Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2019

BỘ MẶT CHIẾN TRANH 31



Một Mai Giã Từ Vũ Khí - Tuấn Vũ

-Trong tình trạng chiến tranh đầy chết chóc và tan hoang, bản chất sống của loài người trở nên cực hạn về mọi phía:
+Yêu thương vô vàn mà cũng hận thù vô song
+Thông minh trí tuệ bao nhiêu thì cũng ngu ngốc, mù quáng bấy nhiêu.
+Tuyệt đỉnh dũng cảm thì cũng tột cùng hèn nhát.
+Vừa là thánh thần vừa là quỉ dữ.
...
-Chiến tranh mang bộ mặt gớm ghiếc, tởm lợm đến khủng khiếp, không thể tả được, dù bôi son trát phấn như thế nào, tung hô ra sao.
-Chiến tranh là thể hiện sự thờ ơ, vô cảm khốn nạn tột cùng về việc hủy diệt tàn bạo cuộc sống và thân phận con người.
-Chiến tranh phi nghĩa là chiến tranh "nặn ra" lý do từ không có lý do, hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách không chính đáng. Chiến tranh chính nghĩa là chiến tranh  nảy sinh từ việc chống chiến tranh phi nghĩa, được hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách chính đáng (?).
-Tóm lại, bộ mặt thật của chiến tranh nhìn từ mọi phía nói chung là độc ác, thiểu năng trí tuệ đến ngỡ ngàng của con người khôn ngoan, có lý trí.
-Ngày chiến thắng 30/4, lũ bán nước cay cú gọi là ngày quốc hận, người cộng sản cực đoan cho rằng đó là ngày toàn dân phải vui mừng, riêng cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, người có vợ con đều chết trong chiến tranh, thì nói, đó là ngày có triệu người vui và cũng có triệu người buồn.
-Lão Tử, một đại hiền triết thời cổ đại của Trung Quốc, từng nói: "Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử".
 
Black Sabbath ~ War Pigs

------------------------------------------------------- 
(ĐC sưu tầm trên NET)
 
10 Cuộc Chiến Kinh Hoàng Nhất Lịch Sử Nhân Loại

10 trận "tăng chiến" kinh hoàng nhất trong lịch sử

Công Thuận |

10 trận "tăng chiến" kinh hoàng nhất trong lịch sử

Kể từ khi chiếc xe tăng đầu tiên xuất hiện trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, loại xe bọc thép này đã thành một loại vũ khí không thể thiếu trong các cuộc giao tranh trên bộ.

Nhiều cuộc đụng độ “tăng đấu tăng” cũng đã diễn ra trong những năm qua. Dưới đây là 10 trận chiến xe tăng kinh hoàng nhất trong lịch sử quân sự.
Xe tăng đã thành một loại vũ khí không thể thiếu trong các cuộc giao tranh trên bộ.
1. Trận Cambrai (1917)
Diễn ra vào cuối năm 1917, đây là trận đánh lớn đầu tiên của xe tăng trong lịch sử quân sự và là lần đầu tiên các loại vũ khí được sử dụng kết hợp hiệu quả trên quy mô lớn, đánh dấu một bước ngoặt thực sự trong lịch sử chiến tranh.
Nhà sử học Hew Strachan từng lưu ý rằng “sự thay đổi mang tính trí tuệ nhất trong chiến tranh giai đoạn 1914-1918 là sự kết hợp giữa các loại hỏa lực chứ không phải bộ binh”.
Ngày 20/11/1917, để giành lại phòng tuyến của quân Đức đặt tại thị trấn Cambrai, Anh đã thực hiện một cuộc tấn công nhằm vào mục tiêu này với 476 xe tăng, 378 trong số đó là xe tăng chiến đấu.
Xe tăng của quân Anh đã vượt qua nhiều lớp hàng rào dây thép gai chằng chịt và ủi đổ hàng loạt lô cốt.
Quân đội Anh sử dụng những bó củi để đắp đường cho xe tăng của họ vượt qua cả chiến hào rộng và tiến thẳng tới mục tiêu.
Một chiếc xe tăng của quân Anh vượt qua chiến hào.
Quân Đức đã hoảng sợ và bỏ chạy tán loạn. Mặc dù sau đó quân Đức đã khôi phục lại được vị trí này bằng các cuộc phản công, nhưng cuộc tấn công của Anh do những chiếc xe tăng dẫn đầu đã cho thấy tiềm năng rất lớn của lĩnh vực tác chiến cơ giới hóa và cơ động.
2. Trận Khalkhin Gol (1939)
Trận "xe tăng chiến" lớn đầu tiên trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã diễn ra giữa Hồng quân Liên Xô và Đế quốc Nhật Bản dọc theo biên giới Mông Cổ và Siberia.
Đặt trong bối cảnh Chiến tranh Trung-Nhật giai đoạn 1937-1945, Nhật Bản tuyên bố rằng sông Khalkhin Gol là biên giới giữa nhà nước Mãn Châu và Mông Cổ, trong khi Mông Cổ và Liên Xô tuyên bố rằng biên giới cách dòng sông này 16km về phía đông làng Nomonhan.
Các cuộc giao tranh bắt đầu vào tháng 5/1939, khi quân Mông Cổ với sự tiếp viện của quân đội Liên Xô đã tấn công quân Nhật tại khu vực tranh chấp.
Sau một vài chiến thắng ban đầu của quân Nhật, Liên Xô bắt đầu phản công với 58.000 quân, gần 500 xe tăng, và khoảng 250 máy bay.
Sáng 20/8/1939, tướng Georgy Zhukov của Liên Xô đã mở một cuộc tấn công bất ngờ sau khi nghi binh bằng một thế trận phòng thủ.
Về phía quân Nhật, chỉ có 2 sư đoàn thiết giáp hạng nhẹ của tướng Komatsubara.
Quân Nhật bị bắt làm tù binh sau cuộc chiến.
Sau 3 giờ bắn phá ác liệt bằng đại bác và không tập bằng phi cơ, hơn 50 vạn quân thuộc quân đoàn đặc biệt số 57 bảo vệ bờ đông sông Khalkhin Gol vượt sông tấn công quân Nhật trên một chiến tuyến dài 70 km.
Cuộc bao vây của quân Liên Xô đã dẫn đến việc 61.000 quân của tướng Komatsubara thương vong, trong khi Hồng quân Liên Xô bị tổn thất thấp hơn, với 7.947 người thiệt mạng, 15.251 người bị thương.
Trận chiến này đã đánh dấu sự khởi đầu cho quá trình lãnh đạo quân sự nổi tiếng của tướng Zhukov trong Chiến tranh Thế giới thứ 2, đồng thời cũng cho thấy vai trò quan trọng của công tác nghi binh và những ưu thế về công nghệ, số lượng trong tác chiến xe tăng.
3. Trận Arras (1940)
Trận Arras là một cuộc giao tranh trên chiến trường Tây Âu trong Chiến tranh Thế giới thứ 2, diễn ra vào tháng 5/1940 tại thị trấn Arras, miền bắc nước Pháp.
Đây là cuộc phản công của quân đồng minh Anh-Pháp nhằm vào các xe tăng Panzer của quân đội Đức Quốc xã đang tràn ngập khắp nước Pháp.
Trong khi quân đội Đức tiến nhanh về bờ biển nước Pháp vào tháng 5/1940, quân đội Anh đã trấn thủ thị trấn Arras. Đến cuối tháng này, Arras đã bị quân Đức bao vây, nhưng vẫn trụ vững.
Sau đó, Tổng chỉ huy quân Anh-Pháp là Viscount Gort đã phát động một cuộc phản công với mật danh “Frankforce”.
Các chỉ huy và sĩ quan của quân Đức trên chiến trường Arras.
Cuộc tấn công này được thực hiện với 2 tiểu đoàn bộ binh (khoảng 2.000 quân) và chỉ 74 xe tăng. Lực lượng này được chia thành 2 mũi để tấn công.
Mũi tấn công cánh phải ban đầu giành thắng lợi nhanh chóng, bắt giữ được một số tù binh Đức.
Nhưng không lâu sau họ phải đối chọi với lực lượng bộ binh và đội cận vệ (đội quân áo đen) của Đức với sự yểm trợ của không quân, và bị quân Đức gây thiệt hại nặng.
Đội hình bên trái cũng giành được thắng lợi ban đầu trước khi tiếp cận với sư đoàn Panzer số 7 của Đức.
Nhưng sau đó lực lượng này bị đẩy lùi. Trong khi đó, khoảng 60 xe tăng Pháp đã giao tranh với quân Đức và cũng bị thất bại.
Sau trận này, quân đồng minh tổn thất khoảng 35 xe tăng, thương vong khoảng 70 người và 170 tù binh bị sát hại, trong khi quân Đức bị thương vong 378 người.
(Còn tiếp)
theo Báo tin tức

Con chim bồ câu cứu mạng gần 200 lính Mỹ trong Thế chiến I

Bồ câu đưa thư Cher Ami bị thương nặng trong trận đánh nhưng vẫn kịp gửi tin về sở chỉ huy, giúp giải cứu gần 200 lính Mỹ ngày 8/10/1918.


Xác chim bồ câu Cher Ami được bảo quản trong bảo tàng. Ảnh: War History.
Xác chim bồ câu Cher Ami được bảo quản trong bảo tàng. Ảnh: War History.
Bồ câu đưa thư đóng vai trò quan trọng trong thông tin liên lạc trên chiến trường thời Thế Chiến I nhờ khả năng tìm đường ở khoảng cách xa và tốc độ lên tới 160 km/h. Chính những ưu điểm này biến chúng thành mục tiêu của đối phương và liên tục phải đối mặt với hiểm nguy khi thực hiện nhiệm vụ.
Trong hoàn cảnh đó, con bồ câu đưa thư mang tên Cher Ami được quân đội Anh tặng cho Sư đoàn bộ binh số 77 Mỹ đã trở thành anh hùng khi giải cứu 200 binh sĩ lâm vào tình cảnh nguy hiểm cận kề.
Sáng 2/10/1918, Sư đoàn 77 tấn công cứ điểm Đức ở rừng Argonne, đông bắc nước Pháp trong chiến dịch Meuse-Argonne. Lực lượng Mỹ nhận lệnh không được rút lui bằng mọi giá, nhằm giáng đòn cuối cùng vào quân Đức ở mặt trận phía Tây.
Các binh sĩ Tiểu đoàn số 1, Trung đoàn 308, Lữ đoàn bộ binh 154 dưới sự chỉ huy của thiếu tá Charles White Whittlesey được yêu cầu tiến công và chiếm đồi 198. Tuy nhiên, khi họ đến nơi, không gian xung quanh chìm trong tĩnh lặng.
Các binh sĩ Mỹ phát hiện rằng đồng minh bên sườn trái và sườn phải của họ đã bị quân Đức chế áp. Trung đoàn 308 và hai trung đoàn khác bị mắc kẹt ở hẻm núi Charlevaux nằm giữa hai ngọn đồi dốc đứng có đầy lính Đức. Không thể rút quân, họ quyết định đào công sự trú ẩn và chờ viện binh.
Sáng 3/10, quân Đức bắt đầu tấn công từ mọi hướng. 550 binh sĩ tại hẻm núi Charlevaux phải hứng chịu đòn đánh từ súng cối, lính bắn tỉa và súng máy đối phương. Thiếu tá Whittlesey ra lệnh cố thủ dù thiếu cả lương thực lẫn đạn dược. Nếu không được chi viện, lực lượng Mỹ chắc chắn sẽ bị xóa sổ.
Thiếu tá Whittlesey sau chiến dịch Meuse-Argonne. Ảnh: War History.
Thiếu tá Whittlesey (phải) sau chiến dịch Meuse-Argonne. Ảnh: War History.
Chỉ huy Mỹ biết chính xác vị trí lực lượng dưới quyền Whittlesey, nhưng dường như pháo binh lại không nắm được thông tin. Rạng sáng 4/10, Whittlesey và cấp dưới bị pháo binh đồng minh tập kích dữ dội, trong khi hỏa lực từ quân Đức cũng không ngừng trút xuống vị trí của họ.
Bị kẹt giữa hai làn đạn, quân Mỹ tìm cách bắt liên lạc với đồng minh để yêu cầu ngừng tấn công. Do đường dây liên lạc điện tín bị phá hủy, thiếu tá Whittlesey viết vị trí vào một mảnh giấy, sau đó giao cho liên lạc viên Omer Richards gửi đi bằng bồ câu để yêu cầu pháo binh ngừng tấn công.
Khi Richards chuẩn bị buộc ống thư vào chân con bồ câu, một quả đạn phát nổ ngay bên cạnh khiến nó bay mất. Cả đơn vị Mỹ khi đó chỉ còn chim bồ câu Cher Ami, niềm hy vọng cuối cùng của họ. Cher Ami từng hoàn thành 12 nhiệm vụ chuyển tin ở khu vực Verdun trước đó.
Ngay khi Cher Ami vừa bay khỏi công sự, một loạt đạn pháo dồn dập trút xuống khiến nó quá hoảng sợ và đậu trên một cái cây gần đó, buộc Richards trèo lên xua đuổi.
Cher Ami sau đó bay đi nhưng lập tức bị lính Đức phát hiện. Biết được tầm quan trọng của con chim, quân Đức dồn hết hỏa lực vào Cher Ami. Tuy nhiên, con chim bồ câu nhanh chóng bay khỏi tầm bắn.
Cher Ami vượt qua quãng đường 40 km, về đến sở chỉ huy Sư đoàn 77 lúc 15h30 ngày 4/10 trong tình trạng toàn thân đẫm máu. Nó bị thương ở ngực, mất một mắt và một chân, cùng một lỗ đạn trên cánh. Dù vậy, thông điệp được chuyển thành công và pháo binh Mỹ ngừng bắn sau đó 30 phút.
Trong 4 ngày tiếp theo, binh sĩ Tiểu đoàn 1 đẩy lùi các cuộc tấn công của Đức. Đến ngày 8/10, chỉ còn 197 trong số 550 binh sĩ sống sót và được lực lượng viện binh giải cứu.
Binh sĩ Tiểu đoàn 1 sau khi được giải cứu. Ảnh: War History.
Binh sĩ Tiểu đoàn 1 sau khi được giải cứu. Ảnh: War History.
Cher Ami được đưa đến bệnh viện dã chiến, các bác sĩ đã phẫu thuật và cứu sống nó. Quân đội Pháp trao huân chương chiến công cao nhất cho Cher Ami vì thành tích của nó. Cher Ami sống thêm 9 tháng trước khi chết ở căn cứ lục quân Monmouth tại bang New Jersey, Mỹ vì những vết thương trong chiến tranh.
Xác con bồ câu được nhồi bông và hiện trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Smithsonian của Mỹ.
Duy Sơn (Theo War History)

Ác mộng với quân Đức khi dùng vũ khí hóa học chống lính Nga năm 1915

Dù trúng khí độc, hàng chục lính Nga vẫn quyết chặn đứng cuộc tấn công pháo đài Osowiec và khiến quân Đức rút chạy trong sợ hãi.


Tranh mô tả lính Nga chống trả cuộc tấn công của Đức. Ảnh: RBTH.
Tranh mô tả lính Nga chống trả cuộc tấn công của Đức. Ảnh: RBTH.
Khi quân Đức bắt đầu một cuộc tấn công bằng khí độc vào pháo đài Osowiec của Nga vào ngày 6/8/1915, họ cho rằng đó sẽ là một trận đánh dễ dàng, khi binh sĩ Nga không được chuẩn bị để đối phó với vũ khí hóa học. Tuy nhiên, lính Đức đã gặp cơn ác mộng thật sự trước sự kháng cự quyết liệt những binh sĩ Nga đang hấp hối, khởi đầu cho trận đánh được mệnh danh là "cuộc tấn công của người chết", theo RBTH.
Pháo đài Osowiec nằm gần thị trấn Bialystok của Ba Lan, được coi là cái gai trong mắt của quân Đức trong Thế chiến I do có vị trí quan trọng, buộc Berlin phải triển khai nhiều lực lượng đối phó. Các đợt tấn công đầu tiên bắt đầu từ tháng 9/1914 với sự yểm trợ của máy bay và pháo binh nhưng đều không thành công. Sau nhiều lần thất bại, quân Đức bắt đầu áp dụng các biện pháp cực đoan để chiếm pháo đài.
Ngày 6/8/1915, lực lượng Đức bắt đầu bơm khí độc chlorine vào pháo đài. "Tất cả những người bám trụ bên ngoài pháo đài đều thiệt mạng. Cỏ ngả màu đen, trong khi lương thực nhiễm độc nặng và không thể ăn được. Pháo đài không được chuẩn bị cho một cuộc tấn công bằng khí độc", Sergey Khmelkov, một lính Nga sống sót sau trận đánh, nhớ lại.
Khmelkov cho biết các chỉ huy Nga không chuẩn bị kế hoạch đối phó với khí độc chlorine. Hầu hết các vị trí đóng quân và công sự đều không có hệ thống thông hơi cũng như bình dưỡng khí. Những chiếc mặt nạ phòng độc được phân phát từ trước cũng không có hiệu quả.
Địa điểm đặt pháo đài Osowiec nằm ở đông bắc Ba Lan. Đồ họa: Google Earth.
Địa điểm đặt pháo đài Osowiec nằm ở đông bắc Ba Lan. Đồ họa: Google Earth.
Ba trong số 4 đại đội đóng tại pháo đài Osowiec bị xóa sổ sau đòn tấn công hóa học của Đức, chỉ còn khoảng 100 binh sĩ thuộc Đại đội 13, Sư đoàn bộ binh số 226 trong tình trạng sống dở chết dở bám trụ trận địa. Lính Đức được trang bị mặt nạ phòng độc bí mật áp sát pháo đài, tự tin rằng cuộc tấn công sẽ rất dễ dàng khi toàn bộ lực lượng phòng thủ đã bị tiêu diệt.
Cuộc phản công của người chết
Quân Đức dễ dàng vượt qua phòng tuyến đầu tiên của Nga, đột kích qua lớp tường bảo vệ và tiến vào trong pháo đài. Đúng lúc đó, những người sống sót của Đại đội 13 bắt đầu cuộc phản kích dưới sự chỉ huy của thiếu úy Vladimir Kotlinsky.
"Tôi không thể mô tả được sự giận dữ của các binh sĩ Nga khi tiến về phía quân Đức, những kẻ đã đầu độc họ. Các loại hỏa lực của đối phương đều không thể cản bước những người lính đang phát cuồng", một lính Nga sống sót sau trận đánh cho biết.
60 binh sĩ của Đại đội 13 khai hỏa trong lúc run rẩy, ho ra máu, với khuôn mặt bọc kín bởi những miếng vải đẫm máu. "Dù bị đầu độc và kiệt sức, họ vẫn tiến lên với mục tiêu duy nhất là nghiền nát quân địch", một nhân chứng nhớ lại.
Thiếu úy Kotlinsky trước khi được điều đến pháo đài Osowiec. Ảnh: RBTH.
Thiếu úy Kotlinsky trước khi được điều đến pháo đài Osowiec. Ảnh: RBTH.
Khiếp sợ trước sức phản công điên cuồng và bộ dạng dị thường của những người lính Nga trúng chất độc hóa học, lính Đức hò nhau vứt vũ khí tháo chạy khỏi pháo đài và mắc vào chính hàng rào thép gai của mình. Tận dụng điều này, lính Nga tái chiếm phòng tuyến bảo vệ pháo đài và giành lại các khẩu pháo. Thiếu úy Kotlinsky bị thương nặng và thiệt mạng vào tối hôm đó.
Trong tháng 4 và 5/1915, liên quân Đức và Áo nhiều lần chọc thủng phòng tuyến của Nga ở Đông Phổ. Sự kháng cự của pháo đài Osowiec đã yểm trợ cho các cuộc rút lui chiến lược của Nga cho tới hết tháng 8, thời điểm việc giữ Osowiec không còn ý nghĩa.
Ngày 22/8, các binh sĩ Nga rời pháo đài Osowiec trong trật tự, sau khi phá hủy các bức tường và công trình phòng thủ kiên cố. "Cuộc phản công của trung úy Kotlinsky đã ngăn pháo đài rơi vào tay quân Đức, cứu sống hàng nghìn người khỏi một thảm họa cận kề. Lịch sử sẽ rất khác nếu người Đức chiến thắng trong trận đánh ngày 6/8/1915", sử gia Boris Egorov nhận định.
Vũ Anh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét