-Trong tình trạng chiến tranh đầy chết chóc và tan hoang, bản chất sống của loài người trở nên cực hạn về mọi phía: +Yêu thương vô vàn mà cũng hận thù vô song +Thông minh trí tuệ bao nhiêu thì cũng ngu ngốc, mù quáng bấy nhiêu. +Tuyệt đỉnh dũng cảm thì cũng tột cùng hèn nhát. +Vừa là thánh thần vừa là quỉ dữ. ... -Chiến
tranh mang bộ mặt gớm ghiếc, tởm lợm đến khủng khiếp, không thể tả được,
dù bôi son trát phấn như thế nào, tung hô ra sao. -Chiến tranh là thể hiện sự thờ ơ, vô cảm khốn nạn tột cùng về việc hủy diệt tàn bạo cuộc sống và thân phận con người. -Chiến
tranh phi nghĩa là chiến tranh "nặn ra" lý do từ không có lý do, hủy
diệt và tàn phá cuộc sống một cách không chính đáng. Chiến tranh chính
nghĩa là chiến tranh nảy sinh từ việc chống chiến tranh phi nghĩa, được
hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách chính đáng (?). -Tóm
lại, bộ mặt thật của chiến tranh nhìn từ mọi phía nói chung là độc ác,
thiểu năng trí tuệ đến ngỡ ngàng của con người khôn ngoan, có lý trí. -Ngày
chiến thắng 30/4, lũ bán nước cay cú gọi là ngày quốc hận, người cộng
sản cực đoan cho rằng đó là ngày toàn dân phải vui mừng, riêng cố thủ
tướng Võ Văn Kiệt, người có vợ con đều chết trong chiến tranh, thì nói,
đó là ngày có triệu người vui và cũng có triệu người buồn. -Lão
Tử, một đại hiền triết thời cổ đại của Trung Quốc, từng nói: "Giết hại
nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang
lễ mà xử".
Cake- War Pigs
-------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Top 9 Trận vây hãm đẫm máu nhất trong lịch sử thời cổ trung đại
Trận đánh vĩ đại của 600 đặc nhiệm Anh vào cảng biển Đức
Thứ Bảy, ngày 17/09/2016 11:00 AM (GMT+7)
Cuộc cuộc tấn công cảng St. Nazaire
luôn được biết đến như chiến dịch tập kích vĩ đại nhất trong Thế chiến
II của đặc nhiệm Anh, bởi mục tiêu phá hủy cảng biển quan trọng của phát
xít Đức chỉ với lực lượng hạn chế.
HMS Cambeltown khi lao vào ụ nổi tại cảng St. Nazaire.
Những trận đột kích với số lượng ít ỏi lính đặc nhiệm hay lực
lượng không quân tinh nhuệ thường diễn ra điều kiện gần như bất khả thi,
với xác suất rủi ro cực cao, thường khiến nhiều người phải trả giá bằng
mạng sống. Mời bạn đọc theo dõi loạt bài về những trận đột kích lớn
như vậy trên thế giới.
Kể từ khi bắt đầu Thế Chiến II, Hải quân phát xít Đức đã gây ra ác
mộng với các tàu thuyền thương mại đi qua Đại Tây Dương. Sau khi nước
Pháp sụp đổ, phát xít Đức nắm trong tay hàng loạt cảng biển ở Đại Tây
Dương để phục vụ mục đích quân sự, chống lại lực lượng đồng minh, trong
đó có cảng chiến lược St. Nazaire.
Người Anh muốn phá hủy cảng hậu cần quan trọng này bằng cách tổ chức
cuộc tập kích đường biển hết sức tạo bạo năm 1942. Hơn 600 biệt kích và
binh sĩ Hải quân Anh phải đối đầu với lực lượng phòng vệ hùng hậu, bao
gồm 5.000 lính phát xít Đức ở cảng St. Nazaire.
Theo kế hoạch, 265 lính đặc nhiệm Anh thuộc Tiểu đoàn đặc nhiệm số 2
cùng 346 lính hải quân chất đầy thuốc nổ lên tàu khu trục hoán cải
Campbeltown. HMS Campbeltown có nhiệm vụ lao thẳng vào ụ nổi ở St.
Nazaire và kích nổ. Biệt kích Anh lợi dụng tình hình hỗn loạn, đổ bộ và
phá hủy các mục tiêu còn lại tại cảng một cách chớp nhoáng trước khi rút
quân bằng các xuồng máy vũ trang và 4 tàu ngư lôi.
HMS Campbeltown đang được hoán cải để phục vụ mục đích tấn công.
Ngày 26.3.1942, nhóm đặc nhiệm rời Anh và tiếp cận mục tiêu vào đêm
ngày 28.3. HMS Campbeltown lặng lẽ giương cờ hải quân Đức tiến vào cảng
St. Nazaire. Tuy nhiên, kế hoạch đánh bom của Hải quân Hoàng gia Anh bại
lộ khi chỉ còn cách mục tiêu 8 phút di chuyển, do bị lính Đức chiếu đèn
pha kiểm tra.
Giao tranh diễn ra ngay lập tức giữa đặc nhiệm Anh trên tàu
Campbeltown và lính phòng thủ bờ biển Đức. Thủy thủ trên tàu Campbeltown
thay cờ Hải quân Anh trong khi lái tàu trúng đạn hy sinh, người thay
thế bị thương nặng còn những người khác bị lóa mắt. Mãi đến 1h34 phút
sáng, tàu khu trục mới xác định được vị trí của ụ tàu Normandie và lao
thẳng vào mục tiêu.
Ngay khi đổ bộ lên bờ, đặc nhiệm Anh vấp phải hỏa lực bắn xối xả của
phát xít Đức. Dù chịu nhiều thương vong, nhưng những người lính anh dũng
này này cuối cũng hoàn thành nhiệm vụ khi phá hủy cơ sở hạ tầng và
trang thiết bị máy móc tại cảng.
Nhóm đặc nhiệm điều khiển 14 xuồng máy vũ trang và 4 tàu ngư lôi lại
không may mắn như vậy. Trong khi tìm cách tiếp cận bờ, đa số đã bị tiêu
diệt bởi đạn pháo phát xít Đức. 12 chiếc bị chìm khi chưa kịp đến cảng.
Những người chết cháy ngay trên biển tạo nên cảnh tượng đầy bi tráng.
Binh sĩ Anh bị bắt làm tù binh.
Trung tá Newman, chỉ huy lực lượng đặc nhiệm trên bờ và chỉ huy Ryder
của hải quân Anh nhận thấy việc rút quân bằng đường biển đã hoàn toàn
phá sản. Ryder ra lệnh các tàu còn lại rời cảng, hướng ra biển. Trong
khi Newman ra mệnh lệnh: Tìm mọi cách để trở về Anh, chiến đấu đến cùng
cho đến khi hết sạch đạn và không được đầu hàng.
Như vậy, họ buộc phải tiến sâu vào thành phố và tìm cách thoát thân
từ đất liền. Đáng tiếc rằng, những người lính đặc nhiệm Anh nhanh chóng
bị phát xít Đức bao vây. Họ chiến đấu đến viên đạn cuối cùng trước khi
buộc phải đầu hàng vì không còn lựa chọn nào khác. Chỉ có 5 biệt kích
thoát khỏi vòng vây và chạy trốn xuyên nước Pháp, qua Tây Ban Nha, đến
vùng lãnh thổ Gibraltar thuộc Anh và từ đây mới có thể trở về Anh.
Phát xít Đức nhanh chóng giành lai quyền kiểm soát cảng St. Nazaire,
bắt giữ 215 lính biệt kích và binh sĩ Hải quân Hoàng gia Anh. Không hề
biết rằng tàu Campbeltown được chất đầy thuốc nổ, sĩ quan Đức còn giễu
cợt Trung tá Sam Beattie, chỉ huy tàu Cambeltown, cho rằng thiệt hại do
cú đâm chỉ mất một tuần là khắc phục xong.
Cảng St. Nazaire đã bị vô hiệu hóa hoàn toàn trong suốt quãng thời gian còn lại của Thế Chiến II.
Viên sĩ quan Đức vừa dứt lời thì tàu Campbeltown phát nổ, khiến 360
người thiệt mạng và phá hủy nặng nề cảng St. Nazaire, khiến nó không còn
có thể hoạt động trở lại được trong thời gian còn lại của cuộc chiến.
Phía Anh trả giá đắt cho chiến thắng này. Trong số 600 người tham gia
chiến dịch, chỉ có 227 người trở về Anh. Bên cạnh những người bị bắt
làm tù binh, 169 biệt kích và binh sí Hải quân Anh đã thiệt mạng.
Cuộc đột kích đã khiến Hitler hết sức tức giận, cùng với các cuộc tấn
công khác đã khiến phát xít Đức buộc phải dàn trải quân dọc theo bờ
biển để tăng cường phòng thủ trước các cuộc tấn công hoặc xâm lược trong
tương lai.
Cảng St. Nazaire bị phá hủy khiến Đức bị mất một địa điểm sửa chữa
quan trọng cho các tàu chiến lớn ở Đại Tây Dương. Do bản chất táo bạo
của chiến dịch và cái giá phải trả là rất lớn, đây được coi là chiến
dịch tập kích vĩ đại nhất trong Thế chiến II của đặc nhiệm Anh.
_____________
Đón đọc bài tiếp theo vào 10h ngày 18.9: Vụ Mỹ táo bạo đột kích Nhật Bản sau trận Trân châu cảng
Theo Đăng Nguyễn (Dân Việt)
Đòn tập kích táo bạo của lính dù trong Thế Chiến II
Thứ Hai, ngày 21/07/2014 19:00 PM (GMT+7)
Những chiến dịch nhảy dù đại quy mô vào hậu phương địch đã tạo nên bước ngoặt chiến tranh.
Từ
những ý tưởng manh nha ban đầu, được xúc tiến bởi sự bế tắc khủng khiếp
của "chiến tranh chiến hào" trong Thế Chiến I, lực lượng lính dù dần dần
thu hút được sự quan tâm của quân đội các nước, trong bối cảnh thế giới
hồi đó đang sôi sục chuẩn bị cho Thế Chiến II.
Trong thời gian này, nước Đức dưới chế độ Quốc xã của Hitler cũng
tích cực xây dựng cho mình một lực lượng lính dù hùng hậu. Lính dù ở Đức
được gọi bằng danh từ Fallschirmjager, ghép lại giữa hai từ “thợ săn”
và “dù”.
Chiến tranh Thế giới lần thứ hai nổ ra, và Đức là quân đội đầu tiên
trên thế giới sử dụng lính dù trong chiến đấu. Chiến dịch đổ bộ bằng
lính dù này được thực hiện vào năm 1940 trong cuộc xâm lược Na Uy và Đan
Mạch.
Lực lượng lính dù Fallschirmjager của quân đội Đức trong Thế Chiến II
Vào rạng sáng ngày 9/4/1940, các “thợ săn dù” của Đức lao ra khỏi
những chiếc máy bay vận tải Junkers Ju-52 và nhẹ nhàng bung dù đáp xuống
sân bay Aalborg ở Đan Mạch. Một đơn vị khác nhanh chóng chiếm giữ các
cây cầu gần đó trong sự bất ngờ đến choáng váng của quân Đan Mạch.
Trong các đợt nhảy dù tiếp theo, lính dù Fallschirmjager của Đức từ
trên trời rơi xuống tấn công và chiếm giữ một pháo đài trên đảo Masnedo
và cầu Stostrom, cắt đứt Masnedo với các hòn đảo xung quanh. Thành công
của chiến dịch nhảy dù này tiếp tục được phát huy trên chiến trường Na
Uy, khiến lực lượng phòng thủ địa phương không kịp trở tay.
Tiếp sau đó là cuộc xâm lược Crete vào năm 1941, khi cả một sư đoàn
Đức được tung xuống lãnh thổ đối phương bằng dù. Hiệu quả của chiến
thuật này đã vượt ngoài sức tưởng tượng của các sĩ quan chỉ huy Đức.
Lính dù Đức đã gây ra tình trạng rối loạn và hoảng sợ trong lực lượng
phòng thủ Crete khiến họ thất thủ nhanh chóng.
Nhiều nhà sử học khi phân tích về chiến dịch này đã kết luận rằng
chính chất lượng của những người lính dù và sự hiệu quả của chiến thuật
nhảy dù đã đem lại thành công cho chiến dịch tấn công của Đức, mặc dù họ
phải hứng chịu tổn thất không ít bởi hỏa lực mặt đất của đối phương.
Trong thời kỳ này, độ tin cậy của việc nhảy dù không được cao như
ngày nay. Lính dù thường không có dù phụ, và nhiều dù không chịu bung
sau khi lính đã nhảy ra khỏi máy bay, dẫn đến những cái chết thương tâm.
Ngay cả trong huấn luyện, tình trạng quân nhân chết hoặc bị thương khi
nhảy dù không phải là hiếm gặp.
Trong chiến đấu, lính dù thường nhảy ra khỏi máy bay mà không mang
theo các loại vũ khí hạng nặng và nhảy xuống những nơi đối diện với hỏa
lực của kẻ thù. Ngoài ra, những chiếc máy bay vận tải chở họ còn là mục
tiêu kềnh càng, ngon ăn dễ dàng bị hỏa lực phòng không của đối phương
bắn hạ ngay khi người lính dù đầu tiên còn chưa kịp nhảy xuống.
Lính dù Anh trên khoang một chiếc máy bay vận tải C-47
Đổi lại, khả năng tấn công chớp nhoáng và bất ngờ của lực lượng lính
dù mang lại hiệu quả tác chiến vô cùng cao có thể làm mê mẩn bất cứ
chiến lược gia quân sự nào. Trước cú sốc do lính dù Đức gây ra ở trận
Crete, quân đội Anh và Mỹ mới bắt đầu thực sự chú trọng vào lực lượng
chiến lược này.
Tuy nhiên Liên Xô mới là nước đầu tiên của phe Đồng minh sử dụng lực
lượng lính dù trong tác chiến. Ngày 23/2/1942, hơn 7000 lính dù Liên Xô
thuộc Lữ đoàn Dù số 4 đã nhảy dù xuống thị trấn Vyazma để thực hiện
chiến dịch Rzhev-Vyazma.
Bốn ngày sau, Sư đoàn Dù số 1 của Anh mới bắt đầu có những trải
nghiệm thực sự đầu tiên trên chiến trường trong chiến dịch Biting.
Khoảng 120 đặc nhiệm dù Anh đã đáp xuống khu vực Bruneval bị quân Đức
chiếm đóng trên đất Pháp để chiếm một trạm radar.
Theo kế hoạch, các đặc nhiệm dù này sau khi nhảy xuống đất địch sẽ
tấn công trạm radar và sau đó rút ra bờ biển để lên một chiếc tàu chiến
đang đợi sẵn. Trong chiến địch đột kích táo bạo đó, quân Anh mất hai
lính dù và 6 người khác bị thương, nhưng họ đã lấy được thiết bị radar
tối mật của Đức rồi rút ra biển an toàn.
Dù đây chỉ là một chiến dịch nhỏ, song thắng lợi của nó đã trở thành
một liều doping động viên tinh thần cho dư luận nước Anh đang không ngớt
lo lắng về cuộc chiến, đồng thời thể hiện tính hiệu quả ưu việt của lực
lượng lính dù trong tác chiến.
Đến cuối năm 1942, Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 509 của quân đội Mỹ mới
có chiến dịch tấn công đầu tiên trong lịch sử. Trong chiến dịch này, 39
chiếc máy bay vận tải C-47 chở theo hơn 500 lính dù đã cất cánh từ Anh
tới các mục tiêu ở Bắc Phi.
Sĩ quan dặn dò các lính dù Mỹ trước khi lên đường làm nhiệm vụ
Tuy nhiên chiến dịch này không hề thành công như mong đợi. Chỉ có 10
chiếc máy bay đến được mục tiêu là 2 sân bay đang do phe phát xít kiểm
soát, và một số máy bay còn bị lạc đội hình, buộc phải chuyển hướng hạ
cánh xuống Gibraltar.
Một số chiếc lại nhầm mục tiêu và thả lính dù xuống một sa mạc rộng
lớn, khiến lính dù phải vất vả hành quân trên bộ suốt một quãng đường xa
mới đến được mục tiêu, làm mất tính bất ngờ và chớp nhoáng của chiến
dịch. Một tuần sau, một nhóm lính dù khác mới thực hiện cuộc đổ bộ thành
công hơn xuống dọc biên giới Tunisia.
Đến cuối năm 1942, khái niệm về tác chiến lính dù ngày càng được hoàn
thiện khi lực lượng “thiên binh” này ngày càng được sử dụng nhiều hơn
và hiệu quả hơn. Ngày càng có thêm nhiều lính dù được đào tạo, và các
chiến thuật nhảy dù cũng được thay đổi tùy theo tính chất của từng nhiệm
vụ.
Đến thời kỳ này, lực lượng lính dù của phe Đồng minh đã bắt kịp với
khả năng tác chiến của lính dù Đức, và đến cuộc tấn công vào Sicily năm
1943, các đơn vị lính dù đã trở thành một lực lượng không thể thiếu
trong quân đội Đồng minh.
Cho đến cuộc đổ bộ Normandy năm 1944, các đơn vị nhảy dù của phe Đồng
minh đã trở thành những lực lượng tinh nhuệ có kỹ năng và trình độ cao.
Trong cuộc đổ bộ mang tính bước ngoặt này, những cuộc nhảy dù của Sư
đoàn Dù 101, 82 của Mỹ Sư đoàn Dù 6 của Anh đã trở thành lực lượng tối
quan trọng đảm bảo cho thành công của chiến dịch.
Lính Mỹ đổ bộ bằng dù xuống đất Pháp trong chiến dịch lịch sử Normandi
Tuy nhiên, cuộc đổ bộ Normandy vẫn không phải là chiến dịch nhảy dù
lớn nhất trong lịch sử chiến tranh. Kỷ lục này thuộc về chiến dịch
Varsity diễn ra vào ngày 24/3/1945, khi hơn 16.000 lính dù và hàng ngàn
máy bay của liên quân Anh-Mỹ nhảy xuống chiến trường chỉ trong một ngày
để giành quyền kiểm soát vài cây cầu bắc qua sông Rhine.
Bên kia chiến tuyến, quân đội Đế quốc Nhật Bản cũng xây dựng một lực
lượng lính dù hải quân có tên gọi là Rikusentai gây ra nhiều nỗi khiếp
đảm ở châu Á. Tháng 1/1942, lực lượng Rikusentai của Nhật Bản nhảy dù
xuống Indonesia và quét sạch lực lượng phòng thủ Hà Lan trong trận chiến
Manado. Quân Nhật tiếp tục tổ chức nhiều chiến dịch nhảy dù khác sau
khi xâm lược Timor và Sumatra trong năm 1942.
Tháng 12/1944, 750 lính bộ binh nhảy dù của Nhật Bản (Teishin Shudan)
đã mở một chiến dịch nhảy dù quy mô lớn vào các sân bay do lính Mỹ kiểm
soát ở Philippines. Hơn một nửa số lính dù này thiệt mạng khi máy bay
của họ bị hỏa lực phòng không đối phương bắn rơi, 300 lính dù còn lại
chiến đấu quyết liệt với quân Mỹ và gây ra thiệt hại nặng nề cho đối
phương.
Có thể nói Thế Chiến II là thời kỳ hoàng kim của lực lượng lính dù và
cũng là thời kỳ các chiến thuật nhảy dù liên tục được phát triển, thay
đổi và hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu của từng nhiệm vụ tác chiến.
Trong thời kỳ này, sự xuất hiện bất thình lình “từ trên trời rơi
xuống” theo đúng nghĩa đen của những người lính dù luôn là nỗi khiếp đảm
cho bất cứ lực lượng phòng thủ nào. Những chiến dịch nhảy dù đại quy mô
đã góp phần tạo nên bước ngoặt của chiến tranh, giúp phe Đồng minh có
được chiến thắng vang dội trước phe Phát xít.
Sau Thế Chiến II, người ta không còn thấy những chiến dịch nhảy dù
cấp sư đoàn hay lữ đoàn với những cánh dù ngập trời nữa, thay vào đó là
những chiến dịch cỡ tiểu đoàn gọn nhẹ và hiệu quả hơn. Với sự phát triển
như vũ bão của khoa học công nghệ, lính dù ngày càng trở nên gọn nhẹ
hơn, hiệu quả hơn với lực lượng nhỏ hơn, cơ động hơn, thể hiện tính ưu
việt của lực lượng “thiên binh” này.
_____________________
Theo Trí Dũng (Tổng hợp) (Khampha.vn)
Tàu sân bay lớn nhất thế giới của Nhật bị Mỹ đánh chìm, hơn 1.400 người quyết ở lại cùng chết
Thứ Tư, ngày 21/08/2019 00:30 AM (GMT+7)
Trong những năm cuối Thế chiến 2, Nhật
Bản hạ thủy một trong những tàu chiến, tàu sân bay uy lực nhất thế giới,
nhưng con tàu có số phận ngắn ngủi khi trở thành mồi ngon cho các tàu
ngầm Mỹ.
Shinano là tàu sân bay cuối cùng phát xít Nhật chế tạo trong Thế chiến 2.
Theo National Interest, được đưa vào sử dụng tháng 10.1944, tàu sân
bay Shinano có thể được coi là niềm tự hào cuối cùng của hải quân phát
xít Nhật.
Với lượng giãn nước lên tới hơn 69.000 tấn, con tàu lẽ ra vẫn là tàu
sân bay lớn nhất thế giới, ít nhất cho đến những năm 1960. Nhưng con tàu
không tồn tại được lâu như vậy, nó trở thành tàu chiến lớn nhất thế
giới từng bị đánh chìm bởi tàu ngầm.
Tàu ngầm Mỹ USS Archerfish đánh chìm tàu sân bay Nhật chỉ có lượng giãn nước 1.500 tấn, tức là nhỏ hơn 46 lần.
Câu chuyện bắt đầu từ tháng 5.1940, trước khi người Nhật tấn công
Trân Châu Cảng. Shinano được hạ thủy với tư cách là thiết giáp hạm thứ
ba trong lớp Yamato.
Đây là những thiết giáp hạm lớn nhất lịch sử thế giới, với hi vọng
của người Nhật rằng có thể dùng chất lượng để đánh bật các hạm đội Mỹ có
số lượng đông đảo hơn.
Theo kế hoạch, Shinano sẽ sớm hiệp đồng tác chiến cùng hai thiết giáp
hạm Musashi và Yamato để trở thành bộ ba uy lực nhất thế giới ở thời
điểm đó.
Đến năm 1942, Nhật Bản
nhận ra rằng họ cần tàu sân bay hơn là thiết giáp hạm. Môi trường tác
chiến trên biển ngày nay phụ thuộc hoàn toàn vào các sân bay nổi trên
mặt nước. Nhật Bản đã mất 4 tàu sân bay uy lực nhất trong trận hải chiến
Midway. Đây là trận chiến mang ý nghĩa quyết định giữa Mỹ và Nhật Bản ở
mặt trận Thái Bình Dương.
Theo mệnh lệnh, Shinano được hoán cải để trở thành tàu sân bay lớn
nhất thế giới thời điểm đó. Con tàu lớn gấp đôi tàu sân bay lớp Essex
của Mỹ, chỉ bị tàu sân bay hạt nhân Mỹ soán ngôi vào những năm 1960.
Shinano được hoán cải từ thiết giáp hạm lớp Yamato.
Tàu được bọc giáp dày nhất trong số các tàu sân bay, với khả năng
mang theo 47 máy bay, có phần ít hơn tàu sân bay Mỹ (mang theo 75-100
máy bay). Nhưng Shinano có hỏa lực đáng nể, bao gồm 16 súng phòng không
cỡ nòng 12,7mm, 145 pháo phòng không 25mm, 12 bệ phóng rocket đa nòng
chống máy bay.
Shinano xuất hiện với hi vọng khắc phục những điểm yếu của tàu sân
bay Nhật trước đây. Đó là các tàu sân bay Nhật quá dễ cháy, được bọc
giáp mỏng không chống được bom xuyên giáp của máy bay Mỹ.
Nhưng sự bất khả xâm phạm của Shinano chỉ nằm trên giấy. Con tàu được
chế tạo một cách gấp rút, không có cách khắc phục trong trường hợp nước
rò vào khoang.
Ngày 28.11, tàu được đưa đến căn cứ hải quân Kure bằng đường biển,
với 3 tàu khu trục hộ tống. Phi đội máy bay trên tàu Shinano khi đó chỉ
mang theo bom, không có các máy bay săn ngầm.
Kết quả là Shinano rơi vào ổ phục kích của tàu ngầm Mỹ USS Archerfish ngay trong đêm.
4 quả ngư lôi của tàu ngầm Mỹ khiến tàu sân bay Shinano vĩnh viễn chìm dưới đáy biển.
Archerfish di chuyển song song với tàu sân bay Nhật, chờ đợi cơ hội
tấn công. Thuyền trưởng tàu Shinano phát hiện tín hiệu radar từ tàu ngầm
Mỹ, nhưng cảm thấy chưa đến mức quá lo ngại vì ông đang chỉ huy một
trong những chiến hạm lớn nhất của hải quân Nhật.
Trong trận đánh ở Philippines, thiết giáp hạm Musashi với thân tàu
tương tự như Shinano, đứng vững dù bị trúng 10 ngư lôi và 16 quả bom.
Con tàu cũng có biện pháp phòng ngừa, bằng cách di chuyển theo đường zic
zac để né tránh ngư lôi tàu ngầm Mỹ.
3 giờ 15 phút sáng ngày 29.11.1944, Archerfish phóng 6 ngư lôi khi
thấy mục tiêu rơi vào vị trí mai phục. 4 trong số này đánh trúng mục
tiêu. Thủy thủ trên tàu có một chút choáng váng, nhưng không ai lo lắng
vì tàu được bọc giáp dày.
Kết quả là tàu sân bay Shinano vẫn di chuyển với tốc độ tối đa, nước
rò vào bên trong thân tàu, làm hư hại máy bơm và máy phát điện mà không
có cách nào ngăn được.
Đến 10 giờ 18 phút sáng, thuyền trưởng ra lệnh bỏ tàu. Nhưng 1.435
thủy thủ, bao gồm cả thuyền trưởng vẫn ở lại chết cùng với tàu. Khoảng
1.000 người khác được giải cứu.
Giới phân tích quân sự sau này đánh giá tàu sân bay khổng lồ của Nhật
có nhiều sai sót trong thiết kế, nhưng cũng gặp vận rủi khi bị ngư lôi
đánh trúng vào phần yếu nhất ở bên hông.
Cuối cùng, Shinano vẫn làm nên lịch sử không mấy vẻ vang và vĩnh viễn
nằm lại dưới đáy biển Thái Bình Dương cùng hài cốt những thủy thủ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét