Thứ Ba, 19 tháng 2, 2019
SỰ NGU XUẨN CỦA CUỘC SỐNG 46
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động mù quáng đích thực của con người, và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, thì kẻ gây chiến vẫn bị coi là kẻ loạn trí vô hạn, dù đó là sự loạn trí tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống!
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người hóa ra là ngu ngốc bậc nhất!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Mục đích của mọi cuộc chiến tranh, của mọi phía xung đột đều là cố giết chóc để dành lấy danh lợi.
-Xét như thế mới hiểu được vì sao một dân tộc nhỏ bé, lạc hậu dám kiên quyết tiến hành chiến tranh với một siêu cường để giành lấy sự sống, thoát kiếp nô lệ.
-Và nhất là khi dân tộc đó giành được thắng lợi, thì thắng lợi đó được coi là của thần thánh.
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người thực sự phải biết tôn sùng cuộc sống, ghê tởm giết chóc, coi cuộc sống là thứ tối thượng, không được xâm phạm, hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu, hoặc trở lại lối nghĩ tăm tối như hổ báo, hoặc sáng suốt như nước, triệt tiêu hận thù!
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn, giết chóc lẫn nhau?
-Và vô cớ tàn sát sinh linh, con người có phải là loài ác độc nhất trong muôn loài sinh vật!?
-Chiến tranh, dù có thần thánh đến mấy, thì cũng là hành động mang hơi hám của ác quỉ!
-Lịch sử loài người cho thấy, chưa có đế quốc nào, chưa có thế lực nào làm được bá chủ thế giới. Muốn làm chúa tể thế giới thì phải giết người, phải chà đạp sự sống, phẩm giá, phải ngu xuẩn, nghĩa là phải tự hủy diệt bản thân mình trước đã!
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Năm 1979: Trung Quốc thông đồng với Mỹ xâm lược Việt Nam để đổi lấy 1 tỷ Đô La
Chiến tranh biên giới 1979: “Trong cuộc chiến tranh này, đồng bào mình bị giết bằng cách quá rùng rợn”
Vân Anh, ảnh nhân vật cung cấp |
Đã 4 thập kỷ trôi qua kể từ ngày cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 nổ ra. Dù chỉ kéo dài trong một khoảng thời gian ngắn nhưng sự khốc liệt, sự ám ảnh của nó để lại trên đất nước Việt Nam không hề thua kém bất cứ cuộc chiến tranh nào.
Là người có mặt tại vòng vây Hoà An (Cao
Bằng) ngay từ khi quân đội Trung Quốc bắt đầu đưa quân tiến vào biên
giới lãnh thổ Việt Nam, nhiếp ảnh gia Trần Mạnh Thường đã ghi lại được
gần như trọn vẹn 17 ngày đêm tàn khốc đó.
Hiện nay,
ông vẫn còn lưu giữ được khoảng 1.000 bức ảnh về cuộc chiến tranh biên
giới Việt - Trung (1979). Tất cả đều là những khoảnh khắc tư liệu lịch
sử quý giá.
Ông không chỉ ghi lại những ký ức đau thương
của dân tộc Việt Nam phải gánh chịu, mà còn cả những khoảnh khắc thể
hiện tình cảm quân dân vô cùng xúc động, hay thái độ đối xử khoan hồng
của bộ đội ta với tù binh Trung Quốc.
Ở tuổi 83, ông tâm sự: "Trong
thâm tâm tôi nghĩ chiến tranh thì không ai mong muốn cả, đặc biệt là
dân tộc mình lại càng không. Thế nhưng nói vậy không có nghĩa là khi kẻ
thù đến xâm lược mà mình sợ hãi chúng.
Mỗi dân tộc đều có cuộc sống, có lãnh thổ đất đai riêng của người ta, anh không thể nào xâm phạm được".
Nhiếp ảnh gia Trần Mạnh Thường - người hiện đang lưu giữ gần 1.000 bức ảnh về cuộc chiến biên giới Việt - Trung 1979.
"Chiến tranh xảy ra, phụ nữ và trẻ con là những người khổ sở nhất"
-
Gần 4 thập kỷ đã trôi qua kể từ ngày Trung Quốc đưa quân tràn sang lãnh
thổ Việt Nam gây nên cuộc chiến biên giới năm 1979, là người có mặt và
chứng kiến gần như trọn vẹn cuộc chiến đó, cảm xúc hiện tại của ông như
thế nào?
Đầu tiên chúng ta phải nhìn nhận đó thật sự
là một cuộc chiến tranh, dù chưa đến 20 ngày (từ 17/2 đến 3/3) nhưng mức
độ tàn ác dã man của nó không hề khác được những cuộc chiến tranh khác.
Tôi
còn nhớ thời điểm bên mình phát động chiến tranh chống lại quân xâm
lược, toàn dân hăng hái lắm. Thế hệ chúng tôi lúc bấy giờ đã vào độ tuổi
trung niên rồi cũng vậy. Khi hay tin đất nước bị xâm lược, người dân
yêu nước nào cũng cảm thấy trách nhiệm của một công dân với tổ quốc, sẵn
sàng ra trận, không nề hà hiểm nguy.
Thế nhưng một thời
gian sau tôi có cảm giác hình như người ta đã lãng quên cuộc chiến ấy,
rất nhiều thế hệ con cháu tôi gần như không biết gì về nó. Tôi từng
nhiều lần về lại Cao Bằng, gặp lại những người đồng đội năm xưa. Về cảm
giác chung, mọi người đều cảm thấy có chút buồn.
- Ông còn nhớ hình ảnh 17 ngày đêm khốc liệt đó?
Thực ra phía Trung Quốc bắt đầu đánh mình ngày 17/2 nhưng trước đó đã xâm phạm biên giới và nhiều lần gây hấn rồi.
Trước
tình hình đó, Bộ Văn hoá đã chỉ thị cho các văn nghệ sĩ như tôi, nhạc
sĩ Thái Cơ, nhạc sĩ Phó Đức Phương lên Cao Bằng làm nhiệm vụ tuyên
truyền vận động nhân dân chuẩn bị cho cuộc chiến.
Tết
nguyên đán tất cả đều về. Đến sau Tết các anh ấy không lên nữa mà chỉ có
tôi lên. Tôi có mặt tại Hoà An ngày 16 thì sáng 17 Trung Quốc bắt đầu
đánh, vì thế tôi có điều kiện ghi lại trọn vẹn cuộc chiến.
Dân
tộc mình đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, chúng ta biết thế nào là
sự tàn bạo của kẻ thù. Thế nhưng nếu lính Pháp lính Mỹ giết người bằng
súng bằng bom, thì lính Trung Quốc giết dân ta bằng những dụng cụ thô
sơ. Họ đập đầu, chặt chân, chặt cổ.. rất kinh khủng.
Không
những vậy, họ còn đốt kho thóc, những khu vực không hề liên quan tới
cuộc chiến này như nhà trẻ, cơ quan bà mẹ trẻ em cũng bị đập phá.
Đồng
bào mình bị chết thì tôi cũng từng được chứng kiến, thế nhưng trong
cuộc chiến tranh này, đồng bào mình bị giết bằng cách quá rùng rợn.
Tôi
còn nhớ sáng 17, tôi thấy đồng bào mình chạy hớt hơ hớt hải, có hai em
bé cõng nhau chạy sơ tán ngơ ngác lạc mẹ, rồi một em bé khác ngồi bên vệ
đường cạnh bà mẹ máu mê đầm đìa. Lúc ấy tôi nghĩ bà mẹ đã chết, rồi may
sao có chiếc xe ca chạy đến, một cô bộ đội xuống bế em bé và cả bà mẹ
đưa lên xe.
Những khung cảnh đau thương đó đập vào
mắt mình, tôi nhận thấy, chiến tranh xảy ra, phụ nữ và trẻ con là những
người khổ sở nhất.
Nhà trẻ thị xã Cao Bằng đổ nát tan hoang vì bom mìn
Cô bộ đội cứu em bé trên đường hành quân ra trận
- Điều gì khiến ông cảm thấy xúc động nhất khi nhớ về cuộc chiến biên giới phía Bắc năm 1979?
Đó
chính là tinh thần đoàn kết của quân và dân ta. Đặc biệt trong cuộc
chiến đấu này, không chỉ các nam thanh niên trai tráng mà cả những chị
em chân yếu tay mềm cũng đóng góp sức lực của mình. Đồng bào bà con
thiểu số cũng tham gia theo lời kêu gọi, xung phong đi tòng quân ngay.
Họ cùng nhau vắt những nắm cơm mang cho bộ đội, vận chuyển lương thực ra chiến trường, xung phong đi tải thương...
Tôi
cảm nhận được lòng yêu nước của dân mình, khi chiến tranh xảy ra, mọi
người đều có trách nhiệm với tổ quốc. Điều đó làm tôi cảm thấy vô cùng
xúc động.
Các cô gái đang nắm cơm mang ra chiến trường cho bộ đội
Các chị ở Hội phụ nữ Hoà An đang tải thương binh về tuyến sau
"Cái đồi cao như thế, tôi hùng hục leo lên, vừa thở vừa chụp"
- Tác nghiệp trong bom đạn ác liệt như vậy, ông hẳn đã gặp rất nhiều khó khăn?
Điều
kiện tác nghiệp lúc bấy giờ còn nhiều hạn chế. Chúng tôi chỉ dùng một
loại máy ảnh duy nhất là Zenit của Nga. Thế nhưng cái máy đó không thích
hợp với điều kiện khí hậu của mình.
Vào khoảng tháng 2,
miền Bắc của nhiều sương mù ẩm, cái khẩu độ ống kính mở toác ra không
đóng lại được, nên đa phần ảnh của tôi đều bị quá sáng. Cũng may do mình
được học bài bản nên biết cách xử lý. Mọi khi tráng ảnh 4 phút chẳng
hạn, nhưng lúc đó tôi chỉ tráng khoảng 2 phút xem ảnh lên rồi thì thôi.
Cuộc chiến tranh thì ác liệt vô cùng, thế nhưng cũng may là mình ghi lại được hết những hình ảnh cần ghi.
Đến
giờ nghĩ lại tôi vẫn không hiểu tại sao lúc ấy lại hăng say thế. Nó
chơi một phát đạn là mình chết. Nhưng lúc ấy không nghĩ gì cả chỉ cốt
sao làm tròn nhiệm vụ của mình. Cái đồi cao như thế, tôi hùng hục leo
lên, vừa thở vừa chụp.
Chiếc áo nato nhiều ngăn như thế,
mà tôi chụp phim xong tháo bỏ vào ngăn bên này bên kia không kịp mở. Có
những khi chụp xong, tôi buộc phải vứt chiếc áo đi vì mùi đạn bom lẫn
mùi xác người quện vào nhau hôi không chịu nổi.
- Cảm giác của ông khi giơ máy lên chụp xác của những người dân vô tội đã bị chết vì cuộc chiến đó ra sao?
Nói
thật cảm xúc của tôi lúc bấy giờ không còn nữa mà lý trí nhiều hơn, tôi
chỉ nghĩ làm thế nào để mình có thể ghi lại được tội ác của quân thù.
Thế nhưng khi về rồi mới ngấm, cái cảm giác đó thật là kinh khủng.
Trong
thâm tâm tôi nghĩ chiến tranh thì không ai mong muốn cả, đặc biệt là
dân tộc mình lại càng không. Thế nhưng nói vậy không có nghĩa là khi kẻ
thù đến xâm lược mà mình sợ hãi chúng.Mỗi dân tộc đều có cuộc sống, có lãnh thổ đất đai riêng của người ta, anh không thể nào xâm phạm được.
Bộ đội hành quân lên chiến trường
Một tên giặc xâm lược bị ta bắt sống
Tên tù binh đang được đội ngũ y tế của ta chăm sóc vết thương
Ký ức chiến tranh năm 1979: Quân Trung Quốc cướp phá khiến cả TX Cao Bằng chỉ còn 1 ngôi nhà cấp 4
Hoàng Đan - Đồ họa: Mạnh Quân |
Theo tướng Nguyễn Đức Huy, đội quân ô hợp Trung Quốc năm 1979 không chỉ cướp bóc, sát hại dã man đồng bào ta mà còn gây ra những tàn phá kinh hoàng, khó tưởng tượng.
Đội quân ô hợp chuyên cướp bóc, phá hoại
Sinh
năm 1931, ở tuổi 88 nhưng Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy, nguyên quyền Tư
lệnh Quân khu 2, nguyên Tham mưu trưởng mặt trận Vị Xuyên, Trưởng Ban
Liên lạc Cựu chiến binh Mặt trận Vị Xuyên vẫn khỏe mạnh, minh mẫn.
Vị
tướng già nói bản thân đi qua cả 2 cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc:
chống Pháp, chống Mỹ, sau đó chiến đấu ở Campuchia nhưng cuộc chiến bảo
vệ biên giới phía Bắc, chống quân Trung Quốc in sâu trong tâm trí ông
nhất.
Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy.
"Đừng
bao giờ quên ngày 17/2/1979, khi Trung Quốc đưa quân xâm lược Việt Nam
và 10 năm chiến đấu gian khổ, anh dũng, kiên cường của quân, dân ta sau
đó, nhất là ở Vị Xuyên", ông nhắc đi nhắc lại điều này nhiều lần trong
cuộc trò chuyện.
Theo lời kể của tướng Nguyễn Đức Huy,
sáng 17/2/1979, khi đang học ở Học viện Quốc phòng, ông bất ngờ nhận
được tin báo, Trung Quốc đã huy động 600.000 quân tấn công vào 6 tỉnh
biên giới nước ta.
Tiếp
đó, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam - Trung tướng Lê
Trọng Tấn đến Học viện Quốc phòng, nói chuyện với các học viên về diễn
biến cuộc tấn công này, trong đó nhấn mạnh các đơn vị đang đứng chân ở
biên giới bằng mọi giá phải chặn được đối phương, không cho địch tiến
sâu vào lãnh thổ nước ta.
Đồng thời, các quân đoàn chủ lực của chúng ta đang nhanh chóng từ Campuchia trở về bảo vệ biên giới phía Bắc.
Tướng
Huy nhớ lại, sau khi các đơn vị chủ lực thần tốc rút quân về và triển
khai lên phía Bắc vào cuối tháng 2/1979, lớp học của ông cũng chuẩn bị
balô trở về Sở chỉ huy chiến đấu chống quân xâm lược. Cá nhân ông được
điều làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 325, Quân đoàn 2.
Ngay
khi nhận nhiệm vụ, tập kết xong lực lượng, Sư đoàn 325, Quân đoàn 2 do
tướng Huy chỉ huy, hành quân lên tỉnh Cao Bằng để đánh địch vào những
ngày cuối tháng 2, đầu tháng 3/1979.
"Sư đoàn 325 lúc đó
có chừng 2.000 quân nhưng trong hơn chục ngày chiến đấu từ đầu tháng 3
đến khi Trung Quốc rút quân hết, đơn vị chúng tôi chiến đấu căng thẳng,
quyết liệt.
Trên đường địch rút chạy, chúng tôi đã tiêu
diệt khá nhiều, bắt sống hơn 20 quân Trung Quôc thuộc quân đoàn 5 Tứ
Xuyên ở khu ngã ba Dân Chủ - huyện Hòa An và huyện Thông Nông (Cao
Bằng), bàn giao cho phía sau", tướng Huy nhớ lại.
Theo
tướng Huy, khi Trung Quốc sử dụng 600.000 quân, huy động nhiều hỏa lực,
xe tăng để tấn công lực lượng của ta ngăn chặn chủ yếu chỉ là dân quân,
bộ đội địa phương nên địch mới có thể tiến nhanh vào sâu vào lãnh thổ
Việt Nam.
Có những điểm ở Cao Bằng, chỉ trong một ngày,
quân Trung Quốc đã tiến đến 30-40 km. Tuy nhiên, cùng với bộ đội địa
phương, lực lượng biên phòng, dân quân tự vệ đã anh dũng chiến đấu chặn
bước tiến của đối phương, gây cho chúng những tổn thất nặng nề.
Là
vị chỉ huy trực tiếp giao tranh với quân Trung Quốc, ông nhận xét, đây
là một đội quân ô hợp, không được tôi luyện qua chiến đấu mà chỉ mục
tiêu "lấy đông áp đảo".
Ông
cho hay, thực tế, quân Trung Quốc chỉ tham chiến trên chiến trường vào
những năm từ 1953 trở về trước còn về sau đội quân này không trực tiếp
chiến đấu như quân đội Việt Nam thời điểm đó. Do đó, năng lực, kỹ, chiến
thuật, chiến đấu, chỉ huy của họ kém hơn quân đội ta rất nhiều.
Ông
dẫn chứng, khi đi kiểm tra lại các tuyến đường Trung Quốc rút quân năm
1979 nhận thấy, nếu giả dụ chúng ta chỉ có 1 trung đoàn, tiểu đoàn đủ
quân chặn ở điểm cao Trà Lĩnh (Cao Bằng) có thể hàng nghìn, vạn quân
Trung Quốc bị tiêu diệt, không thể qua được.
"Cụ thể,
trực tiếp tôi đi xem những vị trí quân Trung Quốc dừng lại có thể thấy,
họ đào cách nhau chừng 2 – 3m một hầm cá nhân, rất nông, nhỏ. Do đó, chỉ
cần quân ta đánh chặn quyết liệt trên các điểm cao là có thể tiêu diệt
rất đông quân Trung Quốc.
Bên cạnh đó, vũ khí trang bị của binh lính Trung Quốc cũng không có gì mới, lạc hậu chỉ có súng AK, K50…", tướng Huy kể.
Nguyên
Phó Tư lệnh quân khu 2 cho biết thêm, tính từ ngày Trung Quốc nổ súng
tấn công 6 tỉnh biên giới nước ta cho đến ngày rút quân chỉ hơn nửa
tháng. Nhưng trong nửa tháng đó, đội quân ô hợp này không chỉ cướp bóc,
sát hại dã man đồng bào ta mà còn gây ra những sự tàn phá kinh hoàng,
khó tưởng tượng.
Mô
phỏng hình vẽ "Sơ đồ cuộc tiến công xâm lược của quân Trung Quốc (ngày
17-2)", đăng trên báo Quân Đội Nhân Dân số 6348, ra ngày 18-2-1979. Đồ
họa: Mạnh Quân.
"Như ở Cao Bằng, sau khi đánh
đuổi địch xong, tôi trực tiếp đi kiểm tra thị xã Cao Bằng thấy gần như
toàn bộ thị xã đã bị phá hủy, chỉ có duy nhất một ngôi nhà cấp 4 còn
nguyên vẹn.
Chúng tôi đã tới để tìm hiểu tại sao lại như
thế? Khi bước vào ngôi nhà, chúng tôi mới hiểu lý do thấy trên tường có
một bức ảnh Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông được chủ nhà cắt từ mấy
họa báo gài lên bức vách. Có lẽ, vì điều này mà ngôi nhà không bị phá
hủy (?).
Dọc lên thị xã Trà Lĩnh lúc đó, toàn bộ đường
sá, cầu cống, cột điện thoại cũng bị quân Trung Quốc áp bộc phá vào phá
hết", tướng Huy kể.
Sau khi rời Cao Bằng, qua thị xã Lào
Cai, tướng Huy cũng thấy một cảnh tan hoang. Toàn bộ nơi đây bị quân thù
tàn phá tan tành, tất cả các công trình - từ trụ sở các cơ quan, trường
học, bệnh viện, nhà dân, cầu cống, cột điện đều bị phá hủy…Cả thị xã
chỉ còn lại một nhà thờ coi là nguyên vẹn nhưng thực chất đã bị phá gần
hết.
"Ngay mỏ Apatit Lào Cai mới được Liên Xô (cũ) hỗ trợ
về máy móc cũng bị quân Trung Quốc phá, cướp trang thiết bị đưa về
nước. Với thị xã Lạng Sơn cũng tương tự như vậy. Có thể nói cả 3 thị xã
Cao Bằng, Lào Cai, Lạng Sơn lúc đó đã bị quân Trung Quốc phá sạch, san
bằng không còn gì cả", tướng Huy hồi tưởng.
Ông cũng chỉ
rõ thực tế lúc đó, trong số hàng chục vạn quân đưa sang xâm lược Việt
Nam, ngoài một số ít quân chủ lực còn có hàng vạn dân binh đi theo và do
đói, nghèo nên qua địa bàn nào, gặp được thứ gì của dân ta là họ cướp
sạch từ gạo, nồi niêu, xoong, chảo…
"Với
những gì tôi được trực tiếp chứng kiến ở Cao Bằng và các địa phương
khác có thể thấy, quân Trung Quốc thời điểm đó đã thực hiện chính sách 3
sạch là "cướp sạch, phá sạch, giết sạch" ở những nơi đi qua.
Những
hình ảnh ở Tổng Chúp (Cao Bằng) khi hàng chục người dân vô tội bị quân
Trung Quốc sát hại hay ở pháo đài Lạng Sơn, khi tràn vào được, quân
Trung Quốc dùng rơm, rạ hun chết hàng trăm người dân ta là sự tàn bạo
không thể tưởng tượng", tướng Huy nhắc lại.
"Chúng ta không truy kích quân xâm lược Trung Quốc năm 1979 vì muốn hòa bình"
Tướng
Nguyễn Đức Huy nhấn mạnh, trong cuộc chiến tháng 2/1979 phải nhìn nhận
rõ rằng, chưa có đơn vị chủ lực nào của ta phải chạm trán với quân Trung
Quốc.
Tướng Huy thắp hương cho các đồng đội hy sinh ở Hà Giang. Ảnh do ông cung cấp.
Đồng
thời, nhiều người đặt vấn đề khi lực lượng chủ lực của chúng ta đã sẵn
sàng nhưng quân Trung Quốc lại rút lui, vậy tại sao không tổ chức truy
kích?
Theo tướng Huy, quân ta có đủ điều kiện về độ thiện
chiến, kinh nghiệm tác chiến, trang bị... nhằm truy kích khi địch rút
để gây tổn thất cho chúng.
"Chúng ta không làm vậy bởi đây là động thái tiếp nối truyền thống cha ông ta.
Nhân
dân Việt Nam chiến đấu là để quân xâm lược phải rút khỏi bờ cõi lãnh
thổ nước ta. Chúng ta không truy kích khi quân xâm lược rút chạy vì
chúng ta muốn hòa bình, chúng ta không muốn gây chiến", tướng Huy nêu
rõ.
Ông nhấn mạnh thêm, đây là cuộc chiến tranh xâm
lược của Trung Quốc và Việt Nam đã chiến thắng khi buộc quân địch phải
rút quân, giữ vững toàn vẹn chủ quyền, biên giới lãnh thổ.
"Chúng
ta không kích động hằn thù dân tộc và luôn vun đắp cho tình hữu nghị
giữa nhân dân hai nước, nhưng cũng không được quên những lần nhân dân,
quân đội Việt Nam buộc phải chiến đấu để bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Cuộc
chiến tranh chống quân bành trướng xâm lược năm 1979 hay trận hải chiến
Gạc Ma 1988... là những bài học xương máu cần nhắc nhớ trong mỗi người
con đất Việt này", tướng Huy chia sẻ.
Bài báo năm 1979 viết về chiến tranh biên giới phía Bắc: Đặng Hồng Quân, một mình diệt 72 tên xâm lược
Duy Hoàng (TTXVN, đăng trên Nhân dân năm 1979) |
Giặc tiến đến trận địa 200 mét, 100 mét rồi 70 mét. "Phải kìm chân chúng lại, vít cổ chúng xuống", Quân suy nghĩ thế.
Chúng tôi xin giới thiệu với quý độc giả bài đăng trên báo Nhân dân số 9025, ra thứ Sáu, ngày 23/2/1979 về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 1979. Bài của tác giả Duy Hoàng - TTXVN:
Nhìn cảnh hàng nghìn nhà cửa, vườn tược của nhân dân bị tàn phá, những cụ già và trẻ thơ còn ẵm ngửa bị kẻ thù đang tay tàn sát, lòng Quân cháy bỏng căm thù. Anh tự nhủ: "Phải đánh dập đầu bọn xâm lược cuồng chiến, trả thù cho bà con, cô bác".
Trận địa của Quân ở ngay ngã ba sông Hồng và sông Nậm Thi, một vị trí trọng yếu, ngay khi đặt chân lên đất ta, bọn xâm lược đã quyết tâm đánh chiếm. Chúng giội xuống trận địa hàng nghìn quả pháo cối, hỏa tiễn để dọn đường và dùng chiến thuật "biển người" xông lên chiếm trận địa.
Mặc dù bị đánh trả quyết liệt, nhiều tên chết và bị thương, nhưng chúng không chịu rút. Từ các hướng, chúng hò hét, tràn tới hòng bao vây, cô lập, hất trận địa của Quân xuống sông. Giặc tiến đến trận địa 200 mét, 100 mét rồi 70 mét.
"Phải kìm chân chúng lại, vít cổ chúng xuống", Quân suy nghĩ thế.
Sau khi quan sát địch, anh vác khẩu đại liên lao ra khỏi công sự, chạy như bay xuống ngã tư Cốc Lếu. Đồng chí Ước, xạ thủ phụ, cùng vác hòm đạn lao theo. Ở đây, tuy địa bàn trống trải, nguy hiểm nhưng rất thuận lợi để tiêu diệt địch. Quân vừa tìm được chỗ đặt súng thì Ước ngã. Quân nhanh nhẹn quay lại dìu Ước vào nơi an toàn và vác hòm đạn thay bạn.
Đạn
địch đan dày đặc trên đầu. Bất chấp nguy hiểm, Quân nghiến răng xiết
cò. Xác những tên xâm lược chồng chất lên nhau. Mũi tiến công chính của
địch phải ngưng lại. Bọn xâm lược phát hiện ra Quân, chúng tập trung hỏa
lực, bắn như vãi đạn vào ổ súng lợi hại của anh. Quân bình tĩnh, cơ
động đến một vị trí thuận lợi khác tiếp tục chiến đấu.
Một mình với khẩu đại liên, anh luôn luôn tìm được những vị trí lợi hại bất ngờ đánh vào sườn địch làm chúng không kịp chống đỡ.
Hơn
2 ngày đêm, Quân liên tục bẻ gẫy nhiều mũi tiến quân của địch, tạo điều
kiện cho đồng đội tổ chức các điểm hỏa lực thích hợp tiêu diệt sinh lực
địch. Mặc dù với số lượng đông gấp bội, địch không sao chiếm nổi trận
địa.
Trong chiến công đầu giòn giã của quân và dân Hoàng Liên Sơn trừng trị bọn xâm lược, riêng Quân đã góp phần tiêu diệt 72 tên địch.
Đặng Hồng Quân mới 20 tuổi đời, vào bộ đội chưa được hai năm nhưng chiến đấu rất mưu trí, dũng cảm. Anh em trong đơn vị tặng Quân danh hiệu "Dũng sĩ diệt bọn Trung Quốc bành trướng, xâm lược".
Đặng Hồng Quân, một mình diệt 72 tên xâm lược
Hơn
hai ngày đêm liên tục chiến đấu, vừa mệt vừa khát cháy cổ nhưng lúc nào
Đặng Hồng Quân cũng tỉnh táo, nổ súng chính xác vào kẻ thù. Hàng chục
tên Trung Quốc xâm lược đã ngã gục dưới chân anh. Nhìn cảnh hàng nghìn nhà cửa, vườn tược của nhân dân bị tàn phá, những cụ già và trẻ thơ còn ẵm ngửa bị kẻ thù đang tay tàn sát, lòng Quân cháy bỏng căm thù. Anh tự nhủ: "Phải đánh dập đầu bọn xâm lược cuồng chiến, trả thù cho bà con, cô bác".
Trận địa của Quân ở ngay ngã ba sông Hồng và sông Nậm Thi, một vị trí trọng yếu, ngay khi đặt chân lên đất ta, bọn xâm lược đã quyết tâm đánh chiếm. Chúng giội xuống trận địa hàng nghìn quả pháo cối, hỏa tiễn để dọn đường và dùng chiến thuật "biển người" xông lên chiếm trận địa.
Mặc dù bị đánh trả quyết liệt, nhiều tên chết và bị thương, nhưng chúng không chịu rút. Từ các hướng, chúng hò hét, tràn tới hòng bao vây, cô lập, hất trận địa của Quân xuống sông. Giặc tiến đến trận địa 200 mét, 100 mét rồi 70 mét.
"Phải kìm chân chúng lại, vít cổ chúng xuống", Quân suy nghĩ thế.
Sau khi quan sát địch, anh vác khẩu đại liên lao ra khỏi công sự, chạy như bay xuống ngã tư Cốc Lếu. Đồng chí Ước, xạ thủ phụ, cùng vác hòm đạn lao theo. Ở đây, tuy địa bàn trống trải, nguy hiểm nhưng rất thuận lợi để tiêu diệt địch. Quân vừa tìm được chỗ đặt súng thì Ước ngã. Quân nhanh nhẹn quay lại dìu Ước vào nơi an toàn và vác hòm đạn thay bạn.
Ảnh: Thanh Tú
Trong chiến công đầu giòn giã của quân và dân Hoàng Liên Sơn trừng trị bọn xâm lược, riêng Quân đã góp phần tiêu diệt 72 tên địch.
Đặng Hồng Quân mới 20 tuổi đời, vào bộ đội chưa được hai năm nhưng chiến đấu rất mưu trí, dũng cảm. Anh em trong đơn vị tặng Quân danh hiệu "Dũng sĩ diệt bọn Trung Quốc bành trướng, xâm lược".
theo Trí Thức Trẻ
Tướng Lê Mã Lương: Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc bài học về chỉ huy chiến trường qua cuộc chiến tranh năm 1979
Hoàng Đan - Đồ họa: Mạnh Quân. |
Thiếu tướng Lê Mã Lương khẳng định cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc là cuộc chiến chính nghĩa. Chúng ta đã chiến đấu, chiến thắng quân xâm lược Trung Quốc.
Ông khẳng định đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ biên giới phía Bắc mà quân và dân ta đã chiến đấu, chiến thắng quân xâm lược. Chúng ta cần tự hào về điều đó và cần nhắc nhớ cho các thế hệ hiện tại, mai sau về giai đoạn lịch sử này.
Một trong những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại nhất của dân tộc ta
-Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc đã lùi xa 40 năm, ông đánh giá thế nào về cuộc chiến này trong dòng lịch sử của dân tộc?
-Thiếu tướng Lê Mã Lương: Về bản chất, đây là một cuộc chiến tranh xâm lược mà đối phương đã có ý đồ từ những năm 50 của thế kỷ trước, nhằm đưa các nước Đông Nam Á vào trong quỹ đạo của Trung Quốc.
Việt Nam là nước có vị trí chiến lược, địa chính trị quan trọng ở Đông Nam Á. Nhà cầm quyền Trung Quốc lúc bấy giờ muốn nắm Việt Nam, khống chế bán đảo Đông Dương, tạo hành lang xâm nhập Đông Nam Á.
Quân Trung Quốc tàn phá nặng nề cơ sở hạ tầng của các tỉnh biên giới, giết hại nhiều dân thường vô tội, như các vụ thảm sát kinh hoàng ở Kim Quang (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai) hay giết hại 43 người dân (phần lớn là phụ nữ, trẻ em) rồi vứt xác xuống giếng ở thôn Tổng Chúp (xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng).
Ngày 5/3/1979, gần 20 ngày sau khi tấn công xâm lược Việt Nam, quân Trung Quốc chỉ tiến sâu được 10 km, đồng thời lực lượng bị tổn thất lớn, có nguy cơ sa lầy vào cuộc chiến này.
Mặt khác, trước sức ép của dư luận trong nước và thế giới, đặc biệt là việc Liên Xô (cũ) đưa lượng lớn binh sĩ, hỏa lực, áp sát biên giới Trung - Xô, đã buộc nhà cầm quyền Trung Quốc phải tuyên bố rút quân, chấp nhận thất bại cay đắng tại chiến tranh biên giới.
Mô
phỏng hình vẽ "Sơ đồ cuộc tiến công xâm lược của quân Trung Quốc (ngày
17-2)", đăng trên báo Quân Đội Nhân Dân số 6348, ra ngày 18-2-1979. Đồ
họa: Mạnh Quân.
Rõ ràng, đây là cuộc chiến xâm lược thực sự, không đơn thuần như cách gọi "dằn mặt", "đòn cảnh cáo", "dạy bài học" mà Trung Quốc từng đưa ra.
Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, chiến tranh vệ quốc 1979 - kéo dài 10 năm sau đó, không phải một cuộc chiến quá dài, nhưng cũng không ngắn so với những gì chúng ta trải qua trước đó. Đây có thể coi như một trong những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại nhất của dân tộc ta.
Anh hùng Lê Mã Lương (Ảnh tư liệu)
-Là người trực tiếp cầm súng, chỉ huy chiến đấu ở chiến trường biên giới phía Bắc năm 1979 và 10 năm sau đó, ông đánh giá thế nào về quân Trung Quốc thời điểm đó?
-Thiếu tướng Lê Mã Lương: Trong khoảng 20 ngày của năm 1979, Trung Quốc đã huy động một lực lượng rất đông, lên tới 600.000 quân xâm lược Việt Nam.
Trước "chiến dịch biển người" như vậy, chưa bao giờ người lính chúng tôi lo lắng, sợ hãi. Khi bước vào chiến đấu thực tế với quân Trung Quốc, bản thân tôi mới thấy được nhiều điều bất ngờ. Bất ngờ bởi đến năm 1979, trang bị cho quân đội Trung Quốc lại yếu kém, ô hợp và hôi của như thế.
Mỗi người lính chỉ được trang bị một khẩu súng trường mà trong đó nhiều khẩu là loại từng xuất hiện trong chiến tranh thế giới thứ 2.
Khi lực lượng chiến đấu của Trung Quốc đi trước hoặc chiếm được những vị trí, những đường phố của ta, thì phía sau là đội quân dân binh rất đông - vừa đảm bảo sức chiến đấu quân Trung Quốc, nhưng là đội quân ô hợp hôi của. Họ vào nhà dân vơ vét tất cả những gì có thể dùng được.
Nhìn cảnh tượng ấy, tôi cảm nhận những kẻ đó hèn hạ, vô học đến mức nào.
Trong cuộc chiến, chưa có trận đánh nào mà quân Trung Quốc làm tê liệt nổi một đại đội của Việt Nam. Trong khi đó, bộ đội ta tổ chức những trận đánh và tiêu diệt gọn một đại đội của quân Trung Quốc.
Suốt tháng 2, đầu tháng 3/1979, mặc dù quân Trung Quốc đã phá hủy 5 thị xã, thị trấn: Móng Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Phong Thổ, Lào Cai nhưng các đơn vị biên phòng, lực lượng tự vệ, sư đoàn làm kinh tế, cùng 2 sư đoàn chiến đấu tinh nhuệ của ta (Sư đoàn 3 và 316) đã chặn đứng những bước tiến của địch.
Trong kế hoạch của quân đội Trung Quốc đặt ra, nếu có thể tiến sâu về Hà Nội thì cố gắng tiến sâu - nhưng đã không một đơn vị nào của Trung Quốc có thể vượt qua tuyến một (tuyến các tỉnh biên giới), để xuống tuyến hai - hướng về Hà Nội.
Qua cuộc chiến tranh này, Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc bài học về mặt chỉ huy chiến trường, dạy Trung Quốc về tổ chức chỉ huy binh chủng hợp thành.
Đồng thời, chúng ta dạy cho Trung Quốc cách đánh phân đội nhỏ và những chiến thuật luồn sâu, chia cắt và chiến thuật bao vây, tiêu diệt những phân đội, đơn vị chiến đấu cơ bản của Trung Quốc.
Chúng ta đã dạy cho Trung Quốc nhiều bài học chứ không phải như Đặng Tiểu Bình nói "dạy cho Việt Nam một bài học”.
-Đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta, vậy chúng ta cần làm gì để trả lại vị trí xứng đáng cho cuộc chiến chống quân xâm lược tháng 2/1979 trong lịch sử dân tộc?
-Thiếu tướng Lê Mã Lương: Với chúng ta, cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 là cuộc chiến tranh chính nghĩa. Chúng ta chiến đấu bảo vệ biên cương tổ quốc.
Còn với Trung Quốc - đó là cuộc chiến phi nghĩa, vì họ đã bất ngờ phát động chiến tranh và đưa gần 600.000 quân tràn sang 6 tỉnh biên giới Việt Nam. Họ đã tàn sát dân thường và phá hủy nhiều công trình dân sinh của nước ta.
Giờ đây, chiến tranh đã lùi xa, đã là một phần của lịch sử, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc đã mở sang một trang mới. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta được phép lãng quên sự thật.
Hàng chục nghìn người lính và nhiều thường dân ngã xuống dưới làn đạn của quân xâm lược trong suốt giai đoạn 1979-1988.
Chúng ta không kích động, không gây hận thù, đơn giản là nói về lịch sử, nói về những gì cha anh đã phải trải qua để giữ gìn bờ cõi của Tổ quốc.
Đây là một phần của lịch sử và sự thật không ai được phép lãng quên, che mờ, chìm lấp. Còn nếu lãng quên cuộc chiến tranh biên giới 1979 là có tội với nhân dân, với những người đã ngã xuống vì mảnh đất thiêng liêng này.
Xin cảm ơn ông!
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét