Xưa nay, “cầm, kỳ, thư, hoạ,
thi, tửu, hoa, trà” luôn được coi là tám thú vui thanh nhã của các bậc
tao nhân mặc khách. Kỳ (chơi cờ) đứng sau cầm (chơi đàn) là môn nghệ
thuật tao nhã, vừa tiêu khiển lúc nhàn rỗi, lại rèn luyện tâm nhẫn nại,
trí tuệ thâm sâu, tầm nhìn xa rộng.
Cờ là môn nghệ thuật trí tuệ cổ đại Á
Đông, gồm cờ vây (vi kỳ) và cờ tướng (tượng kỳ). Trò chơi cờ cổ đại nhất
là lục bác và vi kỳ (cờ vây), do đó gọi chung là “bác dịch” (chơi cờ).
Trong Luận ngữ – Dương Hóa, Khổng Tử nói: “Cơm no cả ngày,
chẳng dụng tâm làm gì, sao có thể như thế được! Chẳng phải có người chơi
cờ đó sao? Hãy chơi cờ, còn có tác dụng tốt với bản thân”. Khổng Tử cho
rằng khi nhàn rỗi vô sự, hãy chơi cờ (lục bác, vi kỳ) vì nó là trò chơi
vừa tiêu khiển mà lại vừa mở mang trí tuệ.
Nguồn gốc cờ tướng (tượng kỳ)
Tương truyền cờ tướng khởi nguồn từ thời Hoàng Đế. Hoảng Bổ Chi thời Bắc Tống viết trong Quảng tượng hý cách – Tự rằng:
Trò chơi tượng hý là trò chơi quân sự, là cuộc chiến của Hoàng Đế, lấy
trận đuổi mãnh thú, tượng (voi) là bậc anh hùng của các loài thú. Do đó
trò chơi quân sự lấy tên tượng hý làm tên.
Cờ tướng xuất hiện sớm nhất vào thời Chiến Quốc. Trong Sở từ – Chiêu hồn đã
ghi chép về cờ tướng và cách chơi: “Dùng đá ngọc chế thành quân giống
con xúc xắc, bàn cờ to bằng cái rèm, mỗi bên có 6 quân. Cách chơi là
chia quân ra hai bên đối nghịch nhau cùng tiến quân (hai người hoặc hai
nhóm người chơi), tấn công nhau, ép đối phương vào đường chết, cuối cùng
kẻ giành được mâu thì chiến thắng. Đánh bại quân địch (Thời Xuân Thu
biên chế quân đội cứ 5 người là một Ngũ), hoan hô chiến thắng”.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc cho đến thời
Tần Hán, chiến loạn liên miên, khói lửa chiến tranh nổi lên tứ phía. Cờ
tướng ra đời trong bối cảnh đó. Chiến tranh quân sự và thi đấu thể thao
có nhiều điểm tương đồng, lấy chiến thắng làm mục đích cuối cùng, quá
trình đối kháng là biểu hiện của các hành động kỹ thuật, có mưu lược chỉ
đạo lại có thủ đoạn chiến thuật.
Cờ tướng là trò chơi trí tuệ mô phỏng
chiến tranh cổ đại. Mỗi ván cờ đều ở trên bàn cờ bé như gang tấc mà diễn
dịch ra giáo mác, ngựa xe, binh sỹ tương phùng. Xe, mã, pháo, binh
(tốt) trên bàn cờ tượng trưng cho chiến xa, chiến mã, hỏa pháo (hoặc xe
ném đá) và binh sỹ. So với các môn thể thao khác, cờ tướng có quan hệ
nội tại trực tiếp nhất với quân sự cổ đại. Tư tưởng chiến lược và đặc
trưng chiến thuật của cờ tướng cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng quân sự cổ
đại.
Nhưng hoàn thiện cờ tướng thì có lẽ là
Hàn Tín thời Hán. Hàn Tín là đại tướng của Lưu Bang. Một lần Lưu Bang
phái Hàn Tín đánh nước Triệu, Hàn Tín để cho quân sỹ có đầu óc thông
minh nên đã cải tiến phát minh ra cờ tướng. Hàn Tín cho rằng, chơi cờ
tướng có thể giải tỏa áp lực, huấn luyện khả năng đọc xem sa bàn (mô
hình chiến trường), nên khích lệ tướng sỹ chơi cờ tướng. Tướng sỹ chơi
cờ tướng cũng có được rất nhiều vui thú, quên đi nỗi thống khổ của chiến
tranh.
Lưu Bang tự xưng là con của Xích Đế nên
quân cờ màu đỏ. Hạng Vũ thời trẻ có lần thấy Tần Thủy Hoàng đi tuần,
đoàn xe dài dằng dặc, mỗi xe cắm một lá cờ đen, trông như một con rồng
đen đang uốn lượn, rất lấy làm hâm mộ, từ đó thích màu đen, lấy màu đen
làm cờ hiệu quân đội mình, bản thân ông cũng cưỡi ngựa đen Ô Chuy. Vì
vậy quân cờ hai bên chia đen – đỏ, với biên giới là Sở hà, Hán giới
(Sông nước Sở, địa giới nước Hán).
Cờ tướng 32 quân, bàn cờ nho nhỏ, Sở hà
Hán giới, đỏ đen đối đầu, gió giật mây vần, khó mà đoán định, ẩn chứa
bên trong là đạo lý tiến thoái tồn vong, lại có biết bao huyền diệu âm
dương, dài ngắn.
Chuyện chơi cờ tướng
Văn Thiên Tường đời Bắc Tống chơi cờ
theo phong cách rất độc đáo. Khi ông làm tri châu Cám Châu, Giang Tây,
thường với cao thủ cờ nổi tiếng vùng Giang Nam là Chu Tử Thiện đến giữa
sông đấu cờ. Họ để bàn cờ làm bằng gỗ trên mặt nước, vừa du ngoạn vừa
đấu cờ, đến khi hoàng hôn mới khoan khoái trở về.
Văn nhân mặc khách đều có duyên với cờ,
thích làm thơ về cờ, đã để lại rất nhiều kiệt tác khoan khoái lòng
người. Nổi tiếng hơn cả có bài “Khốc tượng kỳ thi” (Thơ khóc cờ tướng)
của Vương Dương Minh, một nhà triết học đời Minh.
Khi Vương Dương Minh còn nhỏ, một lần
chơi cờ trên bờ sông với bạn, mải chơi quên ăn, mẹ gọi nhiều lần, cậu
đều không thưa. Mẹ cậu giận quá, bèn bước đến ném các quân cờ xuống
sông.
Vương Dương Minh tiếc nuối khôn nguôi, bất giác ngâm luôn một bài thơ làm mọi người phải vỗ bàn khen ngợi:
Cờ tướng trên tay lạc thú thay
Khổ nỗi mẹ nghiêm ném mất bay
Binh tốt rớt sông không thể cứu
Tướng quân đuối nước cũng đành thôi
Khổ nỗi mẹ nghiêm ném mất bay
Binh tốt rớt sông không thể cứu
Tướng quân đuối nước cũng đành thôi
Mã phi ngàn dặm theo dòng nước
Sỹ chốn ba sông sóng cuốn trôi
Pháo gầm một tiếng long trời đất
Tượng kia gục ngã ruột gan rơi.
Sỹ chốn ba sông sóng cuốn trôi
Pháo gầm một tiếng long trời đất
Tượng kia gục ngã ruột gan rơi.
Những câu thơ tỏ rõ ý chí của một đại
tướng, nhìn thấy quân sĩ “chết” mà lòng đau đớn khôn cùng. Quả đúng vậy,
sau này Vương Dương Minh trở thành một vị tướng tài ba, văn võ song
toàn, là cột trụ của triều Minh, đánh dẹp và chấn chỉnh khắp nơi, đến
tận ngoài 80 tuổi vẫn cầm quân ra trận.
Bàn cờ tiên Côn Sơn
Đỉnh Côn Sơn có khu đất phẳng, có tảng
đá giống hình bàn cờ và hai người đang chơi cờ, tục gọi là bàn cờ tiên
(hiện nay không còn, do hơn 20 năm trước cải tạo di tích đã sơ ý để phá
mất).
Tương truyền vào những ngày mây mù che
phủ kín đỉnh núi, đất trời giao hòa, các Tiên nhân hạ phàm du ngoạn,
chơi cờ trên đỉnh Côn Sơn. Một hôm các vị Tiên đang say sưa chơi cờ,
nghe thấy có tiếng người ồn ào đi đến, liền bỏ bàn cờ đang chơi dở ở đó
mà bay đi, nên gọi là bàn cờ tiên.
Cờ không chỉ là thú tiêu dao tao nhã của
Tiên nhân, ẩn sỹ, mà cờ còn đào luyện quan niệm đạo đức tư tưởng, hành
vi phép tắc, thẩm mỹ và tư duy con người. Trong cờ có điềm đạm, khoáng
đạt, phong nhã, cơ trí và mưu lược, triết học, thi ca, nghệ thuật, tất
cả đều nằm trong cờ.
Khi chơi cờ, người chơi ngồi cung kính,
ngay ngắn, bình tâm tĩnh trí, điều hòa hơi thở, khiến cho toàn bộ thân,
tâm yên định, lòng không chú ý đến xung quanh, không vội, không chậm, an
nhiên tự tại, khiến thân thể ở trạng thái tốt nhất vần chuyển theo âm
dương ngũ hành. Tinh, khí, thần của toàn thân điều hòa, thông với khí
thái hòa của vũ trụ, giống như trạng thái luyện khí công vậy.
Triêu Lộ
Thú chơi tao nhã trong ‘Bát Nhã’ (P.2): Tình người như giấy từng trang mỏng, thế sự như cờ mỗi ván thay
“Cờ không chỉ là trò chơi tiêu
khiển, mà còn đào luyện quan niệm đạo đức tư tưởng, hành vi phép tắc,
thẩm mỹ và tư duy con người. Trong cờ có điềm đạm, khoáng đạt, phong
nhã, cơ trí và mưu lược, triết học, thi ca, nghệ thuật, tất cả đều nằm
trong cờ”.
Thời Đông Tấn đã xảy ra một cuộc chiến
tranh nổi tiếng lấy ít thắng nhiều, gọi là cuộc chiến Phì Thủy. Quân
Đông Tấn chỉ với 8 vạn binh mã đã đánh bại đại quân 80 vạn quân Tiền
Tần. Khi tin thắng trận truyền về kinh thành Kiến Khang, vị tướng quân
tổng chỉ huy chiến dịch của Đông Tấn là Tạ An đang chơi cờ với bằng hữu,
ông xem lướt báo cáo xong rồi để ra một bên, tiếp tục chơi cờ, tựa như
mọi việc đều đã nằm trong dự tính của ông cả rồi. Người bạn có hỏi, ông
chỉ nói bình thản: Không có gì, chỉ là lũ trẻ đã đánh bại quân địch mà
thôi.
Tạ An là bậc tướng tài, thao lược trên
chiến trường cũng như trong cuộc cờ, đều nằm trong dự tính cả. Phong
thái chơi cờ cũng thể hiện rõ bản lĩnh tướng tài, lòng dù có sấm sét mà
sắc mặt vẫn như mặt nước hồ thu phẳng lặng.
Cờ vây có nguồn gốc từ Trung Quốc cổ
đại, là một trong những hình thức thể thao loại cờ lâu đời nhất. Thời
gian xuất hiện khoảng thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Tương truyền, vua
Nghiêu mơ thấy Hoàng Đế (người mở đầu thời Ngũ Đế) chơi cờ với vị tiên
Dung Thành. Nhà vua thấy tiên Dung Thành chơi một loại cờ gồm một bàn cờ
và các quân trắng đen, bèn thỉnh cầu tiên dạy cờ cho mình. Đang chơi cờ
hay bỗng vua Nghiêu tỉnh lại. Nhà vua ngẫm ra thấy hay quá bèn tìm cách
nhớ lại và bổ khuyết thêm các quy tắc, luật lệ và sáng tạo ra môn cờ
vây, vì mục đích của nó là vây chiếm lãnh thổ, đất đai.
Tương truyền con trai của Nghiêu là Đan
Chu thông minh nhưng rất ương bướng, tự phụ, cố chấp, bất hảo. Nghiêu đã
dùng cờ vây để giáo dục, rèn luyện tính tình Đan Chu. Sau này Đan Chu
trở thành người hiền tài và truyền bá cờ vây ra khắp thiên hạ.
Cờ vây dần dần phát triển ra các nước Á
Đông, là một môn bắt buộc của giới trí thức xưa để tu thân dưỡng tính,
là một trong tứ nghệ “Cầm kỳ thư họa”.
Có thể thấy, cờ vây ngay từ ban đầu khi ra đời đã là công cụ để giáo dục, có tác dụng khai mở trí tuệ, rèn luyện tâm tính.
Cờ là bộ phận quan trọng trong cuộc sống
văn hóa phương Đông. Cờ không chỉ là trò chơi tiêu khiển, mà còn đào
luyện quan niệm đạo đức tư tưởng, hành vi phép tắc, thẩm mỹ và tư duy
con người. Trong cờ có điềm đạm, khoáng đạt, phong nhã, cơ trí và mưu
lược, triết học, thi ca, nghệ thuật, tất cả đều nằm trong cờ.
Khi chơi cờ, người chơi ngồi cung kính,
ngay ngắn, bình tâm tĩnh trí, điều hòa hơi thở, khiến cho toàn bộ thân,
tâm yên định, lòng không chú ý đến xung quanh, không vội, không chậm, an
nhiên tự tại, khiến thân thể ở trạng thái tốt nhất vận chuyển theo âm
dương ngũ hành, tinh, khí, thần của toàn thân điều hòa, thông với khí
thái hòa của vũ trụ, giống như trạng thái luyện khí công vậy.
Cờ vây thực sự là công cụ người cổ đại
quan sát bầu trời. Bàn cờ đại diện cho bầu trời, quân cờ là những vì
sao. Bàn cờ chia làm 4 bộ phần, có 361 điểm giao nhau, hợp với tự nhiên:
trời tròn đất vuông, 4 mùa thay đổi, 1 năm (âm lịch) 361 ngày.
Giữa bàn cờ là Thái cực, quân cờ đen
trắng biểu thị âm dương. Quân cờ không chia cấp bậc, chức năng, tùy ý
đặt quân, cạnh tranh bình đẳng, giống như Đại Đạo chí giản. Chơi cờ
chính là diễn dịch sự vận động của lưỡng cực âm dương: đối lập, ước chế,
cân bằng, chuyển hóa.
Lúc nhàn rỗi, chơi cờ kết bạn, tăng
cường trí tuệ. Bàn cờ tuy nhỏ, nhưng huyền diệu nhiều biến hóa, người
nhân thì thấy nhân, kẻ trí thì thấy trí. Như thiên địa âm dương, vương
chính, binh pháp thao lược, đối nhân xử thế, tiến thoái lấy bỏ, v.v..
Cuộc cờ như chiến trường, hai bên đen
trắng bày binh bố trận, tấn công phòng thủ, đấu trí đọ dũng. Không những
không được hèn nhát bảo thủ, mà cũng không được tham công mạo hiểm.
Cờ vây coi trọng tầm nhìn đại cuộc,
không tính cái lợi nhất thời, không tranh được mất một nơi. Gặp khó khăn
thất bại không được nản chí, tạm chiếm ưu thế, không được khinh địch,
luôn luôn xem toàn cuộc. Văn sỹ Đông Hán Ứng Trường nói: “Đạo chơi cờ,
quý ở nghiêm cẩn”. Cần có đại lược xuất thế, lại cần phải có mưu tinh
xảo nhập thế.
Các trạng thái chơi cờ rất nhiều, nên
biểu hiện ra sự tu dưỡng tính cách của kỳ thủ. Lo được lo mất, ôn hòa
quyết đoán, do dự không quyết, tranh từng tấc đất, trợn mắt báo thù,
loạn mưu lớn, bại toàn cuộc, lòng đã tính hết, tỉnh bơ như không, biến
bị động thành chủ động.
Thắng cố nhiên là vui, bại cũng đáng
mừng. Kỳ phùng địch thủ, tướng gặp lương tài. Tránh xa chốn ồn ào náo
nhiệt, đắm chìm vào trong ván cờ, khí an định thần thái nhàn nhã, yên
tĩnh sâu xa, ung dung đại lượng.
Cảnh giới chơi cờ cao siêu nhất, đương
nhiên là xuất thần nhập hóa, có thể gia nhập hàng ngũ Thần tiên. Kế đến
là chơi cờ không lao thần phí sức, vận dụng cái huyền diệu ở nhất tâm.
Kế tiếp là ý tứ thế nào cũng được, thập bát ban võ nghệ đều có thể lấy
ra sử dụng.
Trong lịch sử, các nhân vật tiêu biểu
của Nho – Phật – Đạo, các bậc đế vương, quan tướng, nhà chính trị, nhà
quân sự, nhà văn, nhà toán học, nhà triết học, v.v… đều ca ngợi cờ vây,
cho rằng thọ ích rất nhiều từ chơi cờ.
Hoàng đế Khang Hy cũng là người mê cờ,
mỗi khi nhàn rỗi lại chơi một vài ván. Một lần, Khang Hy dẫn tùy tùng đi
săn, cơn nghiền cờ bỗng nổi lên, bèn bày cờ ra chơi với một vị đại
thần. Khang Hy đã nhanh chóng thắng liền 3 ván. Vẫn còn hứng thú, ông
bèn tìm một cao thủ cờ đến chơi, đó là viên thị vệ tên gọi Nhân Phúc.
Nhân Phúc cũng là người mê cờ, chơi cờ cũng rất chuyên tâm, chăm chú.
Nhân Phúc rất cao cờ, nhất thời quên mất đối thủ là hoàng đế, liên tiếp
tấn công đối thủ. Lão thái giám Quách Kế Công đứng quanh xem thấy hoàng
đế chắc chắn sẽ thua rồi, thế là cái khó ló cái khôn nói: “Khởi tấu
hoàng thượng, dưới núi phát hiện ra có con mãnh hổ, mời hoàng thượng mau
chóng đi săn”.
Khang Hy nghe thấy vậy rất mừng, nói với
Nhân Phúc: “Ngươi cứ đợi đây, đợi ta săn hổ về chúng ta chơi tiếp”. Nói
rồi lên ngựa xách cung lao xuống núi. Nhưng dưới núi nào có con hổ nào,
chỉ phát hiện ra một con hươu. Khang Hy thích săn bắn, là một thợ săn
lão luyện, nên ông biết, có hươu thì nhất định không có hổ, nghĩ rằng
Quách Kế Công già cả mắt hoa, nhìn hươu thành hổ.
Khang Hy cũng rất thích săn hươu. Con
hươu này chạy rất nhanh, Khang Hy thúc ngựa theo sát, vượt qua mấy quả
núi cuối cùng cũng bắn hạ được hươu. Qua mấy ngày, Khang Hy mới nhớ ra
ván cờ chơi dở với Nhân Phúc, bèn quay trở lại quả núi kia, thấy Nhân
Phúc vẫn quỳ bên bàn cờ, không hề nhúc nhích. Lúc đó Khang Hy mới phát
hiện ra Nhân Phúc trung hậu thủ chức kia đã chết, ông rất buồn. Từ đó
Khang Hy luôn hối lỗi, thề sẽ không bao giờ thất tín nữa.
Cờ là nghệ thuật, nhưng cũng là tu
dưỡng, với mỗi người ở các tầng thứ tu dưỡng khác nhau đều sẽ thể hiện
ra sự khác nhau trên bàn cờ, vì bàn cờ cũng là cuộc đời, là nhân sinh.
Con người rốt cuộc cũng là đi các nước cờ cuộc đời của mình cho đến khi
kết thúc, lại xóa đi chơi ván mới, như câu thơ xưa rằng:
Tình người như giấy từng trang mỏng,
Thế sự như cờ mỗi ván thay.
Triêu Lộ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét