KIỂU TỪ THIỆN CỦA ĐNH
Đoàn Ngọc Hải: 3 câu hỏi lớn về SAI PHẠM và sự PHI LOGIC trong sự việc được đẩy quá xa với sự thật
-Làm từ thiện mà như không làm mới gọi là làm.
-Làm từ thiện mà lộ rõ mục đích thì chưa vượt qua vòng danh lợi.
-Dẹp vỉa hè thiếu mềm dẻo, phải từ quan theo "lời thề" là "quân tử Tàu".
-Cả đời hoạn lộ, về già mới từ thiện, phải chăng để khoe "cái tôi"?
-Thiếu gì cách làm từ thiện hiệu quả hơn với số tiền như thế.
-Xử sự như kẻ không gia đình.
Kết luận:
-Tu thân chưa tới, tề gia chưa trọn, trị quốc chưa tròn, thì bình thiên hạ nỗi gì?
-Thế cũng tốt. Có còn hơn không!
-Nhưng không khuyến khích vì không thuộc đạo đức xã hội.
ANH VẪN HÀNH QUÂN
Vì sao ông Đoàn Ngọc Hải thất bại trong 'cuộc chiến' dẹp vỉa hè?
Chiến dịch lập lại trật tự vỉa hè của ông Đoàn Ngọc Hải không thể hiện hình ảnh một chính quyền hành xử văn minh, mà cho thấy hành vi của một người quản lý dân túy.
Trong
đơn từ chức ngày 8/1, ông Đoàn Ngọc Hải, Phó chủ tịch UBND quận 1
(TP.HCM), viết: "Nhìn lại, tôi thấy mình không thực hiện được lời hứa
trước nhân dân và kỳ vọng của đồng chí lão thành cách mạng là sẽ giải
quyết dứt điểm vấn đề này. Vì vậy, tôi xin từ chức".
Nhớ lại lúc ông Hải khởi xướng chiến
dịch lập lại trật tự vỉa hè, phong trào này đã lan ra cả nước. Chiến
dịch dẹp vỉa hè lan đến tận những đường làng miền Bắc, nơi không có vỉa
hè để mà dọn, nhưng họ cứ "giành lại vỉa hè" bằng cách chặt hạ những
hàng cây xanh vô tội ven đường.
Trong khi đó, ở Sài Gòn, hành động của ông Hải được rất nhiều người dân ủng hộ với khát vọng “biến TP.HCM thành Singapore”.
Ở Sài Gòn, nơi đang có khao khát mãnh
liệt… giống Singapore, người dân đổ lỗi hàng rong làm tắc nghẽn đường,
kẹt xe, bẩn thỉu, đẩy người đi đường xuống lề đường, nên đa số thấy hành
động ông Hải làm là đúng.
Ông xuất hiện với cần cẩu, lực lượng đô
thị, sẵn sàng đập phá những đoạn vỉa hè và đẩy người bán hàng rong khỏi
các vị trí “cố thủ” nhiều năm của họ.
Lý do tôi cho rằng việc này không đúng
là vì nó hoàn toàn được nhìn từ góc độ làm thỏa mãn những người dân có
việc làm trong văn phòng, có nơi kiếm sống ổn định và cảm thấy khó chịu
vì sinh cảnh của họ bị đe dọa.
Nó không hề nhìn từ góc độ rằng tỷ lệ
thất nghiệp ở Việt Nam ra sao (tỷ lệ này ở Việt Nam trong quý II/2017 là
2,05%, tương đương 1,12 triệu người), tỷ lệ người lao động từ nông thôn
đổ về đô thị thế nào và bao nhiêu người đang sống dựa trên sinh kế vỉa
hè.
Cần nói rõ, nhóm người này cũng là công
dân và họ xứng đáng được đưa vào sự xem xét chung để có cuộc sống tốt
hơn, chứ không phải chỉ nằng nặc “giành lại” vỉa hè từ tay họ mới là
đúng.
Khi thực hiện chiến dịch lập trật tự vỉa
hè, ông Đoàn Ngọc Hải dường như không hề tính đến các vấn đề xã hội
khác đi kèm với vỉa hè như: Các lực lượng nào đang chiếm vỉa hè chính?
Số người sống dựa vào vỉa hè ra sao, và họ vẫn bất chấp quay lại bán
buôn vì lý do gì? Sau khi dẹp xong... thì sao nữa? Nhóm thất nghiệp này
sẽ đi về đâu?
Tôi nói điều này vì chiến dịch vỉa hè
của ông Hải tiến hành từ tháng 1 đến tháng 10/2017, nhưng mãi đến tháng
3/2017, báo chí mới cho biết TP.HCM vừa giao “Viện Nghiên cứu phát triển
TP phối hợp với Sở GTVT và UBND quận, huyện hoàn thành đề án quy hoạch
các khu vực được phép kinh doanh buôn bán trên vỉa hè…”.
Vậy hành động "lập trật tự" này có tiếp
cận từ cái nhìn muốn thực sự chỉnh trang lại đô thị văn minh hay không?
Không hề, nó diễn ra một cách vội vã, lộn xộn sau hai tháng đập phá om
sòm, nhằm biến các tuyên ngôn của ông thành hiện thực một cách đầy cưỡng
bức.
Ngoài ra, hành động đột ngột xuất hiện,
đập phá tài sản, thu giữ tủ kính, tài sản, hàng hoá, phần xây dựng của
các chủ cơ sở kinh doanh, các gia đình... đã được thực hiện theo đúng
quy định hay chưa?
Ông Đoàn Ngọc Hải là Phó chủ tịch quận
1, có lẽ ông rõ ràng hơn ai cả về những hành động vượt qua tất cả các
quy tắc thông thường và gây tổn hại đến tài sản của người dân, dù là một
món đồ để sai phép của người bán hàng rong hay các tài sản của doanh
nghiệp đang vi phạm trên vỉa hè.
Dùng sự bất chấp pháp luật để chống lại
sai phạm của người dân không phải là cách hành động hợp lý của người
thực thi công quyền.
Trong chiến dịch thiết lập trật tự vỉa
hè, ông Đoàn Ngọc Hải không mang gương mặt của một chính quyền muốn hành
xử văn minh, mà nó thể hiện hành vi của một người quản lý dân túy. Điều
này làm hài lòng một nhóm người mừng rỡ vì có nhà ở an ổn và vui lòng
vì hàng rong nên được dẹp đi cho đẹp mắt trước sân nhà họ.
Ngoài ra, một lượng lớn vỉa hè tại
TP.HCM không hề do người hàng rong chiếm, mà chính các tòa nhà, công ty,
quán cà phê, quán nhậu, vũ trường…
Mười người bán hàng rong có thể ngồi ở một góc Hồ Con Rùa (quận 1) và lấn chiếm một đoạn vỉa hè.
Trong khi đó, một quán cà phê ở đường
bên kia của Hồ Con Rùa chiếm sạch một quãng vỉa hè để đậu xe. Tôi không
chắc ai mới là kẻ đang đẩy người dân xuống lòng đường để gặp nguy hiểm
khi đi bộ, người bán hàng rong hay những tòa nhà và các thế lực sử dụng
vỉa hè kia?
Vì các lãnh đạo và cả người dân Sài Gòn
đều coi Singapore là tấm gương đối với TP.HCM, nên trong bài viết này,
khi nói về chiến dịch của ông Đoàn Ngọc Hải, tôi sẽ chọn trường hợp
Singapore làm điển hình so sánh.
Trong một "fact sheet" của Hội đồng lập
pháp Hong Kong về lịch sử của hàng rong ở Singapore, thành phố này có tỷ
lệ thất nghiệp cao trong thập niên 1950-1960, dẫn đến việc nhiều người
cần phải ra đường bán hàng rong mưu sinh.
Hàng rong đem đến hàng hóa rẻ, đồ ăn,
trái cây, đồ tươi, hàng sinh hoạt, báo chí, nhu yếu phẩm. Giá mềm và thò
chân đi xuống là mua được. Đi kèm hàng rong là các nguy cơ như mất vệ
sinh, lây lan các bệnh về thực phẩm, vệ sinh, sức khỏe công cộng, nơi
bùng phát dịch tả và bệnh thương hàn, là nơi dung chứa các loại như
muỗi, bọ...
Cũng giống Việt Nam, nó làm tắc đường và
lấn chiếm vỉa hè. Đây cũng chính là lý do khiến người dân đang bực mình
vì hàng rong ở Sài Gòn. Vì vậy họ một mực ủng hộ ông Hải trong chiến
dịch dẹp vỉa hè. Họ muốn có lại vỉa hè, có lại sự sạch sẽ khi hàng rong
chưa xuất hiện.
Ở giai đoạn này, chính quyền Singapore
cũng làm những vụ bắt bớ, thu giữ đồ đạc của người hàng rong, phá hỏng
và đập đồ của họ. Cùng với đó là chế độ cấp giấy phép, nhưng chỉ có 1/3
số người bán hàng rong đăng ký giấy phép này.
Chính sách của chính quyền Singapore khi
ấy không được công chúng ủng hộ vì rất nhiều người dân thông cảm rất
nhiều với những người nghèo đang phải mưu sinh trên đường.
Con cái của các tiệm hàng rong cũng tham
gia vào việc nấu ăn, bán hàng. Hàng rong trở thành mưu sinh của rất
nhiều người và cả gia đình, mà việc loại bỏ họ là điều không thể.
Nhà nghiên cứu Azhar Ghani viết: “Trò
chơi mèo vờn chuột liên tục này giữa những người bán hàng rong và chính
quyền làm sinh ra nhiều vấn đề khác, như người bán hàng rong sẽ hối lộ
cảnh sát hay trả tiền bảo kê cho các băng nhóm và thế giới ngầm để thoát
khỏi các cuộc trấn áp quy mô và bắt bớ lớn.”
Từ năm 1968-1969, chính phủ Singapore
tiến hành một đợt đăng ký lớn, làm bước đầu tiên để hợp pháp hóa hàng
rong. 18.000 xe hàng rong đã được đăng ký trong giai đoạn này.
Sau đó, người bán hàng rong được yêu cầu
dời vào những vỉa hè ít đông đúc hơn, đứng bán ở làn xe trong, hoặc
trong bãi gửi xe vào các giờ quy định. Lúc này, các đợt trấn áp song
song tiếp tục bắt giữ các xe hàng rong bán không đăng ký.
Sau khi đăng ký, việc thiết lập nơi nào
cho người bán hàng rong là một vấn đề. Người bán hàng rong không muốn bị
đẩy tới những khu xa xôi, không có khách hàng. Họ muốn bán ở nơi họ đã
bắt đầu tụ lại buôn bán, nơi khách tiện đường ghé qua đông, và có những
người mua hàng đã quen nhiều năm.
Ban Phát triển và nhà ở (HDB) Singapore
cho rằng tái định cư những người bán hàng rong này phải gần các nơi bán
hàng ban đầu của họ. Khi đó, các tòa nhà mới được xây, HDB sẽ xây luôn
chợ và khu hàng rong gần đó trong tổ hợp tòa nhà.
Khi các tòa nhà bắt đầu có người ở, hàng
rong cũng có thể vào bán. Quá trình này diễn ra từ năm 1974-1979 và 54
trung tâm bán hàng rong được xây trong vòng 9 năm ở Singapore.
Ông Lý Quang Diệu nói về cuộc “tái định
cư hàng rong” này sau thành công: “Trong nhiều năm, chúng ta đã không
thể làm sạch thành phố bằng cách loại bỏ những xe hàng rong trái luật và
taxi dù. Chỉ sau năm 1971, khi chúng ta đã tạo ra nhiều việc làm, chúng
ta mới có thể áp dụng luật pháp và giành lại đường phố".
"Chúng ta cấp giấy phép cho thực phẩm
bán trên đường phố, di dời họ khỏi đường và vỉa hè, đưa họ đến những
trung tâm hàng rong được xây dựng đúng mực gần đó, với nước máy, cống
thải và nơi bỏ rác. Vào đầu thập niên 1980, chúng ta đã tái định cư lại
toàn bộ người bán hàng rong", ông Lý mô tả.
Ngày nay, Singapore có 107 trung tâm bán
hàng rong, với 15.000 quầy hàng. Các quầy hàng này đều gần các khu nhà ở
hoặc các nút giao thông lớn. Cần chú ý, nhà lãnh đạo Singapore nhấn
mạnh tới việc tạo việc làm, cấp giấy phép, đưa người bán hàng tới nơi
quy hoạch, sau đó mới là trấn áp.
Toàn bộ quy trình trên diễn ra từ thập
niên 1950 đến 1980, tức là khoảng 30 năm tròn giữa nghiên cứu, thỏa
thuận, cân đong chính sách, giáo dục người bán hàng rong - tầng lớp
nghèo khó của Singapore.
Tìm hiểu về số miệng ăn trong gia đình
họ, lao động trẻ em trong nhà, các nghiên cứu trong thập niên 1970 chỉ
ra chỉ có 12% người bán hàng rong thuê người phụ việc bên ngoài, còn lại
là toàn gia đình làm việc để mưu sinh. Do đó một chính sách hàng rong
sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ gia đình và trẻ con.
Những người mở chiến dịch trấn áp giống
ông Hải ở Singapore đã thất bại từ thập niên 1950. Họ buộc phải nhìn lại
mọi thứ nghiêm túc hơn và thực hiện chậm rãi hơn để chính sách thực sự
có gương mặt con người và giữ gìn được trật tự một thời gian dài sau đó.
Tại Thái Lan, vào năm 2013, có 20.000
quầy hàng rong đăng ký và đóng tiền hàng tháng cho chính quyền Bangkok
dọn dẹp vệ sinh và duy tu các con đường có hàng rong.
Chính quyền cũng quy định giờ bán hàng
rong. Các con đường Ratchadamri hoặc Tha Phrachan được yêu cầu dọn dẹp
để có lối cho người đi bộ đi từ 17-19h. Ratchadamri là đường ở trung
tâm, rất nổi tiếng với du khách và có đông sinh viên ở khu vực này qua
lại.
Nếu ai đến Bangkok nhiều sẽ biết hàng
tuần vào thứ 2, các quầy bán hàng rong ngon sẽ nghỉ. Năm 2013, chính
quyền Bangkok quy định thứ 2 là ngày dọn dẹp đường và làm vệ sinh nên
người bán hàng rong phải nghỉ.
Sự hợp lý này trong thời gian dài đã
giúp Bangkok nổi tiếng về các chợ quà vặt, hàng rong và thức ăn đặc sản
có thể đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm khiến du khách an tâm.
Người bán hàng rong có vị trí đổ rác,
lấy nước sạch, nơi thoát thải... và chính quyền Bangkok có thể kiểm tra,
bắt giữ rất nhanh những xe hàng sai phạm về an toàn thực phẩm.
Vỉa hè trở thành một ngành kinh tế quan
trọng đi kèm với du lịch, đặc biệt là ở Bangkok, nơi phần lớn là du lịch
mua sắm và "nightlife".
Sau khủng hoảng kinh tế năm 1997, một
tầng lớp có học thức phải nghỉ việc vì khủng hoảng đã “xuống đường” buôn
bán và tạo hình thành gương mặt đa dạng, thú vị của hàng rong vỉa hè
Bangkok ngày nay.
Quay trở lại yếu tố bán ở đâu, tại sao Singapore coi chuyện “bán hàng ở đâu” là quan trọng với người hàng rong?
Người bán hàng rong muốn bán ở các nơi
quen thuộc, thường là trung tâm, nơi họ có đông khách quen, nhiều người
qua lại, và họ sẽ dễ dàng chống lại lệnh đổi chỗ nếu không được bán ở
nơi ban đầu, hoặc gần chỗ đông khách.
Yếu tố này thấy rất rõ vào năm 2016 tại
Thái Lan, khi chính quyền Bangkok bất ngờ… đổi ý dẹp sạch hàng rong
quanh các khu chợ lớn ở trung tâm Siam, Ratchadamri, Pratunam… và một số
chợ đêm được yêu cầu dời về rất xa so với trung tâm.
Người bán hàng rong đã chống lại lệnh
này. Bởi các khu chợ mới được tái định cư không hứa hẹn có nhiều khách
mua hàng như vị trí cũ. Sau một năm thực hiện, trên các báo về du lịch,
du khách phương Tây và châu Á đặt câu hỏi về việc họ sẽ chơi gì khi đến
Bangkok nếu không có chợ hàng rong để mua sắm và ăn uống.
Tới giờ, vấn đề đó chưa được giải quyết, nhưng sự tổn thương mà ngành du lịch hứng chịu là có thật ở Bangkok.
Mumbai ở Ấn Độ cũng gặp tình trạng tương
tự, khi họ xây một trung tâm hàng rong cao 5 tầng, với ý định đưa dân
bán hàng rong từ khu vực khác tới. Rất ít người bán hàng rong muốn đến
bán ở đây vì khách hàng chả bao giờ muốn đến cái thương xá đó, để trèo
lên 5 tầng mua món hàng lặt vặt, thay vì mua bán ở gần nhà ga xe lửa
Dadar cho đơn giản.
Hầu hết, các quầy hàng ở Hawkers Plaza tại Mumbai không có ai vào bán trong 12 năm, trừ những quầy ở tầng trệt.
Vài trường hợp thành công như Singapore,
hay hai câu chuyện có hoàn cảnh và điều kiện gần giống Sài Gòn là
Bangkok và Mumbai, cho thấy chuyện quản lý vỉa hè, trấn áp để có vỉa hè
văn minh cần một lộ trình dài.
Chiến dịch này gồm có nghiên cứu khoa
học, đánh giá mong muốn và khảo sát nguyện vọng của nhóm người đang sống
dựa vào vỉa hè, quy hoạch lại và sau cùng mới là dùng đến cưỡng chế,
trấn áp để mọi thứ đi vào nền nếp, lâu dài.
Hành động đập, thu giữ và đuổi bắt, trấn
áp người bán hàng rong trên thực tế không tính tới các phần khác trong
đời sống được đóng góp ra sao từ thành phần kinh tế vỉa hè nhếch nhác
này.
Cách tiếp cận này chính là điều
Singapore làm - không phải đổ lỗi và trấn áp là có thể đẩy người bán
hàng rong khỏi vỉa hè - mà là đưa họ vào hành lang pháp lý, cung cấp cho
họ sinh kế tương đương, mới có thể “đẩy” họ tự nguyện rời khỏi vỉa hè.
Một kiến trúc sư từng nói với tôi: “Khi
xây các khu căn hộ cao cấp ở trung tâm, người ta không hề nghĩ đến
chuyện làm sao để người nghèo chung sống hòa bình với họ trong đô thị".
"Và khi Tết đến, lúc họ phải về quê, cần
người giúp việc, tỉa cây, chăm sóc thú cưng, họ chẳng thể tìm được ai.
Bởi vì họ đã đẩy sạch người nghèo ra khỏi những khu vực đó rồi, ai mà
phục vụ họ nữa”, anh nói.
Anh bạn tôi là một kiến trúc sư chuyên về thiết kế nhà ở văn minh cho người thu nhập thấp trong đô thị.
Cách để một xã hội văn minh hơn, là
nhiều thành phần và tầng lớp có thể chung sống với nhau, chứ không phải
tiêu diệt một nhóm nào đó để một nhóm khác được hài lòng, như cách mà
ông Đoàn Ngọc Hải thực hiện.
Nếu muốn Việt Nam giống Singapore, như
nhà nghiên cứu Kỷ Quang Vinh từ Đại học Cần Thơ nói: “Không nên cưỡi
ngựa xem hoa rồi về trồng hoa mà phải học tập nghề trồng hoa thực sự
nghiêm túc”.
"Trồng hoa" hàng rong ở Singapore mất
tới 30 năm và đủ các thỏa thuận giữa người dân và chính quyền. Hàng rong
ở Bangkok đã định hình từ năm 2005, tới nay còn đầy vấn đề lộn xộn.
TP.HCM chẳng lẽ muốn nhanh chóng cấp tập thực hiện tất cả trong 10 tháng để thành công?
* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một nhà báo đang sống ở TP.HCM
Theo Khải Đơn/Tri Thức Trực Tuyến
Nhận xét
Đăng nhận xét