Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2016

CHUYỆN ÍT BIẾT 10

(ĐC sưu tầm trên NET)

Cuộc sống không thể tin ở những hoàng gia nghèo nhất hành tinh

00:01:00 19/04/2015

Xuất thân từ dòng dõi hoàng gia quý tộc nhưng cuộc sống của các ông hoàng, bà chúa này lại không sung sướng như mọi người vẫn nghĩ.

Chắc hẳn khi nghe đến từ hoàng gia hay quý tộc, các bạn sẽ nghĩ ngay đến những con người giàu sang và có địa vị cao trong xã hội, được hưởng cuộc sống trong nhung lụa.

Và sự thật thì phần lớn các hoàng gia trên thế giới hiện nay đều như vậy. Tuy nhiên, vẫn còn đâu đó một số gia đình hoàng tộc trên thế giới "nghèo" hơn hẳn so với các hoàng gia của nước khác. Họ có thể "nghèo" về mặt tài chính hay thậm chí đơn giản là không có chút quyền lực nào trong tay.

Dưới đây, chúng ta sẽ cùng đi tìm những gia đình hoàng tộc như thế.

1. Hoàng gia đảo Piel (Anh) - "nghèo" quyền lực khi vua chỉ được uống rượu

Piel là một hòn đảo nằm gần đất liền, phía Tây Bắc nước Anh. Mặc dù thuộc sự quản lý của Vương quốc Anh song trên đảo vẫn luôn có sự hiện diện của một gia đình hoàng gia.


Hòn đảo nơi vua của Piel trị vì
Vị vua cai quản đảo Piel và hoàng tộc của ông sẽ cư ngụ trong một lâu đài nhỏ trên đảo và luôn nằm trong top những ông vua "nghèo" nhất. Nguyên nhân là bởi mức sống trên đảo Piel rất khiêm tốn, do vậy tài sản của hoàng gia là không nhiều. 

Đây chính là cung điện của nhà vua Piel

Mặt khác, đức vua thực ra chỉ đơn giản là một tước hiệu do người dân trên đảo bầu và tiến hành trao vương miện cho người đọc chọn thông qua một nghi lễ cổ truyền độc đáo. 

Theo nghi lễ này, đức vua tương lai phải ngồi trên một chiếc ghế cổ, đầu đội mũ sắt và tay nắm giữ một thanh kiếm, trong khi các “thần dân” sẽ đổ rượu lên đầu của ông. 

Nghi lễ nhậm chức của nhà vua!

Mặc dù không có quyền lực hay tài sản gì đáng giá, nhưng vua đảo Piel sẽ được hưởng “đặc quyền” là uống rượu miễn phí và trở thành tâm điểm chú ý của các phụ nữ trên hòn đảo nhỏ bé này.

2. Hoàng gia đảo Dalkey (Ireland) - "nghèo" tới mức phải đi thuê quần áo đăng cơ

Tương tự như đức vua đảo Piel, hoàng gia đảo Dalkey cũng là do cư dân địa phương tự bầu lên như một nét truyền thống của vùng đất ngoại ô thành phố Dublin thuộc Ireland này.


Toàn cảnh đảo Dalkey
Làm quốc vương của Dalkey dĩ nhiên cũng chẳng phải là một nhân vật quyền lực hay giàu có gì, tuy nhiên điều có được chính là niềm vui và sự thoải mái. Bằng chứng rõ nhất được thể hiện trong lễ đăng cơ nhận chức.

Khi đó, nhà vua đảo Dalkey sẽ được tiếp đón bởi 20 triều thần trong trang phục thế kỷ XVIII cổ xưa. Tuy nhiên, tất cả họ đều mặc một chiếc quần dài... tới đầu gối. Đồng thời, những trang phục hoàng tộc thực ra không được may sẵn cầu kì như nhiều người tưởng tượng, thay vào đó để tiết kiệm, vua Dalkey thuê chúng từ một sân khấu ở thành phố. 


Mọi trang phục trong lễ đăng cơ đều được thuê của nhà hát thành phố
Nhà vua đầu tiên của Dakley là Stephen Armitage, xuất thân là một người thợ cầm đồ và in ấn. Khi ông đăng quang, hơn 200.000 người đã tham gia vào các lễ diễu hành, lễ hội và kỉ niệm chào mừng vị vua mới vào ngày 20/08/1979.

Đức vua hiện tại của Dalkey đang thong thả… tự mình chèo thuyền

4. Hoàng gia Lesotho - quý tộc thích sống "nghèo"

Lesotho là một vương quốc nhỏ được bao bọc hoàn toàn bên trong đất nước Nam Phi. Tuy là một thành viên của Khối thịnh vượng chung nhưng đây là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới với 40% dân số có mức lương dưới 1,25 USD/ngày (gần 30.000 đồng). Lẽ dĩ nhiên là với tình hình như vậy, hoàng gia nước này có một cuộc sống cũng không mấy sung túc.

Quốc vương hiện này của Lesotho là vua Letsie III. Ông từng được đào tạo tại trường Cao đẳng Ampleforth (Anh), sau đó theo học và lấy bằng Cử nhân luật tại Đại học Quốc gia Lesotho, Đại học Bristiol, Cambridge và London.

Quốc vương Letsie III đóng vai trò quan trọng trong các nghi lễ quốc gia

Mức sống của Letsie III khá giả hơn nhiều so với đa số người dân của mình song chẳng thấm vào đâu so với hoàng gia của các quốc gia khác. Đặc biệt, với tình cảnh đất nước chưa phát triển nên ông chọn lối sống vô cùng giản dị. 


Hình ảnh đức vua không thể giản dị hơn
Tiệc cưới của vua Letsie III với người vợ duy nhất Karabo Motsoeneng, người sinh cho ông hai hoàng tử và một công chúa diễn ra không quá cầu kỳ. Hình ảnh của vị vua này có thể được xem là khá trái ngược với quốc vương ở các nước Châu Phi khác có cuộc sống xa hoa với năm thê bảy thiếp cùng một khối tài sản kếch xù.

Lễ cưới của quốc vương Letsie III không hề hoành tráng như nhiều quốc vương Châu Phi khác

4. Hoàng gia Na Uy - giàu có nhất trong các hoàng tộc "nghèo"

Một trong những hoàng gia nghèo nhất châu Âu hiện nay là gia đình hoàng tộc vua Harald V của Na Uy, với tài sản ước tính chỉ khoảng 10,5 triệu euro (khoảng 247,2 tỉ đồng), một lượng thật ít ỏi khi so sánh với hoàng gia Lichtenstein, vốn được mệnh danh là giàu nhất lục địa già với khối tài sản trị giá 7,4 tỉ USD (hơn 160 nghìn tỉ đồng).


Thực tế, con số này đem so sánh với các hoàng gia "nghèo" khác trên thế giới thì rõ ràng, hoàng tộc Na Uy vẫn còn rất sung túc và no đủ hơn nhiều. Mỗi năm, các hoạt động của hoàng gia này cũng được chính phủ hỗ trợ tới 16 triệu euro (372 tỷ đồng).

Nguồn: Typeanything, Pielisland, Dalkeyhomepage, Bubblews, Wikipedia
Theo Minh Khánh / Trí Thức Trẻ

Các vụ tai nạn ảo thuật hi hữu nhất trong lịch sử

00:00:10 13/01/2015

Đột tử trên sân khấu, bỏ mạng khi bị bắn nhầm khẩu súng có đạn thật... là những tai nạn ảo thuật hi hữu đã xảy ra trong lịch sử.

Có một sự thật là các ảo thuật gia luôn phải đối mặt với những mối hiểm nguy trong các tiết mục biểu diễn của mình. Sự nguy hiểm đó khiến khán giả cảm thấy hồi hộp đến thót tim rồi vỡ òa vì thán phục. Tuy nhiên, không phải tiết mục nào cũng trọn vẹn mà đôi khi, sự mạo hiểm trong những màn biểu diễn lại gây ra những tai nạn thương tiếc.

1. Ảo thuật gia DeLinksy tử vong khi bị trúng đạn

Vào thế kỷ XIX, những buổi biểu diễn ảo thuật với sự xuất hiện của súng luôn được nhiều khán giả nhiệt liệt hưởng ứng. Và cặp đôi nhà ảo thuật DeLinksy không đứng ngoài xu hướng này. Họ đã sáng tạo ra màn ảo thuật độc đáo đòi hỏi ảo thuật gia phải giả vờ mình có biệt tài "bắt" trúng viên đạn. 

Các vụ tai nạn ảo thuật hi hữu nhất trong lịch sử 1
Ảnh minh họa.
Về nguyên tắc cơ bản, trò ảo thuật này không dùng đến đạn thật nhưng thực tế vẫn có vài tai nạn hi hữu nguy hiểm xảy ra trong khi biểu diễn. Cụ thể, trong lần biểu diễn cho Hoàng tử Đức xem vào tháng 11/1820, cặp đôi nhà ảo thuật DeLinksy đã không may gặp nạn trong lúc biểu diễn màn ảo thuật bắt đạn. 

Trong màn biểu diễn này, bà DeLinksy giả vờ như đương đầu với 6 người đàn ông đang chĩa súng thẳng vào mình và sẽ tóm gọn được 6 viên đạn được bắn ra. Tuy nhiên, do có sự nhầm lẫn mà một trong những khẩu súng đã mang đạn thật. Do đó, bà DeLinksy đã từ giã sự nghiệp của mình vào buổi biểu diễn này.

2. Ảo thuật gia Washington Irving Bishop hôn mê khi bắt tay khán giả

Không giống những bạn đồng nghiệp, Washington Irving Bishop đã luyện cho mình một chiêu trình diễn vô cùng đặc biệt đó là đọc được ý nghĩ của người khác bằng cách cầm tay họ. Theo Bishop cho biết, chỉ cần cảm nhận chuyển động của dòng máu trên lòng bàn tay đối phương là ông có thể đọc chính xác những gì mà họ đang nghĩ.

Các vụ tai nạn ảo thuật hi hữu nhất trong lịch sử 2
Vào tháng 5/1889, khi Bishop đang trình diễn ở New York thì bất ngờ ngất và rơi vào trạng thái hôn mê. Một lúc sau, ông tỉnh dậy và yêu cầu tiếp tục hoàn thành buổi biểu diễn. 

Các vụ tai nạn ảo thuật hi hữu nhất trong lịch sử 3

Tuy nhiên, ngay khi vừa bắt tay một vị khách, Bishop ngay lập tức rơi tiếp vào trạng thái hôn mê và ông đã qua đời ngay sau đó. Theo các chuyên gia y học, Bishop rất có thể đã lên cơn đau tim và không thể qua khỏi.  

3. Ảo thuật gia Charles Rowen bỏ mạng khi bị xe lao qua người

Ít ai biết rằng, Charles Rowen không chỉ là một nhà ảo thuật mà còn là nghệ sĩ tài ba. Ông là một trong những nhà ảo thuật có nhiều ý tưởng táo bạo với mong muốn đem đến cho người xem những màn trình diễn độc đáo, thú vị nhất.

Các vụ tai nạn ảo thuật hi hữu nhất trong lịch sử 4
Ảnh minh họa.

Tuy nhiên, vào năm 1930, Charles đã không may gặp tai nạn khi đang trình diễn màn ảo thuật cho xe chạy qua người. Cụ thể, chiếc xe hơi sẽ lao đi với tốc độ khoảng 72km/h và lấy đà khoảng 200m trước khi lăn qua người ông. Tuy nhiên, do vài sự cố ngoài ý muốn, chiếc xe đã dừng lại lâu hơn trên người ông khiến ông tử vong. 

Khi thấy ông nằm bất động trên sàn biểu diễn, nhiều người hồi hộp sẽ đón chờ màn trình diễn tiếp theo. Nhưng thật đáng tiếc, nhà ảo thuật người Nam Phi này đã tắt thở ngay sau đó.

4. Ảo thuật gia Benjamin Rucker đột tử trên sàn diễn

Benjamin Rucker là một ảo thuật gia người Mỹ gốc Phi nổi tiếng vào thập niên 1920 - 1930. Một trong những tiết mục được coi là kinh điển của ông là chôn sống mình. Sau 3 ngày, mọi người sẽ quay lại khai quật mộ của ông và hiển nhiên sẽ vẫn thấy ông khỏe mạnh cùng nụ cười rạng rỡ

Các vụ tai nạn ảo thuật hi hữu nhất trong lịch sử 5
Tuy nhiên, vì luôn "giả chết" nên trong một buổi trình diễn của mình vào tháng 4/1934, ông bất ngờ lên cơn đau tim và qua đời ngay tại sân khấu. Không ai theo dõi buổi biểu diễn lúc bấy giờ tin Rucker đã qua đời thật. 

Trớ trêu thay, ekip làm việc với ông đã tận dụng điều này để bán vé mời mọi người tới dự lễ tang của ông và hồi hộp chờ xem ông sẽ hồi sinh như thế nào. Nhưng thật đáng tiếc, lần này, Rucker đã thực sự qua đời.

Các vụ tai nạn ảo thuật hi hữu nhất trong lịch sử 6

Bên cạnh Rucker, lịch sử ảo thuật gia còn ghi nhận trường hợp của nhà ảo thuật Tommy Cooper (1921- 1984) cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Ông lên cơn đau tim và qua đời ngay trên sân khấu nhưng khán giả lại ngỡ như đây là một màn ảo thuật đặc biệt.

5. Ảo thuật gia Jeff Rayburn Hooper chết đuối khi tay bị còng

Vào tháng 7/1984, nhà ảo thuật Jeff Rayburn Hooper (người Mỹ) đã tiến hành buổi họp báo giới thiệu về buổi trình diễn độc đáo sẽ diễn ra ngay hôm đó. 

Các vụ tai nạn ảo thuật hi hữu nhất trong lịch sử 7

Cụ thể, Jeff Rayburn Hooper sẽ để một người còng tay mình và ném anh xuống nước. Hooper sẽ tìm cách tự giải cứu chính mình và bơi vào bờ. 

Các vụ tai nạn ảo thuật hi hữu nhất trong lịch sử 8
Ảnh minh họa.
Trước khi biểu diễn chính thức, Hooper đã luyện tập nhiều lần và đều thành công. Lần này, Hooper lựa chọn hồ Winona, bang Indiana (Mỹ) làm điểm biểu diễn của mình. Tuy nhiên, sau khi được thả chìm xuống nước, Hooper nhận thấy mình không thể tự giải thoát tay ra khỏi chiếc còng nên đã cố kêu cứu. 

Nhưng vì sóng cao và gió mạnh, Hooper đã không thể tiến lại gần bờ kêu người trợ giúp. Khi mọi người phát hiện ra điểm bất thường và ra chỗ Hooper thì ông đã qua đời vì bị ngạt nước ở độ sâu 1,6m.

Nguồn: Listverse, Madten

5 màn ảo thuật "đen đủi" có cái kết kinh hoàng trong lịch sử

00:01:00 14/08/2015

Do không gặp may nên một số nhà ảo thuật đã bị tử nạn trong khi biểu diễn màn ảo thuật của mình.

Những màn trình diễn ảo thuật thành công có thể khiến công chúng ngẩn ngơ kể cả khi đó chỉ là trò ảo thuật với lá bài đơn giản hay màn trình diễn công phu của David Copperfield. 

Tuy nhiên, không phải ảo thuật gia nào cũng hoàn thành màn diễn kịch tính của mình mà không hề hấn gì, có người đã phải bỏ mạng.

Hãy cùng điểm qua một vài nhà ảo thuật không đủ may mắn để tự cứu mình thoát khỏi nguy hiểm, theo tổng hợp từ trang Mentalfloss.

1. Genesta và chiếc bình đựng sữa
Một trong những màn trình diễn kinh điển của làng ảo thuật thế giới là tiết mục thoát ra khỏi bình nước. Tiết mục này thường đem lại rất nhiều cảm xúc cho khán giả, tuy nhiên bên cạnh đó cũng có nhiều ảo thuật gia phải bỏ mạng vì nó. Một trong những nạn nhân xấu số là nhà ảo thuật Royden Genesta vào năm 1930.

150812magic05-9a964
Một biến thể của tiết mục.

Trong tiết mục, các ảo thuật gia sẽ bị nhốt trong một chiếc bình được khóa nắp, chứa đầy nước hoặc sữa. Họ chỉ có một khoảng thời gian rất ngắn để thoát ra.

Mấu chốt của tiết mục nằm ở chỗ phần cổ bình có thể tháo rời được, vì vậy các ổ khóa trên miệng bình sẽ có đôi chút khác biệt so với ổ khóa thường. Tuy nhiên, Genesta không biết rằng lẫy của khóa đã bị gãy trong quá trình vận chuyển, khiến cổ bình bị cố định, không thể tháo rời.

150812magic04-9a964
Chiếc bình được sử dụng trong tiết mục của Genesta

Hiển nhiên Genesta đã không thể thoát ra. Dù đã được cấp cứu và hồi tỉnh, nhưng tình trạng ngộp nước quá lâu đã khiến ông qua đời chỉ trong một thời gian ngắn.

2. Joe Burrus và màn trình diễn “chôn vùi cùng xi măng”

Năm 1990, để tăng tính giật gân cho khán giả, Joe Burrus đã chuẩn bị một màn trình diễn đặc biệt vào đêm Halloween tại trung tâm giải trí Blackbeard’s Family Fun, California.
150812magic06-9a964
Ảnh minh họa

Theo kế hoạch, Joe sẽ bị trói trong một chiếc quan tài bằng kính, rồi bị vùi lấp bởi 9 tấn bùn đất và xi măng. Tuy nhiên màn trình diễn đã không như mong đợi.

150812magic07-9a964
Ảnh minh họa

Sau khi quan tài được hạ xuống lòng đất, trợ lí của Burrus lái xe tải đổ bùn đất và xi măng lên. Nhưng trong lần đầu tiên, dây trói quanh cổ Burrus quá chặt, khiến ông không thể thoát ra và phải thực hiện lại tiết mục. Đến lần thứ 2, áp lực từ 9 tấn xi măng đã làm vỡ quan tài, khiến ông bị ngạt thở và thiệt mạng.

3. George Lalonde và rủi ro đến từ… khán giả

Khán giả khi xem những màn ảo thuật thừa hiểu rằng đó là những tiết mục giải trí, ngoại trừ Henry Howard. Có lẽ George Lalonde là nhà ảo thuật… đen đủi nhất khi đã trình diễn ảo thuật trước mặt một thanh niên quá “nghiêm túc”.
 
150812magic08-9a964
Tiết mục cưa người kinh điển

Năm 1993, tại Montréal, Canada, Henry Howard đã lao lên sân khấu, rút lấy một thanh gươm và đâm thẳng vào cổ Lalonde khi ông đang trình diễn tiết mục “cưa người”. Nhà ảo thuật may mắn sống sót, còn Henry thì phải giải thích với cảnh sát là anh đã không thể chịu được khi thấy cảnh một người phụ nữ yếu đuối bị xẻ làm đôi.

4. Balabrega và những con bướm đêm bốc cháy

Ảo thuật gia người Thụy Điển bị mê hoặc bởi một tiết mục công phu và đặc biệt nguy hiểm – tiết mục “Bướm đêm bốc cháy”.

Theo đúng kịch bản, màn trình diễn sẽ được Balabrega thực hiện cùng với 6 trợ lý. Họ sẽ hóa trang giống những con bướm, rồi tự châm lửa và biến thành cánh bướm bập bùng tuyệt đẹp.

150812magic09-9a964
Tờ rơi cuối cùng của Balabrega

Sau khi có được giấy phép biểu diễn tiết mục này, Balabrega đã thực hiện tour diễn tại Brazil vào 6/1990, mà không hay biết rằng đây chính là show diễn cuối cùng của đời mình.

Nguyên do là bởi nhà hát chưa kịp chuẩn bị xăng, nên Balabrega đã sử dụng acetylene - một hợp chất hữu cơ rất dễ bắt lửa. Chất này đã bắt lửa và phát nổ ngay trong quá trình chuẩn bị biểu diễn, khiến ảo thuật gia cùng 6 trợ lý bị thổi tung thành từng mảnh.

5. Công chúa Tenko và màn trình diễn với những thanh gươm

Công chúa Tenko là nghệ danh của một nữ nghệ sĩ nổi tiếng người Nhật Bản. Cô nổi tiếng chủ yếu vì những bộ trang phục kỳ quặc khi biểu diễn.

150812magic11-5fa41
Hình ảnh "công chúa Tenko" trên một chương trình truyền hình
Màn trình diễn chủ đạo của Tenko là với những thanh gươm. Cô chui vào một chiếc hộp, sau đó sẽ phải tìm cách thoát ra khi người trợ giúp cắm 10 thanh gươm xuyên qua đó.

150812magic10-9a964
Hình ảnh một show diễn của "công chúa"

Tuy nhiên, tiết mục đã thất bại trong một show diễn năm 2007, tại thành phố Sabae, Nhật Bản. Cô đã không thể thoát ra kịp và bị những thanh gươm sắc nhọn đâm gãy một vài chiếc xương sườn, đồng thời khiến gò má bị tổn thương. 

Nguồn: Mentalfloss
Theo Hoàng Anh / Trí Thức Trẻ

Lật tẩy 5 màn "ảo thuật" bất hủ chỉ với một bức ảnh

00:20:00 10/09/2015

Bạn có tin, những màn ảo thuật kinh điển trên thế giới sẽ được giải mã chỉ trong một bức ảnh không?

Chúng ta biết rằng, ảo thuật là nghệ thuật sử dụng phương pháp, cách thức, đạo cụ, người hỗ trợ... khiến cho người xem tin rằng, mình đang thấy một điều tựa như phép thuật, không thể xuất hiện trong đời thường.

Tuy nhiên, dù biết rõ là không hề có phép thuật nhưng phần lớn chúng ta đều không giải thích được vì sao họ có thể làm như vậy. Chùm ảnh dưới đây sẽ giúp bạn hiểu được luôn "bí kíp" của một số màn ảo thuật nổi tiếng trên thế giới.

1. Màn ảo thuật "cưa người"


Và chỉ bằng một bức ảnh, chúng ta có thể thấy được bí kíp để thực hiện điều này!

150909trick05-9ef79

Bí mật của màn ảo thuật này là phải có hai người tham gia. Bên cạnh đó, điều quan trọng nhất là cấu tạo của chiếc hộp phải "đánh lừa" được khán giả, và khả năng trình diễn của nhà ảo thuật phải đủ điêu luyện để không ai có thể nghi ngờ.

Thêm một màn ảo thuật cưa người cũng có "nguyên lý" gần giống:


Chúng ta không hề thấy có "kẽ hở" nào để xuất hiện người thứ 2 trong hộp thì phải...

150909trick06-9ef79
Và mánh khóe chính là sử dụng chân giả thay thế!

2. Làm biến mất khăn tay

Bạn có giải thích được vì sao ảo thuật gia dưới đây làm biến mất chiếc khăn tay một cách thần kỳ như thế không?

150909trick02-8b543

Và câu trả lời là:


150909trick04-73c34
Bằng việc sử dụng ngón tay cái giả có khoảng trống bên trong, nhà ảo thuật dễ dàng đánh lừa khán giả bằng cách giấu chiếc khăn tay vào đó.

Để hiểu rõ hơn về màn ảo thuật này, xin mời các bạn xem clip:


3. Màn ảo thuật "cưa người thành 3 khúc"

Bạn có tin, cơ thể một người có thể tách ra thành 3 khúc riêng biệt? Màn trình diễn này một thời đã làm mưa làm gió tại các buổi trình diễn ảo thuật trên thế giới, khiến nhiều người như không tin vào mắt mình.

150908magic04a-c98c1

Tuy nhiên, lời giải cho bạn sẽ ở ngay dưới đây:

150908magic03-9bfd5

11916503_10205135371489491_1309970197_n-e924d

Video dưới đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về màn ảo thuật độc đáo này:


4. Biệt tài nghiêng người 45 độ về phía trước

Nói đến Michael Jackson, không ít người nhớ ngay đến điệu nhảy huyền thoại nghiêng người 45 độ về phía trước của ông hoàng nhạc Pop này.

150908magic01e-ae2d3
Tuy nhiên, nhiều người đã tìm ra được bằng chứng rằng, Michael đã nhờ tới sự hỗ trợ về kỹ thuật để thực hiện được điệu nhảy này, đó chính là đôi giày Anti - Gravity (Bất chấp Trọng lực).

150908magic01c-d5eb8

150908magic01b-a08ad

Bí mật của màn biểu diễn nằm ở phần gót giày - nơi được khoét một rãnh chữ V có thể neo chặt vào đinh vít đã được cố định để giữ chặt gót chân tại chính điểm đó.

150908magic01a-cd92a
Sau khi trượt phần rãnh ở đế giày vào hai chiếc ốc vít, nhằm giữ gót chân cố định, các vũ công sẽ nghiêng người 45 độ về phía trước. Lúc này, điểm chịu lực nằm ở phần lưng.

5. Ngồi thiền trên không trung

Chống gậy ngồi thiền trên không trung là một trong những màn biểu diễn “bay” từng gây xôn xao trên thế giới một thời.

giai_ma_bi_an_nguoi_lo_lung_tren_duong_pho_5_oplw-ed27b

Nhưng sự thật thì chẳng có phép thần kỳ gì ở đây cả!

150908magic02-9dd5a

Có những màn "bay" còn thuyết phục hơn khi có 2 người:

phu-nu-today-khinh-cong-2-e6ab1
Nhưng vẫn cùng một "mánh" mà thôi:

giai-ma-clip-2-nguoi-bay-tren-pho-nhu-ton-ngo-khong-3-e6ab1
Điểm mấu chốt chính là thanh công cụ có cấu trúc đặc biệt, gồm một mặt đế (tấm thảm dưới đất) nối với một thanh kim loại chắc chắn (cây gậy). Thanh kim loại này được gắn thêm một mặt phẳng vừa phải để người biểu diễn có thể ngồi hay nằm lên được. Toàn bộ cấu trúc này sẽ được ngụy trang cẩn thận - che khuất bởi những bộ quần áo rộng thùng thình của người biểu diễn.

Nếu bạn vẫn chưa tin, video dưới đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về màn trình diễn này:


Nguồn: Million Pictures, Io9, Wikihow
Theo J, June / Trí Thức Trẻ
 
Xem tiếp...

CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 53

(ĐC sưu tầm trên NET)

Xem tiếp...

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 68

(ĐC sưu tầm trên NET)

Điệp viên thế kỷ XX: Bại lộ điệp viên đồng tính A-17 (1)

Đại tá Alfred Redl

Trong lịch sử tình báo nước nhà, có không ít những trang huy hoàng mà chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào. Dưới đây, chúng tôi sẽ kể về một điệp viên của chúng ta ở Áo-Hung, người mà vào đầu thế kỷ 20, trong một thời gian dài đã chuyển về St. Petersburg (thủ đô nước Nga Sa hoàng khi đó - ND) những thông tin cực kỳ quý giá, đồng thời đã đánh lạc hướng bộ tham mưu Áo-Hung bằng những “báo cáo” giả từ nước Nga. Việc tuyển mộ được điệp viên này là một thành công chói sáng của tình báo Nga.

... Gấp chiếc cặp hồ sơ, đại tá Batyushin ở Bộ Tổng tham mưu đứng dậy và lại gần cửa sổ mà không gạt tấm rèm bằng màn tuyn. Một điều luôn làm cho ông rất lo lắng khi ông nhớ đến điệp viên A-17 - đó là tính hoang phí của ông ta. Qua các cuộc nói chuyện với một đồng nghiệp là nhân viên tình báo Nga ở Berlin, đại tá Pavel Aleksandrovich Bazarov, ông biết rằng, người Đức đang xì xào tin đồn về “sự phản bội” ở Viên. Các điệp viên của chúng ta đã báo cáo dường như chỉ huy tình báo và phản gián Đức, thiếu tá Walther Nicolai thậm chí đã báo cáo với Hoàng đế Wilhelm II  (Wilhelm II hay Friedrich Wilhelm Viktor Albert (1859-1941), Hoàng đế Đức và Vua Phổ (1888-1918), kẻ đã thi hành chính sách dẫn tới Thế chiến I (114-1918) - ND) là ông ta nghi ngờ trong Bộ Tổng tham mưu áo-Hung có một “chuột chũi” làm việc cho người Nga đang ẩn náu.

Hoàng  đế Wilhelm II rất lo lắng. Người ta đã ra lệnh áp dụng mọi biện pháp để tìm cho ra tên gián điệp này. Chẳng hạn, họ đã khẩn cấp tổ chức các “phòng đen” ở tất cả các thành phố giáp giới với Nga để bóc trộm tất cả thư từ khả nghi gửi từ Nga sang Đức và áo-Hung. Hơn nữa, Batyushin nhận thấy nhà ông ở Varsava đang bị theo dõi. “Trước đây điều này chưa từng xảy ra, ông nghĩ thế khi liếc nhìn xuống quảng trường Saxon. - Không, cần phải báo động cho A-17. Phải để điệp viên cực kỳ giá trị này thận trọng tối đa. Và mặc dù ông ta là con người dày dạn kinh nghiệm trong hoạt động của chúng ta, nhưng dù sao cũng phải cảnh báo anh ta”.

Trên thực tế, tình báo Nga trả tiền rất hậu hĩnh cho những đóng góp của ông. Nhưng phô trương như thế để làm gì? Mỗi lần đến Varsava, anh ta luôn ở tại khách sạn sang trọng nhất, một ngày mấy lần thay quần áo đắt tiền, bên cửa khách sạn luôn có ôtô mà anh tư thuê cả ngày đứng chờ... Để làm gì chứ?
Vậy thì ai là điệp viên A-17 đầy bí ẩn đó?

Con đường thăng tiến
Đôi khi ngay khi bắt đầu vào đời, con người ta đã may mắn chọn được đúng cái nghề cho phép được phát huy đầy đủ những khả năng và tài năng của anh ta. Đó chính là điều đã xảy ra với Alfred Redl.

Ông sinh ra trong một gia đình bình thường. Cha ông làm thẩm phán tại toà án ở đồn binh Lemberg (Lvov). Từ thời thơ ấu, ông đã quen thấy các quân nhân ở xung quanh mình và tất nhiên là đường binh nghiệp cũng cuốn hút ông. Ông tốt nghiệp xuất sắc trường sĩ quan và nhanh chóng lọt vào Bộ Tổng tham mưu quân đội đế quốc Áo-Hung. Sau khi lọt vào bộ tham mưu danh tiếng này, ông đã làm cố sống cố chết để làm người ta chú ý đến ông. Và ông đã đạt được mục đích. Mặc dù không khác gì trong quân đội Đức, trong quân đội Áo-Hung, vẫn ngự trị bầu không khí thành kiến đẳng cấp nặng nề và chỉ có bọn quý tộc mới được ưu tiên thăng cấp. Redl, bằng trường hợp của mình, đã chứng minh rằng vẫn có những ngoại lệ. Tài năng của con người xuất chúng này được phát huy đặc biệt đầy đủ từ khi Redl về làm việc ở phòng tình báo và phản gián. Đóng góp của ông nhanh chóng được nhìn nhận và thiếu tá Redl đã trở thành người đứng đầu đơn vị khá đặc thù này của Bộ Tổng tham mưu Áo-Hung.

Trước tiên, ông tiến hành cải tổ phòng tình báo và phản gián, đặc biệt là cho áp dụng những kỹ thuật và thủ đoạn hoạt động mới. Ông còn là người có công tìm ra, nghiên cứu và áp dụng vào thực tế nhiều phương pháp và thủ đoạn, mà phần nhiều trong số đó thực sự là mới. Trước hết, ông cho lắp bí mật một máy ghi âm vốn mới được phát minh vào căn phòng tiếp khách của mình. Như vậy, toàn bộ lời nói của người được mời đến “phòng khách” này đều bị ghi lại. Người ta cũng lén chụp ảnh anh ta. Để làm việc này, người ta đã lắp các ông kính máy ảnh vào hai bức tranh treo trên tường.

Trong phòng rất sáng vì có treo một số đèn chùm, nhờ đó có thể chụp được những bức ảnh có chất lượng cao. Dưới mặt của chiếc bàn mà chính viên thiếu tá luôn ngồi có một số nút bấm. Chẳng hạn khi bấm một nút trong số đó thì lập tức chuông điện thoại bắt đầu đổ. Vào thời đó, nếu độc giả còn nhớ, điện thoại gồm một cái giá trụ nhỏ trên đó có một cái ống nói và một cái ống nghe cũng treo trên giá này. Khi sử dụng điện thoại, người ta nhấc ống nghe khỏi giá, còn tay kia cầm vào giá có gắn ống nói. Cái nút này và chuông “nhân tạo” này để làm gì vậy? Chúng được dùng để chủ nhân nói xin lỗi với khách rồi nhấc ống nghe và bắt đầu nói chuyện với một người không tồn tại. Còn khi đó, vị khách sẽ được mời hút xì gà để trong hộp hay bót xì gà (nếu đó là đàn ông), hoặc hộp kẹo đắt tiền (nếu đó là phụ nữ). Bề mặt những vật dụng này được xử lý đặc biệt và sau khi khách ra về, người ta sẽ lấy dấu tay của khách từ chúng.

Nếu khách hút thuốc hay xì gà của mình thì anh ta sẽ được mời dùng bật lửa cũng được tẩm loại bột in dấu tay đặc biệt. Trong khi thẩm vấn, trên bàn luôn có một chiếc cặp, bên dưới nó là một cặp hồ sơ với dòng chữ ló ra: “Bí mật, không được để lộ”. Sau khi “tự gọi” điện thoại cho mình, viên sĩ quan sẽ vớ lấy chiếc cặp và nói lời xin lỗi rồi chạy ngay tới gặp “cấp trên”. Có những người đã không thể kiềm chế được mình nên đã cầm lấy chiếc cặp hồ hơ trong một tích tắc. Cảnh đó sẽ được một chiếc máy ảnh chụp lại. “Phòng khách” này có một lối đi riêng ra phố Biberstrasse. Họ cũng có thể vào phòng từ phố này khi không cần thiết để lộ diện ở cửa chính. Redl đã ra lệnh thu thập hồ sơ về mỗi người dân thành Viên đã từng dù chỉ một lần đến những trung tâm gián điệp như Zuric, Stockholm, Brussels...

Redl là tác giả của phương pháp thẩm vấn tuyệt diệu cho phép đạt được kết quả mong muốn mà không phải áp dụng bất kỳ “nỗ lực” bổ sung nào. Ông còn có sự khéo léo tuyệt đỉnh, nhờ đó ông đã thu được những tài liệu mật từ các phòng ban khác nhau của Bộ Tổng tham mưu. Nhưng công lao lớn nhất của Redl là ở chỗ ông đã kiếm được những tài liệu mật “của độc” từ các bộ tham mưu Nga. Các tài liệu này là đồ giả chính hiệu, nhưng chỉ sau này người ta biết điều đó. Những thành công Redl lớn đến nỗi chỉ huy trưởng cơ quan tình báo quân đội Áo-Hung, tướng Gizle von Gizlingen khi đi Praha nhận chức tư lệnh quân đoàn số 8 đã kéo Redl đi theo làm chức tham mưu trưởng. Ông này lúc đó là đại tá.

Nhân đây, cũng phải nói thêm là ngay trước khi lên đường nhận công tác mới, viên đại tá đã viết để lại cho người kế nhiệm một tài liệu hướng dẫn cực kỳ chi tiết dày 40 trang về việc sử dụng các thủ thuật mà ông đã sáng tạo ra cho các tình báo viên và về các phương pháp phát hiện gián điệp của địch. Bản hướng dẫn này bí mật đến nỗi Redl không cho đánh máy lại bằng máy chữ mà trực tiếp đưa cho trưởng phòng phản gián, đại uý Maximilian Ronge dưới dạng bản viết tay.

Trong số những lời khuyên quan trọng nhất của Redl là ông muốn thư từ gửi từ nước ngoài phải được theo dõi cẩn thận. Theo sáng kiến của Redl, người ta đã thành lập “phòng đen” để bóc trộm những thư từ khả nghi của những người bị nghi vấn. Đặc biệt, Redl đã đề nghị chú ý tới những bức thư gửi từ các vùng ven biên giới của Pháp, Bỉ, Hà Lan và trước hết là Nga. Cần phải đặc biệt chú ý tới những bức thư bảo đảm. Phòng trả thư bảo đảm của Bưu điện trung tâm thành phố Viên được nối với đồn cảnh sát, nằm sau toà nhà đồ sộ của bưu điện trên phố Fleischmarkt bằng một chiếc chuông điện. Khi có người đến nhận bức thư bảo đảm khả nghi, nhân viên bưu điện chỉ cần bấm chuông và sau 2-3 phút hai mật thám sẽ có mặt.

Cuộc truy đuổi
Vào đầu tháng 3 năm 1913, chỉ huy phòng tình báo và phản gián Bộ Tổng tham mưu quân đội Áo-Hung, đại tá August Urbanski von Ostromitz đã chuẩn bị rời phòng làm việc ra về thì vang lên tiếng gõ cửa.

- Mời vào, - viên đại tá nói với giọng không hài lòng trong khi vẫn đang mặc áo khoác. Trên ngưỡng cửa xuất hiện hai sĩ quan Đức: tuỳ viên quân sự Đức, tướng von Voisch và trung uý Mitzle, sĩ quan liên lạc riêng của thiếu tá Nicolai. Đại tá Urbanski đã chờ đợi viên sĩ quan liên lạc của người đồng nghiệp của mình ở Bộ Tổng tham mưu Đức, thiếu tá Nicolai, người đã kịp thời báo cho ông biết là ông ta gửi cho ông một tài liệu rất quan trọng. Nhưng tại sao lại có cả tuỳ viên quân sự đến cùng chứ? Có cái gì khác thường đang diễn ra.

Sau những lời chào hỏi xã giao, viên trung uý mở cặp và đưa cho Urbanski chiếc túi tài liệu đóng bốn con dấu to tướng. Viên đại tá lập tức mở phong bì, lấy ra tiền mà một mảnh giấy. Sau khi đọc xong, viên đại tá vội vàng đi lại bàn và bấm nút chuông.

- Mời trưởng phòng phản gián, thiếu tá Ronge, đến gặp tôi ngay lập tức, - ông ta ra lệnh cho người trợ lý của mình.

- Thưa ngài đại tá! Anh ta vừa đi ngang qua tôi ra cổng rồi.

- Đuổi theo anh ta! - viên đại tá suýt nữa thì quát lên.

Từ thời điểm đó, đồng hồ bắt đầu đếm thời gian được sống tự do còn lại của điệp viên A-17. Bởi vì thiếu tá Nicolai từ Berlin đã thông báo trong thư: một “phòng đen”của Đức ở một thành phố trên biên giới Đức-Nga đã thu được một phong bì thư bảo đảm gửi đến Viên cho ngài Nikon Nitzetas nào đó. Ngay cái phong bì cũng đã gây nghi ngờ: tem được dán để mép tem gấp qua góc phong bì. Sau đó, khi mở nó, người ta đã phát hiện một mảnh giấy và tiền. Trong mảnh giấy có thông báo việc gửi tiền và cho địa chỉ của ngài Largie ở Geneva để sau này viết thư liên lạc. Số tiền, chẳng phải nhỏ - 6.000 cuaron áo - nằm trong chiếc phong bì không ghi là chứa vật có giá trị hiển nhiên cũng rất đáng ngờ.

Urbanski ra lệnh gửi lá thư tới bưu điện Viên sau khi đã chụp ảnh mảnh giấy. Nhân viên bưu điện có trách nhiệm dã được lệnh chú ý tối đa đến lá thư này và khi người nhận xuất hiện phải lập tức bấm nút chuông bí mật.
Sau đó, người ta báo cho điệp viên của Áo-Hung ở Thuỵ Sĩ là thiếu rá Ulmann để anh ta kiểm tra ai là ngài Largie. Chẳng bao lâu sau đã có câu trả lời từ Geneva: Largie là người có thật. Ông ta đã làm việc khá lâu cho tình báo Pháp và bây giờ đã rửa tay gác kiếm. Tin này càng làm cho đại tá Urbanski lo lắng hơn.

Không lâu sau, từ Berlin lại có bức thư tiếp theo, thu được ở một “phòng đen” của thị trấn ven biển Eidkunen, được gửi đến. Trong thư này không có mảnh giấy nào, nhưng lại có 7.000 cuaron. Phong bì lại được đề gửi cho “ngài Nikon Nitzetas” đó. Và một lần nữa thư không được báo là mang vật có giá trị. Và tem một lần nữa lại được dán theo cách đặc biệt. Lá thư được chuyển cho bưu điện tới phòng trả thư bảo đảm và người ta lại chờ đợi. Nhưng hết ngày này qua tuần khác trôi qua mà ngài Nitzetas vẫn bặt vô âm tín. Hai tên cảnh sát trực bên chiếc chuông điện thì đành ngồi buồn. Sự cảnh giác của chúng đã giảm dần vào khi vang lên tiếng chuông báo động vào ngày 24 tháng 5 thì một tên đã bỏ đi đâu đó, còn tên kia thì lề mề vì đang bận rửa tay.
Nhưng rồi cả hai tên cũng đã cắm đầu lao đến bưu điện. Song Nitzetas đã đi mất.

Khi chạy trở ra phố, họ trông thấy một chiếc taxi đang chạy xa dần. Làm gì bây giờ? Gần đó không có chiếc taxi nào, xe ngựa cũng không có nốt mà chạy theo thì vô nghĩa. Trong khi họ còn đứng đực một chỗ chửi rủa loạn xạ thì chiếc taxi đã chở “đối tượng” đi đã quay lại điểm đỗ. Anh tài xế cho biết anh ta đã đi tới quán cà phê Kaisenhof, ông khách của anh ta cũng xuống xe ở đó. Hai mật thám lại lao xe chạy đến đó. Dọc đường, anh tài cho họ biết rằng, ông khách là một quý ngài cao lớn, cân đối, ăn mặc sang trọng có vẻ rất lắm tiền. Khi xe đã gần đến quán cà phê, một mật thám bỗng nhìn thấy trên ghế sau xe taxi một chiếc bao dao làm bằng da mịn màu xám.
Ông khách không có mặt trong quán Kaisenhof. Nhưng hai tên mật thám này quả đã không ăn hại cơm nhà nước. Tại điểm đỗ taxi bên cạnh quán cà phê, chúng tìm thấy người tài xế taxi đã nghe thấy người đàn ông cao lớn, cân đối, ăn mặc rất mốt bắt một chiếc taxi và lớn tiếng nói: “Khách sạn Klomser”.

Khi bọn mật thám có mặt bên chiếc cổng sáng trưng của khách sạn thì đã gần tối mịt. Người gác cửa cho biết có một người đàn ông ăn mặc lịch sự vừa đến khách sạn. Ông ta trọ tại phòng số 1 hạng sang (Lux). Khi một tên mật thám đưa cho anh ta chiếc bao dao nhíp và nhờ chuyển cho quý ngài sống ở phòng số 1 khi ông ta đi ra trả chìa khoá. Sau đó, hắn lẩn vào góc phòng, ngồi thụt vào trong chiếc ghế xa lông sâu và mở tờ báo giả vờ đọc. Tên mật thám thứ hai vẫn rình ở cửa khách sạn.

Không lâu sau, một quý ngài giống như lời mô tả ngài Nitzetas của các tài xế taxi và nhân viên bưu điện đã xuất hiện trong tiền sảnh. Thực ra, ông ra quay về phòng khách sạn chỉ để thay áo đuôi tôm để đi dự tiệc ở đâu đó. Người gác cửa xin lỗi và nói với ông ta: “Đây có phải là bao dao của ngài không ạ?” - “ồ, vâng, tất nhiên, đúng là của tôi. Cám ơn anh”. Sau đó, quý ngài đỏm dáng ấy đi ra cửa vừa đi vừa cố nhớ xem ông ta đã để quên chiếc bao dao ở đâu nhỉ?

Một mối nghi ngờ mơ hồ xâm chiếm lấy ông. Nó càng tăng thêm khi ông trông thấy một người đang ngồi chăm chú đọc báo. Ông ra khỏi khách sạn và đi về hướng con phố dài Tiffengraben. Tên mật thám ngồi cầm tờ báo trong tiền sảnh và nhìn xuyên qua lỗ thủng mà hắn chọc thủng trên tờ báo kinh hoàng nhận ra quý ông này hoàn toàn không phải là Nitzetas mà là đại tá Redl! Hắn vô cùng sửng sốt, nhưng vẫn không quên công việc của mình và bước nhanh ra cửa. ở đó, tên mật thám cùng đi cũng đã mò đến và tên này cũng kinh ngạc khi nhìn thấy người mặc áo đuôi tôm.

Thậm chí chả cần phải là Alfred Redl cũng thừa sức phát hiện ra có đuôi bám phía sau. Tìm cách cắt đuôi, Redl mò trong túi những mẩu giấy nhỏ gì đó rồi vứt xuống vỉa hè với hy vọng bọn theo dõi sẽ dừng lại lượm những mẩu giấy đó. Điều đó sẽ cho phép ông ta cắt đuôi và trốn khỏi. Nhưng dường như bọn mật thám chả thèm chú ý đến loại “rác” đó mà cứ tiếp tục theo sau Redl. Cuối cùng, sau một hồi loanh quanh vô mục đích trên những đường phố đẹp của Viên, đại tá Redl lại đứng ngay cửa vào của khách sạn Klomser ấy. Ông đã không thể thoát khỏi những kẻ theo dõi. Mà cũng chẳng nên ngạc nhiên làm gì - họ đã làm đúng những hướng dẫn của chính ông về cách xử lý với mọi tình huống khi theo dõi một gián điệp tinh quái.

Lúc đó, một tên mật thám lao lên taxi chạy khỏi khách sạn đến vị trí mà Redl đã vứt những mẩu giấy. Chúng vẫn còn nằm nguyên trên hè phố. Sau khi nhặt hết những mẩu giấy, không để mất thời gian, tên mật thám đi tìm gặp ngay trưởng phòng phản gián, thiếu tá Maximilian Ronge, đưa cho hắn những mẩu giấy và báo cáo cái tin động trời, ai là người trên thực tế đang đội lốt cái tên Nitzetas. Để chắc chắn tin vào điều đó, Ronge vội tới ngay phòng trả thư bảo đảm ở bưu điện. Vấn đề là ở chỗ mọi người nhận thư đều bắt buộc phải tự điền vào giấy biên nhận của mình có in các câu hỏi về thứ chờ được nhận trong phần địa chỉ hồi đáp trên túi thư và bưu phẩm được gửi từ đâu đến. Ronge cầm lấy tờ biên nhận theo người và khi trở về bộ tham mưu, hắn so sánh nó với bản hướng dẫn nghiệp vụ mà trước đây chính đại tá Redl đã viết. Không còn nghi ngờ gì nữa: chữ là do cùng một người viết! Lại còn bao dao bằng da mịn màu xám thường nằm trên bàn của đại tá nữa chứ. Ronge đã nhìn thấy nó đâu phải một lần...

Kết cục

Thế là một sĩ quan chói sáng với tài năng cho phép anh ta hướng tới tương lai rất xán lạn, một chiến sĩ tài ba trong cuộc chiến chống gián điệp lại chính là gián điệp! Không thể trì hoãn thêm nữa việc vạch mặt Redl. Theo chỉ thị của tướng Conrad von Hetzendorf, Tổng tham mưu trưởng, một nhóm sĩ quan đã được cử tới khách sạn Klomser để đưa ra đề nghị Redl tự sát hầu rửa sạch vết nhơ trên bộ quân phục. Họ xuất hiện trong phòng của Redl vào lúc nửa đêm. “Tôi biết là các anh đến đây làm gì rồi” - viên đại tá bình thản lên tiếng.

Các sĩ quan muốn biết là ông có các đồng loã không.

- Tôi không có đồng loã. Tôi làm việc một mình.

- Thế ông chuyển tin cho ai?

- Tôi chẳng liên lạc với ai cả. Tin được gửi theo đường bưu điện đến địa chỉ quy ước. Tất cả những gì mà các anh có thể quan tâm nữa, các anh sẽ tìm thấy trong căn phòng của tôi ở Praha.

Sự im lặng bắt đầu. Các sĩ quan liếc nhìn nhau. Cuối cùng, thiếu tá Ronge hỏi:

- Ngài có súng ngắn không, thưa ngài đại tá?

- Tôi không có.

- Thế thì chúng tôi sẽ kiếm nó cho ngài.

Thiếu tá Ronge quay lại rất nhanh với khẩu Browning nhỏ và đưa nó cho Redl. Các sĩ quan không biết nên ra khỏi phòng như thế nào. Có nên chào viên sĩ quan có quân hàm cao hơn này hay không? Sau đó, họ đi ra khỏi phòng mà không chào hỏi gì hết.

Cánh cửa nhẹ nhàng đóng lại. Trong một lúc vẫn vang lên tiếng bước chân của những vị khách độc ác. Đại tá nhìn khẩu Browning mà họ để lại, sau đó lại bàn, cầm tờ giấy in sẵn của khách sạn Klomser trên góc trái có in toà nhà khách sạn và sau một phút ông viết nhanh: “Sự dại dột và dục vọng đã huỷ diệt tôi. Hãy cầu nguyện cho tôi. Tôi phải trả giá cho những tội lỗi bằng mạng sống của mình. Alfred”.

Ông đặt bút xuống. Trong phòng rất yên lặng, chỉ có chiếc đồng hồ để trên sàn nhà trong góc phòng khe khẽ đếm thời gian. Sau đó chuyển động của nó ngừng trong tích tắc và một tiếng động khô khốc vang lên. Đại tá Alfred Redl lại cầm lấy bút và viết thêm vào những dòng chữ đã viết: “1 giờ 15 phút đêm. Bây giờ tôi sẽ chết. Xin hãy đừng mổ xác tôi. Hãy cầu nguyện cho tôi”.

Ông đặt bút, cẩn thận đậy nắp chiếc lọ mực bằng đồng và cầm lấy khẩu súng ngắn. Lúc đó đã là đêm 25 tháng 5 năm 1913...

Trong lúc đó, các sĩ quan sau khi ra phố đã dừng lại bên bậc thềm. Họ bỗng nghi ngờ: thế ngộ nhỡ bỗng nhiên Redl không dùng súng tự sát thì sao? Sau một lúc dao động khá dài, họ quyết định hành động. Họ gọi một trong hại tên mật thám đã theo dõi Redl và trao cho hắn một phong bì với mảnh giấy gửi “ngài đại tá Redl”. Một thoáng sau, anh ta mặt tái nhợt lao như bay khỏi khách sạn: “Thưa các ngài! Đại tá đã chết rồi!”

Cuộc đời ngắn ngủi của một trong những sĩ quan tài năng nhất của quân đội Áo-Hung, và chắc cũng là một trong những điệp viên giá trị nhất mà tình báo Nga từng tuyển mộ được, đã kết thúc như thế đấy.

Người ta đã áp dụng các biện pháp gắt gao nhất để giữ kín nguyên nhân thật sự của vụ đại tá Redl tự sát. Quả thực số người biết bí mật này chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Kể cả Hoàng đế Franz-Joseph cũng không được thông báo về việc này. Trong cáo phó chính thức để đăng báo vẫn có những dòng chữ quen thuộc cho những trường hợp như vậy: “Trong tình trạng suy sụp...” và vân vân.

Rạng sáng ngày 25 tháng 5, hai điều tra viên lão luyện cấp tốc rời ga Viên đi Praha để khám xét căn hộ của Redl. Cửa vẫn đóng chặt và mọi cố gắng xâm nhập vào trong đều thất bại. Do đó, mặc dù hoàn toàn không muốn, họ đã vẫn phải nhờ đến một anh thợ nguội tên là Wagner. Anh thợ nguội đồng thời là nhân viên tờ báo Pragen Tageblat, tất nhiên là không ai biết điều đó. Ta có thể tưởng tượng điều đó đã làm tình hình biến chuyển như thế nào đối với những người đang cố công giữ kín nguyên nhân cái chết của Redl và nhất là kết quả khám xét. Mà kết quả thì lại chấn động đến nỗi toà soạn đã phải trả cho anh thợ nguội tò mò một món tiền kếch xù. Sau khi anh thợ nguội mở được cửa ra vào, người ta buộc phải giữ anh ta lại vì còn nhiều tủ to, tủ nhỏ như các hộc bàn, tủ com mốt... trong phòng của Redl vẫn bị khoá chặt Và anh thợ nguội này không chỉ mở mà còn nhìn thấy tất cả những gì người ta tìm thấy trong căn hộ này.

Cuộc lục soát đã làm kinh hoàng tất cả những người có mặt. Trước hết, họ tìm thấy cả đống chứng cứ cho thấy Redl đã làm việc nhiều năm cho tình báo Nga (sau này mới rõ là từ năm 1902). Những tài liệu tìm thấy, cũng như cuộc điều tra tiếp theo dã cho thấy ông ta đã tố giá với Nga một số gián điệp của Áo-Hung, đồng thời đã bảo vệ cho các tình báo viên Nga khỏi bị lộ. Như nhà nghiêen cứu Mỹ Richard Rowan đã viết trong cuốn sách: “Các ký sự của cơ quan tình báo”, cuộc khám xét trong căn hộ của Redl cho thấy ông ta đã bán nhiều tài liệu cho Nga và “chỉ còn rất ít cái không bị bán”.

Những công lao đó đã được Petersburg trả rất hậu hĩnh. Chỉ riêng vụ đại tá Laikow, Redl đã nhận được một món tiền trong mộng là 100.000 cuaron. Không có gì ngạc nhiên khi ông ta chi tiêu rất hoang phí. Ông ta có một tài sản đồ sộ, hai chiếc ôtô (thời đó chúng rất đắt tiền), một biệt thự ở Viên và ba con ngựa hạng nhất. Tại căn hộ của Redl ở Paris đã có 195(!) chiếc áo sơ mi mặc ngoài, 10 áo khoác capôt quân sự bằng len và lông, 400(!) đôi găng da mềm, 10 đôi giày da láng, chưa tính đến tiền mặt và vàng bạc châu báu...

Ban đầu, người ta công bố sẽ có buổi tang lễ chính thức với đầy đủ nghi lễ quân sự, sau đó tất cả đã bị huỷ bỏ ngấm ngầm và anh trai Redl, người sau này phải đổi họ tên, đã phải dùng tiền của mình để an táng Redl. Hài cốt của tình báo viên vĩ đại nhất của Nga hiện đang an nghỉ tại nghĩa địa trung tâm của Viên trong ngôi mộ số 38, ở dãy 29, nhóm 49.

Vậy là con đường công danh xán lạn của đại tá Alfred Redl đã kết thúc bằng một thảm kịch. Chúng ta biết khá chi tiết về giai đoạn cuối đời ông. Những vẫn còn những câu hỏi liên quan đến việc ông bắt đầu làm hoạt động tình báo cho Nga. Tình báo Nga đã tuyển mộ ông ta như thế nào và vào lúc nào? Ai là tình báo viên Nga đã tuyển được điệp viên quý giá đến nhường ấy? Điều đó xảy ra trong tình huống nào? Và chỉ mới đây thôi, người ta mới làm rõ đôi chút về việc này.

Viên sĩ quan cận vệ đầy triển vọng, họcviên đã tốt nghiệp của Học viện Bộ Tổng tham mưu Voldemar Roop nổi tiếng là kẻ nịnh đầm vui tính. Và khi ông ta được bổ nhiệm làm tuỳ viên quân sự (nhân viên tình báo) của đại sứ quán Nga tại Viên thì nhiều người đã rất kinh ngạc trước sự lựa chọn này. Song viên sĩ quan vốn là con cháu những người Đan Mạch đã đến Nga phục vụ từ thời Piotr Đệ Nhất này thực ra là một người nghiêm túc hơn nhiều so với cảm tưởng ban đầu. Nhà tình báo tài năng này biết cách nhanh chóng thiết lập các quan hệ thân tình với nhiều sĩ quan của Bộ Tổng tham mưu đế quốc Áo-Hung. Viên thiếu tá nổi danh Redl cũng nằm trong số những người bạn tốt nhất của ông. Người ta có đầy đủ cơ sở để cho rằng, chính Roop là người đã tuyển Redl. Sau đó, Roop được điều về quân khu Kiev và được bổ nhiệm làm trung đoàn trưởng. Chỉ huy Redl hoạt động còn có những người khác nữa, trong đó có N.S. Batyushin quen thuộc với chúng ta, người mà Redl thường đến gặp ở Varsava dưới hộ chiếu giả.

Điệp viên thế kỷ XX: Bại lộ điệp viên đồng tính A-17 (2) 

Vạch mặt đại tá Redl
Chèn chú thích ảnh vào đây
Thông tin đầu tiên về sự kiện này xuất hiện trên báo Berliner zeitung am mittag. Ngày 26 tháng 5 năm 1913, phóng viên tại Praha của báo này đưa tin: trong một khách sạn ở Viên, đại tá Alfred Redl, tham mưu trưởng sư đoàn Áo đồn trú tại Praha đã dùng súng tự sát.

Đại tá Redl là một nhân vật khá nổi tiếng trong giới quân sự Đức. Người ta biết ông là người có đường công danh thành đạt và bộ chỉ huy Đức rất có thiện cảm với ông. Người ta cũng biết rõ chi tiết tiểu sử quân ngũ của Redl - họ có liên hệ với công việc của Redl ở cơ quan phản gián Áo. Thế đấy - một kết cục lạ lùng và bí ẩn.

Tin đưa trên tờ Berliner zeitung am mittag đã gây ra một đống những lời đồn đại, đoán già đoán non.
Ngay tít bài báo cũng đã rất giật gân: “Phải chăng tham mưu trưởng làm gián điệp?”

Cũng phóng viên đó đưa tin: “Praha, ngày 27 tháng 5 năm 1913. ở đây đang lan truyền những tin đồn rất lạ lùng về cái chết của tham mưu trưởng, đại tá Redl, người đã tự sát trong một khách sạn ở Viên. Chúng gắn trực tiếp vụ tự sát này với vụ khám phá gián điệp mới đây”.

Tuy là một người có xuất thân khá khiêm tốn, nhưng đại tá Redl đã sống rất xa hoa.

Như người ta khẳng định, ông ta tự sát vào chiều hôm qua khi mà lẽ ra ông ta phải có mặt theo triệu tập ở Bộ Chiến tranh. Ông ta bị Bộ Chiến tranh nghi là có quan hệ với các tổ chức tội phạm và chính các tổ chức đó có thể đã thúc đẩy ông ta phản bội”.

Cần phải nói rằng, tác giả những bài báo này là người khá thạo tin. Ông ta thường nhận được tin, như người ta bây giờ thường nói, từ tận gốc vì ông ta là biên tập tờ báo Bohemia ở Praha vào có những quan hệ rộng rãi.

Nảy sinh câu hỏi: tại sao ông ta lại quyết định đưa tin đúng trên một tờ báo Berlin? Chẳng lẽ ông ta không được được chúng trên tờ báo của mình?

Tất cả được lý giả rất đơn giản: chỉ cần một tin ngắn như trên xuất hiện trên các trang báo Bohemia thì nó kéo theo một vụ xì căng đan tất yếu: cơ quan kiểm duyệt sở tại có lẽ đã đóng cửa tờ báo và tịch thu toàn bộ số báo.

 Báo chí Berlin không phụ thuộc vào kiểm duyệt của Áo và biên tập viên của tờ Bohemia đã quyết định hành động kiểu tránh né.

Tin đồn về việc đại tá Redl làm gián điệp đã có tác động như một quả bom.

Sự ồn ào dâng lên trước hết trong các giới quân sự có liên quan. Bộ Tổng tham mưu Đức lập tức yêu cầu giới chức quân sự Áo-Hung cho biết bằng điện báo về vụ Redl.

Phóng viên của tất cả các tờ báo lớn trên thế giới đã chôn vùi bộ chỉ huy Áo bằng những bức điện yêu cầu cho biết chi tiết.

Tuy vậy, đến cả Bộ Tổng tham mưu Áo cũng đang rất bối rối. Cơ quan này đã yêu cầu các cơ quan điều tra phải cung cấp thông tin chi tiết về điều đã xảy ra.

Vị Hoàng đế già Franz-Joseph cũng lo lắng thật sự khi được các cận thần cho biết về điều đã xảy ra.

Báo chí tiếp tục công kích giới quân sự Áo. Nhưng họ vẫn kiên trì im lặng. Các nhà báo đành phải hài lòng với những tin đồn như trước.

Nhưng những đồn đại ngày một cay độc hơn. Theo những lời đồn đó, đại tá Alfred Redl, người cầm đầu cơ quan phản gián của Bộ Chiến tranh Áo, trong đã nhiều năm làm việc cho tình báo Nga và đã chuyển cho Nga vô số tài liệu mật.

Thông tin này không chỉ có liên quan đến những bí mật quân sự của Áo-Hung vì Redl từng có quyền tiếp cận nhiều tin tức của cả quân đội Đức.

Trong khi  báo chí thế giới đã đưa về tất cả sự việc này dưới những dòng tít lớn trên trang nhất thì các tờ báo Áo vẫn chẳng dám hé răng về hoạt động gián điệp của Redl. Tính nết của cơ quan kiểm duyệt quân sự Áo rất khắc nghiệt mà.

Nhưng người biên tập viên nhanh trí của tờ báo Bohemia lập tức thể hiện sáng tạo của mình và đã làm theo cách sau. Một ngày nào đó, ông cho đăng trong tờ báo của mình cái gọi là “tin cải chính”:

“Từ các giới thạo tin, chúng tôi đã nhận được yêu cầu bác bỏ những lời đồn cho rằng tham mưu trưởng lực lượng đồn trú Alfred Redl, người đã tự sát trong một khách sạn ở Viên, là người đã trao những bí mật quân sự cho Nga. 

Một uỷ ban đặc biệt đã lên đường đi Praha và trước sự chứng kiến của vị tư lệnh quân đoàn, nam tước Gizel, họ đã mở niêm phong phòng làm việc của người quá cố và tiến hành lục soát giấy tờ của ông ta. Trên cơ sở những tin tức thu được trong cuộc lục soát này, uỷ ban đã cho rằng, nguyên nhân của cái chết là những động cơ có tính chất hoàn toàn khác”.

Những người biết đọc báo chí trong điều kiện có kiểm duyệt đều hiểu rõ cái “tin cải chính” đó được đăng để làm gì”.

Chẳng cần phải sáng ý mới có thể hiểu: câu chuyện về “những động cơ có tính chất hoàn toàn khác” chỉ là để đánh lạc hướng dư luận. Điều quan trọng là nó đã thúc đẩy sự tưởng tượng của độc giả. Trong khi đó thì cơ quan kiểm duyệt cũng chẳng hoạnh hoẹ được gì tờ báo. Cái tin ngắn ấy đã bác bỏ những lời đồn “xuyên tạc” cơ mà! Hơn nữa nó lại ám chỉ đến “những giới thạo tin” - một anh phóng viên ồn ào thì có thể liên hệ với ai được cơ chứ!

Giữa lúc đó thì vụ xì căng đan ngày càng lan rộng và leo thang. Những chi tiết dần dần được hé lộ khiến dư luận tin rằng, câu chuyện đang nói về vụ gián điệp có quy mô mà châu Âu chưa từng thấy.

... Alfred Redl thực tế xuất thân từ một gia đình nghèo, tầm thường. Vào tuổi thanh niên, ông ta gia nhập quân đội Áo.

Chàng trai nhiệt tình, tự trọng luôn ấp ủ ước mơ về công danh, về địa vị cao trong xã hội. Tuy vậy, anh ta không thể hy vọng có những thành công lớn. Những bạn đồng trang lứa nhưng xuất thân từ những dòng họ quyền thế đã dễ dàng leo cao trong binh nghiệp, bỏ xa Redl.

Và khi đó anh ta đã vùi đầu vào khoa học quân sự. Anh nghiên cứu ngôn ngữ, lịch sử quân sự. Đặc biệt hấp dẫn anh là tất cả những gì liên quan đến hoạt động tình báo. Trong một thời gian ngắn, anh đã trở thành một nhà thông thái siêu phàm trong lĩnh vực này.

Các chỉ huy cơ quan tình báo Áo đã nhanh chóng chú ý đến Redl. Và sau đó, khi còn đang mang quân hàm thiếu tá, Redl đã được bổ nhiệm làm trưởng phòng mật thám quân sự.

Tại đây, những khả năng siêu phàm của Redl, những kiến thức sâu rộng của ông cuối cùng đã tìm được đất dụng võ. Những bản báo cáo của Redl luôn rõ ràng, sâu sắc, quy củ và đầy sức thuyết phục. Trên toàn cõi Áo-Hung không có nhà thông thái cao siêu hơn ông về luật lệ chống gián điệp. Bất kỳ ai một khi do bị nghi ngờ mà lọt vào tay Redl đều biết rõ không thể nào đánh lừa  được vị thiếu tá thông minh và ngang bướng này. Đến các đồng nghiệp cũng phải khiếp sợ Redl.

Các cơ quan tình báo Nga cũng không thể không biết đến tài năng của ông ta. Ông ta là mối nguy hiểm đặc biệt và các điệp viên Nga đã không chỉ một lần sa vào lưới rập mà Redl đã giăng ra.

Cần phải làm thế nào đó để vô hiệu hoá Redl, tìm ra cách để “chặn” ông ta lại, còn lý tưởng nhất là buộc ông ta làm việc cho nước Nga.

Tên tuổi của nhân viên tình báo Nga, người đã bất chấp mọi nguy nan đã tuyển mộ được Redl, cho đến nay vẫn bị che phủ bởi bức màn bí mật.

Nhiều người khẳng định tình báo viên đó, chỉ bằng những con đường mà ông ta có, đã biết được điểm yếu mà Redl phải giấu mọi người nếu muốn tiếp tục mang quân phục.

Trên cương vị công tác, Redl đã gặp nhiều phụ nữ, những người bằng cách này hay cách khác đều có liên quan đến những vụ việc mà ông ta đang điều tra. Trong số họ có những mỹ nhân diễm lệ đã không chỉ một lần mưu toan quyến rũ ông. Nhưng viên thiếu tá vẫn kiên cường đứng vững và không chịu quy phục trước vẻ đẹp quyến rũ của phụ nữ. Trong toàn bộ việc này hình như có một điều bí mật nào đó. Nhân viên tình báo Nga đã đoán ra được chính điều bí mật ấy.

Hoá ra sự thờ ơ của Redl đối với phụ nữ không phải là vì tính cách cứng rắn của ông. Bí mật của ông ta là ông say mê những người cùng giới tính.

Ông là nạn nhân của sự đam mê ấy và cũng chính vì nó mà ông đã gục ngã.

Thay vì phụ nữ, bọn đàn ông bắt đầu “câu nhử” ông ta. Việc “câu nhử” này diễn ra trong mấy tháng và khi nhân viên tình báo Nga kia đã thu thập được đủ chứng cứ không thể bác bỏ, ông liền ra lệnh báo cáo về mình cho thiếu tá Redl.

Văn phòng mà Redl tiếp nhân viên tình báo Nga đã được miêu tả trong ký sự của nhà báo Agon Erwin Kisch.

Ngày 25 tháng 2 năm 1924, ký sự này đã được đăng trong số tiếp theo của tờ “Báo Berlin mới”.

“Mỗi vị khách của căn phòng bí mật này đều không ngờ rằng mình đã bị chụp ảnh nghiêng và trực diện bằng những ống kính lắp trong các khung tranh treo trên tường - Agon Erwin viết. Cũng đúng là mỗi người đều để lại dấu vân tay trên hộp xì gà mà viên thiếu tá mời khách hút, hoặc trên hộp kẹo mà ông ta thường nhã nhặn đãi các nữ khách, trên hộp diêm, gạt tàn - tóm lại là trên bất cứ thứ ghì mà vị khách có thể chạm tay vào. Trên bề mặt của các vật này đã được phủ bởi một hỗn hợp đặc biệt.

Nếu như khách không hút thuốc hoặc quý bà từ chối ăn kẹo thì thiếu tá Redl sẽ xin lỗi và xin phép ra ngoài vài phút, cứ như là vì một việc gì gấp không thể trì hoãn.

Người khách ở lại một mình và nếu người đó dính dáng đến gián điệp thì hiển nhiên sẽ không cưỡng lại sự cám dỗ mà nhòm vào chiếc kẹp tài liệu viên thiếu tá để lại trên bàn. Tất nhiên là trên kẹp đó có dấu “Tuyệt mật”, là người thận trọng, Redl biết cách cài bẫy tóm các vị khách của mình. Bề mặt của kẹp tài liệu cũng được xử lý đặc biệt. Kẻ nào tò mò tất nhiên sẽ để lại dấu vết trên đó.

Trên tường căn phòng có treo một chiếc hộp nhỏ trông giống như một tủ thuốc tại nhà. Trong chiếc hộp này có lắp một ống nghe lén dùng để thu âm câu chuyện trong phòng và ghi vào máy ghi âm  bố trí ở phòng ben cạnh. Tại đó còn có một nhân viên đánh máy có nhiệm vụ đánh máy biên bản”.

Nhưng đã không có ai biết được nội dung câu chuyển giữa hai con người này vì Redl đã ngắt ống nghe lén.

Người ta chỉ biết một điều đó là mấy giờ sau viên sĩ quan Áo, cho đến lúc đó vẫn còn tuyệt đối trung thành với lời tuyên thệ, giờ đã trở thành gián điệp Nga.

Đổi lại, tình báo viên Nga kia đã đưa cho ông ta một tập giấy mô tả chi tiết những hành vi đồng tình luyến ái của ông ta trong những tháng gần đây.

Tại sao Redl không hạ lệnh tóm cổ lập tức vị khách của mình?

Để trả lời câu hỏi này thiết nghĩ cũng không quá khó. Viên thiếu tá thừa hiểu nếu làm thế thì thông tin về những sở thích “kỳ quặc” sớm hay muộn cũng sẽ lộ ra và ông ta sẽ phải chia tay với đường binh nghiệp. Mà điều đó thì vượt quá sức chịu đựng của ông ta, thói hiếu danh, ham mê, khao khát quyền lực quá mạnh ở ông ta. Lại thêm cả những khoản tiền không nhỏ mà người ta đề nghị để ông hợp tác với nước Nga nữa. Đã từng sống cả đời trong nghèo hèn, Redl bị thiêu đốt bởi sự ghen tức với những đồng nghiệp thừa tiền để chi những khoản tiêu xài mà ông thậm chí không thể mơ ước.

Từ ngày đó, Redl bắt đầu cung cấp cho tình báo quân sự Nga tất cả những tin tức mà họ yêu cầu.

Làm việc trong Bộ Tổng tham mưu nên ông ta có quyền tiếp cận các sơ đồ của những pháo đài Áo, các đồn bốt ven biên giới và trên chiến trường. Khi cẩn thận chụp ảnh tất cả những tài liệu đó, Redl đã làm các bản sao và gửi chúng về Nga.

Có một trang trong cuộc đời hoạt động gián điệp của Redl đáng cho ta kể thành một câu chuyện riêng. Vào năm 1903, tình báo Nga yêu cầu ông ta cung cấp kế hoạch động viên của quân đội Áo-Hung mà Bộ Tổng tham mưu Áo xây dựng cho tình huống chiến tranh. Kế hoạch được bảo vệ đặc biệt bí mật vì nếu có nó trong tay, nước Nga có thể giáng cho đối phương những đòn choáng váng.

Redl đã chụp ảnh được kế hoạch siêu mật này và đã trao cho tình báo Nga để lấy một khoản tiền lớn. Tuy vậy, các sự kiện sau đó đã biến chuyển một cách cực kỳ bất ngờ đối với ông.

Vấn đề là ở chỗ, từ lâu đã có một sĩ quan Nga làm việc cho tình báo Áo-Hung hoạt động rất khôn khéo và sáng tạo. Cũng chính từ điệp viên ở Varsava này mà tin kế hoạch động viên chi tiết của quân đội Áo-Hung đã lọt vào tay người Nga đã được gửi về Viên. Tin này đúng là tiếng sấm giữa trời quang và đã làm bộ chỉ huy quân đội Áo rụng rời thất kinh. Nếu như tài liệu siêu mật ấy rơi vào tay đối phương thì điều đó chỉ nói lên một điều là ở đâu đó, ngay sát bên, ngay trong Bộ Tổng tham mưu có một tên gián điệp, một tên phản bội có quyền tiếp cận những điều bí mật nhất của Bộ Tổng tham mưu.

Đúng như chờ đợi, nhiệm vụ truy tìm tên phản bội này được giao cho trưỏng phòng mật thám quân sự, thiếu tá Redl. Vòng tròn đã khép kín.

Một mặt, bước ngoặt như vậy của sự việc hiển nhiên là hoàn toàn chấp nhận được với Redl, - nghĩa là chẳng có một nghi ngờ cỏn con nào nhằm vào ông ta, nhưng mặt khác...

Mặt khác, ông hiểu rõ rằng ông không thể nào ỉm vụ này đi được. Do đó, ông ta phải tìm ra một người nào đó để đổ tội.

Nếu ông ta không tìm ra kẻ phạm tội thì người ta khó lòng để ông ta ở yên ở cương vị cao như vậy nữa. Sự việc quá nghiêm trọng nên ông ta bắt buộc phải làm để khỏi phụ lòng sự tín nhiệm của những người đã giao trọng trách cho mình.

Redl hăng hái tiến hành “truy tìm” và tiến hành thẩm vấn có định kiến đối với nhiều người.

Rồi một ngày, ông ta bất ngờ biến mất mà ông ta ở đâu cũng chẳng ai biết. Xuất hiện tại chỗ làm sau một thời gian, ông báo cáo cấp trên rằng, ông có những tin tức phỏng đoán về những kẻ phạm tội và nêu tên họ những người đó ra.

Người đầu tiên trong số những người được nêu tên là thẩm phán Gekailo. Không lâu trước đó, anh ta đã bị buộc tội biển thủ công quỹ. Để trốn tránh trách nhiệm, Gekailo đã chạy sang Brazil và ở đó anh ta xuất hiện với hộ chiếu Nga dưới cái tên giả.

Redl khẳng định Gekailo phạm tội trao cho Nga kế hoạch động viên và rằng ông ta đã dò ra tung tích của Gekailo. Cần phải bằng mọi cách tóm cho được Gekailo. Nhưng yêu cầu chính quyền Brazil trao trả ông ta vì nghi ngờ tội gián điệp là việc làm vô nghĩa vì nó trái với công ước quốc tế. Sẽ là việc hoàn toàn khác nếu coi đó là một tội hình sự và khi đó Brazil không thể kêu ca gì được.

Và người ta đã làm đúng như thế. Chính quyền Áo-Hung  yêu cầu trao trả Gekailo với tội biển thủ. Viên thẩm phán đã kêu gọi một cách vô vọng sự che chở của lãnh sự Nga, nhưng cảnh sát Brazil đã tìm thấy quân phục Áo trong va li của anh ta và điều đó đã quật anh ta gục hẳn.

Bị đưa về Viên, Gekailo thú nhận tại toà là ngoài việc đánh cắp tiền, còn làm gián điệp cho Nga. Điều duy nhất mà anh ta khăng khăng phản đối là việc trao cho Nga kế hoạch động viên quân đội.

Trong cuốn sách “Các ký sự của cơ quan tình báo”, R. Rown viết rằng, trong thời gian phiên toà, Redl đã đưa ra nhiều bằng chứng buộc tội Gekailo.

“Trong con mắt đầy khâm phục của các thượng cấp, Redl như một thầy phù thuỷ đã lấy ra hàng loạt bức ảnh, thư, bản nháp và những tài liệu khác ghi địa chỉ gửi là nữ gia sư của gia đình một trong những sĩ quan nổi danh nhất của bộ tham mưu Nga ở Varsava. Redl nói với cấp trên là đã tốn 30.000 cuaron để có được những chứng cứ này”.

Redl cố moi ở Gekailo lời thú tội chủ yếu là trao kế hoạch động viên nhưng vô hiệu.

Một lần Gekailo trả lời: “Thưa ngài, làm sao mà tôi có thể kiếm được những kế hoạch như thế? Chỉ có người trong Bộ Tổng tham mưu ở đây, ở Viên này, mới có thể lấy được các kế hoạch ấy để bán cho người Nga”. Và đây chính là lời giải đúng cho bài toán mặc dù bị can không biết điều đó.

Tiếp sau Gekailo, người ta đã bắt giữ thiếu tá Ritter von Wentkowski phục vụ ở Stanislav và đại uý Aht là sĩ quan tuỳ tùng của tư lệnh quân khu Lemberg (L'vov).

Trong quá trình điều tra, Redl đã đưa ra những bức thư mà họ gửi cho tình báo Nga. Các sĩ quan này thú nhận đã cung cấp một số tin tức cho người Nga, nhưng trước sau vẫn phủ nhận sự dính líu vào vụ kế hoạch động viên.
Các điều tra viên không tin họ, những lý lẽ của Redl vẫn có sức thuyết phục hơn.

Tuy vậy, vào một thời điểm nào đó, bất ngờ với tất cả mọi người, Redl đã đột nhiên thay đổi lập trường đối với các sĩ quan bị buộc tội.

Mới hôm qua còn lớn tiếng buộc tội von Wentkowski và Aht, mà bây giờ ông ta bỗng tuyên bố, theo ông ta, chỉ có một mình Gekailo đã chuyển kế hoạch động viên cho Nga, còn cả hai sĩ quan này không có liên quan gì.

Sự thay đổi lập trường đột ngột như vậy của Redl đã làm nhóm điều tra bối rối và kinh ngạc. Sao lại thế được? Chính ông ta đã trình ra toàn bộ tài liệu buộc tội, chính ông ta đã phát hiện mối liên hệ của Gekailo với von Wentkowski và Aht cơ mà, vậy mà đột nhiên - một biến chuyển thật là chóng mặt!

Nhưng Redl ngang ngược vẫn khăng khăng giữ nguyên ý kiến. Tuy vậy, mọi sự đã muộn. Toà cho rằng tội lỗi của các bị can đã được chứng minh và kết án tù đối với họ.

Đâu là nguyên nhân của cách cư xử không nhất quán của Redl tại toà? Một lần nữa chúng ta lại dựa vào R. Rown:
“Redl đã giả mạo tất cả những diễn tiến quay quắt ấy trong con mắt của toà án binh để làm gì?

Lời giải thích cho câu hỏi đó được tìm thấy trong các giấy tờ của ông ta ở Praha.

Thứ nhất, các kế hoạch tấn công của Áo và Đức qua Thorn là do chính ông ta bán cho người Nga. Nhưng thêm vào tiền thưởng, ông ta còn đòi ở các ônng chủ ngoại quốc của mình làm sao để củng cố vị thế của mình, tạo cho ông ta cơ hội thu hút sự chú ý của Viên bằng một vụ khám phá gián điệp kỳ lạ nào đó.

Gekailo,kẻ đã chạy trốn sang Nam Brazil, đã không còn giá trị đối với tình báo Nga, do đó người Nga đã hy sinh anh ta để làm lợi cho Redl. Người Nga đã báo cho Redl biết có thể tìm kẻ chạy trốn ở đâu, làm thế nào để đòi trao trả anh ta và toàn bộ vụ án đã quay sang chống lại anh ta.

Redl tuyên bố là bản thân đã tốn 30.000 cuaron để phát hiện các bị can; thực tế, ông ta chả mất gì cho toàn bộ những chứng cứ hùng hồn này.

Nhưng không phải mọi chuyện đều trôi chảy. Khi Gekailo lôi von Wentkowski vào cuộc mà sau khi ông này bị bắt giữ thì đến lượt cả Aht cũng sa lưới của Redl thì tình báo Nga bắt đầu lo sợ. Hai sĩ quan Áo này được xem là những gián điệp khá nhất của tình báo Nga. Tuỳ viên quân sự của Sa hoàng đã kiếm cớ để đến phòng làm việc của Redl và lệnh cho ông ta lập tức minh oan  cho hai sĩ quan đó, còn nếu không thì....

Redl thừa hiểu rằng, không nên chờ đợi sự tha thứ ở người Nga. Họ trả rất hậu cho các gián điệp của mình, nhưng nếu cần họ sẵn sàng trừng phạt họ rất tàn bạo.

Và nếu ông ta buộc phải mạo hiểm.... cố tác động đến toà để cứu Aht và von Wentkowski”.

Nhưng, như chúng ta đã biết Redl đã không thể minh oan để cứu các điệp viên đó của tình báo Nga.

Tình báo Nga không bằng lòng với Redl.

Lúc đó, để không phá hỏng quan hệ với tình báo Nga, Redl đã phải dấn vào một vụ làm ăn tiếp theo. Đó phải là sự “bồi thường” cho sự thiệt hại hai điệp viên đối với nước Nga.

Riedla đã bán cho Nga một trong những điệp viên Áo lão luyện nhất, chính là viên sĩ quan phục vụ tại Varsava, là người đầu tiên biết được việc chuyển giao kế hoạch động viên. Theo hợp đồng trước với người Nga, Redl đã lạnh lùng đưa điệp viên đó vào bẫy và sau cuộc thẩm vấn ngắn, anh ta đã bị treo cổ.

Tuy nhiên điều đó vẫn là ít. Tình báo Nga ngày càng tàn nhẫn đưa ra nhiều đòi hỏi hơn với Redl. Tình báo Nga không thoả mãn với những tin tức mà anh ta đã cố gắng cung cấp trước đó.

Tình báo Nga đòi ông cung cấp tin về tất cả những điệp viên Áo đang hoạt động ở Nga.

Redl đã cố gắng tận lực. Ông ta đã báo những tên tuổi, mật mã, nơi gặp gỡ, tất cả những gì ông có thể biết. Mỗi thông tin vẫn được trả hậu hình như trước.

... Vào năm 1912, người kế thừa ngai vàng Áo, hoàng tử (Erzherzog) Franz-Ferdinand có chuyến thăm chính thức Sa hoàng. Trong đoàn tuỳ tùng của thái tử có tuỳ viên quân sự, thượng uý Muller.

Khi chuyến thăm kết thúc và hoàng tử cùng đoàn tuỳ tùng trở về, tại Varsava, một đại tá của Bộ Tổng tham mưu Nga đã đến gặp Muller. Viên đại tá đề nghị Muller mua, tất nhiên là với số tiền rất lớn, kế hoạch bí mật tiến công nước Áo của Nga.

Không hề thông báo việc này cho cơ quan tình báo của Viên, Muller đã liên hệ với Bộ Tổng tham mưu Áo và kế hoạch này đã được mua.

Tuy nhiên tin tức về vụ này không thể qua được mắt Redl. Việc đầu tiên mà ông ta làm là báo cho chính quyền Nga tên tuổi viên đại tá đã bán tài liệu. Khi biết bị bại lộ, viên đại tá đã tự sát.

Nhưng Redl không dừng lại ở đó.

Với tư cách chỉ huy cơ quan tình báo, ông được nhận tận tay bản kế hoạch đó của Nga. Sau khi nhận được, ông lập tức thay nó bằng bản kế hoạch giả chuẩn bị kỹ lưỡng. Vị tuỳ viên quân sự, người đã tìm cách hành động qua mặt cơ quan tình báo đã rơi vào tình trạng lố bịch. Không lâu sau, ông ta đã bị triệu hồi. Còn bản kế hoạch thật thì Redl trả lại cho người Nga. Ông ta đã được trả 100.000 cuaron cho toàn bộ điệp vụ này.

Còn còn một kiểu “phục vụ” đặc biệt mà Redl giành cho tình báo Nga. Tất cả các báo cáo của các điệp viên Áo đều qua tay ông ta, kể cả những báo cáo nói về sự tăng cường tiềm lực của quân đội Nga. Redl cố che giấu những tin tức này với chính quyền Áo. Kết quả là tới trước Thế chiến I, đế quốc Áo-Hung chỉ có hình dung gần đúng về quân số của Nga. Những tin tức mà họ có là đã bị cắt bớt và điều đó đã ảnh hưởng đến kết quả chiến sự...

Bộ chỉ huy Áo chỉ biết được chi tiết về hoạt động gián điệp của Redl sau cái chết của ông. Cuộc lục soát căn hộ của ông đã thực sự làm choáng váng những người mà đã bảo lãnh ông. Người ta đã tìm thấy Một lượng lớn các bản sao tài liệu, mật mã, bản đồ, các mệnh lệnh bí mật cho quân đội và nhiều tái liệu quan trọng khác. Tất cả được chứa trong các tủ, két mà người ta buộc phải phá để khám xét. Người ta cũng đã tìm thấy ở đó những cọc tiền. Một số tờ giấy được viết bằng tiếng Nga.

Bằng cách nào mà người ta phát giác được Redl? Ông ta đã làm gián điệp cho Nga đã 10 năm rồi còn gì. Ông ta hành động khôn khéo, sáng tạo, kỹ càng xoá sạch dấu vết. Là một gương mặt quen thuộc trong giới lãnh đạo quân sự cao cấp nhất của Áo-Hung, ông ta được tín nhiệm tuyệt đối.

Vậy mà sự phản bội của Redl cũng vẫn cứ bị phát hiện.

... Để không xa rời thực tế của quân đội, các sĩ quan của bộ tham mưu thường xuyên được cử xuống các đơn vị.
Với mục đích đó mà Alfred Redl cũng được cử đi công tác với cương vị tham mưu trưởng sư đoàn. Tất cả đều biết rằng, viên sĩ quan hăng hái và mẫn cán này sau khi hoàn thành những nghĩa vụ của mình tại Praha sẽ lại được gọi về Bộ Tổng tham mưu. Trong thời gian Redl vắng mặt, trách nhiệm trưởng phòng phản gián ở Viên được giao cho người phó của ông ta.

Đó là một trong những giả thiết. Theo các nguồn tìn khác, câu chuyện xảy ra không giống như thế. Chỉ huy của Redl ở Viên là bá tước von Gizel. Chính ông ta là người đã bổ nhiệm viên thiếu tá trẻ làm chỉ huy cơ quan tình báo. Khi Gizel được điều sang Praha, ông ta đã đòi cho Redl đi theo sang đó để làm tham mưu trưởng cho ông ta.

Đến lúc đó, Alfred Redl đã được thăng quân hàm đại tá. Toàn bộ công việc của mình ông bàn giao lại cho người kế nhiệm là đại uý Max Ronge.

Người kế nhiệm Redl đặc biệt chú trọng đến công tác kiểm duyệt thư tín. Ông ta ra lệnh bóc trộm tất cả thư từ gửi đến Viên gây nghi ngờ dù là nhỏ nhất. Rồi một ngày, trên bàn ông ta có hai phong bì có vẻ lạ lùng đối với các nhân viên kiểm duyệt bưu điện.

Theo dấu trên thư thì cả hai phong bì đều được gửi từ Eidkunen, từ biên giới Nga. Dòng chữ trên các phong bì đều giống nhau: “Opera, Ball 13, thư bảo đảm”. Khi bóc các phong bì, tiền liền rơi ra - 600 và 800 mác.

Cả việc những món tiền lớn như vậy được gửi trong phong bì thường, cũng như trong cả hai phong bì đều không có thư đi kèm đếu rất đáng nghi.

Các phong bì được dán lại như cũ và gửi đến bưu điện. Người ta đã bố trí người trực ở đó để biết ai sẽ người đến nhận chúng. Hai tên mật thám liên tục ngồi trong phòng bên cạnh phòng trả thư tín. Phòng này có chuông đặc biệt nối với phòng trả thư tín. Sau khi trả thư tín, khi cần, nhân viên bưu điện phải bấm chuông báo cho các mật thám.

Một ngày, vào buổi chiều, tiếng chuông quy ước đã vang lên. Các mật thám lao vào gian phòng. Người nhân viên bưu điện chán nản nói với họ rằng người nhận thư vừa mới ra phố. Các mật thám lao ra cửa nhưng họ chỉ kịp ghi nhớ số xe taxi chở người nhận thư bí ẩn đi mất. Một giờ sau, họ tìm được người lái xe taxi và được anh này cho biết anh ta đã cho khách hàng của mình xuống bên cạnh một quán cà phê. Các mật thám ngồi vào xe của anh ta và ra lệnh đi tới quán cà phê đó. ở đó, họ được biết người mà họ đang truy lùng đã rời quán cà phê để đến khách sạn Klomser.

Cũng trên chiếc taxi đó, họ lại lao đến khách sạn. Lúc ngồi trên ghế sau, một mật thám phát hiện ra một bao dao nhíp. Cái bao dao này là của ai được nhỉ? Anh tài xế không thể trả lời câu hỏi này. Trong một ngày trời, anh ta chở biết bao nhiêu là khách. Dù sao thì viên mật thám cứ nhét chiếc bao dao vào túi.

Tại quầy lễ tân khách sạn, các mật thám yêu cầu xuất trình sổ đăng ký khách trọ. Họ lật sổ rất lâu mà vẫn vô hiệu, tên tuổi các khách trọ chẳng nói lên điều gì cho họ cả. Nhưng lại có một cái tên mà họ biết rất rõ, hoá ra là chính ngài đại tá Alfred Redl trọ tại đây. ý nghĩ đầu tiên xuất hiện là đến gặp ông ta và báo cáo về người nhận thư khả nghi. Thế thì đúng quá còn gì - đại tá là người còn lạ gì những thủ đoạn của các điệp viên của địch và có thể đưa ra lời khuyên xác đáng.

Các mật thám đứng trong tiền sảnh bàn bạc với nhau, nên hay không nên đến gặp ngài Redl. Vào lúc đó, trong đầu một mật thám đột nhiên nảy ra ý kiến mới. Lôi chiếc bao dao khỏi túi, anh ta đến gặp người gác cửa đang đứng bên lối vào và nói:

- Ông hãy hỏi từng người xem ai đã đánh mất cái này.

Chưa kịp nói hết câu, mật thám này đã thấy đại tá Redl quần áo chỉnh tề đang xuống thang gác. Anh ta lao tới định cản anh gác cửa thật thà, nhưng anh này đã đến gần viên đại tá với chiếc bao dao trong tay:

- Xin ngài thứ lỗi, ngài đại tá, có phải ngài đã sơ ý đánh rơi cái này không?

Redl đang mãi nghĩ đã sờ tay vào túi một cách máy móc, liếc nhìn chiếc bao đao và trả lời một cách lơ đễnh:

- Đúng, đúng, xin cảm ơn. Đây là bao dao của tôi...

Nhét bao dao vào túi, ông bước ra khỏi tiền sảnh.

Cả hai mật thám mặt trắng bệch vì bất ngờ, sững sờ rồi sau một thoáng nhìn nhau im lặng, họ cuống cuồng bám theo Redl. Chỉ khi đã ở trên phố, khi đã qua một khu phố, Redl mới hiểu mình đã phạm phải một sai lầm không thể tha thứ. Tim ông thắt lại, ông đã nhớ lại ông đã quên cái bao dao bằng da đáng nguyền rủa này ở đâu. Trên taxi, tất nhiên rồi, trên taxi! Trên xe, ông đã lấy dao ra để dọc phong bì đựng tiền.

Linh cảm bản năng mách bảo ông rằng, hai người đứng trong tiền sảnh khách sạn đó, cạnh người gác cửa, chắc chắn là mật thám. Mắt ông mờ đi. Hiển nhiên là họ đã nghe thấy ông nói gì với người gác cửa.

Sự đãng trí lặt vặt đã làm hại ông.

Redl chạy vào gara chỗ ông để chiếc ôtô của mình. Chắc là ông hy vọng có thể lẩn tránh. Nhưng trên cửa kính của tiệm đồng hồ, Redl trông thấy một trong hai người theo dõi ông. Ông lạnh toát xương sống vì hoảng sợ. Đầu óc ông gấp gáp tính toán. Phải làm cách nào đó để đánh lừa bọn theo dõi.

Ông rẽ vào một cửa hiệu. Móc trong túi ra những chiếc phong bì tội lỗi, Redl xé chúng thành những mảnh nhỏ và ném vào góc. Tính toán của ông thật đơn giản, mấy tên mật thám sẽ chúi đầu vào thu nhặt những mẩu giấy này và lúc đó ông sẽ thoát đi được.

Nhưng bọn mật thám thông minh hơn ông tưởng. Một tên trong số đó ở lại để thu nhặt những mẩu giấy, còn tên kia tiếp tục bám theo  Redl. Trong mấy giờ liền, ông lang thang khắp phố phường ở Viên với tên mật thám khắc tinh của mình lẽo đẽo theo sau. Ông không thể thoát khỏi tên mật thám, hắn quyết bám theo từng bước chân của ông.

Lúc đó thì số phận của đại tá Alfred Redl đã bị định đoạt hẳn. Tên mật thám phải ở lại để thu nhặt những mẩu giấy, sau khi làm xong việc của mình, đã chạy đến một cảnh sát đi tuần, đưa cho anh ta xem phù hiệu của mình và yêu cầu:

- Anh gọi điện ngay tới Cục cảnh sát mật và nhắn với bất kỳ ai nghe máy hai câu sau: “Mọi chuyện đều ổn. Đại tá Redl đã nhận thư”.

Khi nhận được tin này, sĩ quan trực ban của cảnh sát mật đã ôm lấy đầu. Mấy thằng mật thám này điên rồi chắc! Ông ta lập tức phái trợ lý của mình đến bưu điện với nhiệm vụ lấy giấy biên nhận của người nhận các lá thư ấy. Đồng thời ông cũng gọi điện vào Bộ Chiến tranh để báo cáo về việc đã xảy ra.

Trong Bộ Chiến tranh, người ta đã lục soát những công văn giấy tờ có chữ ký của Redl. Khi so sánh tờ biên nhận với những giấy tờ này, mọi nghi ngờ đều tan biến: những lá thư bí hiểm đựng tiền kia đúng là gửi cho chính đại tá Redl. Một lúc sau, những mẩu giấy mà Redl vứt đi cũng đã nằm trên bàn của đại uý Ronge. Hoá ra trong lúc hoảng hốt, viên đại tá đã xé bỏ không chỉ hai phong bì tai vạ kia mà cả những tài liệu khác có tác dụng tố giác ông ta.

Nhiều năm sau, Max Ronge đã viết trong cuốn sách “Tình báo và phản gián” của mình:

“Khi được tin một quan chức lâu năm của cơ quan tình báo chúng ta, chuyên viên quân sự trong nhiều vụ gián điệp đã bị phát giác là một kẻ phản bội, tôi đã như hoá đá. Sau đó đã diễn ra cái việc làm đáng buồn ấy.

Đã xác định được rằng, Redl đi từ Praha về Viên bằng ôtô... Chỉ cần nhìn thấy các mẩu giấy mà Redl xé bỏ cũng đủ để tôi tin chắc câu chuyện đang nói về những địa chỉ che giấu hoạt động gián điệp.

Tôi giải thích cho trưởng phòng tình báo và Phó Tổng tham mưu trưởng về việc cần phải huy động điều tra viên quân sự vào việc - điều cần thiết để uỷ ban toà án bắt đầu công việc... Còn cần có sự cho phép bắt giữ của tư lệnh quân quản thành phố.... Công việc đã được làm ngay mà không bị trì hoãn gì...”.

Trong cuốn sách của của Ronge còn trích dẫn cả nguyên văn một trong các bức thư của phòng tình báo Bộ Tổng tham mưu Nga gửi cho Redl. Trong thư, ông ta có bí danh Nitzetas. Dưới đây là nội dung bức thư:

“Ngài Nitzetas vô cùng kính mến!

Ngài tất nhiên là đã nhận được lá thư của tôi đề ngày 7 tháng 5, trong đó tôi đã xin tha lỗi vì sự chậm trễ trong việc gửi tiền. Đáng tiếc là tôi đã không thể gửi tiền cho ngài sớm hơn. Bây giờ tôi có vinh dự, ngài Nitzetas kính mến, gửi kèm theo đây cho ngài 7.000 cuaron mà tôi liều gửi cho ngài trong lá thư đơn giản này. Về các đề nghị của ngài thì tất cả chúng đều có thể chấp nhận. Trân trọng, I. Dietrich”.

Địa chỉ trên phong bì: “Gửi ngài Nikon Nitzetas, Áo, thành  phố Viên, bưu điện trung tâm, thư bảo đảm”.

Lá thư này đã được phát hiện khi lục soát căn hộ của đại tá Alfred Redl.

Khi tháy tên mật thám vẫn không rời mình, Redl đã có quyết định mới. Ông ta tiến về hướng khách sạn. ở đó, ông ta sẽ gặp người bạn cũ, người mà ông dự tính trò chuyện trong cái buổi chiều bi thảm đối với số phận của ông ấy. Người bạn đó là tiến sĩ Victor Pollak, Tổng chưởng lý của Viện công tố của Toà phúc thẩm tối cao ở Viên.

Tiến sĩ Pollak đúng là đã đợi ông ta trong tiền sảnh khách sạn. Họ cùng vào nhà hàng và ở đó, Redl cúi đầu bắt đầu nói một cách hồi hộp. Giọng nói của ông rời rạc và đứt đoạn, Pollak khó khăn lắm mới hiểu được ý ông. Redl nói liên miên giống như một thằng điên. Nhưng điều chủ yếu mà Pollak hiểu được đó là Redl tự buộc cho mình những tội lỗi nghiêm trọng, thú nhận sự lệch lạc về say mê giới tính của mình. Ông không nói cụ thể điều gì, không hé lộ một lời về hoạt động gián điệp của mình, nhưng lại nói ông đang bị mật thám theo dõi.

Ông cầu xin bạn mình cho phép ông quay về Praha ngay trong đêm, về chỗ ở của mình để ông có thể tự nộp mình cho toà án. Tất nhiên là, mặc dù đang ở trong trạng thái thần kinh hoảng loạn, thỉnh cầu này vẫn che giấu một ý đồ nào đó của Redl. Trong nó vẫn le lói một hy vọng mong manh chạy thoát ra nước ngoài trên đường đi Praha.

Xiêu lòng trước những thỉnh cầu của người bạn, Pollak đã gọi điện thoại ngay từ nhà hàng cho cảnh sát chính trị. Câu trả lời mà ông nhận được hoàn toàn làm ông hài lòng:

- Ngài nói để đại tá Redl đừng lo. Ông ấy cứ việc về phòng trọ mà ngủ. Hôm nay nói về chuyện sắp tới e rằng còn quá sớm...

Pollak đã nói lại toàn bộ điều này cho Redl. Khi biết rằng, thay vì cho phép ông đi Praha, người ta khuyên ông ở lại Viên, Redl đứng dậy khỏi bàn và như người mộng du chẳng thấy gì trước mắt ông bước ra cửa.

Đại tá Urbanski, trưởng phòng tình báo Bộ Tổng tham mưu, khi được đại uý Ronge báo tin, trước khi đưa ra quyết định, đã liên hệ ngay với Tổng tham mưu trưởng von Hetzendorf. Khi biết ông này đang ăn tối ở nhà hàng Grand Hotel, Urbanski đã tới đó và gọi von Hetzendorf từ phòng lớn vào một phòng làm việc và báo cáo những chuyện gì thực tế đã xảy ra với ông này. Để làm bằng chứng văn bản cho sự phản bội của Redl, Urbanski đã đưa ra những tờ biên nhận đã được dán lại. Von Hetzendorf bàng hoàng đến đứng tim. Sau khi bình tĩnh lại, ông yêu cầu trước hết phải áp dụng các biện pháp để không ai được biết chuyện này. Tiếp đó, cần phải lập tức lục soát căn hộ của Redl ở Praha. Còn liên quan đến bản thân viên đại tá thì phải làm thế nào để ông ta không còn sống cho đến sáng mai.

Urbanski bắt tay vào thực hiện mệnh lệnh lạ lùng này. Sau khi quán triệt các sĩ quan mà một số đó bị ông dựng dậy từ trên giường, ông bắt đầu cương quyết hành động.

Vào lúc nửa đêm, bốn sĩ quan gõ cửa phòng trọ của Redl ở khách sạn Klomser. Viên đại tá đã ăn mặc chỉnh tề.
- Tôi biết các anh đến đây làm gì, - ông nói. - Các anh không cần phải giải thích. Xin các anh không hỏi tôi cái gì cả. Tất cả những gì các anh muốn biết, các anh sẽ tìm thấy trong căn hộ của tôi ở Praha. Tôi cho rằng, ở đó người ta đang tiến hành công việc.

Một sĩ quan hỏi:

- Thưa ngài đại tá, người có súng ngắn đấy chứ?

- Không.

Xoay gót giày, như theo khẩu lệnh và không nói một câu, viên sĩ quan ra khỏi phòng và vài phút sau quay lại với khẩu súng ngắn ổ quay trong tay. Anh ta vẫn im lặng như thế đặt khẩu súng lên bàn. Redl bất động. Không nói một câu chào từ biệt, các sĩ quan bước ra khỏi phòng.

Còn lại một mình, Redl viết một cách bình tĩnh và mạch lạc trên nửa tờ giấy viết thư:

“Sự dại dột đã huỷ diệt tôi. Hãy cầu nguyện cho tôi. Tôi đã phải trả giá cho những tội lỗi bằng cả mạng sống của mình.

Alfred.

1 giờ 15 phút đêm. Bây giờ tôi sẽ chết. Xin đừng mổ xác tôi. Hãy cầu nguyện cho tôi”.

Ông để lại hai lá thư dán kín, một lá gửi cho người anh và một cho tướng Gizel, người đã tín nhiệm và rủ ông sang Praha. Số phận thật là trớ trêu khi mà chính sự tín nhiệm và thăng cấp này đã dẫn Redl tới cái chết. Nếu như những tài năng của ông không làm mê hoặc cấp trên của của ông thì chắc chắn ông vẫn ở lại Viên... Với cương vị của mình trong phòng nắm được nhiều tin tức ấy, ông đã còn có thể che giấu sự phản bội của mình bằng đủ mọi mưu mẹo mà ông đã không còn làm được khi trở thành là một tham mưu trưởng quân đoàn đồn trú ở Praha”.

R. Rown đã viết như vậy về đại tá Alfred Redl.

Vào lúc hai giờ sáng, trong căn hộ vang lên tiếng súng. Đại tá Redl đã xong nợ với cuộc đời.

Ban đầu chỉ có một số ít người được biết về sự phản bội của Redl. Bộ tư lệnh quân quản thành phố Viên đã chuẩn bị một lễ tang trang nghiêm, trọng thể tương xứng với cương vị của người quá cố. Xe tang chở quan tài của ông sẽ được ba tiểu đoàn bộ binh hộ tống, cả núi vòng hoa đã được đặt mua.

Nhưng vào buổi sáng hôm sẽ diễn ra lễ an táng, người ta mới thấy hết sự trái mắt của cái lễ tang trọng thể này. Sự phản bội của Redl đã đến tai nhiều người. vụ xì căng đan mỗi lúc một lớn dần lên.

Các đơn vị sẽ phải tham gia vào lễ tang đã nhận được bức điện sau:

“Việc chôn cất đại tá quá cố Alfred Redl sẽ được tiến hành mà không có bất kỳ nghi thức trọng thể nào. Lệnh này sẽ thay cho mệnh lệnh ra cho các đơn vị ngày hôm qua”.

Chiếc xe tang giản dị chở chiếc quan tài lẻ loi chứa thi hài người quá cố chạy nước kiệu đến nghĩa địa trung tâm thành phố Viên, nơi nó được đưa vào lòng đất ở hàng thứ 29, nhóm 49, trong nấm mồ số 38.

Chẳng có ai đến để tiễn đưa đại tá Redl về nơi an nghỉ cuối cùng.
Xem tiếp...