NHÂN TÍNH 39
-Loài người tưởng mình khôn "ngoan" nhất, nhưng thật ra là khôn "hư"nhất!-Loài
người thường cho rằng thú tính xấu xa hơn nhân tính, nhưng thật ra là
loài vô đạo đức nhất, vì độc ác nhất, thủ đoạn bẩn thỉu nhất, trả thù
hèn hạ nhất, sống đồi bại nhất, lãng phí nhất, thèm muốn quyền lực nhất,...!
-Nhân tính như tấm huân chương với hai mặt của nó. Một mặt thể hiện ra xấu xa bao nhiêu thì mặt kia thể hiện ra tốt đẹp bấy nhiêu. Đó là hoạt động tinh thần tột đỉnh của giới sinh vật.
-Chỉ khi nhân tính hoàn toàn chuyển biến thành đẹp đẽ hơn thú tính, nghĩa là khi sự phân chia giàu - nghèo đã trở nên vô nghĩa, thì lúc đó mới có xã hội cộng sản đích thực, loài người mới sống đại đồng được! Thử hỏi: quá trình đó là tiến hóa hay thoái hóa!?
-Còn không, may ra chỉ có xã hội cộng sản tương đối thôi!
-Nhưng, mơ mộng thì...có quyền!...
--------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Một điều trớ trêu ai cũng biết và chứng kiến nhưng lại không muốn
thừa nhận: Chúng ta đang không ngừng "ném tiền qua cửa sổ" khi vứt vào
thùng rác phân nửa số thực phẩm, vật dụng,... đã mua. Bằng cách nào ư?
Các chương trình khuyến mại giá rẻ, thông tin hạn sử dụng mập mờ đã
khiến phần lớn các gia đình phải chi thêm khoảng 15 triệu đồng mỗi năm
cho những món đồ họ chưa từng đụng tới.
Tuy nhiên, khách quan mà nói, sự lãng phí đa phần đến từ chính những người tiêu dùng. Một báo cáo mới đây cho biết, có đến một nửa lượng thực phẩm mua từ siêu thị bị người dùng vứt thẳng vào thùng rác, cho dù phần lớn chúng đều có thể chế biến lại và ăn được. Các chuyên gia cho rằng, chính "văn hóa" tiêu dùng thải bỏ này của đại đa số người dân đã và đang biến thực phẩm trở thành một... đống chất thải khổng lồ của thế giới.
Hãy thử nhớ lại, bạn có thường xuyên tặc lưỡi cho qua mỗi khi bỏ thừa
đồ ăn tại nhà hàng hay "tiện tay" xả rác dù thùng rác chỉ cách vài bước
chân? Có lẽ bạn chưa hình dung được hậu quả tiềm tàng của những hành
động nhỏ đó. Khai thác, thừa mứa, bỏ phí, thiếu thốn rồi lại khai
thác... Có lẽ đây chính là một vòng quay lẩn quẩn của nhân loại thế kỷ
20, nơi các nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt trước cộng đồng dân cư
đang ngày một phình to của Trái đất.
-Nhân tính như tấm huân chương với hai mặt của nó. Một mặt thể hiện ra xấu xa bao nhiêu thì mặt kia thể hiện ra tốt đẹp bấy nhiêu. Đó là hoạt động tinh thần tột đỉnh của giới sinh vật.
-Chỉ khi nhân tính hoàn toàn chuyển biến thành đẹp đẽ hơn thú tính, nghĩa là khi sự phân chia giàu - nghèo đã trở nên vô nghĩa, thì lúc đó mới có xã hội cộng sản đích thực, loài người mới sống đại đồng được! Thử hỏi: quá trình đó là tiến hóa hay thoái hóa!?
-Còn không, may ra chỉ có xã hội cộng sản tương đối thôi!
-Nhưng, mơ mộng thì...có quyền!...
--------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
[Infographic] Con người đang sống lãng phí như thế nào?
Khi bỏ tiền ra mua 1 món đồ, bạn có biết rằng 1 phần trong số tiền đó sẽ đi thẳng vào thùng rác?
Tuy nhiên, khách quan mà nói, sự lãng phí đa phần đến từ chính những người tiêu dùng. Một báo cáo mới đây cho biết, có đến một nửa lượng thực phẩm mua từ siêu thị bị người dùng vứt thẳng vào thùng rác, cho dù phần lớn chúng đều có thể chế biến lại và ăn được. Các chuyên gia cho rằng, chính "văn hóa" tiêu dùng thải bỏ này của đại đa số người dân đã và đang biến thực phẩm trở thành một... đống chất thải khổng lồ của thế giới.
Tham khảo InfographicJournal
Tài nguyên thiên nhiên đang bị lãng phí nghiêm trọng
Với gần 14.000 loài thực vật được ghi nhận, Việt Nam được quốc tế đánh
giá là một nước có đa dạng sinh học cao. Tuy nhiên, việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên chưa tương xứng với tiềm năng hiện có.
Theo PGS.TS Nguyễn Thượng Dong, viện Dược liệu
Trung ương, lịch sử phát triển của loài người gắn liền với khả năng sử
dụng tài nguyên thiên nhiên để làm thức ăn, thuốc chữa bệnh và chất
nhuộm màu, Việt Nam có lợi thế rất lớn để phát triển tiềm năng tự nhiên
đó. Tiềm năng lớn Trong những năm gần đây, các nghiên cứu về hợp chất
thiên nhiên có hoạt tính sinh học đã được đẩy mạnh với những kết quả
đáng khích lệ, tự hào. Chỉ tính riêng lĩnh vực y dược học, đến nay Việt
Nam đã sản xuất được gần 400 loại dược liệu có nguồn gốc tự nhiên dưới
dạng thuốc y học cổ truyền, thực phẩm chức năng có lợi cho sức khỏe như
Salamin từ côn bố và hải tảo có khả năng ức chế các dòng tế bào gây ung
thư biểu mô, tử cung và màng tim; Omega-3, Omega-6 có tác dụng bảo vệ
đường tiêu hóa, kháng histamin, chống oxy hóa, chống phân bào, tăng
cường miễn dịch, hỗ trợ điều trị ung thư, tiểu đường. Nhiều loại cây cỏ
có tác dụng làm đồ gia vị, đồ uống và mỹ phẩm rất rất hiệu quả như dưa
leo, giảo cổ lam, kim tiền thảo, lô hội, nghệ…. Nghiên cứu, bào chế hoạt
chất hỗ trợ điều trị ung thư từ thực vật tại viện Công nghệ sinh học
(Viện KH-CN Việt Nam) (Ảnh: Minh Cường) Ngoài ra, các nhà khoa học đã
nghiên cứu và tách chiết thành công một số loài thực vật như lá cẩm đỏ,
cẩm tím làm chất nhuộm màu thực phẩm (như xôi, chè, thạch, sữa chua); lá
bàng, lá sim, lá dứa để nhuộm vải, quần áo trên nhiều chất liệu khác
nhau góp phần thay thế cho các loại phẩm màu, hóa chất nguy hiểm gây độc
hại cho sức khỏe con người. PGS.TS Hoàng Thị Lĩnh, khoa Công nghệ dệt
may thời trang, Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết chất màu được chiết
tách từ thực vật Việt Nam rất phong phú và đa dạng có thể thay thế hàng
loạt các gam màu trầm mà khi nhuộm bằng thuốc nhuộm tổng hợp phải phối
từ nhiều loại khác nhau. ...Nhưng chưa nghiên cứu đúng mức Mặc dù vậy,
PGS.TS Nguyễn Thượng Dong cho rằng, chỉ tính riêng lĩnh vực dược liệu,
nguồn cung cấp từ khai thác tự nhiên và trồng trọt mới chỉ đáp ứng được
chưa tới 46% nhu cầu. Còn lại, phần lớn nguồn tài nguyên thiên nhiên
dùng làm nguyên liệu, dược liệu, Việt Nam phải nhập khẩu từ nước ngoài
(chiếm 54%). Nguyên nhân chính của tình trạng này là do nguồn tài nguyên
quý giá đó chủ yếu tập trung ở các vùng núi cao, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số nên lâu nay vẫn bị lãng quên. Công tác nghiên cứu tách chiết và
phát triển thành các sản phẩm hàng hóa chưa được chú ý đúng mức. Theo
sách đỏ Việt Nam năm 2007, riêng thực vật có 464 loài đang bị đe dọa,
trong đó có 37 loài rất nguy cấp, 178 loài nguy cấp, 210 loài sẽ nguy
cấp và 1 loài đã tuyệt chủng. Ngoài ra, việc thiếu thốn các trang thiết
bị nghiên cứu hiện đại cũng là một cản trở rất lớn cho nghiên cứu, phát
triển các sản phẩm tự nhiên. Các nghiên cứu chưa sâu, chưa nhiều và chưa
được thực hiện một cách nghiêm túc, khoa học. Theo PGS.TS Trịnh Thị
Thủy, viện Hóa học (viện KH-CN Việt Nam) kỹ thuật chiết tách và sản xuất
các sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên rất phức tạp, tốn nhiều thời gian và
chi phí cho công nghệ khá tốn kém. Hiện tại, chỉ có một số trường đại
học, viện nghiên cứu lớn mới có thể gọi là trang bị tạm đủ để thực hiện
mọi quy trình. Do đó, nếu không có sự đầu tư nhiều hơn nữa thì sẽ rất
khó để có thể phát triển rộng rãi hơn. Bên cạnh đó, điều đáng báo động
là “Nhiều loài thực vật có giá trị dùng làm thức ăn, chất đốt, thuốc
chữa bệnh, vật liệu xây dựng hay nguyên liệu làm đồ thủ công mỹ nghệ đều
bị khai thác ồ ạt nhằm phục vụ tiêu thụ tại chỗ hoặc trao đổi thương
mại chứ phục vụ cho nghiên cứu khoa học chưa nhiều...” TS Lê Xuân Cảnh,
viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật nói. Th.S Nguyễn Thị Thanh Hương,
trường Đại học Kỹ thuật Thái Nguyên kiến nghị đã đến lúc cần phải quyết
liệt bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá bằng cách xây dựng các
mô hình bảo vệ tại cộng đồng. Điều đó vừa góp phần bảo tồn, phát triển
nguồn gene các loài thực vật có giá trị, vừa góp phần xóa đói giảm nghèo
cho bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Khai thác đá bừa bãi: sự lãng phí tài nguyên khủng khiếp
Từ lâu, khai thác đá bừa bãi để sản xuất VLXD đã trở thành vấn
nạn bức bối. Chúng gây ra sự lãng phí khủng khiếp đối với nguồn tài
nguyên thiên nhiên vốn dĩ không thể tái hồi. Chưa kể công nghệ thấp kém
luôn đi đôi với sự tàn phá môi sinh, môi trường, nguy cơ đe dọa tính
mạng con người.
“Ăn xổi ở thì” - lãng phí đủ đường
Chỉ trong 6 năm 2005 - 2010 đã có hơn 3,2 tỷ tấn nguyên liệu khai thác
và đưa vào sản xuất để sản xuất VLXD. Đương nhiên rằng, theo đó hàng
trăm núi đá vôi, đá granit, đá cẩm thạch, đá bazan, đôlômit, fenspat,
hơn 10 nghìn héc-ta đất canh tác đã được khai thác không có tái tạo.
Trong đó có không ít mỏ khai thác không có thiết kế được duyệt, khai
thác không theo đúng quy trình, quy phạm, hoặc khai thác theo lối ăn
xổi, dễ làm, khó bỏ, lãng phí lớn tài nguyên.
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển VLXD Việt Nam đến năm 2020 cũng như
Quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020
và định hướng đến năm 2030 cho thấy: Trong vòng 10 năm tới 2011 - 2020
sẽ phải khai thác một khối lượng rất lớn nguyên liệu: Gần 10 tỷ tấn! Rõ
ràng đã đến lúc phải có giải pháp đồng bộ nhằm rộng đường chấn chỉnh,
sắp xếp lại tổ chức quản lý sản xuất.
Cụ thể, đổi mới công nghệ, đổi mới thiết bị, nâng cao trình độ kỹ thuật
khai thác, chế biến, bảo đảm sản xuất đạt hiệu quả kinh tế kỹ thuật
cao. Chỉ có vậy mới mong tiết kiệm được tài nguyên khoáng sản, bảo vệ
được môi trường sinh thái, hài hòa 3 lợi ích kinh tế, xã hội và môi
trường, phòng chống biến đổi khí hậu toàn cầu.
Đáng buồn thay, hiện còn tồn tại không biết bao nhiêu mỏ đá khai thác
bằng công nghệ cũ, chủ yếu là nổ mìn phá đá chân núi, đá bị om, vỡ vụn,
kích cỡ không đều, hiệu quả kinh tế thấp kém. Lý do những chủ mỏ ở đây
dùng để biện minh cho cách làm lỗi thời ấy là cuộc chơi công nghệ cao
phải là cuộc chơi của giới nhà giàu, thuộc về những “ông lớn” lắm tiền
nhiều của, quy mô sản xuất lớn, nhiều ước vọng thôn tính thị trường lâu
dài…
Bức thông điệp của những người yêu mỏ
Tuy nhiên, cách nghĩ như vậy không nhận được sự đồng tình của những
người đã có thâm niên hơn chục năm trong nghề khai thác đá. Ông Phạm Văn
Toản (Giám đốc Xí nghiệp khai thác mỏ - Cty Xi măng VICEM Bút Sơn), cho
rằng tuy quy mô sản xuất có thể khác nhau, nhưng dứt khoát không được
“ăn xổi” trong nghề khai thác khoáng sản, vì “ăn xổi” không chỉ đồng
nghĩa với “ăn ít” mà còn phá hủy hệ thống môi sinh, đó là sự lãng phí
tài nguyên ghê gớm - một lối tư duy hết sức bảo thủ, ích kỷ! Thế nên các
DN quy mô nhỏ cũng nên đầu tư cho khâu khai thác mỏ một cách thích
đáng.
Điều này ông Nguyễn Xuân Hùng - Tổng giám đốc Cty CP Khai thác khoáng
sản và Luyện kim - đơn vị hiện đang khai thác mỏ đá trắng cẩm thạch mang
tên mỏ Bến Nghè 2 (Lục Yên - Yên Bái) cũng đồng tình. Ông Hùng cho hay,
mới chính thức nhập cuộc một năm rưỡi, bỏ ra 30 tỷ đồng, Cty ông đã cơ
bản làm xong con đường ôtô dài 3km, đường ống dẫn nước, dẫn điện lên đến
đỉnh núi có độ cao 560m. Nhập thiết bị cưa, khoan cắt bằng dây kim
cương công nghệ Tây Ban Nha. Ông Hùng bảo đá tại mỏ này được khai thác
theo nguyên tắc lấy từ trên xuống chứ không nổ mìn phá đá chân núi. Lợi
ích là, đá được khai thác triệt để, không rơi đá từ trên xuống, nói
chung rất an toàn. Công nghệ này đã được các nước trên thế giới áp dụng
từ lâu.

Đến nay, những vỉa đá lớn trên đỉnh mỏ Bến Nghè 2 đã lộ diện. Hãy hình
dung từ trên ngọn cao nhất của đỉnh núi, không cần nổ mìn phá hủy mà
dùng dây cưa kim cương khoan cắt, từng lớp đá kích thước lớn cứ dần hiện
hữu, cao 8m, dài 15m, tổng diện tích 120m2. Điều này hứa hẹn cho phép
Cty của ông Hùng có thể sản xuất những khối đá có giá bán tới 15 - 17
triệu đ/m3 ngay tại chân mỏ. Cả một mỏ đá trữ lượng 200 triệu m3 hứa hẹn
một tương lai đáng giá với sự đầu tư công sức tiền của, dù không phải
là mức chi phí quá lớn.
Và thử hình dung, nếu ông Hùng không đầu tư công nghệ mới mà dùng mìn
phá đá, chắc chắn là ông cũng như những người khác, ngày ngày thu gom về
những xe đá vụn để đập, nghiền, sàng tuyển công phu nhưng giá trị kinh
tế không cao.
Ông Phạm Văn Toản (mỏ đá Xi măng Bút Sơn) chỉ rõ: Nổ mìn visai phi điện
và công nghệ khoan cắt tầng đá cho phép bóc lớp rất gọn gàng, tận thu
từng tầng đá phục vụ đủ cho việc sản xuất xi măng của một nhà máy 2 dây
chuyền, công suất 3 triệu tấn/năm, đường đi lối lại vận chuyển xênh
xang, an toàn. Đá nổ đồng đều kích cỡ nên cũng rất tiết kiệm điện năng
của máy nghiền. Giá thành rẻ nên chỉ 5 - 6 năm, Cty đã hết khấu hao cho
dây chuyền 1. Khấu hao hết thì cơ hội cạnh tranh sản phẩm của Bút Sơn
lại ngày càng tốt hơn. “Bài toán đầu tư tài chính tuy cao nhưng có logic
của nó”, ông Toản nhấn mạnh.
Còn ở khai trường mỏ đá của Cty Xi măng Chinfon và Xi măng Nghi Sơn,
nhờ áp dụng kỹ thuật cao trong nổ mìn và tổ chức sản xuất hợp lý, mỗi
tấn đá vôi khai thác chỉ tiêu hao có 0,1kg thuốc nổ, một con số quá thấp
so với các nhà máy xi măng khác hiện nay. Thế nhưng chất lượng đá vẫn
ổn định, đồng đều, núi đá không bị om gây nguy cơ rơi đá, dư chấn nổ
giảm thiểu, đặc biệt là môi trường sống xung quanh đó không bị ảnh
hưởng. Tất cả nếu nói “quy ra thóc” thì đều đáng “đồng tiền bát gạo” với
chi phí đầu tư ban đầu.
Nhưng cái sự đáng giá ấy, suy cho cùng phải được khởi nguồn từ một mong
muốn làm ăn nghiêm túc, không “ăn xổi ở thì”. Và khi đã bắt tay vào
làm, phải chấp nhận thực thi thường xuyên những quy định “kỷ luật sắt”
để duy trì hiệu quả khai thác mỏ đá ở mức cao nhất, nhưng mức độ ảnh
hưởng đến môi trường lại giảm thiểu tối đa.
Đi trên khai trường Nghi Sơn, những cung đường dài và rộng, chỉ có đất
đá là đất đá. Nhưng không hề bụi bặm. Vì xe tưới nước chạy từng giờ. Một
chiếc cầu bê tông được làm riêng cho xe mỏ, tách biệt hẳn với đường dân
sinh. Một băng tải 12km chở đá từ trạm nghiền về thẳng nhà máy thay cho
việc phải chở đường ô tô mà nếu áp dụng sẽ phải đi vòng tới 40km, lại
bị chi phối giá thành thường xuyên theo sự biến động giá xăng dầu!
Những nét “chấm phá” này tuy còn sơ lược, nhưng hy vọng chuyển đến các
nhà khai thác khoáng sản một thông điệp hết sức rõ ràng: Đừng đợi 50 năm
sau khi khai thác mỏ mới hoàn trả môi trường, mà việc ấy cần phải làm
hàng ngày nhờ sự hỗ trợ bằng công nghệ khai thác đá hiện đại để có một
khai trường hạn chế bụi bặm, hạn chế lãng phí đá tài nguyên. Và quan
trọng là để có một nền tảng tốt ngay từ hôm nay, từng giây từng phút để
sau này không quá nhọc nhằn “hoàn trả” môi sinh. Làm điều ấy từ hôm nay,
nhất định kết quả kinh tế cũng sẽ được đền đáp xứng đáng.

Nhận xét
Đăng nhận xét