu tham gia vào dự án khai
quật mộ vua Casimir tiếp tục mất mạng vì bệnh ung thư cũng như những căn
bệnh chết người khác.
Ước tính, ít nhất 15 người từng tiếp xúc với hài cốt vị vua Ba Lan đã
thiệt mạng. Nhiều người tin rằng, những cái chết này có liên quan đến
Lời nguyền của vua Casimir nhằm trừng phạt bất cứ ai dám tiếp cận ngôi
mộ, xâm phạm đến thế giới vĩnh hằng của ông.
Sinh năm 1427, vua Casimir lập được nhiều chiến công và từng xây dựng
được một trong những triều đại mạnh nhất châu Âu. Khi ông vua này băng
hà năm 1492, thi thể của ông nhanh chóng bị phân hủy vì thời tiết xấu.
Các nhà ướp xác đã vội vàng ướp xác và bịt kín quan tài của ông bằng
nhựa thông. Việc làm này vô tình tạo ra một quả bom gây bệnh.
Các nhà khoa học khẳng định, "lời nguyền" thực sự của vua Casimir là
một loại nấm độc chết người tên là Aspergillus flavus. Đây là loại nấm
độc có thể được tìm thấy trong các xác chết và những ngôi mộ cổ. Loại
nấm độc này tấn công mọi thứ xung quanh ngay khi chiếc quan tài bằng gỗ
mục rữa được mở ra.
Chính loài nấm độc kinh người này cũng là "hiện thân thật sự" của lời
nguyền vua Tutankhamun từng giết chết nhiều nhà khoa học Ai Cập. 2. Lời nguyền chết chóc của Jacques De Molay
Vào thế kỷ thứ 12, các Hiệp sĩ Templar là một trong những tổ chức
quyền lực bậc nhất ở châu Âu. Trong các cuộc thập tự chinh, họ tích lũy
được những khối tài sản khổng lồ. Có tin đồn họ đã tìm thấy kho báu bị
lãng quên của vua Solomon. Sau chiến dịch mở rộng ở Trung Đông, Jacques
de Molay trở thành người đứng đầu của tổ chức Hiệp sĩ Templar năm 1292.
Vua Pháp Philip IV bắt đầu vay mượn của tổ chức Hiệp sĩ Templar mà
không bao giờ chịu trả nợ. Năm 1307, vua Philip cùng Giáo hoàng Clement
V đã lật đổ tổ chức Hiệp sĩ Templar, bắt giữ thủ lĩnh của nhóm này
Jacques de Molay. Ông này bị tra tấn trong suốt 7 năm bị cầm tù và cuối
cùng là bị thiêu sống năm 1314.
Trước khi chết, de Molay đã buông lời nguyền đối với những kẻ thù của
ông, rằng cả vua Philip cùng Giáo hoàng Clement V sẽ bị chết trong vòng
1 năm và dòng dõi Philip sẽ bị xóa sổ. Kết quả là, Giáo hoàng Clement V
sớm qua đời vì một căn bệnh hiểm nghèo còn vua Philip bị chết vì đột
quỵ. Đến năm 1328, tất cả các con trai và cháu trai của vua Philip đều
chết hết. Nhiều người tin rằng, lời nguyền chết chóc của Jacques de
Molay đã ứng nghiệm. 3. Bảng lời nguyền Pella
Năm 1986, các nhà khảo cổ đã khai quật được một bảng lời nguyền ở
Pella, thủ đô của Vương quốc Macedonia cổ xưa (ở phía bắc của Hy Lạp).
Bảng lời nguyền này được tạo ra giữa gia đoạn từ năm 375 đến 350 trước
Công nguyên. Tác giả của bảng lời nguyền này là Dagina. Theo đó, Dagina
đã cầu xin thần linh trừng phạt người đàn ông phụ bạc mình tên là
Dionysophon. Người đàn ông Dionysophon khi đó sắp cưới một phụ nữ khác.
Dagina đã viết lời nguyền cầu xin thần linh đưa Dionysophon trở về bên
mình. Phân tích ngôn ngữ được sử dụng trên bảng lời nguyền Pella các nhà
khoa học tin rằng, Dagina là một phụ nữ ở tầng lớp thấp. 4. Lời nguyền của giếng thiêng
Năm 2016, các nhà khảo cổ học vừa phát hiện một giếng cổ được cho là bị nguyền rủa gần Liverpool.
Theo đó, tương truyền, trong thế kỷ 16 đã xảy ra một vụ tranh chấp
một chiếc giếng thiêng. Nước ở trong giếng này được cho là có tác dụng
chữa bệnh. Cha cố Delwaney của một tu viện gần đó và chúa đất Hugh Darcy
đều tuyên bố là chủ sở hữu của giếng thiêng. Darcy tuyên bố rằng cha cố
Delwaney sẽ không được quyền tới giếng thiêng nữa.
Hai ngày sau, quân đội của vua Henry VIII chiếm tu viện và giếng
thiêng. Tức giận, cha cố Delwaney đã nguyền rủa chúa đất Darcy ngay
trước khi chết bất đắc kỳ tử sau đó.
Lời nguyền dường như ứng nghiệm sau khi con trai của Darcy bị chết vì
một căn bệnh không rõ nguyên nhân còn bản thân chúa đất Darcy bị mất
một khối lượng lớn tài sản. Một năm 1 ngày sau đó, Darcy bị phát hiện
chết dưới đáy giếng với cái đầu bị nghiền nát. 5. Lời nguyền của bà chủ quán rượu ở Athen
Năm 2003, các nhà khảo cổ khai quật được hài cốt đã hỏa táng của một
phụ nữ Athen cổ đại cùng với 5 bảng lời nguyền. Niên đại của chúng là
thế kỷ thứ 5 trước CN. Người Hy Lạp cổ đại có tục chôn lời nguyền xuống
đất. Các nhà nghiên cứu cho rằng, người đàn bà Athen đã viết lời nguyền.
Sau đó, sau khi bà chết, gia đình đã chôn bà cùng các bảng lời nguyền
để gửi lời nguyền xuống địa ngục.
Theo nghiên cứu, người đàn bà được cho là một chủ quán rượu và các
lời nguyền được tìm thấy bên cạnh hài cốt của bà mang động cơ thương
mại. Bốn trong số 5 bảng lời nguyền có chữ khắc đều nhắm mục tiêu nguyền
rủa các chủ quán rượu khác nhau. Một tấm bảng còn lại bị để trống. (Còn nữa)
Rùng rợn những lời nguyền đáng sợ có thật
Minh Hiếu |
9
Rất nhiều lời nguyền bí ẩn đã cướp đi tính mạng của nạn nhân khiến người nghe rùng mình vì sự đeo bám của nó.
1. Lời nguyền Siêu Nhân
Nói đến lời nguyền của Siêu nhân người ta thường nhắc tới những tai
ương xảy ra với những người có liên quan đến câu chuyện Siêu nhân trong
quãng thời gian gần 100 năm qua.
Siêu nhân Christopher Reeve
George Reeves và Christopher Reeve - diễn viên trong loạt phim truyền
hình và điện ảnh Siêu nhân đầu tiên - là 2 người nổi tiếng nhất trong
số những người vướng phải lời nguyền.
Siêu nhân George Reeves
George Reeves tự tử còn Christopher Reeve bị liệt sau khi ngã ngựa.
Các nạn nhân khác có Jerry Siegel và họa sĩ Joe Shuster, 2 người đã sáng
tạo ra nhân vật nhưng thu được rất ít tiền bởi công ty DC Comics nắm
tất cả bản quyền.
Một số người nói rằng Jerry và Joe đã đặt lời nguyền lên nhân vật
viễn tưởng này bởi họ cho rằng mình bị đối xử bất công so với công sức
bỏ ra.
Do khiếp sợ trước lời nguyền này, rất nhiều diễn viên đã từ chối đóng vai Siêu nhân trong những bộ phim phiên bản mới nhất. 2. Hòn đá Bjorketorp
Rùng rợn những lời nguyền đáng sợ có thật
Bjorketorp là một trong số những hòn đá được tìm thấy tại tỉnh
Blekinge, Thụy Điển có từ thế kỷ thứ 6 sau công nguyên. Chúng cao đến
4,2 m.
Một số hòn xếp thành vòng tròn, trong khi những hòn khác đứng một mình. Trên hòn đá Bjorketorp có khắc dòng chữ:
"Ta, chủ nhân của những hòn đá che dấu sức mạnh của chúng tại
đây. Anh ta sẽ ngập tràn trong tội lỗi xấu xa, phải chịu cái chết âm
thầm nếu là người phá vỡ tấm bia mộ này. Ta tiên đoán được sự hủy diệt".
Một câu chuyện được người dân địa phương lưu truyền có liên quan tới
lời nguyền này đã từng được kiểm chứng và chứng minh là có thật.
Cách đây rất lâu rồi, có một người đàn ông muốn dịch chuyển hòn đá để
có thêm đất canh tác. Anh ta chất đống củi xung quanh để đun nóng, sau
đó dội nước để làm vỡ hòn đá.
Tuy nhiên, không khí lúc đó cực kỳ lặng gió. Anh ta chỉ vừa kịp châm
lửa thì một cơn gió đột nhiên xuất hiện chuyển hướng ngọn lửa khiến cho
tóc của người đàn ông bốc cháy.
Anh ta lăn lộn trên mặt đất để dập tắt lửa, nhưng nó đã lan ra quần
áo và người đàn ông tội nghiệp đã chết trong đau đớn tột cùng. 3. Lời nguyền của Dê Billy
Lời nguyền áp đặt lên đội bóng chày Chicago Cubs xuất hiện vào năm
1945. Billy Sianis, một người nhập cư gốc Hy Lạp có 2 tấm vé 7,2 USD xem
trận game 4 của World Series giữa Chicago Cubs và Detroit Tigers và ông
quyết định đem theo chú dê Murphy yêu quý của mình đi theo.
Sianis và Murphy được cho phép vào sân vận động Wrigley Field và thậm
chí họ đã đi vòng quanh sân trước trận đấu. Tuy nhiên, người ta đã can
thiệp và dẫn 2 người đi ra khỏi sân.
Sau cuộc tranh cãi nảy lửa, Sianis và chú dê mới được quay trở lại
chỗ ngồi. Trước khi trận đấu kết thúc, họ lại bị đuổi ra một lần nữa
theo lệnh của ông chủ đội Cubs, Philip Knight Wrigley, do chú dê tỏa ra
mùi rất khó chịu.
Bởi vì người của đội Cubs đã xúc phạm chú dê nên chủ của nó tức giận
và buông ra một tràng nguyền rủa rằng Cubs sẽ không bao giờ giành chức
vô địch hoặc được chơi ở một trận ở giải World Series tại sân Wrigley
Field nữa.
Kết quả là Cubs thua thảm hại trong trận Game 4, trong khi đó Sianis
hả hê viết lên sân Wrigley bằng tiếng Hy Lạp "Giờ thì ai bốc mùi nào?".
Năm sau, Cubs về thứ 3 tại giải National League và chỉ lẹt đẹt ở giải
hạng 2 quốc gia trong 20 năm liên tiếp. Chuỗi đen đủi cuối cùng chấm
dứt vào năm 1967, khi Leo Durocher trở thành quản lý của câu lạc bộ. 4. Lời nguyền từ chiếc Porsche của James Dean
Vào lúc 5h45 phút chiều ngày 30/9/1955, ngôi Sao điện ảnh James Dean
bỏ mạng trong một tai nạn ô tô khi chiếc xe Porsche Spyder mới (có biệt
danh "Kẻ đáng nguyền rủa") của anh lao đầu vào một chiếc xe khác.
Rolf Wutherich, anh bạn thợ cơ khí của Dean khi đó cũng ngồi cùng
ngôi sao trên ghế trước, đã bị văng ra khỏi chiếc xe nhưng may mắn sống
sót, còn Dean mắc kẹt ở trong và bị gẫy cổ.
Donald Turnupseed, người lái chiếc xe ngược chiều chỉ bị thương nhẹ.
Sau thảm kịch, một người chuyên mông má xe có tên George Barris mua
"con xế" rúm ró về với giá 2.500 USD. Khi vừa về đến ga-ra của Barris,
chiếc Porsche trượt ra và rơi xuống một thợ cơ khí khiến anh này gẫy cả 2
chân.
Trong khi Barris có những linh cảm không hay về chiếc xe khi mới nhìn
thấy nó lần đầu tiên, sự nghi ngờ của ông đã được khẳng định trong cuộc
đua tại Hội chợ Pomona vào ngày 24/10/1956.
2 bác sĩ Troy McHenry và William Eschrid, đang đua bằng 2 chiếc xe có
các bộ phận lấy từ "Kẻ đáng nguyền rủa" đều gặp xúi quẩy: McHenry chết
khi chiếc ô tô bị mất kiểm soát và đâm sầm vào một cái cây, ô tô của
Eschrid bị lật úp xuống.
Eschrid sống sót dù bị thương nặng, cho biết chiếc xe bỗng nhiên hãm
lại khi ông đi vào đoạn đường vòng. Sau đó, chiếc ô tô của Eschrid liên
tiếp gặp tai nạn cho đến năm 1960 thì nó biến mất. 5. Lời nguyền Kennedy
Dù một vài sự việc bất hạnh có thể xảy ra với bất cứ gia đình nào,
nhưng một số người cho rằng những tai ương liên tiếp ập đến gia đình
Kennedy là do một lời nguyền.
Gia đình Kennedy có vài thành viên chết trẻ, nổi tiếng là 2 anh em
John F. Kennedy và Robert F. Kennedy bị ám sát khi đang nắm quyền, còn
con trai của John F. Kennedy thiệt mạng trong một tai nạn máy bay năm
1999.
Chị gái của John F Kennedy, phải vào viện dưỡng lão vì bị phẫu thuật
thùy não nhầm. Joseph Kennedy chết trong thế chiến thứ 2, Edward Kennedy
Jr phải cắt cụt chân năm 12 tổi, Michael Kennedy chết trong một tai nạn
trượt tuyết. 6. Lời nguyền của Tutankhamen
Những món vàng bạc châu báu dường như ngay từ khi được đưa vào lăng
mộ cùng với Pha-ra-ong đã bị một làn khí huyền bí bao trùm lấy.
Việc phát hiện ra lăng mộ Pha-ra-ong Tutankhamun là bước tiến lớn của
ngành khảo cổ học. Đây là lăng mộ Pha-ra-ong được bảo tồn nguyên vẹn
nhất được tìm thấy trong Thung lũng các vị vua.
Những lời nguyền trong truyền thuyết dường như ứng nghiệm nhiều hơn từ sau khi lăng mộ Tutankhamun được khai quật.
Howard Carter là nhà khảo cổ có công lao lớn nhất trong việc tìm ra
lăng mộ Pha-ra-ong Tutankhamun. Ngày lăng mộ được khai quật, con chim
hoàng yến được Carter yêu mến nhất không biết vì sao lại bị con mãng xà
cắn chết.
Người hợp tác với ông, Carnavon cũng bất ngờ mất cùng năm.
Nguyên nhân chính xác của cái chết không rõ, có giả thuyết cho rằng
ông bị nhiễm trùng do côn trùng cắn. Người ta nói rằng khi ông qua đời,
Cairo bị mất điện trong chốc lát và tất cả những ngọn lửa đang cháy ở
đây đều vụt tắt.
Trong vòng mười mấy năm sau khi khai quật lăng mộ, 20 người có liên
quan đến sự việc lần đó đều lần lượt mắc bệnh lạ hoặc bị thần kinh mà
qua đời. 7. Lời nguyền dòng họ Giacomo: bị mất ngủ đến chết
Hình ảnh nhạc sĩ Giacomo Meyerbeer
Dòng họ Giacomo bị đồn là nạn nhân của một lời nguyền kỳ quái, khiến
gần 100 thành viên trong gia tộc lần lượt qua đời ở lứa tuổi 40 - 50
trong suốt hơn 2 thế kỷ qua. Điều lạ kỳ là họ đều có chung triệu chứng
bệnh - bị mất ngủ cho đến khi chết.
Gia đình Giacomo thuộc tầng lớp trung lưu ở Italy, cư trú tại một thị
trấn nhỏ gần Venice vào cuối thế kỷ XVIII. Giacomo Meyerbeer sinh ra
trong một gia đình làm nghệ thuật. Ông được coi là nhà soạn nhạc nổi
tiếng nhất đầu thế kỉ XIX.
Trong cuốn gia phả của dòng họ Giacomo, nhiều người bàng hoàng khi
nhận thấy, có không ít thành viên trong gia tộc này ra đi trong cùng một
độ tuổi.
Tuy qua đời vì những lý do khác nhau như viêm màng não, tai biến mạch
máu não, động kinh, điên loạn, mất trí... nhưng tất cả các triệu chứng
này đều có nguồn gốc từ việc mất ngủ triền miên.
Người ta đồn rằng, những cái chết khó hiểu của các thành viên trong gia tộc Giacomo xuất phát từ một lời nguyền nghiệt ngã. 8. Lời nguyền Tippecanoe
Đây là lời nguyền lý giải cho cái chết của rất nhiều tổng thống Mỹ trong vòng 120 năm từ năm 1840 - 1960.
Danh xưng Tippecanoe là tên một trận chiến giữa quân đội Mỹ do tướng
William Henry Harrison dẫn đầu với những người dân bản địa mà thủ lĩnh
là Tecumseh. Kết quả trong trận chiến ấy, quân của Tecumseh đã thất bại.
Người ta cho rằng để trả thù người anh em của Tecumseh, Tenskwatawa
đã đưa ra lời nguyền cho Harrison và các tổng thống Mỹ sau này: cứ 20
năm một lần, tổng thống Mỹ nào nhậm chức thì sẽ chết trong nhiệm kỳ của
mình.
Và người đầu tiên linh ứng với lời nguyền trên chính là William Henry
Harrison. Năm 1840, ông nhậm chức tổng thống, sau đó ngay lập tức bị
cảm lạnh và qua đời năm 1841.
20 năm sau, Abraham Lincoln đắc cử và ông bị ám sát ở giữa nhiệm kỳ
thứ hai của mình vào năm 1865. Điều tương tự đã xảy đến với James
Garfield năm 1881, William McKinley năm 1901 đều bị ám sát.
Bên cạnh đó, cố tổng thống Warren Harding đã mất năm 1923 vì đau tim
hay Franklin Roosevelt năm 1945 vì xuất huyết não và đột quỵ.
Lời nguyền Tippecanoe chỉ hết linh ứng vào đời tổng thống Ronald
Reagan năm 1980. Ông này cũng bị ám sát năm 1981 nhưng may mắn sống sót.
Bí ẩn chưa có lời giải về những xác sống Zombie
Trong
các tiểu thuyết và phim ảnh, Zombie là một nhân vật đáng sợ được các
thầy phù thủy hồi sinh từ các thây ma. Trên thực tế cũng có một số
trường hợp thây ma đột nhiên sống lại khiến nhiều người tin rằng Zombie
là có thật.
Zombie bắt nguồn từ rất lâu từ nền văn hóa Haiti, với những câu chuyện
về các thầy phù thủy đem sự sống cho những tử thi đã chết nhưng mất đi
lý trí.
Sau
đó Zombie trở thành đề tài khai thác của rất nhiều phim hay game kinh
dị, vậy liệu đây chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng hay chúng có thật?
Những bằng chứng thực tế về sự tồn tại của Zombie :
1. Clairvius Narcisse
Năm
1980, một người đàn ông có tên Clairvius Narcisse đã chạy đến một khu
làng nhỏ ở Haiti, nơi khởi nguồn của những câu chuyện thây ma sống.
Ông
nói rằng mình đã được công nhận là chết vào 25/5/1962 tại bệnh viện
Albert Schweitzer (Deschapelles, Haiti), ông chỉ còn nhớ cái ngày mà các
bác sĩ phủ tấm khăn trắng lên mặt mình.
Ông nói rằng sau đó một thầy phù thủy bokor đã biến ông trở thành Zombie và bắt trở thành lao động tại một trang trại.
Khi
điều tra, họ xác nhận ông chính là người đã được coi là chết trước đó,
gia đình bạn bè cũng đồng ý với kết luận rằng ông đã bị biến thành
Zombie sau khi chết.
Chính câu chuyện
này khiến cho các nhà nghiên cứu đã lên kế hoạch khám phá bí ẩn về
Zombie vào những năm 82-84 của thế kỷ trước, tiêu biểu là nhân chủng học
và thực vật học Wade Davis đã đi khắp nơi để tìm hiểu những câu chuyện
Zombie .
Ông
tìm kiếm những mẫu thuốc hoặc những người đang trong trạng thái Zombie
để nghiên cứu. Ông dường như đã khám phá ra công thức chế biến thuốc
biến một người trở thành Zombie của các thầy phù thủy bokor.
Thành
phần cơ bản của công thức này bao gồm: độc tố cá nóc, cóc mía, dịch của
loài ếch Hyla, thằn lằn, nhện, một phần tóc, móng tay, máu người… trong
đó quan trọng nhất là độc tố Tetrodotoxin chiết xuất từ cá nóc.
Thực
tế đã có nhiều trường hợp ghi nhận bệnh nhân sau khi nhiễm Tetrodotoxin
đã có dấu hiệu chết đi nhưng sau đó vẫn hồi phục và sống bình thường.
Sau
khi đem “công thức Zombie” này về Mỹ thử nghiệm trên chuột và khỉ thì
ông có kết quả tương tự: Sau khi chết đi một thời gian thì “sống” lại!
Những
nghiên cứu này đã được xuất bản trong tập san tháng 4/1988 của báo khoa
học Science và tập san tháng 10/1977 của báo the Lancet.
2. Câu chuyện về Felicia Felix-Mentor
Felicia
Felix-Mentor được xác nhận là chết năm 1907 sau khi bị bệnh. Tuy nhiên
đến năm 1936, cô bất ngờ xuất hiện trên đường phố và đi về một nông trại
với bộ quần áo rách rưới.
Những người bản địa lâu năm đều xác nhận đây chính là Felicia Felix-Mentor, một người đã chết trước đó và “đội mồ” sống lại.
Một
bác sĩ chăm sóc cho biết cô giống như một người điên khi thỉnh thoảng
phá lên cười với những hành động kỳ lạ, không thể nhớ lại những chuyện
quá khứ.
3. Các trường hợp khác
Liệu Zombie có thật?
Đây
là câu hỏi khiến cả các nhà khoa học và tạp chí khoa học đang đi tìm
câu trả lời, mặc dù có những kết quả nhất định như của giáo sư Clairvius
Narcisse nhưng nó vẫn là một điều bí ẩn.
Ngay
cả Trung tâm Ngăn chặn và Kiểm soát bệnh dịch (CDC) của Mỹ cũng đã nhảy
vào đề tài zombie với một bài post trên website hồi tháng 5/2011 dưới
tựa đề: “Hãy chuẩn bị tinh thần: Sự khải huyền của Zombie”.
Cùng
lúc, Viện Internet Oxford đã tái hiện một bản đồ Google Maps về việc
phân bố các tài liệu liên quan đến Zombie trên toàn cầu.
Khi
chưa có những kết luận khoa học chắc chắn về vấn đề này thì có lẽ
Zombie cũng chỉ là một sản phẩm hư cấu như ma cà rồng hay ma sói,..
Nhưng dù sao điều này cũng khiến chúng ta an tâm hơn vì hiện chúng vẫn
chưa xuất hiện.
Ngày nay, “thây ma sống”
không còn là điều gì xa lạ với mọi người. Những câu chuyện về chúng
xuất hiện ở khắp nơi, trên truyền hình, phim ảnh, sách báo,…
Nhưng liệu “thây ma sống” có thật trong đời thực thì vẫn là bí ẩn gây tranh cãi?
“Thây ma sống” bắt đầu được biết đến nhiều hơn cách đây vài thập kỷ, đặc biệt là nhờ bộ phim kinh điển Night of the Living Dead (Đêm của người chết sống dậy) năm 1968 của đạo diễn Mỹ - George Romero.
Trang Discovery dẫn lời Blake Smith, một fan cuồng “thây ma sống” và đồng quản lý podcast có chủ đề về quái vật MonsterTalk cho hay: “Mặc
dù mọi người nghĩ phim Night of the Living Dead là về thây ma sống
nhưng đạo diễn Romero chưa bao giờ gọi chúng như vậy. Ông ấy muốn gọi
các nhân vật của mình là ma cà rồng”.
Dẫu nhiều người coi “thây ma sống” chỉ là sản phẩm tưởng tượng, mang tính giải trí của văn hóa đương đại nhưng một số khác lại tin chúng có thật.
Văn hóa Haiti, giống như nhiều nền văn
hóa khác ở châu Phi, đắm chìm trong niềm tin vào ma thuật và phù thủy.
Niềm tin vào sự tồn tại của “thây ma sống” có liên quan đến tôn giáo Voodoo và lan truyền rộng rãi khắp Haiti trong nhiều thập niên.
Tuy nhiên, không giống các “thây ma sống” xấu xa trong phim Hollywood ngày nay, các “thây ma sống”
nguyên thủy ở Haiti không phải là những hung thần mà là nạn nhân. Chúng
là những xác chết bị phù phép để tái sinh và bị điều khiển nhằm phục vụ
mục đích cụ thể nào đó (thường là làm lao công).
Nhiều người tin "thây ma sống" có thật nhưng hiện hầu như không có bằng chứng về sự tồn tại của chúng. (Ảnh: Discovery)
Trong lịch sử, sự sợ hãi “thây ma sống” được sử dụng như một biện pháp kiểm soát xã hội và chính trị ở Haiti. Những người được cho là có phép thuật biến người thành “thây ma sống” (chủ yếu là các thầy phù thủy, trong văn hóa Haiti gọi là các “bokor”) luôn có được sự kính trọng và e sợ trong xã hội.
Các “bokor” cũng được cho là
thuộc lực lượng Tonton Macoute - lực lượng cảnh sát mật hung ác và đáng
sợ, phụng sự chế độ chính trị đàn áp Duvalier (1957-1984). Những ai dám
cả gan chống lại các nhà cầm quyền tàn bạo này đều bị đe dọa biến thành
thây ma sống - điều mà người dân Haiti lúc bấy giờ không hề coi nhẹ.
Trong truyện, phim ảnh hư cấu, có nhiều
cách để tiêu diệt các thây ma sống (thường là chặt đầu hoặc bắn vào
đầu), nhưng theo truyện kể dân gian Haiti, mục tiêu là giải phóng người
khỏi trạng thái “thây ma sống”, chứ không phải trực tiếp giết
hại chính người đó. Người Haiti thường đồn thổi về các cách giải phóng
thây ma sống, ví dụ như cho thây ma sống ăn muối hay cho chúng nhìn thấy
đại dương để thức tỉnh đầu óc và mong muốn quay trở lại hầm mộ.
Bằng chứng hiếm hoi
Cho tới nay, hầu như rất hiếm bằng chứng
về sự tồn tại của thây ma sống trong đời thực. Trong số ít ỏi bằng
chứng được cho là về thây ma sống đó cần phải kể đến trường hợp một
người đàn ông tâm thần có tên Clairvius Narcisse.
Vào năm 1980, người đàn ông này đã tuyên bố ông ta “đã chết” năm 1962, sau đó trở thành một thây ma sống và bị ép buộc làm việc như nô lệ cho một trong những đồn điền trồng mía ở Haiti.
Một bức ảnh của Narcisse sau một năm trở lại
Narcisse được cho là đã bị chính người anh ruột biến thành xác sống,
vì Narcisse không bán đất cho anh ta. Người này nói ông đã chết vào năm
1962 tại bệnh viện Albert Schweitzer ở Desxchapelles, Haiti và cho rằng
ông có ý thức nhưng cơ thể bị liệt.
Sau đó ông được một bokor hồi sinh để trở thành một "thây ma sống"
và bị ép buộc làm việc như nô lệ cho một trong những đồn điền trồng mía
ở Haiti. Ông đã làm việc một cách vô thức như một xác sống trong suốt
16 năm. Chỉ đến khi bokor chết thì ông mới được giải thoát khỏi cuộc
sống nô lệ.
Sau đó, Narcisse dần dần sáng suốt trở lại và trở về ngôi làng của
mình. Ban đầu, người ta không tin và hỏi ông về ký ức tuổi thơ mà chỉ
người thân mới biết.
Cuối cùng gia đình Narcisse đã công nhận ông là một zombie hồi sinh.
Vụ việc cực kì khó lí giải theo hướng khoa học, bởi trên thực tế là các
bác sĩ đã kiểm tra xác chết của Narcisse khi ông qua đời và đã chính
thức tuyên bố rằng ông đã chết.
Dẫu vậy, Narcisse không đưa ra bằng
chứng cho những tuyên bố của mình và cũng không thể chỉ cho các điều tra
viên về nơi mà ông ta tuyên bố đã phải làm lao động khổ sai trong gần
20 năm.
Một trường hợp khác được phát hiện bởi nhà nhân chủng học và nghiên cứu về văn hóa dân gian người Mỹ - Zora Neale Hurston năm 1973 về một người phụ nữ tên là Felicia Felix-Mentor.
Người dân địa phương ở đây giải thích rằng người phụ nữ đã chết vào
năm 1907 và 20 năm sau thì bà ấy trở lại với hình dạng là một xác sống.
Người phụ nữ này có tình trạng tinh thần bị hạn chế, không có khả năng
hoạt động thể chất linh hoạt, rất giống với miêu tả về những xác sống.
Xác sống Felicia Felix-Mentor.
Ngoài Haiti (và một số nơi khác có người sùng bái tôn tôn giáo Voodoo), “thây ma sống” được đông đảo quy kết là “ông kẹ” -
một nhân vật truyền thuyết gần giống ma cà rồng. Tuy nhiên, niềm tin
này đã thay đổi vào những năm 1980 khi Wade Davis, một chuyên gia trong
lĩnh vực dân tộc thực vật học (ethnobotany) thuộc Đại học Havard, tuyên
bố đã phát hiện một chất “bột thây ma sống” bí hiểm trong lúc làm việc ngoài đồng ở Haiti. Hoạt chất chính được xác định là một chất độc thần kinh, có thể được sử dụng để đầu độc, đẩy nạn nhân vào trạng thái giống như thây ma sống.
Ông Davis đã viết nhiều cuốn sách về chủ đề trên, về sự liên quan của phép thuật Voodoo, kể cả cuốn sách ăn khách “The Serpent and the Rainbow” về sau được chuyển thể thành một kịch bản phim kinh dị của đạo diễn Wes Craven.
Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học tỏ ra hoài
nghi các phát hiện của ông Davis và cho rằng chúng đã bị phóng đại.
Theo họ, lượng chất độc thần kinh tìm thấy trong những mẫu bột lạ của
ông Davis không đồng nhất với nhau và không đủ cao để gây ra các hiệu ứng thây ma sống.
Mặc dù về lý thuyết, “bột thây ma sống” có thể phát tác trong những điều kiện lý tưởng cụ thể, nhưng trong đời thực, rất khó để dùng thứ bột này tạo thành một “thây ma sống”.
Dùng quá ít chất độc chỉ có thể gây ra các ảnh hưởng tạm thời, trong
khi sử dụng quá nhiều có thể dễ dàng gây tử vong cho nạn nhân.
Ngoài các nghi ngờ về mặt dược lý, còn nhiều lí do khác để hoài nghi tuyên bố về việc con người từng bị biến thành “thây ma sống”
lao động khổ sai suốt nhiều thập kỷ qua. Ví dụ như, quá trình có thể
biến người thành thây ma sống (giả sử không giết chết họ) sẽ để lại các
hậu quả như tổn thương não, chậm chạp và bất hợp tác, hay nói một cách
khác không phải là các lao động lý tưởng.
Hơn thế nữa, tính kinh tế từ việc biến
người thành thây ma sống không đáng là bao: Haiti là quốc gia nghèo nhất
ở Tây bán cầu, không hề thiếu lao động rẻ mạt làm cho các nông trang và
đồn điền. Ở một đất nước nơi có thu nhập bình quân hàng năm không đầy
2.000USD thì có vô số người còn sống sẵn sàng làm việc mà gần như không
đòi hỏi công sá gì.
Những lao công “thây ma sống”
không đòi hỏi thù lao (nếu có tồn tại) sẽ vẫn cần phải được nuôi ăn, mặc
và ở, gây tốn kém gần tương đương việc nuôi lao động sống. Vậy, ai sẽ
quan tâm tới việc biến người thành thây ma sống khi công việc này đòi
thời gian, nỗ lực để bắt cóc một ai đó, làm giả cái chết của họ, dùng
chất độc để hồi sinh và biến họ thành nô lệ?
Có một số cách dễ dàng hơn để khiến ai đó bị tổn thương não. Và ngay cả khi cách dùng “bột thây ma sống”
hiệu quả, không có gì đảm bảo rằng nạn nhân sẽ trở nên ngoan ngoãn hoặc
phục tùng mệnh lệnh bởi họ đơn giản có thể rơi vào trạng thái thực vật.
Và tất nhiên, trong thực tế, người ta chưa bao giờ phát hiện bất kỳ trang trại hay đồn điền trống mía nào có các “thây ma sống” làm việc trên cánh đồng. Do đó, dù “thây ma sống” có càn quét phim ảnh và truyền hình thì sự tồn tại của “thây ma sống” trong đời thực chỉ là giai thoại chưa được chứng minh.
Cập nhật: 24/10/2018Tổng hợp
Bí ẩn những cơ thể tự bốc cháy khiến y học chưa thể lý giải
Thứ Hai, ngày 16/07/2018 19:00 PM (GMT+7)
Vào một ngày thời tiết khá dễ chịu
tháng 9/2017, người đàn ông 70 tuổi đang đi dạo trên đường phố London
(Anh) thì đột nhiên cơ thể bốc cháy dữ dội. Cho đến nay, những trường
hợp đáng kinh ngạc như vậy vẫn khiến các nhà khoa học bối rối.
Các trường hợp người tự bốc cháy khiến giới khoa học vô cùng băn khoăn.
Ngọn đuốc sống kinh hoàng
Người đàn ông có tên John Nolan nhanh chóng được người đi đường dập
lửa rồi đưa tới bệnh viện. Tuy nhiên do bỏng quá nặng, ông đã qua đời.
Nhiều tháng trôi qua, giới khoa học vẫn băn khoăn về nguyên nhân dẫn đến
cái chết của Nolan. Họ đã nói chuyện với một số nhân chứng thấy ông
Nolan bốc cháy nhưng vẫn không xác định được ngọn lửa bắt đầu như thế
nào.
Trên thực tế, Nolan không phải trường hợp duy nhất tự bốc cháy. Lịch
sử y học đã ghi nhận gần 150 ca tương tự với các đặc điểm chung như cơ
thể nạn nhân bị thiêu rụi nhưng môi trường xung quanh còn nguyên vẹn và
không nguồn nhiệt lớn nào ở đủ gần để gây cháy.
Một trong số những trường hợp nổi tiếng nhất là câu chuyện của bác sĩ
Bentley ở bang Pennsylvania (Mỹ). Ngày 15/12/1966, trong nhà của bác sĩ
Bentley, người ta nhìn thấy một cảnh tượng kinh hoàng khi ván sàn bị
cháy thủng, các phần khác của cơ thể bác sĩ gần như cháy thành tro chỉ
trừ lại phần cẳng chân. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là mọi vật trong nhà đều
không có dấu vết của một vụ hỏa hoạn
Theo các chuyên gia, để có thể thiêu cơ thể thành tro, trước hết phải
đưa nhiệt độ lên đến 1200 độ C trong 90 phút, sau đó hạ nhiệt xuống 970
độ C trong 60-150 phút. Tuy nhiên, nhiệt độ của một vụ cháy thường chỉ
đến 800 độ C. Do đó, vị bác sỹ không thể bị cháy thành tro như vậy. mặt
khác, nếu bác sỹ bị ngọn lửa dữ dội thiêu cháy thì các thứ trong phòng
cũng sẽ không thể còn nguyên vẹn. Từ tất cả những điều này, các nhà khoa
học cho rằng bác sĩ đã tự bốc cháy.
Một trường hợp khác vào năm 1982, tại ngôi nhà của mình ở Anh, khi
đang ngồi trong bếp, bà Jeannie Saffin (61 tuổi) bỗng dưng phát lửa.
Trong giây phút kinh hoàng đó, cụ ông Jack (82 tuổi) - cha của bà
Jeannie đang ngồi ngay cạnh.
Cụ ông Jack nhìn thấy một luồng sáng chợt lóe lên xung quanh người
con gái. Theo lời cụ, đến khi ngọn lửa đã cháy xung quanh cơ thể mà bà
Jeannie vẫn không hề nhúc nhích hay khóc lóc như thể không biết chuyện
kinh khủng đang xảy ra với bản thân. Cuối cùng, cụ đã đẩy được bà
Jeannie vào một thùng nước nên bà đã may mắn sống sót.
Tất cả những trường hợp ấy đều được xác định là mắc phải hội chứng hiếm gặp mà giới y khoa gọi là bốc cháy tự phát (SHC). Những giả thiết còn bỏ ngỏ
Một cách giải thích được giới chuyên môn chấp nhận rộng rãi và phù
hợp với nhiều trường hợp SHC là "hiệu ứng sợi bấc". Theo đó, cơ thể
người đóng vai trò tương tự thân nến, trong khi quần áo giống như sợi
bấc.
Khi quần áo bén lửa do tàn thuốc hoặc bụi than từ lò sưởi, lửa sẽ
xuyên qua da và đốt cháy lớp mỡ bên dưới. Mỡ ngấm vào quần áo và trở
thành nguồn cấp nhiên liệu liên tục cho ngọn lửa cháy dữ dội hơn, tạo ra
sức nóng khủng khiếp.
Tuy vậy, “hiệu ứng sợi bấc” vẫn không thể giải thích hết tất cả các
trường hợp SHC. Do đó, nhiều năm qua, các nhà khoa học tiếp tục đưa ra
nhiều giả thuyết khác về nguyên nhân của hiện tượng này.
Nhà sinh vật học Brian Ford nhận định nhiều khả năng nguyên nhân đằng
sau hiện tượng tự bốc cháy kỳ lạ là chứng nghiện rượu. “Khi uống quá
nhiều rượu, các mô sẽ bị chìm trong cồn và dễ cháy hơn”, ông giải thích.
Tuy nhiên, lập luận trên không đủ thuyết phục bởi từ năm 1851, nhà
hóa học J. von Leibig (Đức) đã chỉ ra các mẫu bệnh phẩm được bảo quản
trong dung dịch 70% ethanol không hề bắt lửa. Thậm chí, thử nghiệm trên
chuột cho thấy chuột bị tiêm ethanol liên tục cũng không hề bốc cháy.
Một giả thuyết khác là các nạn nhân tự bốc cháy trước đó đều rơi vào
tình trạng sức khỏe yếu kém. Về nguyên tắc, khi ốm, glycogen trong máu
vốn dùng làm nhiên liệu cho cơ bắp dễ dàng bị cạn kiệt khiến các phân tử
mỡ vỡ ra và trở thành nguồn năng lượng thay thế. Kết hợp với bệnh mãn
tính hoặc một buổi tập gym vất vả, quá trình này sẽ sản sinh ra acetone.
Không chỉ mau bắt lửa, acetone còn có thể hòa với nước cùng chất béo
rồi đi khắp cơ thể.
Tuy nhiên, những giả thuyết trên mới chỉ dừng lại ở mức phỏng đoán và
cho đến nay, hiện tượng người tự bốc cháy vẫn là dấu hỏi lớn cho nhân
loại.
Suốt một thời gian dài, người ta tranh
luận liệu con người có thể tự bốc cháy mà không cần nguồn nhiệt bên
ngoài hay không. Tuy nhiên, trong 300 năm qua đã có hơn 200 báo cáo về
các trường hợp như vậy.
Hiện
tượng cơ thể người tự bốc cháy (SHC) xảy ra khi một người nào đó bị đốt
cháy đến chết bởi ngọn lửa bắt nguồn từ bên trong cơ thể của họ. Trong
số hàng trăm trường hợp được ghi chép lại, có vẻ như chúng xảy ra theo
cách thức tương tự nhau.
Một số trường hợp SHC trong lịch sử
Những
câu chuyện đầu tiên về SHC có thể được tìm thấy trong các tài liệu văn
học thời Trung Cổ. Một số người thậm chí còn tin rằng, Kinh Thánh cũng
có đoạn đề cập đến hiện tượng này.
Năm 1641,
bác sĩ người Đan Mạch Thomas Bartholin (1616 – 1680) mô tả cái chết của
Polonus Vorstius trong cuốn sách có tựa đề “Historiarum Anatomicarum
Rariorum” (tạm dịch: Tuyển tập các hiện tượng y học kỳ lạ). Vorstius là
một hiệp sĩ người Italy. Trong khi đang ở nhà tại thành phố Milan năm
1640, Vorstius uống một ít rượu mạnh và bắt đầu phun ra lửa trước khi bị
bốc cháy. Đây là trường hợp tự bốc cháy đầu tiên được ghi chép lại
trong lịch sử nhân loại.
Năm 1673, tác giả
người Pháp Jonas Dupont xuất bản cuốn sách mang tên “De Incendiis
Corporis Humani Spontaneis”, trong đó ghi chép lại các trường hợp và
những nghiên cứu về hiện tượng SHC.
Trường hợp
nổi tiếng khác xảy ra tại Pháp vào năm 1925. Một chủ quán trọ sống ở
Paris bị đánh thức bởi mùi khói và phát hiện người vợ Nicole Millet bị
thiêu cháy thành tro khi nằm trên một tấm nệm rơm. Tuy nhiên, tấm nệm
này không hề bị ảnh hưởng bởi ngọn lửa. Tất cả những gì còn sót lại của
Millet – một người nghiện rượu lâu năm – là hộp sọ, một vài chiếc xương ở
lưng và phần chân dưới. Các đồ vật bằng gỗ xung quanh Millet không hề
bị hư hại. Chồng của bà ban đầu bị buộc tội giết người. Nhưng sau khi
kháng cáo, các thẩm phán đồng ý với lời bào chữa của ông về hiện tượng
người tự bốc cháy, một phần nhờ vào lời khai của bác sĩ phẫu thuật
Claude-Nicolas Le Cat. Trong lúc Le Cat đang ở quán trọ thì ngửi thấy
mùi khói và không lâu sau đó người ta phát hiện thi thể Millet. Cái chết
của Millet được tuyên bố là do “sự trừng phạt của Đức Chúa Trời”.
Hiện tượng người tự bốc cháy là một bí ẩn chưa có lời giải thích rõ ràng. Ảnh: Shutterstock
Hiện
tượng SHC được nhiều người biết đến trong thế kỷ 19, sau khi nhà văn
nổi tiếng người Anh tên là Charles Dickens sử dụng nó để kết liễu một
trong những nhân vật của mình trong cuốn tiểu thuyết Bleak House (Ngôi
nhà Hoang vắng), theo Ancient Origins. Khi các nhà phê bình văn học cáo
buộc Dickens sử dụng những tình tiết không có thật, Dickens nêu ra một
nghiên cứu cho thấy 30 trường hợp SHC có thật trong lịch sử được ghi
chép tại thời điểm đó.
Năm 2010, Michael
Faherty, một người đàn ông 76 tuổi, chết tại nhà ở West Galway, Ireland.
Thi thể nạn nhân bị cháy rụi với phần đầu ở gần lò sưởi. Ngoài ra,
không có vết cháy trên sàn nhà, trần nhà, hoặc bất kỳ nơi nào khác trong
phòng. Ciaran McLoughlin, người tham gia khám nghiệm pháp y, tỏ ra vô
cùng bối rối về nguyên nhân cái chết. Faherty đang dùng lò sưởi nhưng nó
không phải nguyên nhân gây cháy. Cuối cùng McLoughlin kết luận, SHC là
nguyên nhân gây ra cái chết của Faherty.
Đặc điểm chung của nạn nhân SHC
Hiện
tượng SHC từng được đề cập trên Tạp chí Y khoa Anh vào năm 1938, khi
bài báo của L.A. Parry trích dẫn nội dung một cuốn sách xuất bản năm
1823 với tiêu đề Medical Jurisprudence (Luật học Y khoa). Bài báo cho
biết, các trường hợp con người tự bốc cháy có chung một số đặc điểm bao
gồm: (1) Đa số nạn nhân là người nghiện rượu, (2) Họ thường là phụ nữ
lớn tuổi, (3) Cơ thể nạn nhân tự bốc cháy, nhưng có một số chất bén lửa
đã tiếp xúc với cơ thể, (4) Hai bàn tay và bàn chân thường bị tách rời,
(5) Ngọn lửa gây rất ít tổn hại đến nhiều thứ dễ cháy khác tiếp xúc với
cơ thể, (6) Quá trình đốt cháy để lại phần thi thể chỉ là một đống tro
tàn dính mỡ, có mùi hôi thối rất khó chịu.
Chứng
nghiện rượu dường như đóng một vai trò quan trọng trong những trường
hợp SHC được ghi nhận lúc ban đầu, một phần là do các bác sĩ và nhà văn
thời kỳ Victoria tin rằng hiện tượng này là do rượu gây ra.
Lý giải khoa học
Có
nhiều lý thuyết về nguyên nhân gây ra hiện tượng SHC ngoài chứng nghiện
rượu đã đề cập ở trên, chẳng hạn như: chất béo của cơ thể bốc cháy, sự
tích tụ axeton, hiện tượng tĩnh điện, khí methane (CH4), vi khuẩn, tình
trạng căng thẳng, thậm chí cả sự can thiệp của thần thánh.
Lý
thuyết giải thích SHC được các nhà khoa học ủng hộ nhiều nhất gọi là
“hiệu ứng sợi bấc”. Theo đó, cơ thể nạn nhân SHC được ví như một cây
nến. Cấu tạo của cây nến bao gồm một sợi bấc ở bên trong, bao bọc xung
quanh sợi bấc là sáp làm từ axit béo dễ cháy. Ngọn lửa sẽ đốt cháy sợi
bấc và lớp sáp có nhiệm vụ duy trì ngọn lửa.
Chất
béo trong cơ thể nạn nhân hoạt động như một chất dễ cháy, và quần áo
hoặc tóc đóng vai trò là bấc. Khi quần áo bắt đầu bị cháy do tàn thuốc
hoặc bụi than từ lò sưởi, lửa sẽ xuyên qua da và đốt cháy lớp mỡ bên
dưới. Mỡ ngấm vào quần áo, trở thành nguồn cấp nhiên liệu liên tục cho
ngọn lửa cháy dữ dội hơn, tạo ra sức nóng khủng khiếp. Những người ủng
hộ lý thuyết này cho rằng, hiệu ứng sợi bấc giải thích tại sao cơ thể
của nạn nhân bị thiêu rụi nhưng các đồ vật xung quanh gần như không bị
đốt cháy.
Một điều cần lưu ý là các trường hợp
SHC luôn xảy ra trong nhà, khi nạn nhân ở một mình và gần nguồn nhiệt.
Ví dụ, không có trường hợp SHC nào được ghi nhận xảy ra giữa đường phố
vào ban ngày. Ngoài ra, hiện tượng SHC dường như chỉ xảy ra với con
người, do chưa có báo cáo nào về trường hợp động vật tự nhiên bốc cháy.
Tuy
nhiên, hiệu ứng sợi bấc không thể giải thích đầy đủ lý do các nạn nhân
vẫn nằm bất động trong suốt quá trình bị đốt cháy, cũng như đồ nội thất
xung quanh thường không bị ảnh hưởng bởi ngọn lửa.
Quốc Hùng (Theo Ancient Origins)
Người tự bốc cháy thành tro – bí ẩn hơn 400 năm chưa có lời giải
Lịch sử hơn 400 năm qua ghi
nhận hơn 200 trường hợp con người tự bốc cháy tới chết dù không hề có
dấu hiệu bị thiêu bằng một nguồn nhiệt ngoài. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn
đến hiện tượng này?
Các nạn nhân thường được phát hiện đơn
độc ở trong nhà, với phần đầu và thân cháy rụi. Tuy nhiên tay chân lại
còn nguyên vẹn. Trong vài trường hợp hiếm hoi, nội tạng không bị tổn
hại. Các căn phòng hiện trường cũng không phát hiện thấy dấu vết bị
cháy, ngoài một dư lượng dầu mỡ trên đồ nội thất và tường.
Năm 1673, tác giả người Pháp Jonas
Dupont cũng đã xuất bản một cuốn sách nghiên cứu về các Trường hợp tự
bốc cháy (SHC). Một trong những vụ nổi tiếng nhất ở Pháp là năm 1725,
một chủ nhà trọ ở Paris tỉnh giấc và phát hiện vợ mình đã cháy
thành tro, thi thể nằm trên tấm đệm rơm. Tấm đệm còn nguyên, không
bị cháy. Đồ gỗ xung quanh bà cũng còn nguyên.
Tất cả những gì còn lại của người vợ, bà
Millet, một người nghiện rượu mãn tính, là hộp sọ, vài đốt xương sống
và xương cẳng chân. Người chồng ban đầu bị tình nghi giết vợ, tuy nhiên
sau đó đã được tuyên vô tội, nhờ vào lời khai của một bác sĩ phẫu thuật
tên là Claude-Nicolas Le Cat. Bác sĩ tình cờ nghỉ lại tại khu nhà trọ
đã làm chứng cho người chồng. Cái chết của người vợ ông chủ nhà trọ sau
đó được tuyên bố là do “sự trừng phạt của Chúa”.
SHC được nhiều người biết tới vào
thế kỷ 19, khi nhà văn nổi tiếng người Anh Charles Dickens, dùng
nó để “giết chết” một trong những nhân vật trong tiểu thuyết
Bleak House. Các nhà phê bình cáo buộc Dickens đã mô tả những
thứ không tồn tại, nhưng ông phản bác, chỉ ra cho đến thời điểm
đó, đã có 30 ca SHC được ghi nhận.
Thế kỉ 20, những vụ SHC cũng không phải
là hiếm thấy. Năm 1951, một góa phụ 67 tuổi tên Mary Reeser sống tại St.
Peterburg, Florida, Mỹ đã chết cháy tại nhà riêng. Người hàng xóm của
bà khi đi qua đã phát hiện ra cửa trước bị nóng nên đã cùng 2 người làm
công phá cửa đi vào phòng. Khi vào trong, họ phát hiện ra một phần còn
lại của chiếc ghế bị cháy và một bên chân của bà Reeser.
Đến năm 1966, người ta phát hiện phần
thi thể còn sót lại của người đàn ông 91 tuổi J.Irving Bentley tại căn
nhà riêng của ông ta tại Pennslyvania, Mỹ. Hầu hết cơ thể bị cháy thành
tro, chỉ trừ 1 bên ống chân và chiếc giầy ông đang đi.
Kinh ngạc hơn, mặc dù đủ thời gian và
sức mạnh để thiêu cháy người đàn ông này nhưng ngọn lửa lại gần như
không làm hư hại gì đến căn nhà. Tại hiện trường cũng không phát hiện
chất gây cháy.
Các vụ nạn nhân tự bốc cháy thường có
đặc điểm: là người nghiện rượu mãn tính, thường là nữ giới trung niên,
ngọn lửa gây ra rất ít thiệt hại tới các đồ vật xung quanh, cơ thể bốc
cháy toát ra mùi hôi thối khó chịu.
Đã có nhiều giả thuyết về nguyên nhân
của hiện tượng này, như chất béo trong cơ thể dễ cháy, acetone tích tụ,
tĩnh điện, vi khuẩn, khí metan và thậm chí có cả sự can thiệp của Chúa.
Nguyên nhân được giới khoa học đồng tình nhiều nhất là “hiệu ứng sợi
bấc”.
Nếu coi cơ thể con người là một cây nến,
thì phần chất béo trong người chính là sáp nến, nhiên liệu cho sự cháy.
Tóc hay quần áo chính là sợi bấc. Nếu vì một nguyên nhân nào đó quần áo
hay tóc bắt lửa, đầu tiên lửa sẽ đốt cháy lớp da người. Phần mỡ dưới da
sẽ ngấm vào quần áo và tiếp tục trở thành nhiên liệu cho sự cháy.
Giả thuyết này có thể giải thích được
tại sao chỉ có cơ thể bị cháy, vùng xung quanh xác và các chi ít bị
cháy. Tuy nhiên, nó chưa thể giải thích tại sao hiện tượng này chỉ diễn
ra trong nhà. Chưa có vụ tự bốc cháy nào diễn ra ngoài đường phố, gần
các nguồn dễ bắt lửa. Hiện tượng này cũng chỉ xảy ra ở người, không có
báo cáo nào về việc động vật tự bốc cháy. Ngoài ra, giả thuyết này không
thể giải thích tại sao các nạn nhân luôn bất động trong suốt thời gian
bị cháy, cũng như tại sao đồ nội thất xung quanh thường vẫn còn nguyên
vẹn. Hơn nữa, để có thể đốt nạn nhân thành tro, cần một nhiệt độ rất
cao, vào khoảng 1.648 độ C. Nhiệt độ trong lò hỏa táng cũng chỉ đạt
khoảng 982 độ C.
Cuộc tranh luận về nguyên nhân gây nên
hiện tượng SHC hay sự tồn tại của hiện tượng SHC vẫn chưa ngã ngũ. Thậm
chí có những người còn cho đây là những vụ giết người được che đậy một
cách khéo léo. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng, trình độ khoa
học hiện hữu còn rất nhiều hạn chế và chưa đủ khả năng khám phá tất cả
những tiềm năng của cơ thể con người chúng ta, do đó, khả năng con
người có thể tự bốc cháy theo một cơ chế nào đó là hoàn toàn có thể
xảy ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét