Thứ Sáu, 24 tháng 11, 2017

VÕ THUẬT TINH HOA 61

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Tinh hoa võ thuật Việt Nam - Võ sư Phi Long Vịnh
Võ đường Phi Long Vịnh, gia truyền từ đời ông cố của võ sư Phi Long Vịnh tạo dựng. Cha của ông là lão sư Trương Văn Cẩn, năm nay 96 tuổi. Phi Long Vịnh học võ lúc 9 tuổi, do ông nội truyền lại, rồi từ người cha là Trương Cẩn, từ bác ruột Trương Ninh, sau đó thọ giáo thầy Trương Hoàng (Ba Chăm), thầy Trương Xuân Ba (Sáu Hòa). Năm 18 tuổi, Phi Long Vịnh bắt đầu thượng đài và cả thời trai trẻ của ông gắn liền với những trận so găng khắpTrung, Nam Việt Nam. Bài quyền Ngọc trản hiện được lưu truyền và phổ biến rộng rãi ở Bình Định cũng như ở Việt Nam trong các làng võ cổ truyền với luyện tập công phu, tấn công toàn diện, kết hợp cương nhu, có những thế né tránh, phản đòn lợi hại; khi di chuyển thì linh hoạt, nhẹ nhàng; khi ra đòn thì nhanh và mạnh. Người biểu diễn bài quyền Ngọc trản có thần nhất hiện nay là võ sư Phi Long Vịnh. Võ sư Vịnh có thể biểu diễn bài quyền này chỉ trong phạm vi một chiếc chiếu (rộng 1,2m, dài 1,6m). Bài quyền Ngọc trản đã được võ sư biểu diễn ở Châu Âu trước bạn bè quốc tế trong dịp khai mạc trọng thể Quán khí đạo quốc tế 2007 tại Ý và đã được Ban tổ chức Quán khí đạo quốc tế tặng Bằng danh dự Đại danh sư Phi Long Vịnh. Địa chỉ võ đường Phi Long Vịnh: Xã Phước Sơn, Huyện Tuy Phước, Tỉnh Bình Định.

Những giai thoại ly kỳ về võ phái đả hổ nổi tiếng miền Nam (Kỳ 1): Cuộc nổi dậy của nữ tướng nhà Sơn Tây

(Công lý) - Vào Nam khai hoang, lập ấp, những cư dân miền Thuận Quảng (Nam Trung Bộ ngày nay) phải đối mặt với vô vàn thách thức. Đó là những cánh rừng thiêng nước độc, đó là nạn cướp bóc… Để sinh tồn họ phải học cách chống chọi với tất cả.
Khi ngồi trò chuyện với võ sư Hồ Tường, Chưởng môn, hậu duệ đời thứ năm của võ phái Tân Khánh Bà Trà (TKBT) về sự hình thành, phát triển và những giai thoại về phái TKBT khiến chúng tôi cứ tưởng đang đọc một cuốn tiểu thuyết ly kỳ. Võ sư Hồ Tường là con trai của võ sư lừng danh, một trong Tứ Tú của võ thuật miền Nam Hồ Văn Lành hay còn gọi là Từ Thiện. Kể từ số này, chúng tôi sẽ giới thiệu về phái võ TKBT và những giai thoại nổi tiếng trước giải phóng tại mảnh đất Sông Bé cũ (nay là Bình Dương). Đặc biệt là những chiến công đả hổ của các võ sư TKBT thời điểm còn “rừng thiêng nước độc” ở Tân Khánh, Tân Uyên, Sông Bé.
Muốn tồn tại phải học võ
Nhắc đến phái võ TKBT không thể không điểm qua một chút về sự hình thành của các phái võ Nam Bộ. Bởi trong cùng bối cảnh loạn lạc mà vùng đất phương Nam đã hình thành và phát triển khá nhiều môn phái. Tuy không phải là những môn phái mới hoàn toàn nhưng các phái võ đã có những biến hóa, phù hợp với khả năng chiến đấu ở vùng đất mới.
Đến nay, những người cao niên ở mảnh đất phương Nam còn nhớ một thời huy hoàng của võ thuật miền Nam. Trước giải phóng, miền Nam có những võ sư nổi tiếng. Trong Tam Nhật (ba mặt trời) là Hàn Bái, Ba Cát và Bảy Mùa; Tam Nguyệt (ba mặt trăng) là Trương Thanh Đăng, Quách Văn Kế và Vũ Bá Oai cùng Tứ Tú (bốn vì sao) Hồ Văn Lành, Trần Xil, Xuân Bình và Lý Huỳnh.
Trước khi những võ sư này nổi danh, võ thuật Nam Bộ đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Theo các tài liệu chúng tôi có được thì võ Nam Bộ hình thành từ thuở mang gươm đi mở cõi. Bên cạnh đó, trong quá trình khẩn hoang và định cư tại mảnh đất phương Nam trù phú nhưng còn heo hút, rừng núi rậm rạp cũng là điều kiện tốt để hình thành võ thuật Nam Bộ.
Khi trụ lại ở khu vực Nam Trung Bộ ngày nay, chúa Nguyễn tiếp tục khai hoang, di dân mở cõi phương Nam. Họ cho dân từ vùng Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định ngày nay vào khai phá vùng đất Nam Bộ còn hoang vu. Song song đó, các tội phạm thời ấy cũng được các chúa Nguyễn đày vào phương Nam. Để sinh tồn, hai tầng lớp người này đã phải dùng những khả năng của mình để tồn tại ở mảnh đất mới. Do xuất thân từ quê võ Nam Trung Bộ nên những người khai hoang và những người đày ải đã thích nghi tốt, sớm làm chủ vùng đất này.
Vào cuối thế kỷ XVIII, trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn bị bại trận, tàn quân nhà Nguyễn đã chạy xuôi về phương Nam. Họ chọn Đồng Nai ngày nay để trú ẩn và gây dựng lại cơ nghiệp. Tại mảnh đất này, các chúa Nguyễn kêu gọi anh tài, quy tụ võ sĩ, võ sư khắp nơi về đầu quân. Họ nhận nhiệm vụ dạy các chiêu thức võ công cho trai tráng để theo nghiệp binh, chinh chiến. Ngày ấy, những người biết võ quy tụ lại và lập thành những bang, phái võ. Từ đó hình thành nên võ Nam Bộ.
Một miếng võ của Tân Khánh Bà Trà
Nói về võ Nam Bộ, nhiều võ sư cho biết, nó hình thành theo sự pha tạp và phát triển mới của nhiều võ phái khác nhau. Nhưng đa phần là dựa trên các thế, miếng của võ Bình Định, ngoài ra là các môn phái phương Bắc và của Thiếu Lâm Trung Hoa, võ Cao Miên… Sự giao thoa của các phái võ này và được các võ sư phát triển thành những môn phái mới... Họ phát triển phái võ mới dựa trên những ưu điểm của các phái võ cũ và đặc thù của vùng đất mới. Thời đó, vùng đất phương Nam còn hoang vu, cây cối rậm rạp, thú dữ rất nhiều… Võ Nam bộ nổi tiếng cho tới ngày nay có các phái: Thất Sơn quyền, Âm Dương võ phái, Kim Kê và Tân Khánh Bà Trà.
Huyền thoại võ Bà Trà
Có người nhắc đến một phái võ khá cổ của Nam Bộ trước đây và còn lưu truyền, phát triển mạnh đến ngày nay tại miền Nam. Đó là phái TKBT. Để tìm hiểu môn phái này, chúng tôi tìm về thị trấn Tân Phước Khánh. Tuy nhiên, tại đây, chúng tôi chỉ nhận được sự thất vọng.
Sau này gặp, võ sư Hồ Tường có bảo rằng, giờ ở vùng đó chỉ toàn là rừng cao su, nhà cửa xây dựng kiên cố, khang trang. Nào đâu còn Hố Ngỡi, chiến tích năm xưa đả hổ của các võ sư, nào đâu còn những di tích gì của phái võ TKBT… Nay, nơi đó duy chỉ còn lưu lại tên giáo xứ Bà Trà với một nhà thờ Công giáo nằm trên địa bàn xã Bình Chuẩn.
Đến nay, chúng tôi hỏi thăm nhưng nhiều người chẳng biết TKBT là một phái võ. Hỏi người lớn tuổi, có một vài người nhớ và biết về những câu chuyện đánh hổ của các võ sư xưa. Hóa ra, những gì chúng tôi cần tìm, cần biết lại đang nằm trong bộ nhớ của một người, đó chính là võ sư Hồ Tường. Trước đó, chúng tôi có biết võ sư Nguyễn Hồng Đỏ, một đệ tử của môn phái và có một võ đường tên Tân Khánh Hoàng Hạc tại huyện Nhà Bè. Tuy nhiên, những người này cũng chỉ đến gặp võ sư hồ Tường.
Nói chuyện với chúng tôi, võ sư Nguyễn Hồng Đỏ kể về những chiêu thức, miếng đánh, bài quyền và đặc biệt là những lần đánh hổ của các bậc tiền bối. Điều này khiến chúng tôi cảm thấy tò mò quyết tìm gặp bằng được võ sư Hồ Tường. Sau một mồi điện thoại, chúng tôi đã hẹn gặp được võ sư Hồ Tường ở Nhà Văn hóa Thanh Niên (quận 1. TP.HCM).
Ngồi ở ghế đá trong Nhà Văn hóa Thanh Niên, ông chỉ, dãy nhà trước đây từng là trụ sở của Tổng hội Võ học Việt Nam mà ba tôi (võ sư Từ Thiện) là một trong những người sáng lập. Ngoài võ sư Từ Thiện sáng lập ra Tổng hội Võ học Việt Nam còn có các võ sư uy tín trong làng võ Sài Gòn thời ấy như Lê Văn Kiển, Mai Văn Phát, Quách Văn Phước…
Theo lời kể của võ sư Tường, sau ngày giải phóng 30/4/1975, Tổng hội Võ học Việt Nam tự động giải tán. Từ đây câu chuyện về TKBT bắt đầu được người ta kể lại. Ánh mắt nhìn về phía xa xăm, võ sư Hồ Tường kể: Tân Khánh là vùng đất mới thuộc phủ Gia Định xưa (nay là Thị trấn Tân Phước Khánh, Tân Uyên và Bình Chuẩn, thị xã Dĩ An, Bình Dương). Tân Phước Khánh và Bình Chuẩn mới được chia tách. Ngày xưa gọi chung là Tân Khánh. Vào thời điểm đó, vùng đất này còn hoang sơ, rừng rú rậm rạp có nhiều thú dữ. Đặc biệt là hổ.
Một thời gian chưa lâu, thực dân Pháp đã giơ nanh vuốt đến ngôi làng Tân Khánh bằng bè lũ tay sai. Chúng hống hách và chèn ép, bắt nạt dân thường. Trong làng Tân Khánh có một người nữ giỏi võ, ghét cường bạo và thường dạy chữ trong làng võ nghệ. Bà là Võ Thị Trà, một "nữ đi quyền" thực thụ. Bà Trà vốn là dòng dõi của một vị tướng nhà Tây Sơn. Mang tinh thần đất võ Bình Định, bà đã đứng lên kêu gọi mọi người nổi dậy chống lại sự xâm lăng của tay sai ngoại bang.
Tương truyền, thời ấy với võ nghệ cao cường và có sự truyền dạy bài bản cho những người kế cận, bà đã lập ra một nghĩa quân chống lại những tên tay sai bán nước. Nghĩa quân này thường lấy tài sản của người giàu, quan lại chia cho người nghèo khổ. Cuộc khởi nghĩa do bà khởi xướng kéo dài trong nhiều năm và có nhiều trận đánh ác liệt. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa kết thúc khi thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Dù không thể lật đổ được bọn bè lũ tay sai ngoại bang nhưng tiếng tăm của Bà Trà đã vang xa. Nhiều người đã tìm đến và tiếp tục học võ nghệ của đệ tử bà. Từ đây hình thành nên phái võ Bà Trà. Vì gắn với vùng đất Tân Khánh nên gọi là TKBT.
Còn tiếp...
Kỹ năng sinh tồn và nguồn gốc địa danh Tân Khánh
Ngoài chiến đấu với thú dữ, sự khắc nghiệt của rừng thiêng nước độc thì người dân còn phải chống lại nạn cướp bóc hoành hành. Do vậy, mọi người phải trang bị các kỹ năng để chống chọi với thú dữ, với những tên cướp bóc để sinh tồn. Nói về sự hình thành nên địa danh Tân Khánh, võ sư Hồ Tường cho biết, sau khi Gia Long được sự hậu thuẫn của Pháp đã đánh bại quân Tây Sơn ở miền Trung. Trước tình thế đó, nhiều người đã phải chạy vào Nam để tránh những cuộc thảm sát. Dân di cư vào lập nên nhiều ngôi làng ở các khu vực khác nhau. Còn tại mảnh đất Tân Uyên, dân làng lấy tên là Tân Khánh.
 
Bài Ngọc Trản Quyền - Võ cổ truyền Việt nam - Kungfu Viet Nam

Những giai thoại ly kỳ về võ phái đả hổ nổi tiếng miền Nam (Kỳ 2): Trận đả hổ kinh thiên động địa

06/4/2015 08:21 UTC+7
(Công lý) - Người và hổ quần nhau liên tục, bụi giữa sân bay lên mù mịt. Trong khi đó, dân chúng vây quanh xem đông nghịt.
Nỗi khiếp sợ của xóm làng
Khi đến nhà võ sư Nguyễn Hồng Đỏ (quận 7, TP.HCM), chúng tôi cảm thấy ấn tượng với logo của phái võ Tân Khánh Bà Trà (TKBT) được ông phóng to, treo trang trọng ngay giữa gian chính. Ngoài những binh khí đao, kiếm, lao… thì tấm logo gợi lên nhiều điều về phái võ TKBT. Đó là hình ảnh một võ sư tung cú đá chí mạng vào đầu con hổ trong tư thế rất đẹp. Hiện nay, logo trên quần áo của phái TKBT cho các môn đệ theo học là hình ảnh một võ sư đang đánh một con hổ lớn. Đây chính là bắt nguồn từ những trận đả hổ của các bậc tiền bối. Những trận đánh hổ còn được kể vanh vách bởi các môn đệ, nhưng rõ hơn hết vẫn là pho sử sống của phái TKBT chính là võ sư Hồ Tường.
Ngày xưa, Bầu Lòng là một ngôi làng nhỏ ở tỉnh Thủ Dầu Một (nay là Bình Dương) còn bình yên. Ngày ngày, những lương dân chí thú khai hoang làm ăn. Họ trồng trọt chăn nuôi gia súc, gia cầm để mưu sinh qua ngày trong sự yên bình. Nhưng một thời gian phá rừng, lập làng, nhiều lần người dân hoảng hốt khi thấy hổ về. Thi thoảng, sau một đêm, người dân mất vài con vật nuôi. Họ nghi là do hổ vồ. Càng ngày, tần suất hổ xuất hiện nhiều hơn vào ban đêm và bắt vật nuôi trong nhà.
Những giai thoại ly kỳ về võ phái đả hổ nổi tiếng miền Nam (Kỳ 2): Trận đả hổ kinh thiên động địa
Logo võ phái Tân Khánh Bà Trà võ sư Nguyễn Hồng Đỏ 
Những trai tráng trong làng hay những thợ săn tìm đủ cách để đuổi thú dữ về rừng. Từ việc phục kích, bắn tên tẩm thuốc đến dùng chó săn xua đuổi hổ đi… nhưng xem ra, các biện pháp ấy không ăn thua. Lũ hổ quá hung dữ. Nhiều thợ săn nhìn thấy mà mất vía, không bắn được mũi tên nào. Họ sợ bắn trật thì hổ sẽ vồ tới và xé xác làm mồi.
Tương truyền, một lần, hổ định bắt con trâu của một lương dân trong làng. Tuy nhiên, đây là một con trâu dữ nên nó húc lại con hổ. Sau đó, không hiểu vì sao, một đàn trâu gặm cỏ gần đó chạy lại tiếp viện, làm hổ thua cuộc bỏ chạy về rừng. Từ đó, mỗi khi có hổ về, dân làng lại dắt con trâu, thần hộ mệnh tới, làm con hổ rút lui. Từ khi hổ về làng, dân chúng hết sức khốn đốn, làm ăn, sản xuất kém vì sợ hổ vồ. Họ chỉ tính toán thời điểm hổ xuất hiện để làm việc đồng áng. Nghĩ cách chống thú dữ, những ông hương chức trong làng bèn tính phương án mượn súng về đuổi hổ.
Thế là ông hương quản cùng một số thanh niên lực lưỡng ngồi trên xe trâu tiến về dinh ông cai tổng để mượn súng. Sở dĩ phải dùng xe trâu là sợ hổ vồ khi đi ngang qua những con đường nhỏ, nhiều cây rừng rậm rạp.
Thời ấy, mỗi làng cách nhau rất xa, trong khi lại thưa thớt người ở, thú dữ rất nhiều. Vì thế, hương quản và trai tráng phải mượn "thần trâu" áp tải. Nếu có gặp hổ thì tàu kéo sẽ nghênh chiến. Sau vài ngày lội đường vất vả, ông hương quản và đám trai tráng mới về được đến làng. Có súng, dân làng yên tâm và mừng rỡ. Từ đó, lương dân làng Bầu Lòng yên tâm ra đồng làm ăn dưới sự bảo vệ của ông hương quản. Ngày ngày, họ vác súng cùng một số thanh nhiên tuần tra từ đầu làng đến cuối xóm. Buổi tối, dân chúng che chắn cẩn thận.
Quả nhiên, có súng, hổ không xuất hiện. Nhưng được mươi ngày thì hổ lại xuất hiện và làm dữ hơn trước. Như đánh được hơi, biết đường đi nước bước của ông hương quản, hễ ông ở đầu làng thì hổ xuất hiện cuối làng. Còn ông xuống cuối làng thì hổ lại tìm cách phá hoại ở đầu làng. Rồi ban đêm hổ xuất hiện, gầm ầm trời, cả làng không ai ngủ được. Có lần, hổ về bắt hẳn con heo nhà ông hương quản. Vị này định giơ súng lên bắn thì mồ hôi trên trán rơi lã chã vì thấy "ông ba mươi" to và dữ quá. Hôm sau, ông kể cho mọi người : "Nếu tôi bắn không chết thì hổ sẽ thịt tôi".
Có súng nhưng không thể giết hoặc đuổi hổ đi, ông hương chức bèn cử người tìm đến ông cai tổng để xin cách trị thú dữ. Ông cai tổng chỉ đám dân làng lo sợ sang tỉnh Gia Định mời ông thầy Tám ở làng Gia Bẹ, chuyên đánh hổ về. Nghe lời ông cai, hương quản và đám trai tráng tìm và mời ông thầy Gia Bẹ về làng tiếp đãi hoan hỉ bao nhiêu món ngon. Đợi hổ xuất hiện sẽ đánh cho một trận tơi bời.
Lương dân thấy có thầy về trừ hổ cho làng cũng mừng ra mặt và góp phần thịnh đãi ông thầy Gia Bẹ. Bữa cơm đang dùng dang dở thì có tiếng kêu hốt hoảng, hổ về làng. Mọi người đứng trân người chờ thầy Tám chuẩn bị nghênh đón. Khi hổ tiến đến gần, mọi người hốt hoảng, còn ông thầy Gia Bẹ thì chẳng thấy đâu. Nhìn lại, mọi người thấy ông thầy Gia Bẹ mặt cắt không ra máu. Dân làng Bầu Lòng lại rơi vào tình cảnh bất an lo lắng. Còn ông thầy Gia Bẹ cho biết, dù nhiều lần đánh hổ tại làng nhà nhưng chưa bao giờ thấy chúa sơn lâm nào to như thế.
Ngày quyết đấu
Vẫn bị hổ về quấy phá, dân làng làm không được, ngủ không yên. Các chức sắc trong làng lại phái người để cầu cứu ông cai tổng ở Tân Khánh. Nghe xong chuyện ông thầy Gia Bẹ, cai tổng bật cười chê: "To nhỏ cũng là hổ, sao lại nhát thế". Với sự thỉnh cầu của đám lương dân, ông cai bèn cho người mời ông Ất, ông Giá hai đệ tử của phái TKBT đến. Ông này ngỏ lời nhờ hai vị trên đi một chuyến, diệt trừ thú dữ, trả lại sự bình yên cho dân làng.
Nghe chuyện, hai ông đồng ý và vội về nhà nói lại người thân, thu xếp đồ đạc cùng ông hương quản và đám trai tráng lên đường. Đi một ngày đường, họ về tới làng. Trên đường về, ông hương quản và đám trai tráng có vẻ không tin về ông Ất, ông Giá này. Họ suy đoán, chắc cũng giống ông thầy Gia Bẹ. Về đến làng, mọi người cũng tỏ vẻ không mấy lạc quan với hai ông thầy võ. Còn chức sắc lại lo cơm nước khoản đãi. Cơm nước xong, hai ông toan nghỉ tay, lấy sức nghênh đón thú dữ. Tuy nhiên, ngay lúc ấy, bỗng có tiếng gầm rất lớn..
Những giai thoại ly kỳ về võ phái đả hổ nổi tiếng miền Nam (Kỳ 2): Trận đả hổ kinh thiên động địa
Một thế võ đả hổ của võ phái Tân Khánh Bà Trà
Thời ấy, hai ông Ất và Giá mới 30 tuổi. Ông Ất người to cao, nước da ngăm ngăm. Còn ông Giá lại trắng trẻo, mảnh khảnh hơn. Cả hai ông đều sử dụng roi trường thuần thục. Thấy hổ, ông Giá nhanh tay cầm roi trường, nhảy ra thủ thế. Còn ông Ất thì tỉnh bơ, đứng dựa cạnh cửa, một tay cầm roi, một tay cầm tăm xỉa răng như không có chuyện gì. Thấy thầy võ ra sân nghênh chiến với hổ dữ, dân làng vừa hiếu kỳ chạy ra xem. Giữa khoảng sân đất khá rộng, thấy người xuất hiện, hổ dữ liền nhảy bổ vào tính xẻ thịt, nuốt tươi.
Nhanh trí đoán được ý đồ, ông Giá nhẹ nhàng nhảy sang một bên, tránh cú vồ của thú dữ. Đồng thời ông nhanh tay quất một cú roi đau điếng vào mạn sườn chúa sơn lâm. Hổ tức lồng lộn, nhảy bổ lần nữa vào con mồi nhưng ông Giá với võ nghệ cao cường đã tránh đòn và quất liên tục vào con thú dữ.
Người và hổ quần nhau liên tục, bụi giữa sân bay lên mù mịt. Trong khi đó, dân chúng từ trong ngóc ngách chui ra xem đông nghịt. Còn ông Ất vẫn thản nhiên đứng quan sát, mặc cho ông Giá chiến đấu. Được một hồi, con hổ nằm ngửa, chổng bốn chân lên trời. Nhưng với sự tinh thông cũng như hiểu biết về võ thuật, ông Giá bèn đứng yên, chờ hổ đứng dậy và chiến đấu tiếp. Vì ông biết, hổ nằm ngửa và chổng chân lên trời là thế để giết con mồi. Ai sơ ý nhảy vào là chết ngay. Giới võ gọi đó là thế "trâu vằng" của hổ.
Sau khi con mồi không sập bẫy, hổ đứng dậy. Hai bên lại lao vào trận. Được một lúc, hổ lại lăn ra thủ thế, ông Giá cũng đứng nghỉ lấy sức. Nhưng càng về sau, ông Giá đánh càng ác liệt. Mỗi đường roi của ông mạnh như trời giáng, đánh mạnh vào những chỗ yếu của thú dữ.
Biết không thể hạ gục con mồi, hổ toan tính đường tháo chạy. Khi rút lui chưa được bao lâu thì mọi người nghe tiếng rống của thú dữ rồi mất tăm. Hóa ra, ông Ất đoán biết, trong tình thế đó, con hổ thế nào cũng tháo chạy bèn phục kích diệt hổ. Mọi người không thấy ông Ất đánh hổ nhưng nghe nói lại, chỉ cần một roi là con hổ gục hẳn.
Hổ dữ hoành hành
Cảm giác bất an vì thú dữ nơi rừng thiêng, nước độc bắt đầu lan trong dân làng. Quả thế, hổ càng tiến gần với con người và bắt gia súc của lương dân. Những người dân yếu thế chỉ biết dùng những vật dụng trong gia đình như nồi, thùng, mỏ… để đánh, khua cho hổ dữ chạy về rừng. Ban đầu những vật dụng này phát ra tiếng kêu làm hổ sợ thật. Nhưng dần rồi nó cũng quen với những âm thanh đó và đứng trơ trơ như thách thức dân chúng. Chúng đến với mật độ dày hơn, không chỉ vào ban đêm nữa mà cả ban ngày. Người dân sợ khiếp vía, hò nhau tìm chỗ ẩn nấp. Chính vì trận đả hổ kinh thiên động địa đó nên về sau dân chúng mới có câu "Cọp Bầu Lòng - Võ Tòng Tân Khánh". Ý nói cọp (hổ) dữ ở Bầu Lòng do "Võ Tòng" là ông Hai Ất và ông Ba Giá, những môn đệ của phái võ TKBT diệt trừ. Họ đả hổ còn kinh hoàng hơn Võ Tòng bên xứ Tàu nhiều.
 
T.Lợi

Những giai thoại ly kỳ về võ phái đả hổ nổi tiếng miền Nam (Kỳ cuối): Những trận đả hổ đi vào huyền thoại

07/4/2015 08:20 UTC+7
(Công lý) - Phái võ TKBT không chỉ nổi tiếng với những trận đả hổ mà còn vang danh khu vực khi các võ sư chiến thắng các nhà vô địch của các nước ở khu vực thời bấy giờ.
Đả hổ ở Hố Ngỡi
Nói về ông Hai Ất (Võ Văn Ất) và ông Ba Giá (Võ Văn Giá), võ sư Hồ Tường cho biết, không biết mối quan hệ của họ như thế nào với nữ võ tướng Võ Thị Trà. Chỉ biết, hai ông là thế hệ thứ nhất, những đệ tử xuất sắc của phái võ Tân Khánh Bà Trà (TKBT) với những trận đả hổ nổi tiếng, kinh hoàng địa chấn còn hơn Võ Tòng diệt hổ trên đồi Cảnh Lâm bên Trung Quốc. Về sau này lại có những võ sư hạ nhiều nhà vô địch các nước và không có đối thủ ở miền Nam.
Ngày nay, dù địa danh Hố Ngỡi (thuộc xã Tân Vĩnh Hiệp, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương ngày nay) không còn. Nhưng đây được xem là một trong những nơi ghi dấu những trận đả hổ của các võ sư TKBT. Điển hình nhất là ông Ất và ông Giá. Tại Hố Ngỡi, có trận đấu võ với hổ như là truyền thuyết, được kể lại nhiều đời sau. Tại đây, thú dữ thường xuất hiện nhưng hổ vẫn là nhiều nhất. Có lần, hổ kéo nhau về làng 3, 4 con cùng lúc khiến dân làng sợ chết vía. Người dân chỉ biết tìm cách trốn biệt, thật kín đáo để bảo đảm tính mạng. Còn ông Ất và ông Giá thì bình tĩnh, thủ thế, tìm cách diệt thú dữ.
Người ta thấy ông Ất nhảy qua trái, tránh qua phải, làm con hổ nhảy bổ chồm vào hụt liên tục, nó tức tối rống lên. Chiến đấu được mấy hiệp, chưa bên nào bại trận, bất ngờ ông Ất nằm ngã xuống làm bao người chứng kiến thất kinh. Theo các võ sư thời ấy, đó là miếng đánh diệt hổ của thế “phục địa lang hành”. Còn hổ, sau khi chiến đấu với đối phương, nó cũng học được võ công và càng chiến đấu càng khôn ngoan hơn. Nó cũng có thế “trâu vằng”, nằm chổng ngửa bốn chân lên trời. Nếu ai sơ ý nhảy vào là trúng bẫy, bị nó giết chết ngay lập tức.
Sau khi thấy ông Ất nằm ngửa, mọi người thất kinh, các thợ săn định giương cung bắn để tháo đường tử cho ông thoát thân nhưng bất ngờ có tiếng kêu: “Đừng bắn”. Đó là tiếng ông Giá. Ông Giá biết, đó là cách ông Ất đang thủ thế, lừa con hổ. Hổ tưởng con mồi bị thương sẽ nhảy bổ vào cắn xé. Quả thật, khi hổ nhảy bổ từ trên xuống, toan định vồ xé xác con mồi bất ngờ bị một cú đá trời giáng.
Sau cú đá, ông Ất nhanh chóng ôm đầu và leo lên lưng hổ đấm liên tục, không cho thú dữ một cơ hội nào trở mình. Trong lúc ông Ất đang kết liễu con hổ thì bất ngờ có hai con hổ khác kéo tới, toan nhảy vào cứu đồng loại. Trước tình thế nguy kịch đó, ông Ất định buông tay nghênh chiến hai con hổ mới đến. Bỗng ông Giá xuất hiện và nói ngồi yên.
Nhưng một mình ông Giá làm sao chiến đấu với hai con cùng lúc. Nhanh trí, ông Giá cởi phăng chiếc áo đang mặc, quăng cho một con nhằm đánh lạc hướng. Hổ tưởng có người nên vùng vằng cắn, xé chiếc áo liên hồi. Ông Giá vung roi sở trường quất vào đầu con hổ khác đang lăm le tiến lại gần.
Những giai thoại ly kỳ về võ phái đả hổ nổi tiếng miền Nam (Kỳ cuối): Những trận đả hổ đi vào huyền thoại
Võ sư Nguyễn Hồng Đỏ biểu diễn thế võ “Yên tử luyện lâm, bái phật gia quyền”
Với vài đường roi, con hổ đã nằm bất động trên nền đất. Nhanh tay, ông quay sang quất liên hồi con kế bên đang cắn xé chiếc áo, không cho nó kịp thủ thế. Sau một hồi quần nhau, hổ kia nằm bất động. Trong khi đó, ông Ất đã nghỉ tay từ lúc nào. Ba xác hổ nằm im lìm giữa sân, đông đảo lương dân hoan hô, vây kín ông Ất, ông Giá.
Thời bấy giờ, những trận đả hổ của ông Hai Ất và Ba Giá xảy ra rất nhiều, nghe đâu trên cả chục trận. Ai nấy đều biết đến danh tiếng của hai ông và phái võ TKBT diệt thú dữ. Ngoài hai ông Ất, Giá nổi tiếng đả hổ, trừ bạo cho lương dân, sau này còn có bà Võ Thị Vuông, con gái của ông Hai Ất.
Tuy là con gái nhưng lại ham mê võ thuật, thích đi roi đi quyền. Được cha rèn dạy và truyền cho võ nghệ cao cường nhưng tính bà rất hiền lành. Võ sư Hồ Tường nhớ lại, vào năm 1914 khi người Pháp khánh thành chợ Bến Thành, nghe danh tiếng đã mời ông Hai Ất xuống đấu hổ góp vui. Đó là dụng ý của người Pháp để vừa thử sức vừa xem tài nghệ của dân Việt thế nào.
Ông Hai Ất không đồng ý và giao cho con gái là bà Năm Vuông xuống đấu thay. Khi ấy, bà mới ngoài 20. Thấy cô gái trẻ đấu hổ trong một tiết mục có đông đảo người xem, ai cũng kinh hồn. Thế nhưng, trong một hồi giao đấu kịch liệt, bà Năm Vuông đã hạ con thú dữ trước sự kinh ngạc và thán phục của dân chúng và quan khách. Tất nhiên, mình bà cũng đầy thương tích.
Nối tiếp truyền nhân
Bên cạnh những môn đệ đời thứ nhất của võ phái TKBT nổi danh với những trận đả hổ thì tiếp nối sau này, có nhiều đệ tử, học trò thuộc thế hệ thứ ba của môn phái TKBT của ông Hai Ất đã làm rạng danh võ phái và võ cổ truyền miền Nam. Đó là những Hai Đước, Sáu Trực, Năm Nhị, Bảy Phiên, Năm Quy.
Võ sư Hai Đước tên thật là Võ Văn Đước là một trong nhưng môn đệ giỏi của sư phụ Hai Ất. Ông được sư phụ truyền nhiều bí kíp võ công. Hai Đước nổi danh với việc phá tan thế trận Mai Hoa Thung nổi tiếng khó phá của phái Thiếu Lâm Tự ở Trung Hoa, bảo vệ võ phái TKBT, bảo vệ võ thuật Việt Nam và gây tiếng vang lớn.
Nói một chút về thế trận Mai Hoa Thung (phép tập trên cọc gỗ mai hoa). Để có thế trận này, người ta đóng trên mặt đất nhiều cọc gỗ rất cao theo hình hoa mai. Thường là 5 cọc trên 5 cánh hoa mai. Đôi khi có thêm một cọc chính đặt ở giữa, tượng trung cho nhị hoa. Để tỷ thí, hai cao thủ phải đứng, di chuyển trên các cọc gỗ này. Người nào bị đánh rớt xuống không còn trụ lại trên cọc là thua trận. Trong trận tỷ thí với phái Thiếu Lâm Tự, Hai Đước đã giành phần thắng.
Bên cạnh một Hai Đước vang danh thì Sáu Trực, tên thật là Võ Văn Trực lại có những đóng góp lớn lao cho võ thuật, cho cách mạng Việt Nam. Võ sư Hồ Tường cho biết, ông (Sáu Trực) là người đã truyền thụ võ công cho nhiều chí sĩ cách mạng nổi tiếng sau này. Đáng kể nhất trong đám đệ tử của ông có Nguyễn An Ninh, Huỳnh Văn Nghệ, Huỳnh Văn Tiễn, Phan Văn Hùng… những người yêu nước đã góp phần vào những chiến công hiển hách của cách mạng lúc bấy giờ.
Cùng với các đồng môn có võ công cao cường trên thì học trò ông Ất còn có “Đệ nhất côn” Năm Nhị, tên thật là Đỗ Văn Mạnh. Rồi đến Bảy Phiên, tên thật Võ Văn Phiên, được xem là hậu tổ – sư phụ của võ sư Hồ Văn Lành (tức võ sư Từ Thiện), Hồ Văn Thứ (Tư Thứ), Hồ Văn Thạch (Tư thạch), Võ Văn Ché... Bảy Phiên cùng với Năm Quy là những người đã có nhiều đóng góp cho môn phái vào những năm 30 – 40 của thế kỷ trước, bằng việc đào tạo những môn sinh có võ nghệ cao cường.
Sau này, nối tiếp các truyền nhân, có rất nhiều võ sư là những đệ tử làm rạng danh môn phái TKBT. Đến nay, số đã qua đời, số ra nước ngoài sinh sống, số không sống bằng nghiệp võ… Trong đó, nổi tiếng nhất có lẽ là hai huy chương vàng của Từ Thanh Nghĩa và Hồ Ngọc Thọ; bốn huy chương bạc của Từ Thanh Tòng, Từ Duy Tuấn, Từ Hoàng Út, Hồ Thanh Phượng; một huy chương đồng của Từ Hoàng Minh trong các giải vô địch toàn miền Nam. Riêng ba người Từ Thanh Nghĩa, Từ Trung Tín, Từ Y Văn, võ sư Hồ Tường cho biết, hiện đang sống ở nước ngoài. Họ đã từng được chọn đại diện cho toàn miền Nam thi đấu nhiều trận và toàn thắng trước các nhà vô địch của những nước Thái Lan, Lào, Campuchia, Indonesia, Hồng Kông.
Trong những năm 50 của thế kỷ trước, võ phái TKBT có một đệ tử (vừa là học trò vừa là cháu ngoại của võ sư Bảy Phiên) tiếp tục nối nghiệp và truyền bá võ công một cách mạnh mẽ. Ban đầu, ông mở lớp dạy võ tại nơi sinh ra võ phái ở Tân Uyên, Bình Dương. Nhưng sau đó, do thời cuộc, ông đã xuống Sài Gòn và phát triển võ phái rộng rãi. Đến nay, con trai út của ông là võ sư Hồ Tường đang tiếp tục nối nghiệp, sau khi cha ông qua đời vào năm 2005.
Võ sư Hồ Tường cho biết, Trong số những đệ tử, học trò của võ sư Từ Thiện có nhiều học trò giỏi nhưng lại không theo nghiệp võ. Theo lý giải của võ sư Hồ Tường thì theo nghiệp này là nghèo nên chuyển sang nghiệp khác. Đây là một điều đáng tiếc cho võ phái TKBT.
 
T.Lợi

Huyền thoại những đệ nhất võ lâm trời Nam (kỳ 1)

(GDVN) - Với những cao thủ bây giờ thì họ là những bậc tiền bối, công phu đã danh trấn thiên hạ bấy lâu. Dù đến giờ, đa phần đã thành người thiên cổ...
(GDVN) - Với những cao thủ bây giờ thì họ là những bậc tiền bối, công phu đã danh trấn thiên hạ bấy lâu. Sống dưới chế độ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quãng thời gian mà tinh thần thượng võ bị triệt tiêu tới mức tối đa (phòng ngừa phản kháng), họ đã là cầu nối, đã bôn ba khắp nơi để tầm sư, rèn võ, cứu rỗi cả nền võ thuật Việt Nam trong buổi suy tàn. Dù đến giờ, đa phần đã thành người thiên cổ nhưng tài đức của họ thì vẫn là tiếng thơm để hậu bối noi theo...
 
{iarelatednews articleid='4782'}
Đệ nhất roi Hồ Ngạch và hai lần đánh cướp Dư Đành
 
 
Cố võ sư Hồ Ngạch
Cố võ sư Hồ Ngạch
Luận về võ công, không thể không nhắc đến đất võ Bình Định, cụ thể hơn là những địa danh như Thuận Truyền, An Vinh, An Thái. Những địa danh trên đã đi vào ca dao, huyền thoại bởi là nơi phát tích, “nuôi nấng” những dòng võ cũng như những võ sư danh trấn thiên hạ.
 
Đến giờ, tại nơi nghĩa quân Tây Sơn dấy binh đánh đuổi quân thù ấy vẫn còn truyền tụng những câu tục ngữ nói về tinh thần thượng võ của những địa danh này. “Roi Thuận Truyền, quyền An Thái” hay “Trai An Thái, gái An Vinh”… Thôn Thuận Truyền nằm ở xã Bình Thuận, thôn An Vinh thuộc xã Bình An (quận Bình Khê), An Thái thuộc xã Nhơn Phúc huyện An Nhơn, giờ vẫn tồn tại rất nhiều những lò võ nức tiếng xa gần. 
 
Roi Thuận Truyền không rõ sáng tổ là ai nhưng từ trước đến nay vẫn tôn vinh tên tuổi của võ sư Hồ Ngạch. Hồ Ngạch tên thật là Hồ Nhu, ông sinh năm 1891, mất năm 1976, nguyên quán thôn Háo Ngãi, xã Bình An, sinh sống tại thôn Thuận Truyền, Bình Thuận. Cha ông là Đốc Năm (Hồ Đức Phổ), một võ quan của triều đình Huế, mẹ ông bà Lê Thị Huỳnh Hà, cũng là một người nức tiếng giỏi võ trong vùng.
 
Bởi thế, ngay từ nhỏ, ông đã được cha mẹ truyền dạy võ công. Lớn lên, ông được gia đình gửi vào lò võ của cao sư Ba Đề, tiếp đến là Đội Sẻ, Hồ Khiêm, toàn những người nổi tiếng. Bởi thế, từ những đường roi của các cao nhân như Ba Đề, Hồ Khiêm kết hợp với nội công học được từ thầy Đội Sẻ đã tạo ra một Hồ Ngạch với những đường công biến hoá, sâu hiểm khôn lường. Theo sự truyền tụng của giới võ lâm khi ấy, đường roi của Hồ Ngạch là tuyệt kĩ vô song. Sau hơn chục năm lăn lộn với côn, quyền tiếng tăm của Hồ Ngạch ngày một vang xa hệt như diều gặp gió.
 
Hồ Ngạch vốn trầm tĩnh, ít nói và đặc biệt, ông không bao giờ để lộ tài năng võ thuật của mình. Tuy thế, trong đời luyện võ của mình, ông đã để lại rất nhiều giai thoại, đó là những trận so tài với các cao thủ võ lâm có một không hai.
 
Có lẽ, hữu xạ tự nhiên hương, bởi danh tiếng lẫy lừng, nên Hồ Ngạch thường được những người học võ tìm đến để thi thố tài nghệ. Dân Bình Định đến giờ vẫn truyền tụng nhiều câu chuyện Hồ Ngạch bị các cao thủ khiêu chiến, thậm chí cả “đánh úp” hết sức lạ lùng. Các cao nhân thử tài với Hồ Ngạch thì nhiều lắm, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là những trận thư hùng với lực sĩ Dư Đành.
 
Dư Đành là tướng cướp, về võ công thì đến cả quân lính triều đình khi nghe thấy tên cũng đã hồn xiêu phách tán. Tung hoành khắp vùng không có đối thủ, nghe tiếng Hồ Ngạch, Dư Đành nhiều lần gửi lời khiêu chiến. Chối từ mãi không được, sau cùng Hồ Ngạch cũng phải nhận lời thách đấu. Lần ấy, Dư Đành đem lũ lâu la về tận Thuận Truyền và hống hách đưa ra điều kiện, nếu Hồ Ngạch đấu thua thì phải ra nhập đảng cướp của y.
 
Vậy là, tại bãi vắng ngay sát thôn Thuận Truyền đêm ấy, một mình Hồ Ngạch đã đánh bại cả chục tên đệ tử của Dư Đành, vốn đều là những cao thủ võ lâm. Khi đám tay chân mỗi tên nằm một góc thì Dư Đành xuất hiện. Phải nói thêm rằng, Dư Đành có sức mạnh chẳng ai sánh kịp. Đã có lần, để diễu võ dương oai, một tay y đã cắp cả một con nghé hệt như người ta nhẹ nhàng bồng trên tay đứa trẻ. Với thanh đao sáng loáng trên tay, vừa xuất hiện là Dư Đành tung đòn tới tấp. Thế nhưng, với đường roi thượng thừa của mình, Hồ Ngạch cũng chẳng hề nao núng. Đánh mãi mà vẫn không tìm được kẽ hở để “ăn sống nuốt tươi” đối phương, Dư Đành thấy máu nóng dồn lên mặt.
 
Và khi ấy, Hồ Ngạch đã ra đòn tuyệt kỹ. Tránh đòn truy hồn của đối phương, ông nhẹ nhàng tung người đá văng thanh đao cắm xuống đất, đồng thời xoay người giở đòn đánh nghịch. Biết đã vào thế hiểm, tiến thoái lưỡng nan, Dư Đành đành nhắm mắt chờ đường roi sát thủ. Thế nhưng, sau khi tiếng roi vun vút cất lên, Dư Đành đã thở phào choàng tỉnh bởi đường roi vừa chạm áo thì đối thủ đã thu về không đánh nữa. 
 
Trận thư hùng ấy, dù đã nợ Hồ Ngạch một mạng nhưng Dư Đành vẫn không chịu phục. Y rắp tâm kiếm cơ hội trả thù. Bởi thế, một chiều, đang mải mê với những chiêu thức  võ thuật thì Hồ Ngạch được mọi người báo tin không biết ai đã đến nương sắn nhà mình và nhổ hết sắn đóng vào những giỏ lớn. Điều lạ lùng là tất cả số sắn đó, kẻ trộm không lấy mang đi mà vẫn để nguyên trên rẫy. Hồ Ngạch đâu biết rằng đó là một âm mưu của Dư Đành.
 
Ra rẫy, thấy sắn bị nhổ, chẳng còn cách nào khác, Hồ Ngạch đành phải quẩy những sọt sắn trĩu nặng ấy về. Vừa đi được một đoạn thì từ bụi cây bên đường, Dư Đành vọt ra với chiếc bắp cày trên tay. Chẳng nói chẳng rằng, y tung luôn một đường sát thủ. Nghe tiếng gió, Hồ Ngạch vội thụt xuống, đường cày vụt qua đầu, văng thẳng vào cây bồ lời làm thân cây gẫy gập.
 
Lợi dụng luôn cú đánh hụt ấy, Hồ Ngạch tức tốc áp sát, nhanh như chớp, chụp luôn tay Dư Đành rồi sử dụng thế lạc côn, không những hoá giải mà còn biến sức đối phương thành lực của mình, hất thẳng Dư Đành xuống bụi tre gần đó. Mắc kẹt giữa đám tre gai góc, lúc ấy, Dư Đành mới khẩn khoản xin tha và hứa từ đó không bao giờ dám về làng Thuận Truyền quậy phá nữa.
 
Tỉ thí võ thuật Nam Hàn vinh danh làng quyền cổ
 
Sáng tổ của làng quyền An Vinh là Nguyễn Ngạc, tức Hương Mục Ngạc. Theo nhiều người thì bà tổ cô của Nguyễn Ngạc chính là thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Bởi thế, Nguyễn Ngạc xuất thân trong một gia đình có truyền thống võ học.
 
Tiếp thu sở học của gia đình cũng như nhiều tiền nhân lúc bấy giờ, chuyên tâm nghiên cứu quyền pháp, Nguyễn Ngạc đã sáng tạo ra nhiều tuyệt kỹ điêu luyện, đặc biệt là ngón song xỉ đã nức danh khắp chốn. Quyền An Vinh thiên về đánh hiểm, đánh móc, đánh không hết tay, phản đòn nhanh, liên tục. Khi đánh, thường phải áp sát đối phương mới tìm được lợi thế cho mình. Nguyễn Ngạc có nhiều học trò, họ đều là những võ sư ưu tú, tiếng tăm lừng lẫy. Trong số ấy phải kể đến Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác, Sáu Hà, Tám Tự, Hai Tửu, Hương Kiểm Mỹ…
 
Bảy Lụt tên thật là Nguyễn An là con trai của Nguyễn Ngạc. Ông sáng dạ, sức khoẻ thì phi phàm, lanh lẹ tựa cọp beo. Năm 1935, Bảy Lụt cùng em mình là Chín Giác và Hương Kiểm Mỹ tham dự giải đấu võ đài toàn quốc tại Huế. Thi đấu thắng hàng loạt đối thủ, ông đã đem về cho làng quyền An Vinh huy chương vàng. Từ đây, danh tiếng về làng võ này đã được các môn sinh khắp nơi biết đến.
 
Thừa hưởng các bí kíp quyền pháp của cha, không để thất truyền, Bảy Lụt cũng chiêu mộ nhiều đệ tử. Trong số ấy, nổi danh nhất là võ sư Phan Thọ, người gốc Bình Nghi (Tây Sơn) người đã thừa kế di sản đồ sộ của môn phái quyền An Vinh.
 
Võ sư Phan Thọ sinh năm 1925, bắt đầu học võ từ năm 17 tuổi. Ông bảo, ông là người may mắn bởi được sinh ra ở cái nôi của võ thuật Tây Sơn. Mê võ, thủa thiếu niên, đã nhiều lần ông xin gia đình bán ruộng, bán bò để quyết chí theo đuổi sở thích của mình. Ông được lĩnh hội võ thuật cao siêu của rất nhiều tiền bối. Các bài quyền, roi, kiếm, đao, thương ông học từ thầy Bảy Lụt, Tàu Sáu (Diệp Trường Phát). Các môn kích, gản, phủ, lăn khiên, chuỳ… ông học từ thầy Sáu Hà (Lê Hải). Các môn côn, thước, xích, độc bút, xà mâu, đinh ba… ông lĩnh hội từ thầy Hồ Ngạch.
 
Tuy thế, sở trường của ông vẫn là quyền, thứ mà ông được thầy Bảy Lụt dày công dạy dỗ. Cũng giống như nhiều võ sư nổi tiếng khác, võ sư Phan Thọ cũng đã có nhiều trận thi tài mà đến giờ nhiều người khi nhắc tới đều vẫn ngả mũ thán phục tài năng.
 
Ngày ấy, khu vực Nam bộ, Trung Nam bộ rộ lên phong trào thi đấu võ đài theo kiểu tự do. Dù đã thượng đài rất nhiều lần nhưng Phan Thọ vẫn chưa có đối thủ. Tiếng tăm ông mỗi lúc một vang xa. Năm 1972, một võ sư taekwondo đệ ngũ đẳng huyền đai, vốn là một sĩ quan quân đội Nam Hàn đã tìm đến ông gửi lời khiêu chiến. Bị “áp đáo tại gia”, dù mến khách nhưng không có cách nào khác, ông phải nhận lời.
 
Trận tỉ thí diễn ra ngay trong nhà. Không khách khí, khách tung đòn trước. Đó là một cú đá có sức mạnh kinh hồn. Nhanh như sóc, Phan Thọ cúi người né tránh khiến chiếc cột giữa nhà thành… nạn nhân bất đắc dĩ. Thiết cước ấy làm cả gian nhà rung chuyển. Thủ thế đến chiêu thức thứ ba, khi đối phương vẫn hăng say tung những cú đá nhanh như chảo chớp của mình. Lựa một cú đá quét ngang mặt của đối phương, ông liền giở thế tấn mã tam chiến, một chân quét, một tay đỡ đòn, tay còn lại dương hổ trảo, hạ luôn đối thủ. Chỉ một cú đánh ấy, viên sĩ quan Nam Hàn đã nằm sõng soài ngay góc nhà.
 
Và, đương nhiên, anh ta chắp tay kính phục. Tuổi xưa nay hiếm nhưng lão võ sư Phan Thọ vẫn phải đứng ra nhận lời thách đấu của giới võ lâm. Khi ấy, năm 1998, một đoàn võ sĩ cũng của Hàn Quốc lại tìm đến nhà ông. Họ cho rằng, võ cổ truyền của Việt Nam chỉ là võ vườn, không có đẳng cấp như taekwondo nước họ.
 
Tuy đã có tuổi, chẳng còn máu hơn thua nhưng với khi đã chạm đến lòng tự hào dân tộc, lão võ sư lại sắn áo “thượng đài”. Lợi dụng sức trẻ, võ sinh Hàn Quốc ra đòn vun vút. Có cú sát thủ đến nỗi cả mang vữa tường rơi lả tả. Lão võ sư cứ nhẹ nhàng tránh né, hoá giải, chờ cơ hội. Và cơ hội ấy cũng đã đến khi đối phương tung một cú đòn lỡ chớn. Chỉ chờ có vậy, lão võ sư liền cúi người, quét luôn chân trụ. Chỉ một cú đòn ấy, đám khách không mời đã phải chắp tay: “Kung fu Tây Sơn danh bất hư truyền!”.
 
Long tranh hổ đấu
 
Năm 1924, làng võ Bình Định xuất hiện thêm một dòng võ mới đó là quyền Tàu. Người sáng lập ra dòng võ này là Tàu Sáu, tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 tại An Thái. Tuy là người Trung Quốc nhưng gia đình Diệp Trường Phát sinh sống ở An Thái đã được mấy đời.
 
Hấp thụ tinh thần thượng võ từ An Thái, 13 tuổi, Diệp Trường Phát được gia đình gửi về Trung Quốc để học võ từ các cao sức của Thiếu lâm Bắc phái. Sau 15 năm thụ giáo tại cố hương, 28 tuổi, Diệp Trường Phát trở lại An Thái mở lò dạy quyền Tàu. Đến giờ, dân làng An Thái vẫn truyền tai nhau chuyện thi tài giữa Sáu Tàu và đệ nhất roi Hồ Ngạch. Bởi đó là cuộc thí võ kết bạn nên hai bên đã giao ước không gây thương tích, chỉ dùng mực ghi dấu trên y phục đối phương.
 
Trước sự chứng kiến của nhiều môn đồ, hai ông giao kèo lấy một tuần nhang là một hiệp đấu. Sau hiệp đấu quyền, khán giả đếm được những vết mực trên áo hai người là như nhau, tuy thế, Hồ Ngạch vẫn chắp tay bái phục Tàu Sáu, thừa nhận mình kém hơn một bậc. Khán giả hết sức ngạc nhiên.
 
Khi ấy, Hồ Ngạch mới giải thích, các vết mực Tàu Sáu lưu trên y phục mình có phần nhạt hơn. Điều đó chứng tỏ rằng, đường quyền thế cước của Tàu Sáu đã ở mức thượng thừa. Bởi vậy nên ông mới có thể vận hành công lực như ý muốn nên đòn ra mới nhẹ nhàng, dấu mực mới nhạt. Nếu cũng những quyền thế ấy, thi triển hết 12 thành công lực thì sức mạnh sẽ rất kinh hoàng, có thể lấy mạng người trong chớp mắt.
 
Về côn, tuyệt kỹ của Hồ Ngạch, hai bên cũng quần thảo kinh hồn. Người xem chỉ thấy tiếng gậy va vào nhau chan chát còn bóng người thì lấp loá, mờ ảo. Sau tuần nhang, Tàu Sáu thấy trên người mình nhiều vết mực hơn. Trước đông đảo mọi người, ông đã chắp tay bái phục: “Đoản côn ở Thuận Truyền chỉ có Hồ Ngạch làm chủ!”.
 
Phiêu bạt tìm thầy
 
Về tinh thần thượng võ, ham học hỏi của người Việt, bây giờ, cụ Hàn Bái (Lê Bái) sáng tổ Hàn Bái đường, Thiếu lâm Hài Bái vẫn được giới võ lâm hết mực tôn thờ. Lê Bái sinh năm 1889, xuất thân từ một gia đình quyền quý.
 
Ngày ấy, người Pháp cho xây dựng tuyến đường sắt nối liền Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc) với Hải Phòng bởi thế giao lưu đi lại đã thêm bề thuận tiện. Biết Trung Hoa là nơi có nhiều kỳ tài võ học nên Lê Bái đã xin làm Sở Hoả xa tại tỉnh Vân Nam để tìm cơ hội trau dồi võ nghệ. Sau một thời gian nghe ngóng, thấy ở Phúc Kiến có bậc cao nhân từng làm giáo đầu trong triều, Lê Bái đã xin nghỉ việc để tìm lên thọ giáo.
 
Vị sư phụ ấy họ Lý, tên Quân ở Trung Hoa đã danh vang tứ hải. Thấy Lê Bái khôi ngô, tinh hoa phát tiết, Lý sư phụ mừng lắm, vui vẻ thu nạp làm đệ tử. Thế nhưng, trước khi bái sư, Lý sư phụ muốn thử tài năng của cậu học trò mình. Trước thịnh tình của vị sư phụ Lê Bái cũng chẳng khách khí, xuất luôn chiêu Hắc hổ xuyên tâm, đánh thẳng vào ngực đối phương với dự tính trong đầu, nếu bị hoá giải sẽ tiếp tục dùng thức Thanh xà nhập động sở trường của mình mà tấn công đối thủ.
 
Thế nhưng, dự tính ấy đã bị vị quyền sư bắt bài. Ông không gạt tay đối thủ mà nhẹ nhàng tóm thẳng cổ tay, giật xuôi theo đà lao của Lê Bái, đồng thời, quét luôn chân trụ của đối phương, hất văng xa ra. Tuy đau đớn nhưng cú đánh ấy làm Lê Bái mừng rơn. Bái biết, đấy đích thị là người thầy mà bấy lâu nay mình tìm kiếm.
 
Ba năm luyện võ tại nhà Lý sư phụ, Lê Bái đã trưởng thành, tên tuổi cũng đã lừng danh khu Phúc Kiến. Khi ấy, Lý sư phụ đưa cho người đệ tử yêu của mình lá thư tay, nói là quay lại Vân Nam tìm thầy Triệu Quang Chảo, một cao nhân của Thiếu lâm. Theo Lý sư phụ thì tuy là bạn nhưng luận về võ công, so với Quang Chảo, ông chỉ là hậu bối.
 
Quay lại Côn Minh, Lê Bái tiếp tục những tháng ngày khổ luyện và đến năm 1918 thì trở về quê nhà. Sau một thời gian kỳ bạt giang hồ, dạy võ ở khắ nơi, thọ bệnh, ông mất năm 1928, khi vừa tròn 40 tuổi. Bây giờ, đệ tử của ông, tiêu biểu là đại sư Vũ Bá Oai vẫn tiếp tục sự nghiệp hiển hách, hoằng dương tinh thần thượng võ của vị sư phụ kỳ tài của mình.
(GDVN) - Với những cao thủ bây giờ thì họ là những bậc tiền bối, công phu đã danh trấn thiên hạ bấy lâu. Dù đến giờ, đa phần đã thành người thiên cổ...
(GDVN) - Với những cao thủ bây giờ thì họ là những bậc tiền bối, công phu đã danh trấn thiên hạ bấy lâu. Sống dưới chế độ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quãng thời gian mà tinh thần thượng võ bị triệt tiêu tới mức tối đa (phòng ngừa phản kháng), họ đã là cầu nối, đã bôn ba khắp nơi để tầm sư, rèn võ, cứu rỗi cả nền võ thuật Việt Nam trong buổi suy tàn. Dù đến giờ, đa phần đã thành người thiên cổ nhưng tài đức của họ thì vẫn là tiếng thơm để hậu bối noi theo...

Huyền thoại ly kỳ về “cốt cậu Bảy”

06:25 28/08/2013

Từ hàng trăm năm nay, trong cõi tâm linh của giới huyền thuật, cậu Bảy Tây Ninh là một vị bồ tát của người Việt. Pháp sư phái Trà Kha Khmer gọi cậu Bảy là Tà Bay. Pháp sư theo trường phái "bùa Lèo" gọi cậu Bảy là Vlav Bay. Pháp sư theo trường phái "bùa Xiêm" gọi cậu Bảy là Khạo Bay… Trong khẩu quyết thần chú của nhiều trường phái huyền thuật, các pháp sư vẫn cầu tên cậu Bảy trong số hàng trăm vị thần tướng. Giới huyền linh ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa xem Quan Công là vị thần tướng có uy lực nhất trong số các vị thần tướng. Còn giới pháp sư vùng Đông Nam Á xem cậu Bảy mới là người uy lực nhất.

Những huyền thoại “đả hổ” trong lịch sử Việt Nam

Ít ai biết, trong lịch sử Việt Nam cũng từng có nhiều huyền thoại đả hổ nổi tiếng, được mọi người biết đến.

   
Huyền thoại đả hồ Việt Nam gồm có danh tướng Phùng Hưng, bà Ngô Thị Kỷ, cụ Cử Tốn. Họ đã mạnh mẽ một mình hạ gục loài thú dữ và được truyền tụng khắp nhân gian.
Phùng Hưng - người hùng “đả hổ” đất Đường Lâm
Phùng Hưng có tên tự là Công Phấn, Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh, là cháu 7 đời của Phùng Tói Cái - người đã từng vào trong cung vua Đường Cao Tổ, thời niên hiệu Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc và làm quan lang ở đất Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, Sơn Tây, TP Hà Nội ).
Theo sự tích, Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử. Ông bà sinh một lần được ba người con trai khôi ngô tuấn tú, lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể đánh trâu, quật hổ.
Anh cả là Phùng Hưng, em thứ hai là Phùng Hải và em út là Phùng Dĩnh. Đến năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ đều mất. Trong ba anh em, anh cả Phùng Hưng là người có sức khỏe và khí phách hơn người. Ông chính là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam viết nên truyền thuyết “anh hùng đả hổ”.
Chuyện kể rằng thuở Phùng Hưng đang thời trai tráng, bỗng vùng Đường Lâm, Hà Tây quê ông có một con hổ dữ từ rừng về giết người, bắt gia súc, khiến mọi người hết sức hoang mang sợ hãi. Phùng Hưng bèn tìm cách trị hổ cứu dân.
 nhung huyen thoai “da ho” trong lich su viet nam hinh anh 1
 Phùng Hưng là một trong Huyền thoại đả hổ Việt Nam. Ảnh: Internet
Vài ngày sau, khi đã chuẩn bị kỹ lưỡng, người anh hùng đất Đường Lâm một mình vào rừng tiêu diệt chúa Sơn Lâm. Ông làm con bù nhìn bằng rơm, cho mặc quần áo như người thật, đặt ở nơi hổ thường xuất hiện. Hổ đi qua thấy bù nhìn tưởng người, lao vào cắn xé nhưng chỉ có cọc gỗ độn rơm.
Vài lần như thế, hổ không còn chú ý tới bù nhìn rơm nữa. Một hôm trời nhá nhem tối, Phùng Hưng cởi trần, thân đóng khố, trát bùn khắp người đứng thế vào chỗ hay đặt bù nhìn rơm, nín thờ chờ húa cọp dữ xuất hiện.
Khi hổ tới gần, hơi bùn non át hơi người nên chú Sơn Lâm không phân biệt được, cứ đảo qua như mọi khi. Phùng Hưng chỉ chờ có vậy, bất ngờ xông tới nhảy lên mình hổ, ghì chặt con mãnh thú, tiếp sau đó ông dùng ngón tay chọc mù đôi mắt của cọp dữ và quần thảo với con quái vật suốt một thời gian dài.
Khi thấy con hổ đã đuối sức, ông dùng đá giáng một cú thôi sơn lên sọ. Hổ chết, mối họa cho dân được trừ từ đó Phùng Hưng nổi tiếng khắp vùng.
Thiếu nữ giết hổ dữ cứu bạn ở tuổi 15
Người viết lên huyền thoại ấy chính là bà Ngô Thị Kỷ quê ở Quảng Bình. Câu truyện diễn ra cách đây đã 51 năm, khi ấy bà Kỷ vẫn còn là thiếu nữ tuổi trăng tròn. Hồi đó là vào năm 1962 bà Kỷ cùng người bạn của mình tên Quốc ra đồng làm ruộng.
Khi đi qua xóm bên (cách làng 2 km, là cánh rừng hoang vắng, nhiều thú dữ) bỗng hai người hoảng hồn, bởi phái trước là một con cọp to tới hơn tạ, đang nhe vuốt như muốn nuốt chửng con mồi.
Chưa kịp bỏ chạy, con hổ đã lao tối chồm lên anh Quốc, nó cào cấu con mồi khiến anh đau đớn rồi ngất lịm. Thấy tính mạng người bạn thân bị đe dọa, bà Kỷ chẳng nghĩ ngợi nhiều liền rút đòn gánh xông tới phang tới vào đầu con quái vật mong cứu bạn.
 nhung huyen thoai “da ho” trong lich su viet nam hinh anh 2
 Bà Ngô Thị Kỷ. Ảnh: Đất Việt
Con hổ đói bị dính đòn đau liền nhẩy chồm tới toan vồ lấy cô gái nhưng bị hụt, ngã dúi. Nhanh như cắt bà Kỳ liền tận dụng cơ hội quý giá, lao tới dùng chiếc đòn gánh dùng hết sức bình sinh, bổ xuống đầu con mãnh thú khiến cọp dữ gầm nên đau đớn.
Khi thấy hổ đuối sức và choáng váng khi nhận đòn đau, lấy hết dũng cảm bà Kỷ xông tới ôm lấy cổ con hổ, ghì chặt không buông, hai bên quần nhau giữ dội bụi bay mù mịt làm láo loạn cả một vùng rừng núi.
Bất chợt trong lúc đang quần nhau với hổ bà Kỷ chợt nhớ tới cây liềm sắt dắt ở sau lưng, bà liền rút cây liềm cứa một nhát vào cổ con hổ, chiếc liền sắc găm chặt vào yết hầu con thú dữ, khiến mãnh thú, máu chảy sối xả, bỏ chạy vào rừng sâu rồi chết trong đau đớn.
Sau chiến tích ấy tên tuổi cô gái Ngô Thị Kỷ được vang danh khắp nơi. Báo chí trong và ngoài nước nô nức loan tin, Bác Hồ nghe chuyện đã viết thư khen ngợi lòng dũng cảm của cô gái nhỏ bé và trao tặng huy hiệu “tuổi trẻ dũng cảm” .
Tay không đánh chết hai hổ dữ
Người viết lên huyền thoại bất tử còn mãi với thời gian ấy chính là Võ sư Mùi Đen, đệ tử ruột của cụ Cử Tốn (Cử nhân võ học cuối cùng thời kỳ phong kiến ở Việt Nam).
Truyện kể rằng, vốn có tố chất thông minh lại đam mê võ thuật, Mùi Đen đã sớm theo cụ Cử Tốn học võ, trước là để rèn luyện sức khỏe sau là để đánh giặc.
Thời bấy giời võ sư Mùi Đen được ví như người anh hùng bất khả chiến bại của bán đảo Đông Dương, khi không có đổi thủ trong khu vực Đông Nam Á, các sới võ Campuchia, Lào, Thái Lan, Hồng Kông… không nơi nào không ghi dấu chiến tích của cụ.
Tuy nhiên, giai thoại nổi tiếng nhất của Mùi Đen không phải là những lần hạ gục đối thủ trên sàn đấu ở các nước láng giềng mà chính là huyền thoại tay không đánh chết hai con hổ dữ giữa lòng Thủ đô.
Giai thoại kể lại rằng, trước năm 1945, Việt Nam bị Đế quốc Pháp đô hộ, bọn chúng nên đã ban hành luật cấm tập võ trong cả nước. Bất chấp lệnh cấm gắt gao của chính quyền thực dân, cụ Cử Tốn vẫn âm thầm mở lò võ và nhận đệ tử truyền dạy võ học. Trong đám đệ tử của cụ Cử Tốn thời đó nổi tiếng nhất là cụ Mùi Đen, học trò xuất sắc nhất của Chí tôn võ học Việt Nam thời bấy giờ.
Biết tin cụ Cử Tốn mỏ lò võ nhưng thực dân Pháp không dám công khai đàn áp và bắt bớ bởi danh tiếng và vị thế của Cử Tốn lúc đó rất lớn, chúng liền áp dụng kế sách “mượn đao giết giặc” nhằm tiễu trừ cụ.
Thực dân Pháp liền loan tin thông báo khắp Đông Dương, ai thượng đài đánh thắng được cụ Cử Tốn sẽ được thưởng hàng trăm đồng bạc Đông Dương. Tuy nhiên khi thi đấu bắt buộc phải có kẻ sống, người chết trận đấu mới được dừng lại.
Cụ Cử Tốn và đệ tử Mùi Đen đã gặp nhau bàn bạc kế hoạch đối phó.
Hai thầy trò quyết định diễn lại tích “Võ Tòng đả hổ” thời xưa và người được lựa chọn để đánh hổ không phải ai khác chính là Mùi Đen, học trò cưng của cụ Cử Tốn.
Hôm đó sau khi đã chuẩn bị khá kỹ lưỡng, trước sự chứng kiến của hàng nghìn người hiếu kỳ cùng hàng trăm lính Pháp, ở sở thú Hà Nội, trong một ngày chủ nhật kín người.
Cụ Cử Tốn thông báo ý nghĩa của việc làm hôm nay. Tiếp đó, cụ Mùi Đen đích thân lên võ đài và đối thủ của cụ chính là một con hổ đói, đang nhe lanh múa vuốt khí thế như muốn nút chửng con mồi.
 nhung huyen thoai “da ho” trong lich su viet nam hinh anh 3
Võ sĩ mùi đen đánh hổ. Ảnh minh họa.
Sau một tiếng gầm kinh người con mãnh thú lao người về phía trước chồm lên người võ sĩ tay không tấc sắt. Nhanh như chớp, cụ Mùi Đen xoay người tránh được cú vồ đáng sợ của chú Sơn Lâm, đồng thời tặng cho mãnh thú một cú đá ngàn cân vào bụng con hổ dữ, khiến con hồ ngã nhoài tức tối. Hổ dữ liền lao về đối thủ tấn công tới tấp với những cú tát trời giáng nhưng vốn có thân thủ phi phàm và võ công cao cường, võ sư Mùi Đen liền lùi lại phía sau đồng thời tặng cho mãnh thú một cú đấm cực mạnh vào đầu.
Thấy đối thủ dính đòn bị té nhào, biết rằng thời cơ đã tới, cụ Mùi Đen nhanh chóng tiến tới dùng tay trái siết chặt cổ con mãnh thú đồng thời dùng tay thuận chọc mù đôi mắt của chúa Sơn Lâm, tiếp đó dùng bàn tay thép chặt ngang yết hầu vốn là điểm yếu nhất của hổ dữ, khiến cho mãnh thú không thể cắm ngoạm phản kháng.
Liền sau đó là hàng chục cú đấm thôi sơn dáng xuống đầu con cọp dữ, sau hơn hai mươi phút dính đòn, con hổ đói vỡ sọ mà chết.
Sau khi hạ gục mãnh thú, nghỉ ngơi chừng nửa tiếng, cụ Mùi Đen tiếp tục bước vào trận chiến thứ hai, con hổ lần này còn to và dữ hơn con trước, là một con cọp cái và đã hơn một tuần chưa có thức ăn.
Trận chiến lần này thậm chí còn diễn ra quyết liệt hơn lần trước gấp nhiều lần tuy nhiên sau một giờ giao chiến, phần thắng vẫn thuộc về võ sư người Việt, khiến cho người dân và cả bọn quan Pháp chỉ còn biết tái mặt và khâm phục.
Sau khi viết lên điển tích tay không giết một lúc hai hổ dữ, tên tuổi của Mùi Đen lan truyền khắp nơi, các võ sĩ trong và ngoài nước không còn ai nghĩ tới chuyện thách đấu với cụ Cử Tốn nữa, bởi họ cho rằng, Mùi Đen mới chỉ là học trò của Cử Tốn mà có thể tay không giết hổ dữ, thì Cử Tốn chắc hẳn võ công còn thâm hậu hơn gấp bội, thế nên nếu thách đấu chẳng khác nào tìm đường tự sát.
Theo Nguyễn Hưng (Đời sống Plus)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét