TT & HĐ II - 17/l
Giải nghĩa Binh Pháp Tôn Tử và 36 kế sách – Tam thập lục kế
PHẦN II: Nền tảng
" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
CHƯƠNG VI: QUI CĂN
"Hạnh phúc sinh ra trong đau khổ, đau khổ giấu mình trong hạnh phúc."
(Liệt tử)
" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt
“Chúng
ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như là một dòng nước ngầm;
thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy
được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở
bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống
chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích
trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
(Sir James Jeans.)
“Triết
học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của
bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới”
(Ph. Bêcơn)
“Tất cả mọi khoa học cần thiết hơn triết học, nhưng không một khoa học nào tốt hơn nó”
(Arixtốt)
CHƯƠNG VI: QUI CĂN
"Hạnh phúc sinh ra trong đau khổ, đau khổ giấu mình trong hạnh phúc."
(Lão Tử)
"Phàm làm việc gì, làm điều gì, xử lý cái gì… cũng nên có giới hạn, vì
“Vật cùng tắc biến”: đẩy sự vật đi đến đường cùng thì thế nào nó cũng
biến hóa lại khác trước, có khi còn ngược lại với trước nữa. “Vật cực
tắc phản”: đẩy sự việc đi đến cùng cực thì chắc chắn sẽ phản lại ngay.
Quy luật là thế thôi."
(Lão Tử)
“Không
có cái không phải là ta thì không có ta. Nhưng không có ta thì không
thể hiện được sự biến hóa của tự nhiên. Như vậy, ta với tự nhiên thật
mật thiết với nhau. Nhưng không ai biết được chủ tể của vũ trụ là gì”.
(Trang Tử)
“Cái mà thời trước người ta
dùng thì có thể ngày nay bỏ đi; cái ngày nay bỏ đi thì có thể sau này sẽ
dùng, dùng hay bỏ; điều đó không quyết định được là phải hay trái”.
(Tiếp theo)
***
Trên Hà Đồ hình
23/a còn phản ánh tứ tượng của hai hệ lưỡng nghi nữa, lớn hơn hai hệ
kia, một hệ có tổng lực lượng là 15 (hàng bi vòng ngoài cùng); một hệ có
tổng là 20 (hàng bi vòng ngoài kết hợp với hàng bi vòng trong) như vậy
là Hà Đồ hình 23/a biểu diễn đồng thời Tứ tượng của bốn hệ lưỡng nghi có
lực lượng lần lượt là: 5, 10, 15, 20 mà những lực lượng lớn hơn đều
hình thành trên cơ sở phát triển bằng con đường tổng hợp của hệ lưỡng
nghi có lực lượng là 5 đơn vị:
10 = 5 +5; 15 = 10 + 5 = 5 + 5 + 5; 20 = 15 + 5 = 10 + 10 = 5 + 5 + 5 + 5
(Tuổi thơ khi
chơi trốn tìm, chúng ta thường đếm: “Năm, mười, mười lăm, hai mươi…”. Đó
là cách đếm chục 5 trong hệ cơ số 10; và cội nguồn của cách đếm ấy là
đây chứ đâu nữa?!).
Quả là hết sức
tài tình! Hà Đồ, trông đơn sơ, giản dị tưởng như đến “con nít cũng sắp
xếp được” mà hóa ra quá đỗi thâm sâu. Cái mũ phớt “giỏi” như thế mà chỉ
chứa được con voi. Cái mũ “Hà Đồ” có vẻ tầm thường hơn, lại chứa đựng cả
cái quan niệm vận động, biến hóa, sinh thành Vũ Trụ thì không còn lời
để ca ngợi!
Triết học gợi mở cho cách sắp Hà Đồ hay Hà Đồ gợi mở ý tưởng cho triết học thăng hoa? Cả hai, và đó có vẻ là duyên tiền định!
Hà Đồ hình 23/a
còn nói điều gì nữa? Tổng lực lượng của nó là 45; là 9 chục 5; một chục 5
nằm ở trung tâm, đóng vai trò “linh hồn” của nó, còn 8 chục kia phân bố
hài hòa xung quanh làm nên “thân xác” nó. Có thể gọi 8 chục làm nên
thân xác, là bát quái được không? Không! Dù rằng bát quái được định hình
qua con đường toán học, nhưng là ở hướng khác (chẳng hạn như hướng mà
chúng ta đã từng đi qua!)
Và còn nói điều
gì nữa? Các nhà hiền triết cổ đại, có thể đưa ra được những ý niệm sáng
suốt, có tính chân lý về thực tại khách quan đi chăng nữa thì cũng không
thể dựng được Hà Đồ, phù hợp với những quan niệm ấy bằng những con số
cụ thể như thế được. Theo chúng ta, Hà Đồ hình thành từ yêu cầu nảy sinh
trong hoạt động sống của con người, từ đòi hỏi cần thiết phải cân đo
đong đếm, nghĩa là phải đếm và “tính toán”, nhất là vào giai đoạn trồng
trọt - chăn nuôi đã ở qui mô mở rộng và chuyên sâu, phân phối và trao đổi
sản phẩm đã trở nên phổ biến. Nói gọn hơn, Hà Đồ (dạng ban đầu?!) là con
đẻ của toán học sơ khai. Toán học sơ khai bắt nguồn từ sự đếm, xác định
số lượng (và lực lượng). Sự đếm là một tất yếu nảy sinh từ quan sát,
nhận thức thực tại khách quan và trong một chừng mực nhất định, cũng là
sự biểu hiện của thực tại khách quan, cũng mang tính chân lý. Lớn tiếng
hơn: Sự đếm nói riêng và toán học nói chung là biểu hiện sự nhận thức
chủ quan của con người trước biểu hiện về tính lực lượng (mà cốt lõi là
số lượng) và sự biến hóa (hay chuyển hóa) giữa các lực lượng của Tự
Nhiên Tồn Tại. Vì vậy, Hà Đồ, ít nhiều gì cũng hàm chứa trong nó tính
chân lý. Các nhà hiền triết cổ đại đã thấy được hạt nhân hợp lý ấy nên
đã thổi hồn vào nó, làm nó hóa thân thành một… Lão Tử, “mặc áo vải thô
mà mang ngọc quý trong lòng”!
Nếu Hà Đồ có
“bản chất” triết học thì nó phải bộc lộ ra. Đúng vậy! Nó phải bộc lộ ra
và nó đã bộc lộ ra từ trước tới nay. Sự bộc lộ ấy, nhìn theo con mắt của
thời đại ngày nay là quá ư tầm thường. Chính vậy mà ít người để ý tới.
Muốn thấy được cái sáng ngời của sự bộc lộ ấy, chúng ta phải loại bỏ tất
cả những “vướng bận” đã làm chúng ta trở thành hoặc là những gã kiêu kỳ
hợm hĩnh với một chút văn minh, hoặc là những kẻ bạc nhược, sùng tín
trước ngàn xưa huyễn hoặc, thì chúng ta sẽ thấy.
Ngón
tay là mấy? Là “ngần ấy”! Ngón tay và ngón tay là mấy? Là ngần ấy! Ngón
tay và ngón tay và ngón tay là mấy? Là ngần ấy! Ngón tay và ngón tay và
ngón tay và ngón tay là mấy? Là ngần ấy! Ngón tay và ngón tay và ngón
tay và ngón tay và ngón tay là mấy? Là bàn tay! Bàn tay là mấy? Là ngần
ấy! Bàn tay thêm ngón tay là mấy? Là ngần ấy?... Thế còn ngần ấy? Là như
thế đấy: đi mà xem… Hà Đồ! Thời gian trôi đi, các “ngần ấy” được gọi
tên để phân biệt: “ngần ấy” này là một, “ngần ấy” kia là hai, “ngần ấy”
nhiều hơn hai gọi là “nhiều”. Tiếp tục, các “ngần ấy” đều có tên gọi và
phân biệt được.
Theo
ký hiệu số hiện đại thì trên Hà Đồ, đã gồm đủ số từ 1 đến 9 (theo chúng
ta) hay đến 10 (theo Khổng An Quốc) rồi. Hà Đồ hình 23/a, chúng ta suy
diễn, không phải là bảng chỉ dẫn cách đếm (đếm đã là điều tự nhiên,
không ai thắc mắc chuyện 4 + 1 = bàn tay và 9 + 1 = 2 bàn tay; khi đếm
hết số ngón tay của hai bàn tay thì coi như một lần đếm kết thúc; nếu
tiếp tục đếm thì sự đếm đó được coi là lần đếm tiếp theo. Sự đếm với
chục là bàn tay 5 ngón lặp lại sau mỗi lần đếm hết ngón tay của hai bàn
tay, vô tình đã tạo nên chu kỳ đếm với mỗi chu kỳ là 10 đơn vị, dẫn đến
cách đếm độc đáo: đếm theo chục 5 trên cơ sở hệ đếm 10. Chẳng hạn, chúng
ta đếm: “1, 2, 3, 4, chục, chục 1, chục 2, chục 3, chục 4, hai chục,
hai chục 1, hai chục 2, hai chục 3, hai chục 4, ba chục, ba chục 1…” và
dịch ra: “1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16…) mà
đóng vai trò như một bảng cửu chương về phép cộng, trừ đơn giản:
5 + 1 = 6 6 – 1 = 5
5 + 2 = 7 7 – 2 = 5
5 + 3 = 8 8 – 3 = 5 …..
5 + 4 = 9 9 – 4 = 5
5 + 5 = 9 + 1 9 + 1 – 5 = 5
và rất có thể ở đây đã xuất hiện khái niệm số âm:
1 – 5 = -4 5 – 6 = -1
2 – 5 = -3 5 – 7 = -2
3 – 5 = -2 5 – 8 = -3
4 – 5 = -1 5 – 9 = -4 …..
Với
suy diễn trên thì có thể Hà Đồ là “bảng cửu chương” (về phép cộng trừ)
đầu tiên của nhân loại và là thủy tổ của mọi bàn tính Trung Quốc!
Với
nhận định Hà Đồ là thủy tổ của bàn tính Trung Hoa thì giữa nó và bàn
tính bi lăn ở hình 22 phải tồn tại một “dấu nối”, một dạng trung gian,
vừa là cái này vừa là cái kia. Phải tìm cho ra cái “nửa nạc nửa mỡ” ấy!
Đang
ở thế như “chẻ tre”, chúng ta tiếp tục tiến lên phía trước. Lúc này,
chúng ta thấy mình oai hùng hơn bao giờ hết: mình mặc giáp… vải thô; đầu
đội mũ… Hà Đồ, cưỡi trên con Long mã “nhặt được” ở sông Hoàng Hà; phi
như bay trong lộng gió, mù sương. Napôlêông đã từng nói một câu đầy hào
khí, đại khái: nếu anh là người đầu tiên rút gươm ra thì tôi là người
cuối cùng tra gươm vào vỏ. Chúng ta cảm thấy mình làm được, hơn thế: là
người đầu tiên rút gươm ra và cũng là người cuối cùng tra gươm vào vỏ.
Và thế là chúng ta rút gươm ra. Ủa! Gươm đâu rồi? Chúng ta nhớ là mình
có cây gươm nhựa mua ở chợ mà?... Chúng ta nhìn quanh. À, thì ra đó là
cây thước nhựa, cái mà chúng ta đã dùng để vẽ lại bàn tính, Hà Đồ. Vậy
thì tay chúng ta đang cầm cái gì đây? À, thì ra cây bút bi, cái mà chúng
ta đã dùng để bôi bác lên biết bao tờ giấy trắng. Rốt cuộc, chúng ta
rơi thẳng tuột từ thái cực xuống trạng thái… cân bằng: không phải chúng
ta đang cưỡi Long mã mà đang ngồi trên chiếc ghế gỗ, cập kênh vì lão
hóa; không phải mặc áo giáp bện bằng vải thô mà là “thường phục” vải
mỏng hơn (quanh năm áo cộc tay, quần xắn móng lợn!); không phải đội mũ
Hà Đồ mà là “đội” mái tóc dài thượt do làm biếng cắt, bù xù do bị “vò
đầu bứt tai” nhiều quá; không phải ở trong lộng gió của đất trời mà
trong gió được thổi ra từ cái quạt điện; không phải ở giữa mù sương của
nước mây vùng sơn cước mà ở giữa khói thuốc lá mịt mùng do chính miệng
chúng ta “rít” và “phà” ra liên tục.
Dù có người khen rằng:
“Miệng ngậm thuốc như rồng muôn ngậm ngọc
Tay gạt tàn như Triệu Tử vung đao…”,
thì
khi ở trạng thái cân bằng, chúng ta cũng thấy mình chỉ là một gã thất
phu, lui về một xó “mài đũng quần” từ lâu và đã bị cuộc đời lãng quên;
không hơn không kém!
Ôi!
Nhớ lắm một thời “chọc trời khuấy nước” đến độ “đục nước mù trời” và
vui lắm vì nó đã lùi vào dĩ vãng. Cũng may, nhưng cũng buồn lắm!!! Buồn
vui lẫn lộn!...
Chúng
ta quay sang nhận xét Hà Đồ hình 23/b. Hình Hà Đồ này, ngoài cái hình
vuông được tạo thành từ 16 viên bi, bao quanh nhóm trung tâm, chẳng khác
gì Hà Đồ hình 23/a. Tuy nhiên, trông nó có vẻ nặng nề, “dư cân thừa
thịt” so với ngay cả Hà Đồ của Khổng An Quốc. Hơn thế nữa, cái hình
vuông đó còn che khuất, dễ gây ra cách nhìn sai lạc về ý nghĩa của Hà
Đồ. Hà Đồ thuở ban đầu (hình 23/a) trong sáng, giản dị bao nhiêu thì Hà
Đồ do chúng ta cố tình tạo dựng lại (hình 23/b), tù mù tịt mịt bấy
nhiêu. Cách vẽ của Khổng An Quốc đã ít nhiều làm cho sự vận động của “bộ
máy” Hà Đồ bị trục trặc nhưng dù sao vẫn biện minh được khi việc đếm
theo hệ cơ số 10 đã trở thành “chuyện thường ngày”.
Nhận
xét như vậy có xác đáng không? Tại sao lại có sự phát triển từ “sáng
ngời chân lý” đến “u minh”? Sự phát triển, hay suy tàn, thực ra chỉ là
qui ước về từng giai đoạn của một “cuộc đời”, một hiện hữu, một chu kỳ
tồn tại. Chúng có thể xuất hiện lặp đi lặp lại trong một quá trình vận
động “kiểu con lắc” của sự vật, hiện tượng. Có thể coi phát triển và suy
tàn là hai mặt tương phản của một chu trình; tùy vào chủ quan của nhận
thức mà có tên gọi như thế, tương tự như tên gọi “âm” và “dương”. Xét ở
bình diện tổng thể, có sự vật, hiện tượng phát triển thì cũng có sự vật,
hiện tượng suy tàn; ở đâu có sự phát triển thì đồng thời ở đó cũng có
sự suy tàn. Theo qui ước thì có thể phân biệt, tách rời tương đối giữa
phát triển và suy tàn nhưng tuyệt đối thì không thể cô lập được chúng vì
chúng là hai thể tương phản của một lưỡng nghi thống nhất; là tiền đề
của nhau, giúp nhau tồn tại. Xét từng sự vật, hiện tượng, nếu phát triển
và suy tàn thể hiện tính lực lượng thì tổng lực lượng ấy là không đổi.
Chính vì vậy mà một sự vật, hiện tượng được cho là ở trạng thái cân bằng
tương đối thì nó không phát triển mà cũng chẳng suy tàn, dù rằng “nội
tại” của nó vẫn làm xuất hiện (các) quá trình phát triển cũng như suy
tàn. Từ đây, cũng có thể suy ra điều “to tát” nhất mà chúng ta đã nhiều
lần đề cập và khẳng định: Tự Nhiên Tồn Tại rõ ràng là… vốn dĩ thế, dù
“trong” Vũ Trụ luôn luôn có sự sinh ra hoặc mất đi, phát triển hoặc suy
tàn của vô vàn các sự vật, hiện tượng. Nó không sinh, không tử, không
trẻ, không già, không tiến triển, không suy thoái… nói chung là không gì
cả, nhưng nó cũng luôn luôn thay đổi, sinh ra và mất đi, rất trẻ, rất
già, tiến triển, suy thoái… nói chung là có tất cả. Vì thế mà từ lúc lóe
lên một ý nghĩ đầu tiên trong đầu cho tới ngày nay; con người dù đã gán
cho nó đủ mọi nhãn mác, nào là Tự Nhiên, Tồn Tại, nào là Vũ Trụ, Cõi
Vĩnh hằng, thế giới khách quan, nào là Cái Một, Cái Ấy, Brahman… vẫn
chẳng ai biết nó là cái gì. Đúng như Lão Tử từng bộc bạch một cách chân
tình: cảm nhận được nó là… như thế thôi, chứ chẳng biết nó là gì, nó
vĩnh viễn không có tên (“thường vô danh”), tạm gọi nó là Đạo vậy…
Xét
ở góc độ hình thức thì Hà Đồ hình 23/b rõ ràng là bước thụt lùi của Hà
Đồ hình 23/a. Nhưng có thể là một sự tiến bộ, một bước đi lên nào đó nếu
xét ở góc độ ứng dụng. Đến một giai đoạn nào đó, khi trình độ tính toán
của con người cổ đại đã có bước phát triển nhất định và “bảng cửu
chương” đầu tiên ấy đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó hoặc nó chỉ còn
công dụng “gõ đầu trẻ”. Nhu cầu về tính toán lúc đó đòi hỏi phải có một
công cụ hiệu quả hơn để đáp ứng, đã làm Hà Đồ hình 23/a biến thái thành
Hà Đồ hình 23/b?
Nhưng
điều cơ bản là Hà Đồ hình 23/b đã từng xuất hiện trong xã hội thời
Trung Hoa cổ đại hay chưa? Nếu chưa thì toàn bộ những nhận xét, những
câu hỏi vừa mới nêu ra ở trên bỗng trở nên lố bịch.
Chúng
ta, qua năm tháng, dù đã “vấp” biết bao nhiêu biến cố với biết bao
nhiêu lần ngã “sứt tai gãy gọng” thì cái tật vẫn không chừa. Bản chất
“thầy cãi” vẫn còn trong tiềm thức và giờ đây lại trỗi dậy. Không thể để
bị ê chề, không thể để lâm vào tình trạng như Napôlêông trong chiến
dịch nước Pháp (1814), khi quân liên minh đã tràn ngập lãnh thổ, đồng
thời nghe tin thống chế Mácmông đã đầu hàng, dâng thành Pari cho quân
xâm lược, để rồi lại phải thốt lên như ông ta: “Thật là một thất bại
hoàn toàn!”. Chúng ta gân cổ lên: Chắc chắn nó, cái Hà Đồ có hình vuông
như cái cũi nhốt khu trung tâm ấy, làm hình thành một trung tâm mới gồm
cả bản thân nó, đã từng xuất hiện trong lịch sử, dù có thể hơi khác một
chút.
Có
một sự kiện chúng ta đã nhắc tới nhưng chưa làm rõ: giữa các bi trong
một hàng và giữa các bi thuộc nhóm trung tâm, tồn tại những gạch nối (có
sách khi vẽ không thể hiện nhưng nhiều sách thể hiện). Tại sao phải có
những gạch nối ấy trong khi, như chúng ta thấy, chúng chẳng giúp thêm
được gì trong việc diễn giải Hà Đồ cả? Hay ở thời xa xưa nó đã từng có ý
nghĩa nào đấy mà về sau chẳng ai biết nữa, người ta cứ thế thể hiện một
cách “máy móc”? Nếu các gạch nối ấy thực sự đã từng có ý nghĩa thì ý
nghĩa đó là gì?
Nào,
hãy cố suy tưởng xem nào? Bình tĩnh, bình tĩnh… bình tĩnh! Trong lịch
sử nhân loại, đã từng có nhiều kẻ chơi khăm, “nguệch ngoạc” ra cái gì đó
chẳng ăn nhập vào đâu cả mà chỉ làm “đau đầu” lũ hậu thế. Ở thế kỷ
trước, khoảng thời gian 1908 - 1916, ngài Charles Dawson, một nhà luật
học, đã phát hiện được sọ của một giống người tối cổ được đặt tên là
“người Piltdown” (vì di tích tìm được ở Piltdown, vùng bờ biển Manche
thuộc nước Anh). Sọ này có đặc điểm là phần sọ mang những đặc tính của
sọ người hiện đại nhưng phần quai hàm lại mang những đặc tính của loài
khỉ dạng người. Sự phát hiện đó là một bổ sung quan trọng cho việc xây
dựng quá trình chuyển hóa từ vượn sang người. Thật ra, sọ người Piltdown
chỉ là trò giả tạo. Ấy vậy mà gần 50 năm sau, người ta mới phát hiện
ra. Dawson “đùa” như thế để làm gì? Vì muốn lưu danh hậu thế chăng? Hay
không phải ông ta làm mà chỉ là nạn nhân của một ai khác? Sau một cuộc
điều tra tỉ mỉ, người ta đã khẳng định chính Dawson là thủ phạm. Ngoài
“di vật” này, nhiều “di vật” khác do ông tìm ra cũng đều là đồ giả nốt.
Hà
Đồ là nhân tạo, rõ rồi, nhưng với sự hàm chứa những chân lý “không thể
chối cãi được” về tự nhiên như vậy thì nó không thể là một nhân tạo kiểu
“nguệch ngoạc” được; không thể là sự tạo dựng vớ vẩn kiểu “ba que xỏ
lá” được!... Ủa, “que”, “xỏ”, “lá”… Ủa, các hàng bi liên kết với nhau
bằng những gạch nối sao giống xâu… thịt nướng quá?! Không, nó giống xâu
trái chùm ruột (một cái que xâu chuỗi 5 - 10 trái chùm ruột, người ta
mua, ăn với muối ớt) hơn cả. Nhưng vẽ Hà Đồ với các hàng bi xâu chuỗi đó
nhằm mục đích gì? Hay các “chiêm tinh gia” cũng mượn nó để làm chỗ dựa
cho những ý tưởng của mình, và các hàng bi được gạch nối là để tượng
trưng những chòm sao? Ngước lên bầu trời đêm, chúng ta có thấy sao sắp
như vậy đâu? Hơn nữa, các “chiêm tinh gia” ở Ai Cập cổ, Lưỡng Hà cổ, Ấn
Độ cổ cũng đâu có thấy như thế?
Chữ
viết biểu thị một số lượng nào đó (do đó là một số nào đó), muộn nhất
là đã có từ thời nhà Thương. Thế thì tại sao Hà Đồ không được viết bằng
chữ cho gọn mà phải dùng hàng loạt hình vòng tròn (bi) như thế? Ít ra
thì cũng có thể dùng dấu vạch như chúng ta thử vẽ ở hình 24/a.
Hình 24: Những ý tưởng về Hà Đồ
Tại
sao Khổng An Quốc, trong thời đại mà ghi chép đã thuận tiện hơn rất
nhiều, nền toán học đã ở trình độ khá cao rồi, lại không minh họa Hà Đồ
như những cách vừa nói tới mà cứ phải dùng bi? Rất có khả năng thế này:
Hà Đồ, ngay từ buổi đầu ra đời đã là một mô hình, một sa bàn đóng vai
trò như một phương tiện hoặc đích thực là một phương tiện ,và về sau
chuyển hóa thành một công cụ phục vụ trước tiên cho sự đếm, tính toán.
Khổng An Quốc đã “phục chế” lại theo ký ức dân gian mà đến lúc đó, Hà Đồ
đã trở thành như một câu chuyện đậm màu huyền thoại. Các gạch nối giữa
các bi chính là dấu tích còn lại của các rãnh chứa bi. Nếu chúng ta
“bốc” hết bi ra khỏi Hà Đồ hình 23/b, chỉ để lại các gạch nối và biến
chúng thành các rãnh thì chúng ta sẽ có một “bàn tính bi” mô tả ở hình
24/b. Đó chính là thể trung gian giữa Hà Đồ nguyên thủy (hình 23/a) và
bàn tính bi lăn (hình 22). Chúng ta sẽ tưởng tượng ra cách sử dụng cái
bàn tính bi “nửa nạc nửa mỡ” ấy.
Hình 25: Bàn tính Hà Đồ
Chúng
ta tạm gọi bàn tính vừa được suy diễn ra là bàn tính… Hà Đồ. Trước khi
bước vào tính toán, bàn tính Hà Đồ có trạng thái sắp bi như hình 25/a:
đó là Hà Đồ với bốn rãnh lập thành hình vuông quanh nhóm trung tâm. Với
bốn rãnh lập thành hình vuông ấy mà không có nhóm trung tâm thì đó là
“một vùng” không có gì cả. Phải chăng điều này đã gợi ý cho các nhà khoa
học thời Nam Tống biểu diễn số 0 bằng ký hiệu ?
Đặt ra câu hỏi này có nghĩa là sự hoang tưởng trong chúng ta đã dâng
cao rồi đấy! Sự thể không biết thế nào mà trả lời nữa. Nhưng chuyện này
thì dễ tin hơn nhiều: Chính Hà Đồ hình 23/b đã gợi ý cho các nhà toán
học ký hiệu các số trong “Cửu chương toán thuật” theo “mã vạch” (đoán mò
thôi!):
…
Ngay
ở trạng thái ban đầu, bàn tính Hà Đồ, vì cũng là “bảng cửu chương” nên
các phép tính “đơn giản” (kết quả chưa vượt quá 9) đã được thể hiện một
cách trực giác:
…
Thế khi 6 bớt 4? Là 5 thêm 1 bớt 4 bằng 5 bớt 3 và (ngược hướng với 5 thêm 3) bằng 2.
Thế
khi 6 thêm 7? 6 thêm 7 là 5 thêm 1 và 5 thêm 2, là 5 và 5 thêm 3; bằng
13. Để biểu thị 13 đơn vị trên bàn tính, người ta bỏ một viên bi khác
màu (biểu thị bằng 5 đơn vị - một bàn tay) vào rãnh bên trái của hệ rãnh
trung tâm. Rãnh chứa 8 bi lúc này là trống (xem hình 25/b).
Trên
bàn tính Hà Đồ bộc lộ ra một qui luật, đó là tại mỗi phía trong 4 phía
của bàn tính đều thể hiện hai con số mà số lớn là tổng của số trung tâm
(số 5) với số nhỏ, và tổng của số 5 với bất kỳ số nào có đơn vị là một
trong hai số đó đều ra kết quả là một số có số đơn vị là số kia. Chẳng
hạn ở phía bên phải bàn tính ta có hai số là 2 và 7, chúng thỏa mãn:
5 + 2 = 7
Nếu
ta cộng 5 với 22, sẽ được số 27 (có số đơn vị là 7: “bằng số kia” cũng
là 7!). Cách sắp bi mô tả số 27 được mô tả ở phần bên phải của bàn tính
hình 25/b. Lúc này rãnh chứa 2 bi là trống.
Giả
sử ta tiếp tục lấy 27 trừ đi 16. Trước hết 27 và 16 được gọi lần lượt
là 5 chục 2 và 3 chục 1; 5 chục bớt 3 chục còn 2 chục; 2 bớt 1 còn 1;
vậy kết quả là 2 chục 1. Số ấy được sắp bi ở phần dưới bàn tính, lúc này
rãnh chứa 6 bi là trống.
Như
vậy, nếu ta muốn biểu thị số 19 trên bàn tính thì phải dùng phần phía
trên của nó để sắp bi, và có thể sắp bằng hai cách. Vì 19 có thể gọi là 3
chục 4 hoặc 2 chục 9 nên có thể sắp bằng cách cho 2 bi màu vào rãnh
vùng trung tâm và để rãnh chứa 9 bi trống hoặc cho 1 bi màu vào rãnh
trung tâm và để rãnh chứa 4 bi trống. Trên hình 25/b, chúng ta sắp bi
theo cách thứ hai…
Cách tính trên bàn tính Hà Đồ, theo sự tưởng tượng của chúng ta, đại khái là như vậy.
Thô
sơ vậy thôi nhưng có lẽ bàn tính Hà Đồ đã từng vang bóng một thời, đã
từng có giai đoạn phục vụ đắc lực cho đời sống. Thế rồi thời gian qua
đi, xã hội phát triển, nó dần trở thành “cái áo chật”, lạc hậu, lỗi
thời. Việc tính toán đòi hỏi phải có một phương tiện mới kế thừa nó,
“tiên tiến” hơn nó để thay thế nó.
Trước
hết là phải khắc phục cái sự kềnh càng dàn trải ra “bốn phương trời”
của nó, sự sắp xếp trùng lắp của nó, lược bỏ đi những “chỉ dẫn” đã trở
thành “quá hiển nhiên” của nó trong thời đại mới. Có nghĩa là phải “rút
gọn” nó lại và đồng thời tìm cách làm tăng khả năng sử dụng của nó. Quá
trình đó dẫn đến việc loại bỏ các rãnh chứa 1; 2; 3; 4 bi ở vòng trong
đi, sắp bốn rãnh ở vòng ngoài kề nhau (mà mỗi rãnh bây giờ đều có thể
chứa 9 bi để làm tăng khả năng tính toán và phù hợp với hệ đếm cơ số 10
đã trở thành phổ biến?!) và thay cho 4 rãnh chứa bi màu là chỉ còn một
rãnh. Sự cải tiến đó sẽ tạo nên hình dạng bàn tính mới mà chúng ta vẽ mô
tả ở hình 26 và nó trông chẳng khác gì một… bàn tính bi lăn.
Hình 26: Hình dạng đầu tiên của bàn tính bi lăn ( ?)
Hình
dáng ấy thật quen thuộc. Nó gợi cho chúng ta nhớ về những chiếc mũ của
đế vương, hình bóng của đền đài, lăng tẩm và nhất là những bảng vàng bia
đá của những triều đại phong kiến Phương Đông đã qua, vừa như vẫn còn
lưu lại hơi thở lẩn khuất đâu đây, vừa như đã lùi sâu vào tít tắp xa mờ.
Nhìn những con rùa đá đội những tấm bia đá lưu danh, đầu ngước lên im
lặng trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám, lòng chúng ta dậy nên một nỗi niềm
sùng kính khôn tả. Hình như rùa đá không im lặng, nó đang thì thầm mách
bảo cho người thăm viếng, vãng lai về cội nguồn của một nền văn hiến, về
truyền thuyết Lạc Việt, về một báu vật huyền thoại liên quan tới
nó và còn phảng phất trong hình hài bia đá: “Ngày xửa ngày xưa, có
người Việt thường…”. Và nó buồn vì thấy chẳng ai lắng nghe, chẳng ai
hiểu lời của… đá!
Kết
luận lại, chúng ta tin rằng thủy tổ bàn tính Trung Hoa chính là Hà Đồ
và bản thân Hà Đồ cũng có thể được coi là một bàn tính. Niềm tin ấy là
có cơ sở dù cơ sở chỉ là sự… dựng chuyện. Một niềm tin mãnh liệt có bao
giờ làm nên lịch sử không nhỉ?! Chắc là không! Kệ xác, chúng ta vẫn cứ
tin vì còn một lý do nữa để mà vun đắp niềm tin.
Bốn câu thơ nói về bàn tính của Lưu Nhân là thế này:
“Bất tác ông thương vũ
Hưu Bàng bỉnh thi ca
Chấp trù như tê lộc
Thân khổ dục như hà”
Trong đó nổi lên một chữ “hà”. Nó có nghĩa là gì? Có phải “hà” ở đây là chỉ bàn tính không?
Thêm
nữa, trong bức tranh nổi tiếng đời Tống mà chúng ta từng đề cập, có vẽ
một bàn tính nằm ngay chính giữa quầy của một hiệu thuốc. Bức tranh có
tên gọi là “Thanh minh thượng hà đồ”. Vậy chữ “hà đồ” ở đây nhằm chỉ cái
gì nếu không phải là bàn tính? Và “hà đồ” trong tên gọi của bức tranh
có cùng nghĩa với “hà” trong bài thơ trên không? Có thể suy luận rằng
“hà đồ” là tên gọi khác, tên gọi nguyên thủy của bàn tính và cũng đúng
là Hà Đồ (viết hoa)?
Chúng
ta bỏ lửng nghi vấn đó để đặt một câu hỏi khác: Hà Đồ xuất hiện lần đầu
tiên vào lúc nào? Nếu tin vào nhận định cho rằng nó đã mất tích trước
Khổng Tử 100 năm thì vào thời đó, bàn tính bi lăn như hình 26 mô tả đã
phải thịnh hành rồi. Nếu vậy Hà Đồ có thể xuất hiện lần đầu tiên vào đầu
thời Chu, thậm chí là sớm hơn nữa để đủ lâu cho Khổng Tử không biết
được nó là cái gì mà chỉ “nghe kể” về nó như một báu vật linh thiêng do
trời ban. Khổng Tử cho rằng chim phụng và Hà Đồ xuất hiện là điềm báo
thánh vương ra đời, bởi có lần ông đã mở lời than thở với môn đồ: “Chim
phượng chẳng đến, bức đồ chẳng hiện trên sông Hoàng Hà, ta hết hi vọng
rồi!” (Phượng điểu bất chí, Hà bất xuất đồ, ngô dĩ hĩ phù!).
Có
khi nào Hà Đồ xuất hiện sớm hơn nữa, vào thời nhà Ân không? Chắc là
không! Người ta đã đào được ở An Dương (tỉnh Hà Nam, Trung Quốc ngày
nay) rất nhiều di tích giáp cốt (mai, yếm rùa, xương vai, xương chân của
trâu, bò, ngựa…) của đời Thương, trên có khắc chữ, quẻ bói… nhưng tuyệt
nhiên không có một dấu ấn nào khả dĩ gợi ý đến Hà Đồ cả. Thực ra, Hà Đồ
là một vật, một mô hình nên khó mà thể hiện trên những giáp cốt được.
Do đó, dù những khai quật không cho thấy bất cứ dấu hiệu nào về Hà Đồ
cũng như những quan niệm về tứ tượng, bát quái, ngũ hành… thì cũng chưa
thể khẳng định dứt khoát được là thời đó chúng chưa xuất hiện. Khảo cổ
học là một hướng trong nhiều hướng hợp thành trong việc tạo dựng lại
những hoạt cảnh của quá trình lịch sử. Nó nặng tính chứng thực một cách
cực đoan hơn là suy đoán. Chỉ có suy đoán một cách khoa học trên những
bằng chứng đã được phát hiện của những khai quật khảo cổ, trong các tàng
thư, tích cổ còn đọng lại, lưu truyền trong xã hội, dân gian mới có thể
may ra thấu suốt được lịch sử. Nói như thế thì có nghĩa Hà Đồ vẫn có
thể xuất hiện vào đời nhà Ân? Chúng ta lại trả lời rằng: chắc là không,
vì người ta đã phát hiện được hàng vạn đồ dùng bằng đồng đời Thương như
đồ tế lễ, đồ uống rượu, vũ khí, cấu kiện xe ngựa, công cụ thủ công
nghiệp v..v… được chế tác với trình độ, nghệ thuật cao, trang trí bằng
những hoa văn tinh vi; cũng như đã phát hiện được nhiều mộ đời Thương,
trong đó có rất nhiều đồ tùy táng quí báu, vậy mà chẳng có chút dấu vết
nào về Hà Đồ cả; chắc là có, vì mọi mặt kinh tế, văn hóa, thủ công
nghiệp, khoa học đã có bước phát triển lớn làm cho nhà Thương một thời
phồn thịnh…
Hà
Đồ được sắp xếp có tính hợp lý, “không chê vào đâu được” như thế là
phải nhờ đến một bàn tay khéo léo, một bộ não tinh tế, rất am tường về
sự đếm, tính toán bằng hai bàn tay cũng như đã “thấm nhuần” tư tưởng
lưỡng phân lưỡng hợp, âm dương lưỡng nghi. Tuy vậy để sắp được Hà Đồ một
cách trí tuệ như thế, người nào đó ấy khó mà tự nghĩ ra được. Phải có
một sự quan sát, suy tư, kế thừa thì từ đó mới có bước đi sáng tạo.
Cái gì đã là cơ sở để kế thừa; đã là sự gợi mở cảm hứng cho việc sáng tạo ra Hà Đồ? Chúng ta cho rằng đó là Lạc Thư.
Sự
tích về Hà Đồ đã được viết quá dài. Chúng ta không muốn kéo dài ra thêm
nữa. Dù là chưa mãn nguyện lắm, nhưng cũng tạm cho rằng đã hoàn thành
nhiệm vụ. Tóm lại, sau một hồi “khảo cứu” vài ba cuốn sách “thường thức”
phục vụ cho bộ phận đại chúng ưa tò mò, cùng với một cái đầu suy tưởng
lông bông tại… xó nhà, chúng ta đã gán cho Hà Đồ những “thành tích” cũng
như “sơ yếu lý lịch” sau đây:
- Hà Đồ là “bảng cửu chương”về cộng - trừ cổ nhất của nhân loại.
- Hà Đồ là thủy tổ của bàn tính Trung Hoa.
- Hà Đồ khó có khả năng ra đời ở nhà Hạ; có thể ra đời ở thời nhà Ân - Thương, nhưng ra đời ở đầu đời Chu là hợp lý hơn cả.
- Hà Đồ có nguồn gốc từ Lạc Thư.
Và Hà Đồ, Lạc Thư phải chăng là thành quả sáng tạo của người Việt cổ?
Nhận xét
Đăng nhận xét