CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 85/5 (Máy bay)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Máy bay và đại chiến thế giới - Phần 5

Ngày thứ năm đen tối của không quân Mỹ

Hơn 50 năm trước, trong Chiến tranh Triều Tiên, vùng trời giữa sông Áp Lục và sông Thanh Xuyên (Ch'ongch'on) là hành lang của những chiếc máy bay Mig. Không quân Mỹ chỉ dám lượn lờ ở bên ngoài mà không dám xâm phạm bởi “ngày thứ 5 đen tối” đã cho họ những bài học không thể quên.


Nhớ về một thời đã qua, gần đây, cựu chiến binh Boris Abakumov của Nga đã cho ra đời cuốn “Một cuộc chiến tranh ít người biết đến”, hé lộ về quá trình tham chiến bí mật của không quân Liên Xô ở bán đảo Triều Tiên. Theo ông Boris, sau khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, dựa vào ưu thế không quân, đội quân đa quốc gia khoác chiếc áo Liên hợp quốc, do Mỹ đứng đầu đã thổi được ngọn lửa chiến tranh về phía biên giới Trung-Triều. Nhận được yêu cầu của Bắc Kinh và Bình Nhưỡng, Mátxcơva quyết định phái lực lượng không quân tiêm kích và pháo phòng không tham chiến. Tháng 11/1950, sau khi được lựa chọn, những phi công ưu tú của Liên Xô khoác trên mình bộ đồ Tôn Trung Sơn xanh hoặc xám đi tầu sang khu vực đông bắc Trung Quốc dưới danh nghĩa khách du lịch. Tại đây, vào cuối tháng 11/1950, Liên Xô đã cho thành lập khẩn cấp đơn vị tiêm kích số 64.
 F-86, loại máy bay của Mỹ từng tham chiến trong Chiến tranh Triều Tiên
F-86, loại máy bay của Mỹ từng tham chiến trong Chiến tranh Triều Tiên

Cho dù đã cử lực lượng tham chiến, nhưng Mátxcơva vẫn tìm mọi cách tránh nảy sinh xung đột công khai với Oasinhtơn. Do đó, tất cả binh lính, sỹ quan Liên Xô tham gia vào Chiến tranh Triều Tiên đều phải mặc bộ đồ, đeo huy hiệu của quân chí nguyện Trung Quốc. Đơn vị tiêm kích số 64 cũng đặt ra không ít quy định đặc biệt. Các phi công Liên Xô được lựa chọn đều mang một tấm thẻ, bên trên in tên Trung Quốc của mình cũng như những từ ngữ chuyên dùng khi bay bằng tiếng Hán và tiếng Triều Tiên. Trước khi qua biên giới sang đất Trung Quốc, họ đều được nhân viên KGB kiểm tra kĩ càng, giữ lại những vật dụng do Liên Xô sản xuất hay mang đặc trưng của Liên Xô, kể cả kèn ắcmônica, loại nhạc cụ binh sĩ Liên Xô rất thích mang theo bên mình để giải khuây. Ngoài ra, nhằm tránh bị lộ chân tướng, trong quá trình tác chiến, khi liên lạc qua vô tuyến điện, các phi công Liên Xô phải dùng tiếng Hán hoặc tiếng Triều Tiên. Ban đầu, phòng trường hợp máy bay Liên Xô bị bắn rơi, phi công bị bắt làm tù binh, đơn vị tiêm kích số 64 chỉ được giao nhiệm vụ bảo vệ các khu hành chính, trung tâm công nghiệp, kinh tế, đầu mối giao thông, cầu đường, trạm điện và những nơi bộ đội tập kết ở khu vực đông bắc Trung Quốc như: Thẩm Dương, Yên Sơn và An Đông (nay là Đan Đông). Sau đó, do sự phát triển của chiến tranh, phạm vi tác chiến của các phi công Liên Xô được mở rộng sang cả vùng trời Triều Tiên.
 F-86, loại máy bay của Mỹ từng tham chiến trong Chiến tranh Triều Tiên
Mig-15, loại máy bay đầu tiên trên thế giới được trang bị pháo 37 mm, tốc độ bắn cao, khả năng xuyên phá lớn, có thể xuyên thủng lớp vỏ dày của chiếc B-29 do Mỹ sản xuất.

Ngày 8/11/1950, lần đầu tiên không quân Liên Xô tác chiến trên chiến trường Triều Tiên. Phi công Shegorev lái chiếc máy bay phản lực Mig-15 bắn rơi một chiếc máy bay trinh sát P-51 của Mỹ trên bầu trời An Đông. Một ngày sau, cũng ở An Đông, họ lại hạ thêm 1 chiếc F-80 và 1 chiếc F-47 của Mỹ. Ngày 10/11, B-29, chiếc máy bay ném bom được mệnh danh là “pháo đài trên không” của không quân Mỹ cũng trở thành mồi ngon cho những chiếc Mig-15 của Liên Xô. Lo lắng, Lầu Năm Góc đã cho đình chỉ tất cả những chuyến bay chiến đấu dọc tuyến sông Áp Lục.

Tuy nhiên, những cuộc đụng độ giữa không quân hai nước Mỹ và Liên Xô vẫn tiếp tục và kịch liệt nhất là vào ngày 12/4/1951. Hôm đó, Mỹ phái 72 chiếc B-29 thực hiện nhiệm vụ ném bom chiến lược xuống những chiếc cầu sắt bắc qua sông Áp Lục và nhiều mục tiêu gần đó. Công tác bảo đảm hành lang an toàn cho những chiếc B-29 được giao cho 32 chiếc F-80. Để đối phó, không quân Liên Xô ra lệnh cho 60 chiếc máy bay thuộc 3 trung đoàn không quân xuất kích. Cuộc không chiến kéo dài 40 phút. Phía Liên Xô không phải chịu bất cứ tổn thất nào. Phía Mỹ mất 16 chiếc B-29 và 10 chiếc F-80. Bầu trời sông Áp Lục hôm đó, chưa bao giờ người ta thấy nhiều phi công Mỹ nhảy dù thoát thân đến thế. Ngày 12/4/1951 trở thành “thứ 5 đen tối” trong lịch sử không quân Mỹ.
 Không quân chí nguyện trong cuộc Chiến tranh kháng Mỹ viện Triều
Không quân chí nguyện trong cuộc Chiến tranh kháng Mỹ viện Triều

Đứng trước sự lớn mạnh không ngừng của “hành lang Mig”, từ tháng 12/1950, Mỹ quyết định điều liên đội F-86 số 4 từ Nhật Bản sang tăng cường cho chiến trường Triều Tiên, quyết tâm giành lại ưu thế trên không. Ban đầu, do chưa nắm được những tính năng ưu việt của F-86, các phi công Liên Xô vẫn vận dụng cách đánh F-80 để đối phó với F-86, nên hiệu quả rất thấp, thắng ít thua nhiều. Vấn đề đặt ra là phải có trong tay xác một chiếc F-86 hoặc chí ít là bắt sống được một viên phi công lái chiếc F-86 để lấy thông tin về chiếc máy bay. Nhiệm vụ khó khăn đó được giao cho Thượng tá Pepelyayev, Trung đoàn trưởng Trung đoàn không quân tiêm kích số 196.

Ngày 11/7/1951, được tin F-86 xuất hiện, Pepelyayev được lệnh cất cánh nghênh chiến. Bằng kinh nghiệm lão luyện, Pepelyayev đã điều khiển chiếc Mig-15 nhanh chóng áp sát mục tiêu, nhấn nút. Một chiếc F-86 như một bó đuốc bùng lên, nổ tung thành trăm ngàn mảnh. Viên phi công bị quân chí nguyện bắt sống. Qua thẩm vấn, viên phi công Mỹ đã tiết lộ những điểm yếu của F-86 như: tăng độ cao chậm, nếu bay cao hơn 10 km, thì lực đẩy của động cơ và tính năng thao tác giảm… Ngày 6/10/1951, Pepelyayev chỉ huy 10 chiếc Mig-15 lên giao chiến cùng 16 chiếc F-86 ở độ cao 8.000 m. Sau khi bố trí xong đội hình, Pepelyayev lập tức nhấn nút khai hỏa nhằm vào chiếc F-86 phía trước. Do đã có chủ định, nên ở cự li chỉ khoảng 550 m, Pepelyayev đã đưa được viên đạn vào đúng nơi nó cần tới: khoang lái. Phi công điều khiển chiếc F-86, Thượng úy không quân Mỹ, Garrett, không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bỏ máy bay để chiếc F-86 lao xuống bờ biển phía đông Triều Tiên. Nhanh như cắt, một chiếc SA-16 lướt tới cứu Garrett mang đi. Nhưng đối với phía Liên Xô, xác chiếc F-86 kia mới thực sự là món quà quý giá. Không thể chậm trễ, đội kĩ thuật lập tức tới hiện trường xẻ xác F-86 chất lên xe về nghiên cứu. Trên đường trở về, đoàn xe bị một tốp B-26 tấn công, may mắn không bị tổn thất gì. Qua nghiên cứu tỉ mỉ, không quân Liên Xô, Trung Quốc và Triều Tiên đã nắm được hết những đặc tính, tính năng của F-86, loại máy bay tân tiến nhất của không quân Mỹ lúc bấy giờ, góp phần quan trọng giảm thiểu tổn thất trên chiến trường.

Theo thống kê của Bộ Tổng tham mưu Liên Xô, trong thời gian Chiến tranh Triều Tiên, Mát xcơva mất 335 máy bay cùng 126 phi công. Các máy bay của đơn vị tiêm kích số 64 xuất kích 64.300 lần, tham gia vào 1.872 lượt không chiến, bắn rơi 1.106 chiếc máy bay của Mỹ, trong đó có 651 chiếc F-86. Điều đáng chú ý là trong cuộc chiến tranh này, Mỹ mất tới 170 chiếc máy bay ném bom B-29, làm tê liệt khả năng tác chiến của lực lượng tấn công hạt nhân của Mỹ ở Viễn Đông, buộc chính phủ Eisenhower phải từ bỏ ý định thả bom nguyên tử xuống Liên Xô, Trung Quốc và Triều Tiên.

Một vấn đề đặt ra là người Mỹ có biết quân đội Liên Xô đã tham gia vào Chiến tranh Triều Tiên? Câu trả lời là có. Ngay từ cuối năm 1950, qua các nguồn tin tình báo, Lầu Năm Góc đã kết luận quân Liên Xô đã tham chiến. Các đài chặn thu sóng vô tuyến điện của Mỹ đã ghi lại được nhiều đoạn đối thoại bằng tiếng Nga của các phi công Liên Xô khi tác chiến trên chiến trường Triều Tiên. Phi công Mỹ cũng nhiều lần nhìn thấy những khuôn mặt da trắng trong buồng lái của máy bay quân chí nguyện. Tuy nhiên, Oasinhtơn không một lần đề cập tới việc tham chiến của Liên Xô. Bởi Nhà Trắng biết rằng nếu công bố, nhân dân Mỹ sẽ yêu cầu họ phải có hành động, trong khi họ không muốn đẩy những cuộc đụng độ với Cremli tới bờ vực nguy hiểm của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 3. Hơn nữa, lúc đó trọng điểm chiến lược của Mỹ nằm ở châu Âu, nơi Lầu Năm Góc mới bố trí được 150 chiếc máy bay. Theo đánh giá của giới tình báo, nếu muốn đối kháng toàn diện với Liên Xô, Mỹ phải chuẩn bị ít nhất hai, ba năm. Đó chính là lý do khiến Nhà Trắng phải “ngậm bồ hòn làm ngọt” trước hành động tham chiến của Liên Xô trong Chiến tranh Triều Tiên.

Theo Ngọc Khánh
Báo Tin tức

Hành lang MiG

Trận đối đầu ác liệt giữa MIG -21 Việt Nam với không lực Mỹ

Với những chiến thuật mới, MiG-21 của không quân Việt Nam dần làm chủ bầu trời đẩy những chiếc F-4 và F-105 vào thế trận phải loay hoay chống đỡ trên cả hai mặt trận.



Cuộc chạm trán vô cùng ác liệt với “Con Ma”
Sau chiến công bắn hạ các máy bay không người lái của Mỹ, trong tháng 04/1966 các tiêm kích MiG-21 đã vài lần xuất quân đánh chặn các tiêm kích của Không quân Mỹ nhưng thành công đã không đến với các phi công Bắc Việt.
Trận không chiến với tiêm kích Mỹ đầu tiên diễn ra vào ngày 23/04/1966, lúc đó biên đội 2 MiG-21 đã tấn công phi đội tiêm kích chiến thuật F-4 Phantom (biệt danh Con ma). Mặc dù nắm được yếu tố bất ngờ song các phi công MiG-21 đã không thể chiếm được vị trí thuận lợi để phóng tên lửa.
Liên tiếp trong 2 tháng 04 và 05/1966 đã có không dưới 14 lần các phi công MiG-21 phóng tên lửa về phía các tiêm kích Mỹ nhưng không một tên lửa nào trúng mục tiêu. Trong khi chưa diệt được tiêm kích nào của Mỹ, Trung đoàn 921 đã phải chịu những tổn thất đầu tiên, một số phi công MiG-21 đã buộc phải nhảy dù do máy bay hết nhiên liệu không kịp hạ cánh.
Ngày 26/04/1966, Không quân Mỹ xác nhận việc bắn rơi 1 chiếc MiG-21 được ghi nhận cho một chiếc tiêm kích F-4 Phantom phi đội 480 thuộc đơn vị Không quân chiến thuật số 35. Trước những tổn thất nói trên, Bộ chỉ huy Quân chủng Phòng không-Không quân đã tiến hành họp khẩn cấp để phân tích các trận không chiến vừa qua để rút kinh nghiệm.
Kết quả phân tích đã chỉ ra những hạn chế lớn của MiG-21 trong việc tìm kiếm và chỉ thị mục tiêu. Ban đầu các phi công sẽ sử dụng radar để phát hiện mục tiêu, sau khi mục tiêu được xác định các phi công phải chuyển sang dùng hệ thống quang học để khóa mục tiêu và xác định cự ly bắn.
Ngay khi vào trận không chiến với các tiêm kích Mỹ, MiG-21 đã bộc lộ khá nhiều hạn chế song đã được Việt Nam khắc phục qua từng trận đánh.
Việc chuyển từ radar sang hệ thống quang học tạo ra một độ trễ nhất định về thời gian, trong quãng thời gian đó, các phi công đối phương sẽ tìm mọi cách cơ động để thoát khỏi tầm ngắm của hệ thống quang học. Mặt khác, hệ thống quang học trên MiG-21 có phạm vi hoạt động tương đối hẹp, đòi hỏi phi công phải điều khiển máy bay một cách chính xác để duy trì mục tiêu trong phạm vi hoạt động của nó.
Với thời gian sử dụng MiG-21 vỏn vẹn có vài tháng của các phi công Việt Nam thì việc duy trì mục tiêu trong phạm vi của hệ thống quang học không phải là điều đơn giản trong năm 1966. Bên cạnh đó những chiếc tiêm kích MiG-21PF chuyển giao cho Việt Nam không được trang bị pháo GP-9 làm giảm hiệu quả tác chiến. Từ kết quả phân tích điểm yếu của MiG-21, Quân chủng Phòng không-Không quân đã đề ra chiến thuật mới cho biên đội MiG-21.
Theo đó, biên đội MiG-21 làm nhiệm vụ đánh chặn sẽ được trang bị vũ khí hỗn hợp. Một chiếc được trang bị tên lửa không đối không tầm ngắn K-13 lắp đầu tự dẫn hồng ngoại, chiếc còn lại lắp 2 khối phóng rocket không điều khiển S-5M để tấn công mục tiêu trong trường hợp hệ thống quang học không thể khóa mục tiêu.
Với chiến thuật mới, thành công đã đến với các tiêm kích MiG-21 của Việt Nam. Biên đội MiG-21 trang bị vũ khí hỗn hợp đã dành chiến thắng đầu tiên trước tiêm kích của Mỹ vào ngày 07/06/1966, 2 chiếc MiG-21PF xuất kích đã tiêu diệt thành công một chiếc tiêm kích-ném bom F-105 Thunderchief (Việt Nam gọi là Thần Sấm). Tuy nhiên, việc bắn hạ chiếc F-105 trong ngày hôm đó không được phía Mỹ xác nhận.
Nhằm tăng cường hiệu quả chiến đấu cho các tiêm kích MiG-21, Quân chủng PK-KQ đã chỉ thị cho các phi công hoạt động chiến đấu trong trình tự tương đối chặt chẽ. Cự ly giữa các máy bay theo chính diện là 50 mét, theo chiều sâu là 200 mét, trong trường hợp hoạt động theo biên chế phi đội, cự ly giữa các cặp MiG-21 là từ 300 đến 700 mét. Sau đó, các cự ly giữa các máy bay trong cặp sẽ tăng lên từ 500- 800 mét và 800 mét giữa các cặp. Thông thường, các máy bay MiG-21 hoạt động trên độ cao hơn 2.500 mét.
Những chiếc MiG-21PF chuyển giao cho Việt Nam không được trang bị pháo làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả tác chiến.
Trong tháng 06/1966 có thêm 13 phi công Việt Nam hoàn tất quá trình chuyển loại sang sử dụng tiêm kích MiG-21 tại Liên Xô về nước bổ sung đáng kể cho lực lượng phi công lái tiêm kích MiG-21. Ngày 09/06/1966, biên đội 2 chiếc MiG-21 đã lập chiến công bắn hạ 2 chiếc tiêm kích F-4 Phantom, nhưng phía Mỹ không công nhận tổn thất này.
Từ nửa cuối năm 1966, thành tích chiến đấu của Không quân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liên tục gia tăng. Tuy vậy, sự gia tăng thành tích này chủ yếu từ sự đóng góp của MiG-17. Các tiêm kích MiG-21 của Trung đoàn 921 đã xuất quân không chiến vài lần nhưng không bắn hạ được máy bay nào của Mỹ.
Quân chủng PK-KQ tiếp tục tổ chức những cuộc họp để tìm hiểu nguyên nhân chưa thành công của MiG-21 trên chiến trường Việt Nam. Kết quả phân tích cho thấy các phi công lái MiG-21 vẫn sử dụng chiến thuật vận động không chiến như những gì mà họ tập luyện thành thục với MiG-17 trong khi MiG-21 khác xa về tốc độ và khả năng cơ động.
Rõ ràng các phi công Việt Nam nắm giữ hai lợi thế lớn so với Không quân Mỹ là nắm rõ địa hình địa vật khu vực tác chiến và có sự hỗ trợ rất lớn từ hệ thống dẫn đường mặt đất rộng khắp. Quân chủng PK-KQ đã cho điều chỉnh căn bản chiến thuật chiến đấu của không quân tiêm kích. Sử dụng hiệp đồng biên đội chiến đấu giữa MiG-21 và MiG-17 nhằm bổ trợ cho nhau.
F-4 và F-105 bị đẩy vào thế trận loay hoay chống đỡ những chiếc MiG-21 nhanh nhẹn cũng như hỏa lực phòng không mặt đất.
Theo đó MiG-17 sẽ đảm nhận việc chiến đấu ở độ cao dưới 1.500 mét, MiG-21 đảm nhận hoạt động chiến đấu ở độ cao từ 2.500 mét trở lên, khoảng độ cao từ 1.500-2.500 mét là vùng phối hợp không chiến chung. Với chiến thuật mới trong 2 ngày 07 và 11/07/1966 MiG-21 đã bắn hạ 2 chiếc F-105 Thunderchief.
Ngày 21/09/1966, MiG-21 tiếp tục bắn hạ thêm 1 chiếc F-105D khác của Không quân Mỹ. Đến ngày 09/10/1966, các phi công MiG-21 đã dành chiến thắng đầu tiên trước các tiêm kích của Hải quân Mỹ khi bắn hạ đến 2 chiếc F-4B thuộc phi đội tiêm kích VF-154 hoạt động chiến đấu trên tàu sân bay USS- Coral Sea hộ tống cho phi đội cường kích A-4 Skyhawk ném bom khu vực nhà ga Phả Lại, Quảng Ninh.
Đến cuối năm 1966, các tiêm kích MiG-21 đã lập chiến công bắn hạ thêm 2 chiếc F-4 Phantom và 5 chiếc F-105 Thunderchief. Bên cạnh đó, dưới sự cố vấn của các chuyên gia Liên Xô, MiG-21 đã chuyển sang sử dụng chiến thuật đánh chặn từ xa thay vì chỉ cất cánh nghênh chiến khi máy bay địch đã vào không phận như trước.
Với những chiến thuật mới cùng với việc tự rút kinh nghiệm sau mỗi trận đánh của các phi công, tiêm kích MiG-21 dần làm chủ bầu trời đẩy những chiếc F-4 và F-105 vào thế trận phải loay hoay chống đỡ những chiếc MiG-21 nhanh nhẹn cùng nỗi lo nơm nớp từ hỏa lực phòng không mặt đất.
Bài viết có sử dụng tư liệu trong cuốn "Những trận không chiến trên bầu trời Việt Nam (1965-1975) nhìn từ hai phía" - NXB Quân đội Nhân dân, 2013.

Theo Quốc Việt (Trí thức trẻ)

Những trận không chiến nổi tiếng của Không quân Việt Nam và Mỹ (Kỳ 1)

13:15 | 28/04/2016
|
(PetroTimes) - Ngày 13/4/2016, tại Hà Nội đã diễn ra một cuộc gặp gỡ lịch sử giữa một số phi công tiêm kích lừng danh của Việt Nam và một số phi công Mỹ đã từng tham chiến ở Việt Nam từ những năm 1965-1972.
Tại cuộc gặp này, một số phi công Mỹ đã từng tham chiến ở chiến tranh Triều Tiên, đã đối đầu với phi công Liên Xô cũ, Trung Quốc, Triều Tiên đã phải công nhận rằng, phi công tiêm kích Việt Nam là những người xuất sắc nhất trong những người xuất sắc.
PetroTimes xin giới thiệu với bạn đọc hai trận đánh nổi tiếng của Không quân Việt Nam trong cuộc chiến đấu bảo vệ vùng trời miền Bắc trước cuộc chiến tranh phá hoại bằng Không quân của Mỹ.
I - CÁC TRẬN KHÔNG CHIẾN NGÀY 10/5/1972
(Một trong những ngày không chiến dài nhất trong chiến tranh trên không ở Việt Nam)
Ngày 10/5/1972 (ngày đầu tiên của chiến dịch) phía Mỹ tiến hành đồng thời hai chiến dịch Linebacker I và Operation Custom Tailor trên quy mô lớn, với 414 lần/chuyến cất cánh của lực lượng máy bay chiến đấu thuộc Bộ tư lệnh không quân số 7 và Bộ tư lệnh đặc nhiệm 77 của hải quân Mỹ. Phía Mỹ huy động lực lượng lớn các máy bay A-6 (Intruder), A-7 (Corsair) và F-4 (Phantom) từ các tàu sân bay trên biển Đông cất cánh bay vào đánh phá các mục tiêu quanh khu vực Hải Phòng và các mục tiêu phía đông nam Hà Nội. Lúc 8 giờ sáng, các phi đội tấn công đầu tiên cất cánh từ tàu USS Constellation và USS Kitty Hawk hướng về Hải Phòng, sau đó 20 phút là các biên đội từ hai tàu USS Coral Sea và USS Okinawa cất cánh để tiến hành chiến dịch tấn công mang mật danh Alpha Strike. Trong trận này các máy bay Mỹ đeo bom hạng nặng để ném bom sân bay Kiến An và các trận địa tên lửa phòng không.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 1
Ngày 10/5/1972, lần đầu tiên Không quân Việt Nam tiến hành xuất kích đánh hiệp đồng cả 4 trung đoàn không quân.
Trong khi đó tại các căn cứ không quân ở Thái Lan, các phi đoàn không quân chiến thuật Mỹ đã chuẩn bị cất cánh từ sáng sớm để tấn công các mục tiêu sâu trong lãnh thổ miền Bắc Việt Nam. Trong ngày 10/5/1972, không quân Mỹ huy động 120 máy bay tham gia tấn công, trong đó 16 máy bay F-4 và 5 chiếc F-105 bay vào trước để chế áp lực lượng phòng không và máy bay MiG, 20 chiếc F-4 và năm chiếc F-105 khác làm nhiệm vụ đánh cầu Long Biên, 24 chiếc F-4 và 5 chiếc F-105 tham gia đánh nhà ga Yên Viên, ngoài ra còn có 88 chiếc máy bay các loại làm nhiệm vụ hỗ trợ. Một trong những nhiệm vụ của không quân và hải quân Mỹ trong ngày 10/5/1972 là phải đánh sập cầu Long Biên bắc qua sông Hồng mà trước đó, trong suốt bảy năm trời không quân Mỹ chưa đánh sập được.
Lúc 4 giờ sáng tại khách sạn Metropol, một nhóm các nhà báo quốc tế được đánh thức dậy để di chuyển xuống Hải Phòng, nơi dự kiến có thể ghi nhận các hình ảnh về các trận đánh phá của hải quân Mỹ xuống Hải Phòng và tham dự buổi họp báo về việc tố cáo Mỹ thả mìn phong tỏa cảng Hải Phòng. Trong số các nhà báo quốc tế có hai nhà báo Pháp Theodore Ronco và Claude Julien của tờ L’Humanité và tờ Le Monde. Đây sẽ là các nhân chứng sống chứng kiến các máy bay Mỹ đánh phá các mục tiêu dân sự.
Trước ý đồ của Không quân và Hải quân Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân quyết định tổ chức đánh hiệp đồng cả ba loại MiG của bốn trung đoàn Không quân tiêm kích với lực lượng tên lửa, pháo Phòng không. Ý định tác chiến của Bộ Tư lệnh là triển khai theo phương án đánh các tốp máy bay cường kích của Hải quân và Không quân Mỹ ở cả ba hướng: hướng Đông bảo vệ Hải Phòng, hướng Đông Bắc bảo vệ cầu Long Biên, các mục tiêu Đường 1 Bắc và hướng Tây, bảo vệ đập Bái Thượng, sân bay Yên Bái.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 1
Các phi công - Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân giai đoạn 1964 - 1973
Chủ trì kíp trực chỉ huy tại Sở chỉ huy Không quân là Tư lệnh Đào Đình Luyện, cùng có mặt gồm các Phó Tư lệnh Trần Mạnh, Trần Hanh, phó Chính ủy Hồ Luật, trực ban dẫn đường Lê Thành Chơn, Khổng Đức Thi, Đỗ Cát Lâm, Lê Viết Diện. Trung đoàn 921 sử dụng các biên đội 2 chiếc Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Ngãi, Nguyễn Công Huy và Cao Sơn Khảo; Trung đoàn 927 là biên đội 2 chiếc Lê Thanh Đạo và Vũ Văn Hợp; Trung đoàn 923 sử dụng ba biên đội 4 chiếc và hai biên đội 2 chiếc MiG-17 trực ban chiến đấu tại sân bay Kép. Trung đoàn 925 tổ chức hai biên đội 4 chiếc trực ở hai đầu sân bay Yên Bái gồm: Hoàng Cao Bổng, Phạm Cao Hà, Nguyễn Văn Cương, Lê Văn Tưởng và Phạm Ngọc Tâm, Phạm Hùng Sơn C, Nguyễn Văn Phúc, Lê Đức Oánh. Trong ngày 10/5, phía Không quân Việt Nam xuất kích 64 lần/chiếc (số lượng lớn nhất trong các trận không chiến giai đoạn hai).
Tại Trung đoàn Không quân 923: Lúc 7 giờ 53 phút, Bộ Tư lệnh cho trạm ra đa C-53 mở máy và phát hiện máy bay Mỹ hoạt động quanh khu vực Hải Phòng. Lúc 8 giờ 40 phút biên đội Mig-17 gồm Vũ Văn Đang, Nguyễn Công Ngũ, Trịnh Văn Quy, Nguyễn Văn Lâm cất cánh từ sân bay Kép, vào khu chờ Phả Lại, không gặp đối phương đã quay về hạ cánh. Đến 8 giờ 55 phút Sở chỉ huy Trung đoàn 923 cho biên đội MiG-17 Đỗ Hạng và Nguyễn Xuân Hiển cất cánh từ Kép, nhưng do không gặp đối phương đã quay về hạ cánh. Sau đó, từ 9 giờ 05 phút đến 17 giờ 08 phút chiều, đã có thêm 10 tốp Mig-17 với 32 lần/chiếc của Trung đoàn 923 cất cánh làm nhiệm vụ (trong đó có nhiều biên đội cất cánh hai lần, riêng các phi công Vũ Văn Đang, Nguyễn Xuân Hiển cất cánh ba lần).
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 1
Trung tướng Nguyễn Đức Soát, Anh hùng LLVT trò chuyện với một cựu phi công Mỹ (ngày 13/4/2016)
Tại Trung đoàn Không quan 921, lúc 8 giờ 52 phút, Sở chỉ huy lệnh biên đội MiG-21 Ngự - Ngãi cất cánh từ sân bay Kép. Khi biên đội mới rời đất và thu càng thì hai chiếc F-4J (Silver Kite) phát hiện, xông vào công kích. Đây là hai chiếc F-4J do Đại úy Austin Hawkins thuộc Phi đoàn VF-92, tàu sân bay USS Constellation dẫn đầu đang bay tuần tiễu trên độ cao 5.000m. Khi bay ngang qua sân bay Kép, hai chiếc F-4 này đã phát hiện MiG của Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Ngãi cất cánh. Chiếc F-4 số 2 do Đại úy Curt Dose và thiếu tá James McDevitt điều khiển bám theo, phóng hai quả tên lửa AIM-9G, quả thứ hai đã trúng chiếc MiG số hai của Ngãi. Lúc đó anh mới lên độ cao 150-200m, Ngãi không kịp nhảy dù nên đã hy sinh.
Trong khi đó, Đặng Ngọc Ngự đã lên độ cao 600m, tốc độ 750-800km/h, phát hiện 2 chiếc F-4 phía sau đang phóng tên lửa về phía mình, anh nhanh chóng cơ động tránh tên lửa, ngay lúc đó anh phát hiện thêm 2 chiếc F-4 khác đang đối đầu cự ly 4-6km, anh nhanh chóng vứt thùng dầu phụ, bật tăng lực, tăng tốc độ lên 900km/h và cô động gấp. Lúc đó 2 chiếc F-4 cũng phát hiện chiếc MiG-21 nên cơ động vòng gấp bên trái bám theo anh.
Hai chiếc F-4 cơ động, theo chiến thuật tách đội hình, đan chéo, một chiếc trên cao, một chiếc dưới thấp. Phi công Đặng Ngọc Ngự rơi vào thế một mình đối đầu 2 chiếc F-4. Anh làm động tác giả định bám theo chiếc F-4 bên dưới, lúc đó chiếc F-4 trên cao liền đổi hướng bám theo, anh lập tức vòng gấp bám theo chiếc này, tức thì chiếc bên dưới quay lại bám theo anh. Phi công Đặng Ngọc Ngự quyết định đổi hướng, nhanh chóng bám theo chiếc F-4 bên dưới, đưa mục tiêu vào vòng ngắm, khi cự ly là 1.200m, tốc độ đạt 1.100km/h, độ cao 1.500m, anh ấn nút phóng quả tên lửa R-3S bên trái, sau đó anh nhanh chóng thoát ly, chuyển sang bám chiếc F-4 còn lại, đến cự ly 1.200m anh ấn nút phóng quả tên lửa thứ hai, nhưng rất may cho viên phi công F-4, quả tên lửa bên phải không đi. Phi công Đặng  Ngọc Ngự nhanh chóng thoát ly về Nội Bài hạ cánh, lúc 9 giờ 12 phút.
Như vậy trong trận không chiến ngày 10/5/1972, biên đội MiG-21, Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Ngãi của Trung đoàn 921, đã bắn rơi 1 chiếc F-4. Trong khi phi công Nguyễn Văn Ngãi số 2 đã hy sinh, tỷ số của trận không chiến là 1/1.
Ghi theo lời kể của phi công Lê Thanh Đạo:
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 1
Phi công Lê Thanh Đạo
“Lúc đó biên đội chúng tôi (Đạo - Hợp) đang ngồi trong buồng lái chờ cất cánh ở đầu đường băng sân bay, nên chứng kiến từ khi biên đội Ngự - Ngãi cất cánh, thấy rõ khi máy bay số 2 mới rời đất đang thu càng đã bị tên lửa Mỹ bắn trúng, lúc đó chúng tôi rất căm thù và quyết tâm nếu cất cánh phải đánh tốt trả thù cho đồng đội.
Cũng lúc ấy chúng tôi đã dùng liên lạc đối không thông báo cho số 1 Ngự biết có F-4 đang đuổi theo. Nhờ được Đạo-Hợp cảnh báo, Ngự đã cơ động với tốc độ lớn trên độ cao thấp nên tránh được tên lửa của F-4(F-4 số 1 bắn liên tiếp 3 quả AIM-9G, F-4 số 2 bắn 1 quả nhưng Ngự đều tránh được). Hai chiếc F-4 chỉ còn lại tên lửa điều khiển AIM-7 và không kịp sử dụng pháo, nên không làm gì được Ngự, mặc dù ở vị trí rất có lợi…”.
Sau đó chưa đầy một tiếng, ở hướng Tây Bắc, 84 chiếc F-4 và 5 chiếc F-105 với đội hình có cả máy bay ném bom, máy bay làm nhiệm vụ yểm trợ, tìm diệt MiG trinh sát, cứu nguy, trực thăng, thông qua phía Bắc Lào và Thái Lan bay vào miền Bắc Việt Nam. Do nắm trước được ý đồ không quân Mỹ sẽ đánh đập Bái Thượng và sân bay Yên Bái, Sở chỉ huy Không quân đã chuẩn bị phương án và quyết định sử dụng biên đội MiG-21 (Nguyễn Công Huy số 1 và Cao Sơn Khảo số 2) làm nhiệm vụ nghi binh và yểm trợ cho MiG-19 đánh bảo vệ các mục tiêu ở khu chiến Yên Bái - Tuyên Quang.
Lúc 9 giờ 39 phút, chiến dịch bắt đầu, khi biên đội MiG-21 (Huy và Khảo) cất cánh, theo ghi chép nhật ký chiến đấu của Không quân Việt Nam, thì 2 chiếc MiG-21 của Trung đoàn 921 cũng cất cánh từ Nội Bài, hướng về Tuyên Quang (theo báo cáo của phi công Mỹ có đến 4 chiếc MiG-21).
Biên đội Huy số 1 - Khảo số 2, sau khi cất cánh bay hướng 320 độ, giữ độ cao 2.000m. Đến 9 giờ 53 phút, Sở chỉ huy cho lên 6.000m. Do bị nhiễu nặng không liên lạc đối không được, sở chỉ huy cho chuyển sang rãnh liên lạc số 5. Lúc này biên đội 4 chiếc F-4D (mật danh Oyster) của Mỹ do thiếu tá Robert A. Lodge và Đại úy Roger C. Locher dẫn đầu, bay số 3 là Đại úy S.Rittchie và Đại úy DeBellevue (2 phi công sau này sẽ trở thành các phi công Aces đầu tiên của Không quân Mỹ) làm nhiệm vụ chế áp MiG trên vùng trời Tuyên Quang yểm trợ đội hình cường kích tấn công cầu Long Biên, Hà Nội và ga Yên Viên.
Theo các tin tức tình báo thì máy bay F-4D này là thế hệ F-4 cải tiến, được lắp thêm cánh tà trước, và là những chiếc F-4D đầu tiên được trang bị hệ thống tác chiến điện tử - chỉ dẫn tập trung APX-80 Combat Tree IFF Interrogator, biên chế tại căn cứ Udorn, Thái Lan với thiết bị QRC-248 có khả năng thu và giải mã tần số (integrated) vào hệ thống phân biệt địch ta SRO-2 và SRZO-2 của MiG. Vì vậy mà biên đội F-4 tiếp cận các máy bay MiG trong khi biên đội MiG không hề hay biết.
Lúc 8 giờ 23 phút, nhiều khả năng, hệ thống cảnh báo sớm trên tàu USS Chicago đã cảnh báo cho đội hình F-4 có MiG xuất hiện, các máy bay F-4 đã tiếp cận từ độ cao thấp ở thế đối đầu và phóng 2 quả tên lửa AIM-7E-2 về phía biên đội MiG. Số 1 Huy, trong khi quan sát, tìm kiếm mục tiêu đã phát hiện 2 tên lửa từ bên trái phía sau lao đến, anh lệnh vòng phải gấp! Nhưng không thấy số 2 trả lời. Chiếc F-4 đã phóng tên lửa về phía chiếc MiG của Khảo do Trung úy nhất John D.Markle và Đại úy Steven D.Eaves thuộc Phi đoàn 555 Không đoàn 432 FFW điều khiển.
Ngay lúc đó số 1 phát hiện 4 chiếc F-4 ở phía sau hướng 160 độ bay theo từng đôi một, đang vòng phải bám theo anh. Sau khi 2 chiếc F-4 và MiG số 1 Huy vòng bám nhau một vòng không có kết quả, cả hai phía để mất mục tiêu. Số 1 Huy ngay lúc đó lại phát hiện 1 chiếc F-4 đang bay từ trái sang phải, kéo lên ở độ cao cao hơn anh khoảng 1.000m. Anh lập tức tăng lực, bám theo, đến cự ly 3.000m, tốc độ 850km/h, anh đưa mục tiêu vào vòng ngắm và khi ổn định, ấn nút phóng quả tên lửa bên trái, anh nhanh chóng lật úp máy bay, kéo xuống thoát ly.
Sau khi nghe Sở chỉ huy cảnh báo: “Chú ý cảnh giới bên ngoài phải”, số 1 Huy phát hiện từ phía bên phải, phía sau khoảng 4km, 2 chiếc F-4 khác đang phóng tên lửa về phía mình. Anh nhanh chóng lật úp, vòng lại đối đầu với 2 chiếc F-4, rồi bay vút ngang qua 2 chiếc F-4 này và thoát ly. Số 1 Huy hạ thấp độ cao, bay men theo triền dãy Tam Đảo quen thuộc, về sân bay Kép hạ cánh lúc 10 giờ 28 phút, khi máy bay lăn vào anh  nhìn thấy đồng hồ báo lượng dầu chỉ 300 lít, và sau đó các thợ máy đã đếm được 16 lỗ thủng trên thân máy bay.
Riêng về số 2 Cao Sơn Khảo, kể từ khi số 1 hô vòng phải gấp, không có liên lạc gì từ lúc 9 giờ 57 phút. Do vậy các thông tin chính xác về động tác trên không của số 2 cũng không có điều kiện dựng lại. Tuy nhiên, theo phản ánh, xác nhận của địa phương, những người chứng kiến hành động chiến đấu trên không của số 2 và công nhận của Quân chủng thì phi công Cao Sơn Khảo, trong trận này đã bắn rơi 1 chiếc F-4, trước khi bị trúng tên lửa địch và rơi ở Trấn Yên, Yên Bái, Cao Sơn Khảo nhảy dù nhưng không thành công. Anh hy sinh sau khi tiếp đất.
Trích từ cuốn “Tôi từng là phi công tiêm kích”:
“Biên đội chúng tôi (Huy - Khảo) xuất kích từ sân bay Đa Phúc, bay nhiệm vụ nghi binh yểm trợ cho biên đội MiG-19. Khi chúng tôi bay về phía Tuyên Quang và lên độ cao 6.000m thì được Sở Chỉ huy thông báo có mục tiêu phía trước. Ngay lúc đó tôi phát hiện các máy bay F-4 phía trước đang bay đối đầu, khi nhìn thấy dưới cánh tóe lửa màu xanh, tôi hiểu ngay là các máy bay F-4 đang phóng tên lửa uy hiếp về phía biên đội MiG. Tôi hô cho số 2 cơ động, rồi hô tiếp vứt thùng dầu phụ, tăng lực, vòng phải gấp.
Đúng lúc đó, tôi thấy 1 quả tên lửa bay vút về phía trước, ngay trên đầu mình và lao về phía chiếc máy bay phía trước. Do ở xa nên tôi không phân biệt rõ đó là MiG-21 hay F-4. Để chắc chắn, tôi hô số 2 “Cơ động gấp!”, nhưng không thấy phản ứng gì, quả tên lửa lao thẳng vào chiếc máy bay, bốc cháy bùng lên. Tôi lại hô: “Nhảy dù” nhưng cũng không thấy động tĩnh gì. Ngay lúc đó lai thấy chiếc máy bay vừa bắn rơi chiếc phía trước cũng trúng tên lửa bốc cháy, tôi lại hô: “Nhảy dù” lần nữa nhưng cũng không thấy động tĩnh gì. Tôi đoán, số 2 Khảo đã bắn rơi 1 chiếc F-4, nhưng ngay sau đó, do không động cơ kịp thời đã bị chiếc F-4 phía sau bắn rơi.
Khi thấy 1 chiếc F-4 phía trước, tôi nhanh chóng bám theo, đặt điểm ngắm rồi phóng 1 quả tên lửa. Cũng không kịp quan sát kết quả, tôi lập tức lật úp máy bay, kéo xuống thoát ly, tôi kéo máy bay ra ở độ cao thấp, rồi bay sát ngọn cây rừng Tam Đảo, ép sát dãy núi để tận dụng núi che chở một bên, chỉ phải quan sát, cảnh giới một bên. Khi về đến ngang hồ Đại Lải thì nghe thông báo có một tốp F-4 bay từ Hòa Lạc sang đang bay phong tỏa chế áp sân bay Nội Bài, tôi quyết định chuyển hướng về sân bay Kép hạ cánh.
Khi kéo máy bay về ụ cất giấu, các đồng chí thợ máy bất ngờ và kinh ngạc phát hiện ra hàng chục lỗ thủng trên thân chiếc MiG-21 của tôi. Tất cả có hơn 30 lỗ to nhỏ khác nhau chạy suốt từ đuôi lên thân và cánh, kể cả chóp nón cũng bị, riêng buồng lái không có vết nào…”.
(Còn tiếp)
P.V

Những trận không chiến nổi tiếng của Không quân Việt Nam và Mỹ (Kỳ 2)

07:30 | 30/04/2016
|
(PetroTimes) - Tối ngày 10/5/1972, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp nghe Tư lệnh Không quân Đào Đình Luyện báo cáo về trận không chiến ác liệt và dài nhất trong ngày 10/5/1972.
Những trận không chiến nổi tiếng của Không quân Việt Nam và Mỹ (Kỳ 1)
Trận không chiến giữa 8 chiếc MIG-19 và các máy bay F-4D trên trời Yên Bái
Gần như cùng lúc với biên đội MiG-21 bay nhiệm vụ nghi binh cất cánh, Sở chỉ huy Trung đoàn 925 (chủ trì là Phó Trung đoàn trưởng Hồ Văn Quỳ, trực dẫn đường là Lưu Văn Cộng, Triệu Sỹ Việt) đã quyết định cho biên đội trực ban cất cánh. Lúc 9 giờ 44 phút, 4 chiếc MiG-19 ở đầu nam sân bay Yên Bái gồm các phi công Tâm, Sơn, Phúc và Oánh cất cánh, bay chờ trên đỉnh sân bay. 20 phút sau, bốn chiếc MiG-19 ở đầu bắc sân bay Yên Bái gồm các phi công Bổng, Hà, Cương và Tưởng cất cánh, cũng bay chờ trên đỉnh sân bay Yên Bái chuẩn bị đánh tốp cường kích của Không quân Mỹ.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 2
Ngày 10/5/1972 ghi nhận kỷ lục về số lần xuất kích của các máy bay Mỹ.
Sau khi rời đất, biên đội vòng trên đỉnh sân ba vòng, đến vòng thứ ba thì phát hiện mục tiêu bay từ phía Tây Nam lên. Đây là đội hình gồm 32 chiếc F-4 của Không đoàn tiêm kích chiến thuật số 432 của Mỹ với đường bay theo hướng sẽ đánh phá cầu Long Biên, ga xe lửa Yên Viên. Chiếc F-4 do Thiếu tá Robert Alfred Lodge và Đại úy Roger C. Locher điều khiển làm đội trưởng, dẫn đầu biên đội bay nhiệm vụ chế áp MiG. Chắc lúc này đài ra đa “Red Crown” của Hải quân đã cảnh báo cho biên đội F-4 về sự xuất hiện của MiG.
Có thể lúc này biên đội F-4 đang tìm kiếm sự xuất hiện của 2 chiếc MiG-21 bay nghi binh (Huy - Khảo) trên độ cao 5.000m, thì bị 4 chiếc MiG-19 lao vào tấn công. Biên đội F-4 quay lại đối đầu với đội hình MiG-19, sau khi liên tục phóng tên lửa AIM-7 về phía biên đội MiG, các máy bay F-4 tách thành 2 tốp bay vượt qua các máy bay MiG. Thiếu tá Lodge (Oyster 01) quyết định vòng gắt lại, bám theo chiếc MiG số 1 và thông báo cho chiếc F-4 số 3 do Đại úy S. Ritchie và Đại úy DeBellevue điều khiển biết. Khi cách chiếc MiG-19 khoảng 8km, Lodge tăng tốc bám theo và phóng liên tiếp 2 quả tên lửa Sparrow vào MiG số 1.
Khi phát hiện đội hình máy bay Mỹ, biên đội MiG-19 lao về phía mục tiêu, do cự ly quá gần, góc vào lớn, nên số 1 Tâm bắn 45 viên đạn nhưng không trúng mục tiêu. Khia phát hiện dầu còn ít, anh quyết định quay về hạ cánh. Lúc này hai chiếc F-4 đang mải bám theo chiếc MiG-21 số 1 bay nhiệm vụ nghi binh trên độ cao 6.000m, nên không phát hiện hai chiếc MiG-19 (số 3 và số 4) đang lao đến với tốc độ rất lớn, thậm chí xông lên ngang với chiếc F-4 mà viên phi công vẫn không biết. Hai chiếc F-4 vẫn đang cố bám theo chiếc MiG-21 bay phía trước thì MiG-19 số 3 Nguyễn Văn Phúc bám sát được 2 chiếc F-4D, và nổ 2 loạt đạn pháo vào chiếc F-4D số 1 của Thiếu tá Lodge.
Tuy đã được chiếc F-4 số 2 cảnh báo, nhưng Lodge không kịp cơ động tránh đạn, chiếc F-4D số 1 trúng đạn, chững lại rồi đổ vào xoáy ốc, chiếc MiG-19 số 3 lao vào bồi tiếp loạt đạn thứ ba, chiếc F-4D gãy đôi và bốc cháy. Phi công trên chiếc F-4D bị bắn rơi này gồm thiếu tá Robert A. Lodge, chủ nhiệm về vũ khí chiến thuật (chủ nhiệm xạ kích) của Không đoàn 432 TFW, đây là viên phi công đầy triển vọng trở thành phi công Ace đầu tiên (vì trước đó đã tuyên bố bắn rơi 3 chiếc MiG),  và phi công ngồi buồng sau là đại úy Roger C. Locher. Thiếu tá Lodge được coi là chết trận, riêng đại úy C. Locher nhảy dù và lang thang trong rừng 23 ngày trước khi được cứu thoát. Locher trở thành phi công Mỹ có thời gian sau khi bị bắn rơi đến khi được giải cứu dài nhất, với một chiến dịch giải cứu cũng dài nhất.
Số 3 Nguyễn Văn Phúc về hạ cánh lúc 10 giờ 19 phút tại sân bay Yên Bái.
Số 4 Oánh, trong khi yểm hộ cho số 3 đã phát hiện một tốp phía sau, anh quyết định quay lại phản kích, bắn gần hết cơ số đạn nhưng không trúng mục tiêu. Cùng lúc đó 2 chiếc F-4 phía sau đã phóng tên lửa trúng máy bay của anh. Oánh nhảy dù nhưng bị tuột mất dù, rơi tự do ở chân núi Là, Tuyên Quang và hy sinh.
Trận đánh kéo dài 20 phút, các máy bay MiG-19 đã gần cạn dầu nhưng máy bay Mỹ tiếp tục vào. Lúc này Sở chỉ huy lệnh cho biên đội số 2 từ đầu bắc sân bay cất cánh yểm trợ cho biên đội số 1 về hạ cánh. Số 1 và số 3 biên đội 1 lúc quay về hạ cánh phải quay lại phản kích, nhưng sau khi máy bay Mỹ bỏ chạy đã hạ cánh an toàn. Số 2 khi về hạ cánh thì hết dầu, động cơ chết máy, từ độ cao 1.600m, anh lao xuống hạ cánh, tiếp đất 2/3 đường băng, máy bay lao ra ngoài, nhưng phi công an toàn.
Biên đội thứ 2 cất cánh từ đầu bắc lúc 10 giờ 2 phút, gồm các phi công Hoàng Cao Bổng số 1, Phạm Cao Hà số 2, Nguyễn Văn Cương số 3, Lê Văn Tưởng số 4 cũng đã gặp tốp máy bay F-4 của Không quân Mỹ. Đó là biên đội F-4E làm nhiệm vụ yểm hộ tốp cường kích ném bom laser (mật danh là Cleveland). Bốn chiếc MiG-19 tiếp cận đối phương với góc gần như 90 độ. Cả biên đội vòng gắt để cắt vào sau đội hình F-4.
Riêng số 4, do bay phía sau có cự ly đủ xa hơn, đã vòng cắt một cách đáng kinh ngạc và bám được phía sau chiếc F-4E số 4, anh nhanh chóng đặt điểm ngắm và bắn ra hai loạt đạn, trúng ngay cánh bên phải của chiếc F-4E. Chiếc F-4E rơi xuống phía Tây Nam sân bay. Tổ bay chiếc F-4E này gồm Đại úy Jeffrey Lyndon Harris và Đại úy Dennis Edward Wilkinson không nhảy dù được và đều coi đã chết. (Các thành viên trong biên đội và nhân chứng dưới đất đều nhìn thấy chiếc MiG-19 số 4 bắn cháy 1 chiếc F-4).
Trong lúc số 4 Tưởng bám theo công kích chiếc F-4E số 4 thì các F-4 khác vẫn bám theo phía sau anh. Khi gần hết dầu, anh quay về hạ cánh, từ trên độ cao 1.400m, động cơ chết máy, anh lao xuống hạ cánh, nhưng khi tiếp đất cao, xử lý chưa tốt máy bay xông ra ngoài, vượt qua đê sông Hồng, phi công Lê Văn Tưởng đã hi sinh. Số 1 Bổng và số 2 Hà quần nhau với F-4 nhưng không có điều kiện nổ súng. Số 3 Cương bắn hết 201 viên nhưng không trúng mục tiêu.
Trận đánh của biên đội MiG-19 thứ 2 đã kéo dài 18 phút, Sở chỉ huy lệnh cho biên đội thoát ly về hạ cánh. Số 1 và số 3 hạ cánh tốt, số 2 khi hạ cánh nghe Sở chỉ huy thông báo có F-4 phía sau đã quay lại phản kích, sau đó hạ cánh an toàn lúc 10 giờ 47 phút.
Mặt trận hướng Đông, chiều ngày 10/5/1972
Từ 12 giờ 15 phút chiều ngày 10/5/1972, Hải quân Mỹ huy động lực lượng lớn máy bay với khoảng 66 lần/chiếc, bao gồm cả F-4B, A-6, A-7 tổ chức các đợt tấn công (Alpha Strike) vào các mục tiêu khu vực Hải Phòng, Hải Dương, đặc biệt là các cây cầu Lai Vu và Phú Lương trên trục Đường số 5. Các máy bay của Hải quân Mỹ bay vào với các thiết bị gây nhiễu mới chế áp các trạm ra đa mặt đất của phía Việt Nam, khiến hệ thống chỉ huy mặt đất trợ giúp phi công MiG rất khó khăn, đồng thời giai đoạn này hệ thống APX-80 Combat Tree vẫn có khả năng xâm nhập vào hệ thống liên lạc trên không và hệ thống phân biệt địch-ta của MiG, đã thông báo cho các phi công F-4 về sự xuất hiện của MiG trên không.
Bộ Tư lệnh không quân giao cho Trung đoàn 923 sử dụng MiG-17 cất cánh từ sân bay Kép, hiện đồng theo độ cao với MiG-21 của Trung đoàn 927 để đánh chặn tốp cường kích của Hải quân Mỹ bay vào từ hướng Đông. Chủ trì kíp trực tại Sở chỉ huy Trung đoàn 923 là Phó Trung đoàn trưởng Lâm Văn Lích, trực ban dẫn đường Phạm Từ Tịnh và Đặng Văn Hảo A.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 2
Các phi công - Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân tham gia chiến đấu giai đoạn 1964 - 1973
Trong kế hoạch hiệp đồng với MiG-21 của Trung đoàn 927, biên đội 4 chiếc MiG-17 bao gồm Nguyễn Văn Thọ - máy bay 2036, Tạ Đông Trung - máy bay 2056, Đỗ Hạng - máy bay 2069, Trà Văn Kiếm - máy bay 2012 được lệnh cất cánh lúc 12 giờ 56 phút từ sân bay Kép. Sau khi rời đất, vòng trái theo hướng 160 độ, giữ độ cao 500m bay về khu vực Bắc Giang. Sở chỉ huy liên tục thông báo tin về đối phương, và nhắc chỉ công tác trên độ cao thấp (để phối hợp với biên đội MiG-12). Khi bay gần đến Phả Lại, cự ly 20km, chú ý cảnh giới.
Lúc 12 giờ 58 phút, khi biên đội bay qua Phả Lại, và đang tăng lực kéo lên 1.000m thì số 1 Thọ phát hiện 4 máy bay Mỹ ở hướng Đông Nam đang bay vào. Anh lệnh biên đội vứt thùng dầu phụ, tăng tốc độ lên 850-900km/h, độ cao 1.500m. Số 1 nhìn rõ 4 chiếc A-7 tách thành 2 tốp đang kéo cao sau khi cắt bom. Anh quyết định  cắt vào bám chiếc A-7 số 3, nhưng do tốc độ của chiếc A-7 lớn, anh quyết định chuyển sang bám theo chiếc số 4.
Khi viên phi công chiếc A-7 số 4 vừa kịp cải bằng, số 1 nhanh chóng bao vòng quang điểm sáng về trước 30mm giác, góc vào 20-25 độ, anh bóp cò, thấy đạn pháo trùm lên đầu chiếc A-7, chiêc A-7 lật ngửa, chúi xuống. Số 1 nhanh chóng vòng phải, thì phát hiện 8 chiếc F-4 đang bay từ phía biển vào, anh quyết định xông thẳng vào đội hình F-4, nhưng 8 chiếc F-4 này không hiểu sao không tham chiến mà quay thẳng ra biển.
Anh quay lại quan sát thấy 4 chiếc F-4 khác nhau đang bám sau tốp 2 chiếc MiG-17 của Hạng và Kiếm và phóng tên lửa, anh hô to: “Cơ động!” nhưng chỉ có số 4 cơ động kịp, số 3 không kịp cơ động, chiếc MiG-17 số 3 trúng tên lửa, phi công Hạng nhảy dù, dù mở tốt, nhưng ngay sau đó F-4 lao đến dùng súng 20mm vào dù của Hạng. Phi công Đỗ Hạng hy sinh tại Toại An, Đông Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương. Sau này có một số tài liệu phía Mỹ cho rằng, do máy bay F-4 của Mỹ không có súng 20mm nên không thể bắn vào dù của Hạng, nhưng thực tế từ tháng 5-1967, một số máy bay F-4 đã được trang bị súng MK61 Vulcan 20mm để không chiến cự ly gần với MiG.
Số 2 Tạ Đông Trung, khi yểm hộ số 1, thấy số 1 chuyển sang bám chiếc số 4, anh đã quyết định vọt lên bám chiếc số 3 của tốp A-7. Chiếc A-7 số 3 hạ thấp độ cao chạy thẳng ra biển. Trung cố bám theo vừa đuổi vừa bắn, đến bờ biển thì anh quyết định quay lai, bay dọc theo sông Thái Bình về Kép hạ cánh lúc 13 giờ 23 phút.
Sau khi số 3 Đỗ Hạng hy sinh, số 1 Thọ đã quay lại yểm trợ cho số 4 Trà Văn Kiếm. Hai chiếc MiG-17 quần nhau với các máy bay F-4. Số 1 Thọ bám theo một chiếc, do cự ly với góc đón 66 ly giác, bóp cò, đạn rơi phía trước, anh tiếp tục bám theo nổ súng hai loạt nữa, nhưng hết đạn. Ngay lúc đó, anh nhận thấy máy bay rung mạnh, không điều khiển được, anh quyết định  nhảy dù ở độ cao 1.000m, đề phòng F-4 bắn dù, xuống đến 500m anh mới bật dù. Khi bay lơ lửng trên dù anh vẫn thấy Kiếm đang quần nhau với F-4. Thọ tiếp đất ở Ngọc Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương.
Trong khi đó, phi công trẻ số 4 Trà Văn Kiếm, tiếp tục quần nhau với các máy bay tiêm kích của Hải quân Mỹ. Do số lượng máy bay Mỹ rất nhiều, một  mình Kiếm quần nhau, anh liên tục tránh tên lửa do máy bay Mỹ phóng ra. Số 4 Kiếm mất liên lạc, sau này tổ cấp cứu đi tìm, đến hiện trường, thấy máy bay của Kiếm rơi ở Tây Nam Thanh Hà, phi công Trà Văn Kiếm bị trúng tên lửa của máy bay Mỹ, anh không nhảy dù được, đã anh dũng hy sinh.
Một số tác giả Mỹ mô tả trận không chiến chiều ngày 10/5/1972 giữa Hải quân Mỹ và các máy bay MiG-17, MiG-19 rất ác liệt. (Nhưng thực ra tại thời điểm đó, tại khu chiến chỉ có 4 chiếc MiG-17 đụng độ với máy bay của Hải quân Mỹ). Theo thống kê của một số tác giả Mỹ, chiếc F-4J làm nhiệm vụ tiêm kích, hộ tống đã bắn rơi 1 chiếc MiG-17, 1 chiếc F-4J khác làm nhiệm vụ chế áp MiG (mật danh Showtime 100) do Đại úy Randal H. Cunningham và Trung úy William P. Driscoll thuộc Phi đoàn VF-96 tàu USS Constellation điều khiển đã tuyên bố bắn rơi 3 chiếc MiG-17. Ngoài ra chiếc F-4J mật danh Showtime 106 do Đại úy Matthew J. Connelly và Đại úy Thomas J.J. Blonski thuộc Phi đoàn VF-96, tàu USS Constellation điều khiển cũng tuyên bố bắn rơi 2 chiếc MiG-17.
Chiếc F-4J của Đại úy Cunningham sau khi thoát ly, đang trên đường rút về thì gặp 1 chiếc MiG-17 bay lẻ ở hướng đối đầu (đây có thể là Thiếu úy, phi công Trà Văn Kiếm), Cunningham áp sát chiếc MiG-17, định nổ súng uy hiếp thì MiG-17 đã nổ súng trước. Chiếc F-4 bị bất ngờ vội kéo lên thẳng đứng, hy vọng MiG-17 sẽ không theo kịp. Nhưng Trà Văn Kiếm tỏ ra có kỹ thuật không chiến rất điêu luyện, anh đã bám sát và cơ động trên mặt thẳng đứng cùng với chiếc F-4. Có những thời điểm, hai máy bay và hai buồng lái gần như áp sát nhau, cả 2 phi công nhìn rõ khuôn mặt của đối phương.
Hai chiếc quần nhau trên mặt phẳng đứng, phi công MiG-17 (Trà Văn Kiếm) nhiều lần bám được phía sau và nổ súng rất mãnh liệt. Viên Đại úy Cunningham áp dụng kỹ thuật “Feather Duster” kéo lên thẳng đứng rồi đột ngột thả giảm tốc, khiến máy bay MiG xông lên trước, lập tức chiếc F-4 bám theo phóng ra quả tên lửa AIM-9G, MiG-17 bị thương nhẹ, nhưng do thất tốc đã lao xuống đất. (Đã có một thời gian, truyền thông Mỹ tuyên truyền rằng đây chính là chiếc MiG Đại tá Nguyễn Tom (phi công huyền thoại bắn rơi đến 13 máy bay Mỹ). Nhưng thực tế, đây lại là Thiếu úy, phi công trẻ Trà Văn Kiếm. Dù lần đầu xuất kích gặp đối phương nhưng anh cũng có thể thực hiện các động tác cơ động tài chính khiến Cunningham tưởng rằng mình đang đối đầu với Đại tá Nguyễn Tom!). Sau khi không chiến với các máy bay MiG-17, trên đường trở về tàu sân bay, chiếc F-4J của Cunningham đã bị tên lửa SAM bắn rơi, 2 phi công nhảy dù và được cứu thoát.
Tại phía Đông Bắc, theo tình hình báo từ 12 giờ 40 phút đến 13 giờ 40 phút sẽ có đợt hoạt động lớn của Hải quân Mỹ đánh vào khu vực cầu Lai Vu và Phú Lương trên Đường số 5. Bộ Tư lệnh Không quân giao cho Trung đoàn 927 tổ chức hiệp đồng chiến đấu với MiG-17 đánh tốp cường kích tấn công hai cây cầu này.
Chủ trì kíp trực tại Sở chỉ huy Trung đoàn là Trung đoàn trưởng Nguyễn Hồng Nhị, các trực ban dẫn đường là Vũ Đức Bình, Nguyễn Văn Được, trực ban ra đa hiện sóng là Lê Thiết Hùng, Trung đoàn 927 phân công biên đội MiG-21 gồm Lê Thanh Đạo và Vũ Văn Hợp sẵn sàng cất cánh, đánh cường kích và tiêm kích đối phương trên tầng cao, phối hợp với biên đội MiG-17 đánh ở tầng thấp, bảo vệ cầu Lai Vu và cầu Phú Lương.
Lúc 12 giờ 47 phút, mạng ra đa phát hiện một tốp 24 chiếc máy bay đang bay vào từ phía Đông Thanh Hóa. Trước đó, lúc 9 giờ 53 phút sáng, Trung đoàn 927 đã cho biên đội Nguyễn Đức Soát, Ngô Duy Thư, Nguyễn Văn Nghĩa và Hạ Vĩnh Thành cất cánh từ Nội Bài lên Đại Từ để bảo vệ sân bay, nhưng không gặp đối phương đã quay về hạ cánh.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 2
Các cựu phi công Mỹ đang xem lại bản đồ tường thuật một trận đánh
Lúc 12 giờ 56 phút, Sở chỉ huy Không quân cho 4 chiếc MiG-17 cất cánh, bay về khu vực cầu Lai Vu. Lúc 12 giờ 57 phút, biên đội MiG-21 Đạo – Hợp cất cánh, bay hướng 360 độ, độ cao 2.000m, rồi vòng phải hướng 180 độ. Khi biên đội MiG-21 đang bay hướng 200 độ, nghe thông báo địch bên trái 30 độ cự ly 30km, đối đầu, Đạo số 1 lập tức thả thùng dầu phụ, tăng cường quan sát. Ngay sau đó cả 2 phi công MiG đều phát hiện mục tiêu đang bay đối đầu ở độ cao 5.000m. Biên đội đã nghiên cứu và nắm vững thủ đoạn chiến thuật mới của F-4, đó là thủ đoạn 2 chiếc tách ra, một dưới thấp, một trên cao, bay đan chéo, buộc biên đội MiG cũng phải tách ra, F-4 sẽ lợi dụng ưu thế độ cao và tốc độ để quay lại bám theo chiếc MiG lúc này đã không còn sự yểm trợ của đồng đội.
Nắm vững thủ đoạn của đối phương, số 1 Đạo vẫn quyết định chớp thời cơ bám theo chiếc số 1, lệnh cho số 2 Hợp đánh chiếc số 2. Số 2 Hợp ép độ nghiêng cắt và bám theo chiếc F-4 số 2. Khi cự ly đến 1.800m, tốc độ là 1.200km/h, âm lượng đầu tên lửa nghe tốt, anh ấn nút phóng quả R-3S, quan sát thấy quả tên lửa hơi lệch về phía bên phải, anh quyết định tiếp tục ổn định vòng ngắm để phóng nốt quả thứ hai, nhưng ngay lúc đó, anh thấy chiếc F-4 đã bốc cháy. Hợp hô to: “Cháy rồi!” và thoát ly bên trái, về hạ cánh ở sân bay Kép lúc 13 giờ 18 phút.
Số 1 Lê Thanh Đạo khi nghe thấy số 2 hô: “Cháy rồi!” anh lập tức quan sát, thấy chiếc F-4 bị số 2 bắn trúng đang bốc cháy. Anh tiếp tục tăng tốc độ đuổi theo chiếc F-4 số 1. Ở độ cao 5.000m, anh bám sát mục tiêu, khi chiếc F-4 vừa kịp cải bằng độ nghiêng, anh nhanh chóng ổn định điểm ngắm và ấn nút phóng quả tên lửa thứ nhất ở độ cao 5.000m, tốc độ 1.100-1.200km/h, cự ly 1.800m. Cũng như Hợp, khi thấy quả tên lửa thứ nhất của mình hơi lệch phải, anh quyết định tiếp tục ổn định điểm ngắm để bắn quả thứ hai, nhưng ngay sau lúc đó anh đã thấy chiếc F-4 số 1 bốc cháy. Phi công Lê Thanh Đạo báo cáo: “Cháy rồi!” và nhanh chóng hạ thấp độ cao về hạ cánh ở sân bay Kép lúc 13 giờ 18 phút.
Chiếc F-4J bị Lê Thanh Đạo bắn rơi do Trung tá Harry Lee Blackburn và Trung úy Stephen Anthony Rudlof thuộc Phi đoàn VF-92, tàu USS Constellation điều khiển, cả 2 phi công bị bắt (sau đó Trung tá Blackburn đã chết). Khi biên đội Đạo - Hợp thoát ly, biên đội 2 chiếc MiG-21 Dũng - Liêm cất cánh yểm trợ. Đến 16 giờ 49 phút, Sở chỉ huy Trung đoàn 927 lệnh biên đội MiG-21 Nguyễn Đức Soát - Ngô Duy Thư cất cánh từ Nội Bài vào khu chờ Ân Thi, nhưng không gặp mục tiêu đã quay về Nội Bài hạ cánh.
Như vậy, ngày 10/5/1972, những trận không chiến ác liệt đã kết thúc với kết quả phía Không quân Việt Nam bắn hạ 6 máy bay Mỹ (MiG-21 bắn rơi 4 chiếc, MiG-19 bắn rơi 2 chiếc), 3 phi công Mỹ bị chết. Trong khi đó, phía Không quân Việt Nam có 6 chiếc MiG bị rơi, bao gồm 2 chiếc MiG-21 (Ngãi, Khảo), 3 chiếc MiG-17 (Thọ, Hạng, Kiếm) và 1 chiếc MiG-19 (Oánh), 5 phi công hy sinh.
Tối ngày 10/5/1972, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp nghe Tư lệnh Không quân Đào Đình Luyện báo cáo về trận không chiến ác liệt và dài nhất trong ngày 10/5/1972. Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen ngợi tinh thần dũng cảm và chiến đấu mưu trí của các phi công MiG và chỉ đạo: “Bộ đội Không quân cần tiếp tục chủ động tấn công, bí mật bất ngờ, đánh chắc thắng và phê phán tư tưởng: “một đổi một” mới nảy sinh là không đúng đắn, cần loại trừ ngay.
Như vậy kết thúc một ngày mà các tài liệu Mỹ gọi là “một ngày trong cuộc chiến kéo dài”, ngày 10/5/1972 cuộc chiến tranh trên không ở miền Bắc Việt Nam (One day in long war - 10 May, 1972, Air War, North Vietnam - tác giả Jeffrey Ethell và Afred Price). Ngoài ra, tháng 12/2007, kênh Truyền hình TV History Channel kênh chuyên về đề tài Lịch sử đã chiếu một loạt phim về các trận không chiến ngày 10/5/1972, với tiêu đề Ngày đẫm máu (The Bloodiest Day).
(Còn tiếp)

Những trận không chiến nổi tiếng của Không quân Việt Nam và Mỹ (Kỳ 3)

06:45 | 02/05/2016
|
(PetroTimes) - Những trận không chiến ngày 10/5/1972 chứng minh sự lớn mạnh của Không quân Việt Nam, khi trong các trận không chiến đã có hiệp đồng tác chiến giữa các loại MiG với nhau và giữa MiG với tên lửa, hỏa lực Phòng không.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 3 Những trận không chiến nổi tiếng của Không quân Việt Nam và Mỹ (Kỳ 2)
Một vài nhận xét về chiến thuật của Không quân Mỹ và Việt Nam trong các trận không chiến ngày 10/5/1972
1. Những trận không chiến ngày 10/5/1972 chứng minh sự lớn mạnh của Không quân Việt Nam, khi trong các trận không chiến đã có hiệp đồng tác chiến giữa các loại MiG với nhau và giữa MiG với tên lửa, hỏa lực Phòng không. Ngày 10/5/1972 được ghi nhận là ngày có tần suất cất cánh cao nhất của MiG (22 tốp với 64 lượt MiG xuất kích), trong đó có 6 tốp gặp đối phương và tiến hành không chiến với các máy bay Mỹ. Các phi công MiG-21 và MiG-19 bắn rơi 6 máy bay F-4. Trong khi đó, các phi công MiG-17 gặp khó khăn, không bắn rơi được chiếc máy bay Mỹ nào, mà bị tổn thất lớn.
2. Đây là trận thứ hai mà MiG-19 đụng độ với không quân Mỹ, với đội hình lớn (2 biên đội, 8 chiếc). Sau những trận đầu ra quân đầu năm 1972, các phi công MiG-19 trẻ tuổi đã rút ra nhiều kinh nghiệm, tiến hành chuẩn bị công phu cho trận ngày 10/5. Các phi công MiG-19 đã phát huy được tính năng ưu việt của MiG-19 khi cơ động mặt bằng ở độ cao 3.000m trở xuống, kể cả cắt bán kính và tăng tốc độ cũng nhanh hơn F-4. Tuy nhiên khi chiến đấu có sử dụng tăng lực ở độ cao thấp, lượng tiêu hao nhiên liệu rất lớn, nên đa số các máy bay MiG-19 tiêu hao dầu rất nhanh, khi về hạ cánh chỉ còn rất ít dầu.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 3
Các phi công MiG-21 trao đổi kinh nghiệm chiến đấu
Trong trận không chiến với các máy bay MiG-19 mới xuất hiện, phía Không quân Mỹ sử dụng chiến thuật bay từng đôi chờ sẵn trên đỉnh hai đầu sân bay, khi phát hiện MiG lập tức lao vào bắn đối đầu để uy hiếp buộc MiG-19 phải tác tốp, không có yểm hộ, lúc đó các đôi F-4 đang chờ sẵn trên cao sẽ lao vào công kích với số lượng tên lửa lớn. Các biên đội MiG-19 đã áp dụng chiến thuật đánh chặn tại khu vực, tạo thế buộc đối phương phải vòng trong khu vực để sử dụng hiệu quả 3 khẩu pháo. Trong trận này 2 phi công Phúc và Tưởng đã bắn rơi 2 chiếc F-4 bằng đạn pháo ở cự ly sở trường.
3. Những thay đổi về vũ khí và chiến thuật của Không quân Mỹ
Trận ngày 10/5/1972 là trận đầu tiên các biên đội của Hải quân và Không quân Mỹ tham gia Chiến dịch Linebacker I. Giai đoạn này, các phi công của Hải quân Mỹ rất muốn kiểm nghiệm kết quả của chương trình Top Gun. Ngoài ra về máy bay và vũ khí, trận không chiến ngày 10/5/1972 cũng chứng kiến sự xuất hiện của các máy bay F-4 mới được cải tiến, với các tính năng khí động học tốt hơn (do lắp thêm cánh tà trước). Đặc biệt là vũ khí đã được trang bị loại tên lửa mới, một số máy bay có lắp thêm súng Cannon 20mm để không chiến cự ly gần với MiG.
Thay đổi lớn nhất về vũ khí của Không quân Mỹ chính là những cải tiến, nâng cấp các thiết bị tác chiến điện tử. Trận ngày 10/5/1972, một số máy bay F-4 làm nhiệm vụ áp chế MiG đã được trang bị thiết bị điện tử thuộc hệ thống AXP-80 Combat Tree, có khả năng xâm phạm vào hệ thống liên lạc trên không và hệ thống phân biệt địch ta SRO-2 và SRZO-2 của MiG, đồng thời hệ thống nhiễu được rải ra với cường độ mạnh hơn, gây khó khăn cho hệ thống ra đa phát hiện và thiết bị vô tuyến điện chỉ huy của Không quân Việt Nam.
Ngoài ra về chiến thuật, các máy bay tấn công của Không quân và Hải quân Mỹ cũng rút ra nhiều kinh nghiệm từ các trận không chiến của những năm trước đó, bố trí số lượng lớn tiêm kích trong đội hình tấn công. Khi gặp MiG, các máy bay tiêm kích làm nhiệm vụ yểm trợ sẽ thực hiện thủ đoạn tách lốp cả theo hướng và theo độ cao. Ngoài các máy bay yểm trợ bay theo đội hình tấn công, một số lượng lớn máy bay tiêm kích sẽ bay chờ tại một số khu vực, đặc biệt là các đầu sân bay để đón đánh MiG khi cất cánh cũng như khi thoát ly về hạ cánh, khi dầu đã cạn.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 3
Các phi công - Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân tham gia chiến đấu giai đoạn 1964 - 1973
4. Ngày 10/5/1972 là ghi nhận nhiều kỷ lục nhất trong không chiến ở Việt Nam: ngày có nhiều trận không chiến nhất và kéo dài nhất; kỷ lục về số lần xuất kích của hai phía lớn nhất; ngày mà theo thống kê cả hai bên rơi nhiều máy bay nhất; phía Không quân Mỹ triển khai tấn công đồng loạt nhiều mục tiêu nhất; phía Không quân Việt Nam lần đầu tiên sử dụng cả bốn Trung đoàn hiệp đồng chiến đấu, xuất kích với số lượt nhiều nhất.
Về số lượng máy bay tham chiến, trong trận ngày 10/5/1972, Không quân và Hải quân Mỹ đã huy động hàng trăm máy bay gồm 22 loại máy bay (tiêm kích, cường kích, tác chiến điện tử, trực thăng, trinh sát, tiếp dầu trên không) tham gia ngày không chiến dài nhất và quy mô nhất trong chiến tranh Việt Nam. Phía Mỹ thống kê được 414 lần/chiếc xuất kích, trong đó oanh kích miền Bắc Việt Nam là 338 lượt (88lần/chiếc của Không quân, 250 lần chiếc của Hải quân) bao gồm cả các phi đội cất cánh từ 4 tàu sân bay của Mỹ ngoài khơi Việt Nam. Riêng Không đoàn Tiêm kích chiến thuật số 8 đã xuất kích 40 chiếc (10 biên đội) do Đại tá Carl Miller và Đại tá Richard Horne - Không đoàn trưởng và Phó không đoàn trưởng dẫn đầu tốp F-4 bay vào đánh phá cầu Long Biên; Đây cũng là ngày có cuộc tìm cứu phi công Mỹ với thời gian dài nhất (23 ngày mới tìm Đại úy, phi công Roger C. Locher); và cũng là ngày có nhiều phi công tham chiến sau này trở thành phi công Ace nhất (2 phi công Việt Nam, 2 phi công Mỹ).
Về phía Việt Nam, theo thống kê có 64 lượt chiếc xuất kích, gồm 3 loại máy bay tiêm kích của bốn Trung đoàn Không quân tiêm kích (38 lần/chiếc MiG-17; 8 lần/chiếc MiG-19; 18 lần/chiếc MiG-21), trong đó có 46 lần/chiếc trực tiếp tham chiến.
Một số khác biệt trong đánh giá kết quả trận không chiến ngày 10/5/1972
1. Các tài liệu, ghi chép của các đơn vị Không quân Việt Nam ghi nhận, trong các trận không chiến ngày 10/5/1972, các biên đội MiG của bốn Trung đoàn đã bắn rơi 6 chiếc máy bay F-4 của Không quân và Hải quân Mỹ. Trong khi đó cũng công nhận có 6 chiếc MiG bị rơi (2 chiếc MiG-21, 3 chiếc MiG-17, 1 chiếc MiG-19), 5 phi công hy sinh (riêng phi công MiG-19 Lê Văn Tưởng hy sinh khi hạ cánh).
2. Trong khi đó, theo một số tác giả Mỹ ngày 10/5/1972, các phi công Mỹ bắn rơi 11 chiếc MiG (7 chiếc-17 và 4 chiếc MiG-21). Bản thân phía Mỹ thừa nhận ngày 10/5 mất 10 chiếc máy bay (7 chiếc F-4, 1 chiếc A-6A, 1 chiếc RA-5C và 1 chiếc RF-4C), nhưng chỉ công nhận có 4 chiếc bị rơi, số còn lại chỉ bị thương.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 3
Hai cựu phi công Việt - Mỹ trong buổi gặp mặt ngày 13/4/2016
Khi tra cứu các tài liệu lưu trữ của Việt Nam và phỏng vấn các phi công Việt Nam trực tiếp tham chiến ngày hôm đó, thì trên thực tế chỉ có 4 chiếc MiG-17 đụng độ với Không quân Mỹ (phía Việt Nam còn có 34 lần/chiếc MiG-17 khác cất cánh nhưng không đụng độ với Không quân Mỹ và tất cả đều trở về hạ cánh an toàn), phía Việt Nam ghi nhận 3 chiếc MiG-17 bị bắn rơi, 1 chiếc về hạ cánh an toàn (phi công Trung bay số 2). Như vậy, có thể suy luận rằng, 4 chiếc còn lại trong số lượng 7 chiếc MiG-17 phía Mỹ ghi nhận bắn rơi là không có cơ sở. Các phi công Mỹ báo cáo bắn rơi 4 chiếc MiG-21, trong khi ngày hôm đó 6 chiếc MiG-21 cất cánh thì 4 chiếc hạ cánh an toàn (chỉ có 2 phi công Ngãi và Khảo bị bắn rơi như thống kê của Việt Nam).
3. Ngược lại, trong khi phía Mỹ không thống kê chiếc MiG-19 nào bị bắn rơi, thì bản thân Trung đoàn Không quân 925 đã thừa nhận 1 chiếc MiG-19 (phi công Lê Văn Oánh) bị bắn rơi và một chiếc khác gặp tai nạn khi hạ cánh (phi công Tưởng hy sinh).
4. Tình tiết Đại úy, phi công Randy Cunningham và viên sĩ quan dẫn đường Trung úy William Driscoll báo cáo bắn rơi 3 chiếc MiG-17 trong trận không chiến ngày 10/5/1972 (do vậy trở thành các phi công Ace đầu tiên của Hải quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam) cho đến bây giờ vẫn là một câu hỏi lớn! Trong ngày 10/5/1972 có 38 lần/chiếc MiG-17 cất cánh, nhưng chỉ có một biên đội 4 chiếc gồm Thọ, Trung, Hạng, Kiếm là gặp và không chiến với các máy bay của Hải quân Mỹ, các biên đội còn lại có cất cánh nhưng không đụng độ với Hải quân Mỹ và đều trở về hạ cánh an toàn.
Biên đội MiG-17 đụng độ với các máy bay của Hải quân Mỹ, có 3 chiếc bị bắn rơi, nhưng khả năng cả 3 chiếc đều do một mình Cunningham bắn rơi ở nhiều vị trí và thời điểm khác nhau là rất khó diễn ra, vì tại thời điểm đó, phía Mỹ có 12 chiếc F-4 tham chiến và 2 phi công là Đại úy Matthew J. Connelly và Đại úy Thomas J J.Blonski thuộc Phi đoàn VF-96, tàu USS Constellation (mật danh Showtime 106) đã nhận bắn rơi 2 chiếc MiG-17, chỉ còn 1 chiếc có thể do Đại úy Randy Cunningham bắn hạ mà thôi! Đây là chưa kể hai tổ bay F-4B khác gồm Đại úy Kenneth L. Cannon và Đại úy Roy A. Morris, Phi đoàn VF-51 (mật danh liên lạc Screaming Eagle 111) và Đại úy Steven S. Shoemaker, cùng Đại úy Keith V. Crenshaw, Phi đoàn VF-96 (mật danh Showtime 111) cũng tuyên bố mỗi tổ bay bắn rơi 1 chiếc MiG-17.
Nếu việc Đại úy R. Cunningham trong trận ngày 10/5/1972 không bắn rơi đủ 3 chiếc MiG-17 như đã báo cáo, thì việc Cunningham được ghi nhận bắn rơi 5 chiếc (trước đó đã công bố bắn rơi 2 chiếc MiG) để trở thành phi công Ace đầu tiên của Hải quân là một câu hỏi (đó là chưa kể trong hai trận trước đó mà Cunningham ghi nhận “lập công” thì trận ngày 19/1/1972, phía Không quân Việt Nam không ghi nhận bất cứ tổn thất nào, còn trận ngày 8/5/1972 Cunningham được ghi nhận bắn rơi 1 chiếc MiG-17, nhưng thực ra ngày 8/5/1972, 3 biên đội MiG-17 của Việt Nam xuất kích đều hạ cánh an toàn, đầy đủ, không có bất kỳ chiếc MiG-17 nào bị bắn hạ trong ngày 8/5/1972).
5. Việc Đại úy Cunningham đã đụng độ và bắn rơi Đại tá huyền thoại “Nguyễn Tom” của Không quân Việt Nam trong trận ngày 10/5/1972 là không có thực. Trong lịch sử của mình, Không quân nhân dân Việt Nam không có ai là Đại tá Nguyễn Tom, và cũng không có ai bắn rơi 13 chiếc máy bay Mỹ, chiếc MiG-17 đi lẻ mà Cunningham gặp và tiến hành không chiến ngày 10/5/1972 là chiếc MiG của Thiếu úy trẻ tuổi Trà Văn Kiếm, người lúc đó mới chỉ có hơn 200 giờ bay và mới xuất kích trận đầu. Khi được hỏi tại sao biết chiếc MiG-17 bị bắn rơi chính là Đại tá Tom, Cunningham trả lời rằng, chính hệ thống thông tin – truyền thông xác định, và họ tin rằng, đó chính là Tom.
Thực ra tại thời điểm diễn ra không chiến, người phi công không thể biết viên phi công trong buồng lái của đối phương là ai. Trên thực tế, trong đội ngũ phi công Aces của Việt Nam không có ai là Đại tá Nguyễn Tom, người bắn rơi đến 13 máy bay Mỹ! Có lẽ đó chính là nhân vật huyền thoại, tượng trưng cho sức mạnh, tài năng của phi công Việt Nam, nỗi ác mộng của các phi công Mỹ khi tham chiến trên bầu trời Bắc Việt Nam. (Giống như nỗi ác mộng, mà quân Mỹ nói về nữ phát thanh viên Hà Nội Hannah-madam của Đài Tiếng nói Việt Nam).
Một số thông tin về các phi công tham gia trận không chiến và các sĩ quan dẫn đường ngày 10/5/1972
1. Đại tá, phi công MiG-21 Lê Thanh Đạo sinh năm 1944 tại Thụy Phương, Từ Liêm, Hà Nội. Anh là học viên đoàn học MiG-21 số 3 tại Liên Xô, tốt nghiệp về nước năm 1968. Lê Thanh Đạo trực chiến lần đầu tiên vào ngày 9/6/1968. Trong chiến tranh Việt Nam, anh xuất kích 82 lần, bắn rơi 6 máy bay Mỹ. Anh được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân tháng 1/1973. Sau trận không chiến ngày 15/10/1972, Lê Thanh Đạo nhảy dù và được bà con dân tộc Dao cứu sống. Sau thời gian dài điều trị tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Lê Thanh Đạo lại trở về Trung đoàn bay hồi phục trên MiG-21.
Sau chiến tranh, phi công Lê Thanh Đạo chuyển sang công tác tại Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và được bầu vào chức Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Việt Nam, rồi sau đó được bầu làm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, rồi Phó ban Dân vận Trung ương. Đại tá, phi công Lê Thanh Đạo về hưu năm 2006, hiện nay đang sống tại Hà Nội.
2. Sĩ quan dẫn đường Đỗ Cát Lâm sinh năm 1943 tại xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, Bình Định, nhập ngũ năm 1961 tại Trường Không quân Việt Nam, năm 1963 được chọn đi học dẫn đường Sở chỉ huy tại Trường Hàng không Nam Uyển, Bắc Kinh, Trung Quốc. Đỗ Cát Lâm dẫn đường trận không chiến đầu tiên là ngày 29/9/1966, phi công Nguyễn Văn Biên bắn rơi 1 chiếc máy bay không người lái. Trong chiến tranh Việt Nam, Đỗ Cát Lâm tham gia dẫn khoảng 30 trận, tạo điều kiện cho các phi công MiG bắn rơi 27 máy bay Mỹ các loai. Sau chiến tranh, Đỗ Cát Lâm tốt nghiệp khoa dẫn đường Học viện Chỉ huy - Tham mưu mang tên nhà du hành vũ trụ Gagarin, Liên Xô. Năm 1981 ông được bổ nhiệm là Phó Tham mưu trưởng - Trưởng ban dẫn đường Sư đoàn 370, sau đó là Sư đoàn 372.
Đỗ Cát Lâm chuyển ngành sang Hàng không dân dụng năm 1990 và được bổ nhiệm là Giám đốc Trung tâm Quản lý bay miền Trung, ông nghỉ hưu năm 2004, hiện sống tại thành phố Đà Nẵng.
3. Đại úy Roger Clinton Locher, sinh ngày 13/9/1946, tại Sabetha, bang Kansas, Mỹ. Locher gia nhập lực lượng Không quân năm 1969, sau khi tốt nghiệp Trường đào tạo phi công - hoa tiêu trên máy bay F-4 Phantom tại căn cứ Davis Monthan ở Arizona, Locher được điều đến Phi đoàn 555, Không đoàn 432 TFW. Tổ bay của Thiếu tá Lodge và Đại úy Locher trước đó đã tuyên bố bắn rơi 3 chiếc MiG.
Trong trận ngày 10/5/1972, chiếc F-4 do Thiếu tá Lodge và Đại úy Locher điều khiển dẫn đầu biên đội  làm nhiệm vụ chế áp MiG (Oyster). Mặc dù đã được hệ thống cảnh báo trên không Disco trên máy bay EC-121 bay trên đất Lào cảnh báo, nhưng chiếc F-4 vẫn bị MiG-19 bắn rơi. Viên Thiếu tá, phi công Lodge bị chết, còn Đại úy Locher nhảy dù xuống khu rừng quanh sân bay Yên Bái và lẩn trốn trong rừng, Locher đi lang thang trong rừng, ăn lá cây, củ rừng và uống nước suối suốt 23 ngày, lập kỷ lục được cứu thoát sau thời gian dài nhất cho đến khi được lực lượng giải cứu của Không quân Mỹ (SAR) cứu thoát.
Đại úy Locher đã thực hiện phi vụ thứ 407 trong chiến tranh, và cùng Thiếu tá Lodge báo cáo bắn rơi 3 chiếc MiG. Không hiểu Đại úy Locher có phải dòng dõi “hoàng tộc” hay có vai trò gì quan trọng mà sau khi chiếc F-4 của Locher bị rơi, đích thân Tướng John Vogt tư lệnh Tập đoàn Không quân số 7, ra lệnh ngừng toàn bộ các kế hoạch tác chiến đã chuẩn bị để đánh phá Hà Nội, và tập trung mọi lực lượng có trong tay bao gồm 150 máy bay (có 119 chiếc trực tiếp tham gia) cho chiến dịch “giải cứu Đại úy Locher”. Buổi trưa ngày 2/6/1972, các máy bay trực thăng HH-53 đã tìm được Đại úy Locher ở gần sân bay Yên Bái, được chở về sân bay Udorn. Tại đây, đích thân Tướng J. Vogt bay bằng T-39 từ Sài Gòn sang để đón Đại úy Locher.
(Còn tiếp)
P.V

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH