Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2019

ĐỊNH HƯỚNG XHCN? 8

ĐI LÊN CNXH ?

-Nước là tiền đề của sự sống. Sự sống chỉ có thể nảy sinh và tồn tại trong môi trường nước. Có thể nói trong Vũ Trụ, chỉ có nơi nào có nước thì mới có khả năng có sự sống. Như vậy, dễ thấy rằng cùng với nhiều điều kiện khác nữa, sự sống trên Trái Đất là hiện tượng không đến nỗi phổ biến trong Vũ Trụ, thậm chí là hi hữu.
-Theo quan niệm của triết học duy tồn thì trên thế giới này không có gì khác ngoài Tự Nhiên Tồn Tại. Một thể hiện đặc thù của Tự Nhiên Tồn Tại là sự sống. Mục đích của Tốn Tại chính là tồn tại, nghĩa là mọi Tồn Tại khi đã được sinh ra hoặc hình thành đều "cố gắng" duy trì sự tồn tại của chính nó (thể hiện rõ ràng nhất về mặt này là vạn vật đều có quán tính, có khối lượng!). Vì là dạng đặc thù của Tồn Tại nên sự sống đều tuân thủ đặc tính cơ bản này, sự sống sinh ra phải "cố gắng" sống còn trước khi tự nhiên chết đi, trở về với Tồn Tại.
-Tồn Tại phải vận động để thể hiện sự tồn tại. Vũ Trụ có tính hữu hạn. Tính hữu hạn của Nó thể hiện ở chỗ mọi vận động đều phải tuân theo qui luật nhân quả. Nhưng Vũ Trụ cũng có tính vô hạn. chính vì thế và cũng vì sự cố gắng tồn tại mà vận động thường có xu hướng chu kỳ, lặp lại, xoay vần. Môi trường sống là một tồn tại, do đó, nó cũng vận động, biến đổi và phân tương đối thành hai trạng thái tương phản gọi là "bất lợi hơn" và "thuận lợi hơn" theo qui ước đối với sự sống và biến đổi một cách xoay vần tương đối qua hai trạng thái đó.
-Vì môi trường dung dưỡng sự sống là hữu hạn, phải xoay vần như vậy nên sự sống, để sống còn được, để duy trì giống nòi được, thì phải đấu tranh sinh tồn, phải định hình đồng thời phải biến hóa phù hợp (tiến hóa thích nghi) theo nguyên tắc tăng trưởng-suy thoái lạm phát. Nhờ thế mà sự sống trở nên đa dạng, đa giống loài và nảy sinh ra sự sống có tư duy (loài người).
-Có một xu thế phổ biến trong quá trình đấu tranh sinh tồn của thế giới sinh vật là hợp với nhau thành quần thể, thành bầy đàn để tăng khả năng mưu sinh, khả năng sống sót. Ở loài người đó là xu thế hợp quần xã hội.
-Quá trình đấu tranh sinh tồn ở loài người có tư duy đã làm xuất hiện ở con người thứ gọi là "tình cảm" với đủ thứ cung bậc hỉ, nộ, ái, ố (trong đó, lòng tham vị kỷ trước lựa chọn sống còn có nguồn gốc sâu xa từ bản năng, nổi trội, có thể được coi là nguồn cội phát sinh mọi sắc thái tình cảm khác.).
-Cố gắng sống còn rõ ràng được hối thúc từ bản năng. cho nên có tính cá thể. Nhưng quá trình mưu sinh cũng sẽ giúp sinh vật tìm đến lối mưu sinh tập thể, đến những ưu việt để sinh tồn mà tìm kiếm sống còn được hối thúc từ bản năng cá thể không thể có được. Nói tóm lại, đấu tranh sinh tồn và tiến hóa thích nghi là qui luật phổ biến trong thế giới sinh vật. Đó là quá trình đan xen giữa hai biểu hiện cá nhân và tập thể. Cả hai mặt ấy đều phục vụ sống còn, một cái là trực tiếp, cái còn lại là gián tiếp, trong đó, cái thứ nhất đóng vai trò cốt lõi, nền tảng, là ưu tiên số một.
-Phải nói ở loài có tư duy (loài người), lối sống hợp quần xã hội đã có từ thời săn bắt-hái lượm, trở thành như một lối sống duy nhất trong thời trồng trọt-chăn nuôi và định cư lâu dài.
-Tự Nhiên Tồn Tại có đặc tính cơ bản trước tư duy quan sát là phân biệt được, theo qui ước thì phân thành hai trạng thái tương phản và chuyển hóa qua lại giữa hai trạng thái ấy. Ở loài người cũng vậy, trong quá trình mưu sinh cũng một đàng là duy trì, củng cố sự hợp quần xã hội và ngược lại, đàng khác, cũng có những yếu tố làm chấm dứt, phân rã xã hội.
-Nhưng hợp quần xã hội vẫn là lối sống được ưu tiên lựa chọn tự nhiên đầu tiên của loài người trong quá trình sinh tồn với những ưu việt do tính tập thể đem lại mà tính cá thể không có được, cho nên quần chúng trong xã hội đó (thành viên hợp thành xã hội đó, còn gọi là Đại Chúng), đã tự phát lập ra một thứ đóng vai trò công cụ rồi ủy quyền quyền lực cho nó (sau này phát triển thành "nhà nước"), nhằm hòa giải, trị an, điều hành xã hội, giúp gắn kết xã hội, làm cho xã hội hoạt động một cách đồng bộ, thống nhất, đoàn kết. phục vụ cho đời sống của mình.
-Như vậy, sự tồn tại nhà nước là mang tính tự nhiên, và mục đích nguyên thủy của nhà nước là "do dân, vì dân", vì ấm no, hạnh phúc của xã hội nói chung, trong đó có ấm no, hạnh phúc của từng con người cá thể nói riêng. Tuy nhiên, lòng tham ích kỷ và mù quáng vốn có ở mỗi con người đã lũng đoạn nhà nước, làm cho nhà nước dần dần xa rời mục đích chính đáng ban đầu của nó, nói đúng hơn là mục đích chân chính của nó đã bị làm cho nhạt nhòa.
-Định hướng tiến triển tự nhiên, có tính tự phát của xã hội loài người từ trước đến nay vẫn là "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" (nếu không có định hướng ấy thì xã hội loài người có đạt trình độ văn minh như hiện nay không?). Có điều, tiến trình ấy xảy ra nhanh hay chậm là do các cuộc cách mạng (đột biến) trong khoa học, trong nhận thức xã hội cũng như trong hoạt động thực tiễn của loài người qui định. Nếu cho rằng xã hội loài người chính thức hình thành từ khi sống định cư lâu dài và trồng trọt-chăn nuôi đã được chọn là phương thức sinh tồn chủ yếu thì hình mẫu về một xã hội phi giai cấp, phi áp bức bất công, dân cư xã hội chung lưng đấu cật làm ăn, thực sự an hưởng hạnh phúc thái bình (thường gọi là xã hội cộng sản nguyên thủy, trái ngược với quan niệm của Ănggen!) đã từng hiện diện trên Trái Đất này. Và nhà nước nguyên thủy cũng xuất hiện từ đó. phải nói rằng, xét về mặt cảm thụ hạnh phúc, tức là mức độ mãn nguyện về cuộc sống, thì xã hội đẹp nhất mà con người đã trải qua chính là xã hội cộng sản nguyên thủy và chuẩn mực xã hội đang hướng tới (có hướng tới được hay không???) là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Quá trình phát triển xã hội làm nảy sinh ra nhiều yếu tố (quan hệ sản  xuất, lực lượng sản xuất, sự tăng trưởng của số lượng cư dân xã hội...) tạo ra những nhu cầu xã hội (số lượng và chất lượng tiêu dùng tăng lên...) thúc ép xã hội chuyển hóa sang phương thức tư sản nguyên thủy (gia đình hóa, tư hữu hoá công cụ sản xuất...).
-Vô hình dung, ngay từ đầu tự nhiên đã vạch hướng tối ưu cho con người sống còn, nhưng lòng tham vị kỷ xuất phát từ bản năng ở mỗi con người trong thời kỳ môi trường sự sống đang lâm vào trạng thái bất lợi, đã dẫn đến sự thèm khát tư hữu, từ đó mà lý trí của họ chìm đắm trong mù quáng và vì thế mà xã hội của họ rối loạn, lạc vào lũng đoạn (chiến tranh, cướp bóc, nô dịch...) cho tới tận ngày nay. Có thể nói, từ thời cổ đại đến nay, loài người vẫn tìm chưa ra Thiên Đường đã đánh mất của mình (đó là xã hội cộng sản nguyên thủy, một xã hội đại đồng nhân ái, không có áp bức bất công!). Bao nhiêu thế hệ con người với những trí tuệ triết học ưu tú nhất đã ra sức nhận thức, đã hình dung ra bao nhiêu hình thức xã hội đẹp đẽ, rồi cố gắng thực hiện mà vẫn không thành hiện thực, mà vẫn chỉ là nếu không "không tưởng", "hoang tưởng" thì cũng là "lý tưởng"...
-Từ khi loài người sống theo lối hợp quần xã hội tới nay, họ đã trải qua các hình thái xã hội:
      +Cộng sản nguyên thủy: Cộng đồng, "chung lưng đấu cật" làm ăn không có áp bức, bất công. Hình thành nhà nước sơ khai (thủ lĩnh, già làng...được xã hội thừa nhận, được bầu trực tiếp, công khai). Con người nói chung chưa có khái niệm "danh lợi".
      +Tư sản nguyên thủy: Bắt đầu có lối sống gia đình, tư hữu hóa về tư liệu sản xuất. Nhà nước đã bắt đầu chiếm dụng quyền lực. Đã có hiện tượng bóc lột thặng dư, nhưng nói chung, hiện tượng áp bức bất công chưa phổ biến.  Giàu-nghèo xuất hiện, nhưng chưa  phân tầng giai cấp. Đã có hiện tượng tích lũy của cải, giữ gìn công cụ trong từng hộ gia đình.
      +Chế độ Chiếm hữu nô lệ: Hình thành quyền lực và phân chia quyền lực (tư hữu quyền lực!). Nhà nước đã bắt đầu theo thể chế "tập hợp đại diện cộng đồng" thao túng quyền lực, tranh dành quyền lực, làm hình thành hai tầng lớp cơ bản trong xã hội là "thống trị" , "bị trị"  và đương nhiên đứng về phía bênh vực quyền lợi cho tầng lớp "thống trị". Áp bức, bất công đã trở nên phổ biến.
      +Chế độ phong kiến: tư hữu hóa nhà nước (nhà nước đã bắt đầu theo thể chế "cha truyền con nối"), khẳng định uy quyền cá nhân tuyệt đối của nhà nước (quân chủ) đối với Đại Chúng. Tuy nhiên, thông qua đấu tranh, tầng lớp bị trị đã dành lại được quyền tự quyết cá nhân về sinh mạng, dành lại phần nào quyền lợi sống còn cơ bản của mình. Lòng tham vị kỷ tràn lan trong xã hội.
      +Chế độ tư bản: Nhà nước "vì dân" một cách hình thức, đã tập thể hóa quyền lực nhưng vẫn "gián tiếp" phục vụ quyền lợi kinh tế cá  nhân cho tầng lớp "thống trị", là công cụ áp bức, bóc lột của tầng lớp "thống trị" đối với toàn xã hội, cho nên đầy rẫy áp bức bất công, thậm chí áp bức bất công có lúc, có nơi vượt quá sự tàn bạo, ăn cướp công khai, trắng trợn, gây ra mâu thuẫn đối kháng, một mất một còn, không thể dung hòa được...Sự tư hữu được mở rộng phạm vi đến cực độ, gây ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa hai tầng lớp thống trị và bị trị, giữa hai bộ phận (đã hóa thành hai giai cấp đối kháng) tư sản và vô sản. Chủ nghĩa cá nhân thống trị mọi tâm hồn xã hội. Nhà nước, trên danh nghĩa, là "của dân, do dân, vì dân", nhưng vẫn là nhà nước "của nó, do nó, vì nó"!
      +Chế độ cộng sản: Nhà nước thực sự là "của dân, do dân, vì dân", quyền lực xã hội thực sự thuộc về Đại Chúng, Đại Chúng ủy quyền cho nhà nước thông qua "quốc hội" để nhằm mục đích trị an, đối ngoại. Về mặt lý thuyết, xã hội cộng sản không còn bóc lột nữa, không còn áp bức, bất công nữa (tương tự xã hội cộng sản nguyên thủy nhưng văn minh hơn nhiều!). Sự tư hữu và giaù có tới mức thừa thãi đối với một đời người đã mất đi sức hấp dẫn của nó (không thể giàu có được bằng làm ăn cá thể, tiền bạc ngập đầu cũng chẳng để là gì!!!).
-Khi ta nói: "Đi lên CNXH" hay: "Theo định hướng XHCN" là ta đang nói tới việc xây dựng một xã hội cộng sản. Vậy, có thể hiểu nôm na, xã hội XHCN là xã hội cộng sản chưa hoàn chỉnh, khác xã hội tư bản ở chỗ đã thực sự xây dựng được nhà nước "của dân, do dân, vì dân"?
-Vì cuộc sống con người là tối linh, vì xã hội cộng sản là xã hội tối ưu giúp mọi người nói chung được sống còn một cách mãn nguyện, nên nó là hình thái xã hội tươi đẹp nhất mà thiên nhiên đã ban tặng cho loài người từ thời cổ đại nhưng loài người đã "vô  tình" không biết gìn giữ, để nó mất đi, rồi lại cố công tìm kiếp trong tủi nhục, đau thương cho đến ngày nay dù đã nhận thức được nhưng vẫn chưa hoạch định chính xác được. Vì sao xây dựng xã hội cộng sản khó như vậy? Vì sao mô hình xã hội theo chủ nghĩa xã hội (do C.Mác đề xướng!), khi mới truyền bá, lại được Đại Chúng đồng lòng ủng hộ, tin theo, để rồi sau một thời gian trải nghiệm mới "ngộ ra" những nét phi thực của nó, đã quay sang dè bỉu nó, chối bỏ nó? Bởi vì đó là sự diễn tả giấc mơ tuyệt đẹp, đậm nét hiện thực nhất mà họ có thể mơ ước được, là hình ảnh về Thiên Đường đã mất của họ, nhưng rồi vỡ lẽ ra chỉ như "cái bánh vẽ to tướng" và họ đã bị lừa dối! Có lẽ nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân của mọi nguyên nhân là những người làm cách mạng chưa thấm nhuần chính xác khái niệm "nhà nước", khái niệm "chuyên chính", thiếu tình yêu thương Đại Chúng và không biết cách xây dựng được một nhà nước thực sự "của dân, do dân và vì dân"!? Nhà nước đó còn được gọi là "nhà nước cộng sản". (Bên cạnh nhà nước cộng sản có cần thiết tồn tại một đảng cộng sản giữ vai trò "kim chỉ nam", lãnh đạo toàn thể xã hội nữa không nhỉ?).
-Khi đã  xây dựng được một nhà nước thực sự "của dân, do dân và vì dân" thì nhất quyết nhà nước đó sẽ xây dựng được nền kinh tế XHCN với kinh tế kế hoạch do nó làm chủ đạo, sự công hữu trở thành hình thức cơ bản và nổi trội trong xã hội, đến lúc đó nhiều khả năng xã hội cộng sản sẽ thành hiện thực không thể chối cãi!
-Ngày nay, nếu một xã hội bao gồm những nét tươi đẹp của xã hội Mỹ, Cuba, Bắc Triều Tiên cộng lại, thì đó phải chăng đã là xã hội cộng sản!? 

--------------------------------------------------- 

ĐỊNH HƯỚNG XHCN

-Sản xuất hàng hóa đã là hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người.
-Đã là hàng hóa thì phải có thị trường tiêu thụ.
-Do vậy mà có kinh tế hàng hóa - thị trường.
-Sự phát triển nền sản xuất hàng hóa sẽ thúc đẩy thị trường mở rộng và phát triển.
-Quá trình phát triển đến hoàn thiện nền kinh tế thị trường làm nảy sinh ra chủ nghĩa tư bản.
-Vì nền kinh tế thị trường và chủ nghĩa tư bản là những hiện tượng tự nhiên nảy sinh do nhu cầu đòi hỏi của phát triển xã hội, nên mọi hình thái kinh tế - xã hội ra đời sau chúng (nếu có, nhờ cách mạng, nhờ đấu tranh) muốn tồn tại lâu dài thì không được duy ý chí loại bỏ chúng, phủ định sạch trơn chúng, mà phải kế thừa chúng.
-Mục đích cơ bản và trực tiếp của nến kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là thu hoạch được nhiều tư bản một cách tư nhân, rồi sau đó mới đến xây dựng xã hội giàu mạnh. Nghĩa là xây dựng xã hội giàu mạnh là mục đích thứ hai, gián tiếp của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
-Khi mới ra đời, trong thời kỳ đầu hoạt động còn mù quáng, chưa qua tâm tới điều tiết, do đòi hỏi gay gắt tư bản để tồn tại và phát triển, và một phần cũng do thoát thai từ xã hội phong kiến thối nát, tầng lớp tư bản, trong khi thực hiện nhiệm vụ thiên sứ của mình, đã gây ra nhiều điều tác tệ cho cuộc sống nhân quần. Chính vì vậy mà nó khuấy đảo phong trào đấu tranh chống áp bức bóc lột của đại chúng cần lao - là bộ phận hợp thành cuộc đấu tranh vĩ đại đòi quyền sống cơ bản, bảo vệ sự sống còn của tầng lớp bị trị đối với tầng lớp thống trị xã hội.
-Triết học duy vật Mác ra đời giữa lòng cuộc đấu tranh sôi sục ấy, trực tiếp quan sát nó và đề xướng  học thuyết về chủ nghĩa cộng sản, tưởng tượng ra một xã hội được cho là tương phản với xã hội tư bản, một xã hội công bằng, bác ái, không có áp bức bất công, người bóc lột người, mà xã hội tiền thân của xã hội ấy được gọi là xã hội XHCN, lấy kinh tế kế hoạch, phi thị trường làm nền kinh tế chủ đạo. Và muốn thế trước tiên phải thực hiện thành công cuộc cách mạnh vô sản, nhằm triệt tiêu tầng lớp tư sản, đạp đổ nhà nước tư sản (!?).
-Cách mạng vô sản thành công đầu tiên trên tế giới là cách mạng Tháng Mười Nga do Lênin vạch đường chỉ hướng và lãnh đạo.
-Tiếp theo nước Nga là hàng loạt nước Đông Âu, vài nước Châu Á và Cu - ba cũng theo học thuyết cộng sản, bắt tay xây dựng xã hội XHCN. Sau hơn nửa thế kỷ xây dựng CNXH, tuy cũng đạt được vài thành tựu nhưng nói chung, không xóa được bóc lột, mức sống của đại chúng cần lao không lấy gì làm khá hơn, nếu không muốn nói là tệ hơn, mất công bằng hơn đại chúng cần lao ở các nước tư bản.  Không những không có nước nào xây dựng CNXH thành công mà hầu hết các nước đó chế độ còn rệu rã, xã hội quay về với lối làm ăn kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
-Nguyên nhân chủ yếu vì triết học Mác còn phạm không ít sai lầm trong nhận thức lý luận nên học thuyết về chủ nghĩa cộng sản cũng không thoát khỏi sai lạc, kéo theo nhiều nghịch lý, trái khoáy, ách tắc dẫn đến thất bại trong xây dựng CNXH.
-Nhưng tại sao có một thời, đại chúng cần lao lại tin yêu chủ nghĩa cộng sản đến thế?  Đó là do chủ nghĩa cộng sản, cũng như đạo Phật, thấm đẫm lòng nhân ái đối với tầng lớp cần lao, chân thành vạch ra con đường "diệt khổ", đi đến tương lai hạnh phúc sán lạn. Chỉ khác là nếu đạo Phật rao giảng phải tu hành đơn lẻ đầy yếm thế, cải lương, thụ động, thì chủ nghĩa cộng sản lại tuyên truyền phải hợp sức đấu tranh bằng cả bầu nhiệt huyết một cách sắt máu! Do nhận thức của thời đại mà cả hai đều có đúng có sai, đều đã ngộ nhận chân lý. Tuy nhiên, để nhận ra được sự ngộ nhận ấy, không phải dễ, và phải trả giá!
-Nước ta cũng lâm vào tình trạng ấy, tức là đã đặt niềm tin kiên định đến mức bảo thủ nặng nề sự ngộ nhận chân lý ấy. Nhưng rồi sau một thời gian trung thành với những nguyên tắc xây dựng CNXH, bị chính những nguyên tắc ấy tàn phá ghê gớm, đưa xã hội cộng sản đến bờ vực của đói nghèo, kiệt quệ, đã bắt buộc phải đổi mới nếu không muốn tiêu vong, nói thẳng ra là trở về với nền kinh tế hàng hóa - thị trường để mưu cầu tồn tại, "Đổi mới là sống, không đổi mới là chết" (Nguyễn Văn Linh).
-Nhưng không lẽ tốn biết bao xương máu làm cuộc cách mạng vô sản nhằm loại trừ chủ nghĩa tư bản để cuối cùng vẫn quay lại với nền kinh tế hàng hóa - thị trường tư bản chủ nghĩa, vẫn "dung túng" tầng lớp tư sản, lực lượng bị coi là kẻ thù số một, "kẻ thù giai cấp" của đại chúng cần lao, của tầng lớp vô sản?
-Thế là các nhà lý luận macxít, các nhà lãnh đạo thủ cựu, trung thành với lý tưởng mà cả đời họ theo đuổi, đã tìm mọi cách, đủ mọi lý lẽ để biện minh cho đổi mới, coi đổi mới là hướng đi dũng cảm, đầy trí tuệ để tiến lên CNXH. Trong quá trình đó, vì đổi mới thực chất là cự tuyệt với nền kinh tế kế hoạch để đến với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa trên thực tế, nhưng trong tư duy lý luận vẫn không thể chịu đựng nổi sự "quay về" ấy, vẫn khăng khăng không thừa nhận nền kinh tế ấy, nên khái niệm "lỏng lẻo" "kinh tế thị trường theo định hướng XHCN" ra đời. Đến nay mấy ai hiểu đươc cặn kẽ khái niệm này?
-Thực ra để hiểu khái niệm "kinh tế thị trường theo định hướng XHCN" không khó. Ăn thua là phải thay đổi tư duy một chút.
-Thực chất cuộc cách mạng vô sản ở nước ta do đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo là cuộc cách mạng "hai trong một", nghĩa là bao gồm hai cuộc đấu tranh, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và cuộc cách mạng vô sản, với mục đích duy nhất là chống xâm lược, giải phóng thống nhất đất nước, xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh, "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" để dân tộc Việt được ấm no, hạnh phúc.
-Nước ta đã hoàn thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc một cách hiển hách, vẻ vang!
-Còn cuộc cách mạng thứ hai, tức cuộc cách mạng lật đổ chế độ thực dân - phong kiến, xóa bỏ bóc lột, xây dựng một Việt Nam dân giàu nước mạnh, phi tư bản, do một số vấn đề còn ách tắc, chưa thông suốt về mặt lý luận như đã nói nên còn lắm nhiêu khê, chỉ mới hoàn thành một phần.
-Xây dựng một xã hội theo nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản phi tư bản, nhưng lại phải chấp nhận nền kinh tế hàng hoá - thị trường, và ngay cả khi dùng thuật ngữ " kinh tế thị trường theo định hướng XHCN" cũng là điều rất khó dãi bày của các nhà cuồng tín chủ nghĩa Mác.
-Nhiều người không biết rằng, sự xuất hiện nền kinh tế thị trường và chủ nghĩa tư bản, cùng các cuộc đấu tranh trong nội bộ loài người đều là hiện tượng tự nhiên nảy sinh trên bước đường phát triển xã hội của xã hội loài người, dù có thể đúng hay sai, hợp lý hay không hợp lý, đều có mục đích tối hậu là vì sự sống còn của con người, vì sự sống sung túc hơn, thỏa mãn hơn của bộ phận người này hay bộ phận người khác. Như vậy, dù cũng có thế nọ thế kia, lúc này lúc khác, dù gián tiếp hay trực tiếp, nói ra hay không nói ra, thì mục đích chung nhất, cuối cùng của hoạt động loài người là đảm bảo sự sống còn, xây dựng một "xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", tạo dựng một quốc gia "dân giàu, nước mạnh". Vậy thì thực hiện chủ nghĩa cộng sản cũng vì mục đích ấy thôi và kéo theo, xây dựng "nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN" cũng phải có mục đích ấy.
-Cuối cùng, để cuộc cách mạng vô sản vẫn còn cần thiết và còn ý nghĩa thì xã hội nước ta phải được xây dựng khác với xã hội tư bản! Cho dù đành phải khước từ nền kinh tế kế hoạch thuần túy do nhà nước độc quyền chỉ đạo  XHCN, quay lại với nền kinh tế hàng hóa - thị trường đa thành phần thì phải xác nhận rằng đó vẫn không phải chủ nghĩa tư bản mà là "nền kinh tế hàng hóa - thị trường theo định hướng XHCN".
-Đẻ ra khái niệm rồi sau đó mới tìm hiểu khái niệm và điều chỉnh dần trong thực tiễn là chuyện ngược đời. Chính vì ngược đời như vậy cho nên trong thực tế mới xảy ra nhiều chuyện ngược ngạo như xâm hại đất đai của dân tình, tham quan lại nhũng tràn lan đến bất thường, BOT mọc chi chít, xâm hại tài nguyên vô tội vạ...
-Đơn giản, mục đích chính xác của cách mạng vô sản Việt Nam phải trùng với mục đích chung của loài người, là xây dựng một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, nghĩa là xây dựng một xã hội độc lập, tự chủ, tất cả thực sự vì dân. Kéo theo, xây dựng hoàn chỉnh "nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN" có mục đích chính xác là: xây dựng một tổ quốc "dân giàu, nước mạnh", một xã hội "công bằng, bác ái, dân chủ, văn minh".
-Xác định chính xác mục đích như thế sẽ rất dễ hiểu khái niệm "nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN" và có thể bỏ thuật ngữ "XHCN" nghe mông lung xa vời đi, thay bằng thuật ngữ "vì dân", nghe "sát sườn" hơn.
-Qua đó cũng phân biệt được dễ dàng CNTB và CNXH (CNCS). Kinh tế của CNTB là trực tiếp cho làm giàu tư nhân rồi mới gián tiếp đến xã hội. Còn kinh tế của CNXH là trực tiếp cho giàu mạnh xã hội, từ đó mà gián tiếp đến tư nhân.
------------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng XHCN ở Việt Nam

Tăng giá dịch vụ y tế để phục vụ người có tiền?

Thanh Trúc
2019-08-13
Bệnh nhân sốt xuất huyết tại một bệnh viện tại hà Nội hôm 9/8/2017.
Bệnh nhân sốt xuất huyết tại một bệnh viện tại hà Nội hôm 9/8/2017.
Tăng giá dịch vụ y tế để người dân không phải ra nước ngoài khám chữa bệnh, là lời vụ trưởng Vụ Kế Hoạch Tài Chính Bộ Y Tế Nguyễn Nam Liên, được báo trong nước trích dẫn hôm 12/8 vừa qua.

Tăng giá hay tăng chất lượng chữa bệnh?

Ông vụ trưởng Vụ Kế Hoạch Tài Chính của Bộ Y Tế giải thích như vậy khi đề cập đến việc ban hành thông tư hướng dẫn xây dựng giá đich vụ chăm sóc sức khỏe, khám bệnh, chữa bênh theo yêu cầu tại cơ sở y tế công lập.
Vẫn theo giải thích của ông Nguyễn Nam Liên, được báo chí tường thuật lại, thì việc tăng giá dịch vụ y tế nhằm đáp ứng nhu cầu của nhóm đối tượng mở và đóng ngoặc kép là “có điều kiện”, rằng nếu các bệnh viện trong nước không đáp ứng được nhu cầu của nhóm bệnh nhân “có điều kiện này” thì đa số họ sẽ ra nước ngoài để khám chữa bệnh.
Đây là những đối tượng khác với những người được hưởng bảo hiểm y tế, ông Nguyễn Nam Liên giải thích tiếp, có nghĩa họ là những người mong muốn được sử dụng dịch vụ cao hơn tại các bệnh viện như chỗ ăn, chỗ tiếp khách, hộ lý trực 24/24.
Người giàu có điều kiện đi nước ngoài chứ người nghèo làm sao đi được. Nếu tăng giá dịch vụ y tế thì người nghèo tiền đâu mà chịu nổi.
-Người dân
Chính vì thế, ông Nguyễn Nam Liên nói, thông tư mà Bộ Y Tế sắp ban hành sẽ là cơ sở để các bệnh viện đáp ứng được nhu cầu của nhóm đối tượng người bệnh này. Ông còn khẳng định nguyên văn rằng “Đây là tâm tư tình cảm của người Việt”.
Dư luận nói sao về thông tin tăng giá dịch vụ y tế để người dân không phải ra nước ngoài khám chữa bệnh mà quan chức Bộ Y Tế giải thích như vừa nêu?
Từ Sài Gòn, ông Duy, có người nhà đang chữa trị trong bệnh viện Thống Nhất, cho biết đúng là nhu cầu khám chữa bệnh của người dân rất lớn nhưng không thể vin vào cớ đó để tăng giá dịch vụ y tế trong lúc hãy còn quá nhiều thiếu thốn, tiêu cực và khó khăn tại khắp các bệnh viện công trên cả nước:
Nói tăng giá dịch vụ y tế để người bệnh khỏi đi nước ngoài như thế là không đúng đâu. Người giàu có điều kiện đi nước ngoài chứ người nghèo làm sao đi được. Nếu tăng giá dịch vụ y tế thì người nghèo tiền đâu mà chịu nổi.

Ảnh minh họa: Bệnh nhân nhi tại một bệnh viện ở Hà Nội.

Ảnh minh họa: Bệnh nhân nhi tại một bệnh viện ở Hà Nội. AFP
Bà Hạnh, một cư dân Hà Nội cho rằng, tăng giá dịch vụ y tế để đáp ứng như cầu của người bệnh có điều kiện là một ý tưởng ngớ ngẩn, không thực tế nếu không muốn nói là quan liêu, và ai dám bảo đảm là bệnh viện chỉ áp dụng thang giá dịch vụ cao này cho người có tiền không thôi. Lại nữa, không lẽ chỉ người giàu mới có quyền yêu cầu dịch vụ khám chữa bệnh cao cấp còn người ít tiền thì không có quyền đó:
Thay vì nói tăng chất lượng để người dân không phải ra nước ngoài thì ông ấy lại nói là tăng giá. Nếu đúng tăng giá thì người dân chỉ có chết ở nhà thôi. Có lẽ một vạn người mắc bệnh may ra mới có một người ra nước ngoài. Đấy là những người giàu có hoặc những quan chức, mà quan chức hay người giàu có ở Việt Nam đếm được trên đầu ngón tay, dân thường mà bệnh thì cứ tiếp tục bị bóc lột.

Nên nâng cấp BHYT cho dân

Theo như ông Nguyễn Nam Liên cho biết thì mỗi năm Việt Nam có từ 50.000 đến 100.000 người ra nước ngoài chữa bệnh với chi phí 2 tỷ USD, vì thế nếu có cơ chế để giữ lại một nữa những bệnh nhân này thì mỗi năm ngành y tế có thể thu được hai ba chục ngàn tỷ đồng.
Thông Tư Hướng Dẫn cho thấy giá dịch vụ giường nằm nội trú tại bệnh viện theo yêu cầu là một phòng đặc biệt với một giường giá tối đa 4 triệu VND một ngày.
Đối với các loại phòng có từ 2 đến 4 giường thì mức gía lên xuống từ 1 triệu 300 ngàn đồng đến 2 triệu 500 ngàn đồng một ngày.
Tại sao mình không tính đến việc hỗ trợ cho người nghèo để họ có được bảo hiểm y tế tốt hơn mà lại tính việc tăng phí dịch vụ để đảm bảo cho người có tiền có dịch vụ tốt hơn. Điều đó không nhân văn một tí nào cả.
-Ông Đặng Ngọc Sơn
Nguyên nhân của mọi phản ứng hay suy nghĩ của dư luận  đều bắt nguồn từ chữ dịch vụ mà viên chức Bộ Y Tế Nguyễn Nam Liên sử dụng trong trường hợp này, là ý kiến của ông Đăng, nhân viên y tế kỳ cựu tại một bệnh viện lớn ở Sài Gòn.
Theo ông Đăng thì trước giờ người Việt Nam, không cứ ngành y tế mà tất cả những lãnh vực khác, vẫn thường nghĩ nói tới dịch vụ là nói tới những chi phí bắt buộc thêm thắt vào nếu không muốn công việc bị đình trệ. Trong trường hợp này, ông phân tích:
Ngày xưa, buổi ban đầu của chương trình này người ta gọi là khám ngoài giờ, tức là Nhà Nước cho phép nệnh viện được mở ra dịch vụ khám ngoài giờ. Sau giờ làm việc có những người có nhu cầu khám bệnh thì các bệnh viện được quyền mở ra giống như một phòng khám tư nhân. Người bệnh sẽ được khám ở khu ngoài giờ mà theo tôi người ta dùng là dịch vụ.
Còn cái dịch vụ bây giờ là trong giờ chứ không phải ngoài giờ, thí dụ bệnh viện công như Thông Tư vừa rồi là người ta phân biệt người yêu cầu được nằm giường cao cấp, ăn uống cao cấp, phòng sạch, toa lét sạch… thì nhà thương sẽ sắp xếp để người này được nằm ở nơi mà bệnh viện đó ráng làm đẹp làm sạch như ở nước ngoài.
Đó là vì làm việc trong ngành y tế nên ông Đăng biết rõ, ông nói tiếp, nhưng lời giải thích rất chung chung, không rõ ràng của ông Nguyễn Nam Liên rất dễ làm bệnh nhân hiểu lầm:
Cái giá đó mà người nghèo không biết là giá dịch vụ, tức là cứ ấm ớ đi vô và không có ai giải thích cho rõ mà gật đầu một cái là chết tiền. Cần một sự giải thích rõ ràng có thật sự là anh chị muốn được phục vụ theo kiểu dịch vụ không. Phải cho rõ ràng không thì nhiều người dở khóc dở cười.
Về lời tuyên bố tăng giá dịch vụ y tế để người dân không phải đi nước ngoài khám chữa bệnh là “tâm tư tình cảm của người Việt” được vụ trưởng Vụ Kế Hoạch Tài Chính, Bộ Y Tế, ông Nguyễn Nam Liên đưa ra với báo chí, nhà hoạt động xã hội Đặng Ngọc Sơn ở Hà Nội phát biểu:
Nhu cầu của người dân Việt Nam là muốn được hưởng một chế đô y tế tốt hơn. Nếu được hưởng một chế độ y tế tốt hơn kể cả tăng giá dịch vụ thì cũng không sao, nhưng nói đó là tâm tư tình cảm của người dân Việt Nam là nói không hết vế.
Đa phần người Việt Nam trung bình và lợi tức thấp vẫn phụ thuộc vào bảo hiểm y tế, làm sao họ có thể tìm được đến những dịch vụ công tốt hơn. Có rất nhiều người nghèo cần được sự hỗ trợ hơn thì bản thân Bộ Y Tế không làm được điều đó. Tại sao mình không tính đến việc hỗ trợ cho người nghèo để họ có được bảo hiểm y tế tốt hơn mà lại tính việc tăng phí dịch vụ để đảm bảo cho người có tiền có dịch vụ tốt hơn. Điều đó không nhân văn một tí nào cả.
Được biết Thông Tư Hướng Dẫn giá dịch vụ chăm sóc sức khỏe khám chữa bệnh theo yêu cầu do cơ sở y tế công lập cung cấp sẽ được áp dụng trên toàn quốc từ ngày 1/10/ 2019.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét