"Nếu bạn muốn thành công, phải lấy lòng kiên trì làm bạn tốt, lấy kinh
nghiệm làm tham mưu, lấy cẩn thận làm anh em, lấy hy vọng làm lính gác"
Thomas Edison
“Chúng ta có thể hoặc dùng lý lẽ để hạ gục ý kiến
của người khác hoặc cứ để họ phát biểu những gì họ muốn. Chúng ta không
thể xóa bỏ ý kiến bằng vũ lực, làm như vậy sẽ cản trở sự phát triển tự
do và trí tuệ.”
Che Guevara
“Một người nếu bắt đầu từ khẳng
định, anh ta tất sẽ kết thúc trong nghi vấn, nhưng nếu anh ta bắt đầu từ
nghi vấn, anh ta đương nhiên kết thúc bằng khẳng định”
Fracis Bacon
“Văn hóa chính là hiểu những lời hay nhất và những tư tưởng tốt đẹp
nhất mà mọi người trên thế giới đã từng nói và từng suy nghĩ”
Arnold
"Người kinh nghiệm phong phú đọc sách dùng hai mắt, một con mắt nhìn lời trên tờ giấy, một con mắt nhìn mặt sau tờ giấy"
Goethe
"Chìa khóa mở mọi cánh cửa khoa học đều là dấu chấm hỏi; phần lớn những
phát hiện vĩ đại của chúng ta đều vậy, mà trí tuệ của cuộc sống thường
quyết định ở chỗ khi gặp việc gì thì hỏi câu hỏi tại sao"
Balzac
"Học vấn không có quê hương, nhưng người có học phải có tổ quốc"
L.Pasteur
“Bản tính của ta chỉ có thể có những trực giác khả giác thôi, nghĩa là
theo cách ta bị sự vật tác động vào, còn khả năng suy tưởng những đối
tượng của trực giác thì lại là công việc của trí năng. Trong hai đặc
tính này của tâm trí ta, không cái nào được coi là trọng hơn cái kia.
Không có cảm năng, thì không có một đối tượng nào sẽ được ban cho ta, và
không có trí năng thì không một đối tượng nào sẽ được ta suy tưởng.
Thiếu nội dung, các ý tưởng sẽ rỗng tuếch và thiếu quan niệm thì các
trực giác sẽ mù tịt”.
I. Kant
“Bạn ơi, lý thuyết thì xám xịt, còn cây đời mãi mãi xanh tươi.” Wolfgang Goethe
***
Tác
động - phản ứng (nói phản ánh cũng được thôi!), hay gọi một cách “cơ
học hóa” là tác động tương hỗ, là một trong những thuộc tính cơ bản nhất
của Tự Nhiên Tồn Tại. Thuộc tính đó sinh ra từ đâu? Nó bắt nguồn từ nguyên lý nhân - quả và cả từ bản chất vận động của Tự Nhiên Tồn Tại, thông qua cái giác vốn dĩ. “Công lao” vĩ đại nhất của nó là tạo dựng nên…
tất cả. Nhờ có nó mà có sự phân định rõ ràng ra khách thể và chủ thể, mà có thực
thể quan sát và thực thể bị quan sát. Con người phải chịu ơn nó “đời
đời” vì nó đã làm cho con người quan sát được và có khả năng nhận thức
được, đồng thời ban tặng cho con người “Thế giới khách quan” (một bộ
phận to lớn của Tự Nhiên Tồn Tại) để mà quan sát, để mà nhận thức; để
rồi dần dần “thấy” chính chân tướng của nó cũng như cảm giác được toàn
bộ Tự Nhiên Tồn Tại!…
Sự
phản ứng là căn nguyên của “giác”, làm cho sinh vật nói chung “cảm giác” được và ở
động vật bậc cao là “trực giác” được. Trực giác là giác đã xuất hiện ý
thức, đồng thời ý thức làm cho các cảm giác phân hóa thành đa dạng. Trực
giác là tiền đề làm ra gián giác, gián giác là cảm giác nhờ tư duy trừu tượng trên cơ sở trực giác. Giữa chúng có mối liên hệ nhân quả đối
với nhau, chuyển hóa nhau, lập thành một “hệ thống” gọi là cảm giác. Giác quan thứ sáu là trường hợp thăng hoa của gián giác, là kết quả của vận động thần kinh ở tầng vô thức, tiềm thức phản ánh lên tầng hữu thức.
Có
thể cho rằng ở loài vật chỉ có trực giác còn ở loài người thì có cả
trực giác và gián giác không? Thực là khó trả lời! Có lẽ không nên đồng
nghĩa gián giác với cảm giác theo kinh nghiệm mà phải phân biệt thế này:
kinh giác (cảm giác theo kinh nghiệm) là bộ phận của gián giác và là thể
ở bậc thấp trong “hệ thống” các gián giác. Như vậy loài vật chỉ có trực
giác và kinh giác thì mờ nhạt, còn con người thì “có đủ” các loại cảm giác? Tạm
chấp nhận vậy thôi chứ không hẳn thế!
Nếu
nói trực giác ở loài vật (nghĩa là không lẫn với “tạp niệm”?) là hình
thức khởi đầu, sơ khai của cảm giác (sau "giác"?) thì cũng có thể nói cũng có sự "thức" ở loài vật (không phải ý niệm hay ý thức như ở loài người, đã
thông qua sự suy nghĩ. Vậy thì "thức" là cái gì? (Không biết!) Là mầm mống, tạm gọi là dạng nguyên
thủy của sự suy nghĩ (?), có tính chất tiền đề làm nên ý niệm (để từ đó mà nảy sinh ra khái
niệm?). Hơn nữa, còn có thể nói "thức" (ở loài vật) là ý niệm câm nín
mù quáng và khái niệm là ý thức (ở loài vật) đã biết nói, “sáng tỏ” nhờ
nhận thức(?). Khi ý thức biết nói thì thú vật thành con người !!! Câu
nói đó kể cũng tạm được cho là hay. Nhưng câu nói sau đây hay hơn: mất
đi khái niệm, con người thành con vật, mất đi ý thức, con người không
bằng con vật… đang thức. Con người khi ngủ say, ngất xỉu, hôn mê là tạm
thời rời bỏ vai trò làm người; khi mộng mị, mê man, hoang tưởng là tạm
thời rời bỏ thực tại, sống trong cõi phiêu bồng với những “kinh nghiệm”
về cảm giác và suy tư còn tàng trữ trong tiềm thức. Lúc đó luật về tính
trội tính lặn được phát huy để cõi phiêu bồng ấy trở thành như một miền
cực lạc hoặc buồn thương, mất phương hướng.
Nếu
nhận định trên là đúng thì mong mọi người đừng cố gắng tìm cách rời bỏ
khái niệm vĩnh viễn, dù rằng là vượt lên trên nó, “siêu thoát” khỏi nó,
vì như thế sẽ chẳng được lợi lộc gì, chẳng có thêm một “sáng kiến” gì mà
lại rất chi là nguy hiểm. Khi cơ thể rã rời, đầu óc rối bời căng thẳng
thì nên… đi chơi, thư giãn, nghỉ ngơi và cố mà ngủ cho được, nhưng có lẽ
thực hành “thiền” là cách hữu hiệu nhất, có tác dụng tích cực trên
nhiều mặt đối với tâm, sinh, lý. Khí công dưỡng sinh (trong đó có thiền)
là một cứu cánh tuyệt vời đối với sức khỏe con người. Chúng ta khẳng
định vì đã trải nghiệm!
Tác
động - phản ứng là vốn dĩ thế vì thực ra không biết được cái đó là cái
gì. Chỉ khi có khái niệm, nhận thức (con người) mới gán cho nó nhãn mác
như thế để từ đó mà qui ước ra như thế, để rồi cũng chẳng phải như thế
và cũng chẳng ai hiểu gì hết nếu không giải thích, nhưng càng giải thích
lại càng khó hiểu vì chưa qua… "phiên dịch", mà "phiên dịch" xong rõ ràng
rồi đôi khi vẫn cứ… mù tịt! Tự Nhiên Tồn Tại ngay từ đầu đã phô bày tất
cả bản chất của nó ra trước mắt con người. Con người tưởng rằng đã thấy hết nhờ khái
niệm và vì thế mà cũng mù lòa. Đó phải chăng là điều kỳ dị nhất của Tự
Nhiên Tồn Tại?! Hay Tự Nhiên Tồn Tại “giở trò” đó là có ý khuyên: hãy
nhìn kỹ đi, hãy thấy hết đi dù là trong màn sương mù lòa, rồi nhắm mắt
lại suy tưởng để mà “biết” cái đã, sau đó linh giác sẽ đến và cho thấy
tất cả một cách chân xác, “thấu suốt được cái tình của muôn vật”!
Linh
giác? Đúng vậy, linh giác là cảm giác đạt mức cao độ, hơn nữa là gần
tột độ (Tột độ sẽ không phản phục được mà đi tiếp vào… bệnh viện tâm thần, chung
thân ở đó!) là đỉnh cao của tri giác (tri giác là đỉnh cao của gián
giác; nhờ học sâu, biết rộng mới có được). Cần phân biệt linh giác (hay
còn gọi là linh cảm) với siêu giác (hay còn gọi là siêu cảm). Trong
nhiều trường hợp, những phản ứng ở tầng nào đó sâu hơn, thuộc vùng nền
tảng (của sự sống), bình thường không thể cảm giác được, được tích hợp, kích
hoạt mạnh mẽ do một nguyên nhân nào đấy (Chẳng hạn như sự tăng đột ngột
các bức xạ phát ra từ tâm chấn động gây nên sóng thần) đến mức có thể
trực giác được và đó là siêu giác. Về mặt nào đó, loài động vật hơn hẳn
chúng ta về loại cảm giác này. Con chó có mũi thính hơn mũi con người
gấp hàng triệu lần và đối với nó chỉ là chuyện bình thường nhưng đối với
chúng ta, đó lại là một dạng siêu giác. Cũng phải thôi, được cái này
phải mất cái kia, con người được trí thông minh (trên cả tuyệt vời rồi!)
mà còn đòi có mũi nhậy như chó, hùng cường như hổ báo nữa..., có mà… loạn à?! Không, không! Vì đã loạn rồi nên phải nói: "có mà...điên loạn à!", mới đúng!
Thiền
dưỡng sinh là con đường đi tìm lại siêu giác và nếu có căn duyên thì sẽ
tìm thấy được phần nào đó. Không những thế, hơn con vật nữa, bằng thiền
dưỡng sinh, con người còn có thể điều chỉnh được quá trình tác động -
phản ứng ở một tầng sâu nào đó của cơ thể bằng lý trí.
Có
thể giải thích tác dụng chữa bệnh của khí công, những công phá thượng
thừa của võ công trên cơ sở của quan niệm vừa nêu không?
Ở
con người bình thường, tuy hiếm hơn nhưng vẫn xuất hiện siêu giác.
Thần giao cách cảm là một biểu hiện sự siêu giác. Ngoài ra, trạng thái
lên đồng, nhìn thấy người cõi âm, nói chuyện với “vong”, tìm mộ từ xa…
đều là những biểu hiện của siêu giác…(Rồi đây sẽ phải có một môn học
thực sự có tính khoa học bàn về sự tồn tại của cái gọi là "linh hồn"!).
Theo quan niệm của triết học duy tồn thì chúng ta cho rằng hiện tượng
"ngoại cảm" và sự tồn tại của linh hồn là hoàn toàn có thật, không thể
chối cãi được! Nhưng phải hiểu chúng theo nghĩa...tồn tại, nghĩa là
linh hồn chỉ tồn tại thực sự với những linh hồn "sống" thực sự, những
linh hồn biết..."ngoại cảm"!!!
Một
khi siêu giác kết hợp được với linh giác, chúng sẽ cộng hưởng tạo nên
một trạng thái cảm giác cao nhất của mọi loại cảm giác, đó là linh tri
(hay còn gọi là tiên tri)???
Lần
theo dấu “tiến hóa” của khái niệm, chúng ta cũng đến cái đích là linh
tri. Khi ý thức “biết nói” thì nó trở thành khái niệm. Có thể phân định
khái niệm thành hai loại tương đối là khái niệm được “thốt ra” từ trực
giác và khái niệm được “lôi ra” từ gián giác. Loại khái niệm thứ nhất là
“tên gọi”, là “nhãn mác” có được trực tiếp từ trực giác và chỉ thế,
không giải thích nên chưa có nội hàm, không so sánh nên cũng chẳng có
ngoại diên. Không
suy diễn nên nó có tính đơn nhất rời rạc, không tính đếm nên nó có tính
toàn thể, và… hết. Loại khái niệm đó được tạm gọi là khái niệm trực
tiếp.
Xưa
thật là xưa, vào thời mà con người chưa ra con người; còn nửa người nửa
ngợm (nửa người nhiều hơn nửa ngợm!?), có lẽ cái đám người ngợm ấy chỉ
“biết” nhìn sự vật một cách thuần túy trực giác. Họ “thông tin” cho nhau
chỉ bằng hò hét và chỉ trỏ để hàm ý: đây, kia (ở đây, ở kia), này, đó
(cái này, cái đó)… Sự hò hét, chỉ trỏ đó diễn ra, lặp đi lặp lại qua bao
nhiêu thế hệ, bao nhiêu thời gian không biết nữa. Chỉ biết rằng có
những lúc hò đến độ gào thét, chỉ trỏ đến oải tay, lắc gật đến sái cổ,
dậm chân đến độ thốn đầu gối, vặn vẹo thân mình đến nhừ xương mà kẻ nghe
vẫn cứ ngơ ngơ ngác ngác, lầm lạc lung tung đến độ như… bị điếc. Có như
thế là vì mắt của “đám người ấy” ngày một sáng tỏ, nhìn thấy ngày một
nhiều, không chỉ thấy “đây, kia, này đó” mà còn “nhiều đây, nhiều kia,
nhiều này, nhiều đó”. Trong khi thông tin vẫn chỉ có hò la, chỉ trỏ:
“đây, kia, này, đó” thôi thì kẻ nghe làm sao mà biết được đây nào, kia
nào, này nào, đó nào? Kẻ báo tin gào thét, múa may quay cuồng để cố
“giải thích” đã đành, kẻ nhận tin cũng gào thét, múa may quay cuồng vì
tức tối. Tình cảnh tức tối bức bách ấy đã làm cho bộ não “mủi lòng”, dần tỉnh ngộ, làm cho con người bật ra tiếng nói, biến
cái nửa ngợm kia thành nửa người nốt. Từ đó cái đám “trẻ người non dạ”
ấy thích thì cứ hò la gào thét nhưng không cần phải hò la gào thét một
cách “ú ớ” để giải thích nữa vì đã có… khái niệm: này là (cái) cây,
(con) lợn… đó là cây, lợn…, lợn này, lợn đó, cây này, cây đó… Và cũng từ
đó con người báo tin cho nhau mạch lạc hơn, phong phú hơn rồi đến độ
nói chuyện được với nhau.
Có
thể đoán rằng hò hét thét gào trong kiếm ăn sinh tồn ở thời kỳ đó là
những khúc ca bi tráng đầu tiên của con người về cuộc mưu sinh và sự múa may
quay cuồng kèm theo đồng thời với sự hò hét gào thét đó là những vũ
điệu nhiệt cuồng đầu tiên của nhân loại. Ít ra thì cũng là sự thể hiện đầu tiên của ngôn ngữ!
Khái
niệm trực tiếp có tính tiền đề vì không thể định nghĩa. Đồng thời khái
niệm trực tiếp cũng mang tính lịch sử vì theo sự phát triển của nhận
thức, một khái niệm trực tiếp nào đó sẽ mất tích tiên đề đi, nhường chỗ
cho những khái niệm “tinh vi” hơn đóng vai trò tiên đề mà dựa vào chúng,
khái niệm ban đầu (đã mất tính tiên đề và như vậy sự “xuất thân” từ
trực giác của nó cũng lu mờ đi) sẽ được định nghĩa. Thí dụ, khái niệm
“cây”, lúc mới xuất hiện, là khái niệm trực tiếp. Nó không có định
nghĩa. “Cây” là “cây”, thế thôi chứ không phải là bất cứ cái gì khác và
do đó cũng không biết là cái gì. Khi có kẻ “hỏi” “cây là gì?” thì người
ta chỉ có một cách “giải thích” duy nhất là dẫn kẻ đó đến cái cây và chỉ
vào nó: “là đó đó!”; nghĩa là bằng cách trực quan.
Tính
đa dạng của sự vật hiện tượng trong thiên nhiên buộc con người phải
nhận thức ngày càng sâu rộng, rõ ràng hơn nữa, cụ thể hơn nữa. Đến một
lúc nào đó, không thể “định nghĩa” bằng cách chỉ vào cái cây, bằng cách
vạch vẽ trên đất đá (buổi tối ở giữa sa mạc chẳng hạn!) được nữa, mà câu
trả lời “cây là cây” rõ ràng là mù tịt và dễ bị “nện cho một trận”, làm
xuất hiện những khái niệm mới làm tiên đề, và cái cây sẽ được định
nghĩa bằng ngôn ngữ trên cơ sở các khái niệm ấy. Lúc này, trước câu hỏi
“cây là gì?”, câu trả lời sẽ đại loại là: “cây là một thân gỗ mọc từ
đất, có cành, nhánh, lá và lâu lâu có cả hoa quả trên cành nhánh”. Khi
đã được định nghĩa thì khái niệm cây đã không còn mang tính tiên đề nữa,
giai đoạn ấy đã vĩnh viễn trở thành lịch sử (khi định nghĩa rừng là khu
vực có nhiều cây thì dù khái niệm cây có mất tính tiền đề, nó vẫn còn
tính cơ sở, tương tự như nếu khu rừng là một thực thể thì cây là đơn vị
làm nên thực thể ấy!). Tất cả những khái niệm còn lại như: cành, nhánh
gỗ, lá, hoa, quả, đến lượt chúng, đóng vai những khái niệm tiên đề.
Khái niệm tiên đề là khái niệm chưa qua nhận thức lý luận, chưa được hiểu một cách...có logic.
Những
khái niệm nào (kể cả khái niệm trực giác) có được thông qua định nghĩa
trên cơ sở các khái niệm tiên đề hoặc được coi là cơ sở, nghĩa là những
khái niệm không cần và không thể “tận mắt chứng kiến” vẫn “thấy” được nhờ nhận
thức, đều là những khái niệm gián giác(?).
Quá
trình phát triển của nhận thức làm cho các khái niệm trực giác thuần
túy chuyển hóa thành khái niệm gián giác (tuy vẫn giữ được cái gốc trực
tiếp của nó), nhưng cũng đồng thời xuất hiện các khái niệm hình thành
trên cơ sở các khái niệm gián giác khác. Trong loại khái niệm sau có một
bộ phận (rất nhiều trong khoa học, triết học) gọi là khái niệm trừu
tượng. Khái niệm trừu tượng là khái niệm được xây dựng nên từ phán đoán,
suy lý… và cả hoang tưởng (!) nữa, thiếu hoặc hoàn toàn có tính
biểu tượng không ổn định vì chưa hoặc không thể trực giác. Cuối cùng, ở nấc cao đó sẽ
xuất hiện siêu niệm (cơ sở hình thành của nó và cũng là kết quả của nó,
là linh giác). Xâu chuỗi các linh niệm lại sẽ làm nên linh tri, những
lời tiên tri, những câu “sấm truyền”…
Thế
còn “tiên đoán”? Tiên đoán là… lời đoán của “ông tiên”! Không phải! Đã
là tiên thì cần gì đoán, nói một cái là trúng phóc ngay! Vậy tiên đoán
chỉ có thể là siêu phán đoán và có nguồn gốc từ siêu giác.
Từ
hồi nào tới giờ chúng ta đã phán đoán biết bao nhiêu rồi. Không biết có
cái nào được gọi là tiên tri không nhỉ? Ồi dào ơi! Đừng có mà dở hơi dở hám ra
đây! Tất cả chỉ là đoán mò từ quá trình hoang tưởng vì… dại (khờ) trên
cơ sở những… hoang niệm của bộ não chứa đầy hoang giác(!).
Cũng
vì đầy hoang giác như thế nên dù chúng ta đã học được rất nhiều từ
“Lôgic học” truyền thống; dù “Lôgic học” vẫn là một phương tiện vô cùng
hiệu quả trong rèn luyện tư duy, trong quá trình nhận thức thực tại, thì
cũng vẫn cứ thấy trong đó nhiều quan niệm đã lỗi thời, cần phải điều
chỉnh lại. Nhưng chúng ta không bao giờ làm công việc đó vì chúng ta bị
“thiểu năng trí tuệ” (!), không có được sự sáng suốt tổng quát hóa và độ
chín chắn cần thiết. Muốn giũa gọt một khối hoa cương đang đẹp đẽ hơn
phải cực kỳ thận trọng, không lành nghề thì đừng có “sờ” đến nó, kẻo "lợn lành chữa thành lợn què", mắc
tội với tiền nhân! Đối với “Lôgic học” cũng vậy, không đủ tài trí thì
hãy để nó nguyên trạng vì nó vẫn đang có lý, vẫn đang đúng! Đúng không
nào? Nếu đúng, cho xin tràng...vỗ tay!
Khốn nỗi, phi tò mò, bất thành con người và phi suy đoán bất thành khoa học!
(Còn tiếp)
---------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét