Chuyển đến nội dung chính

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 55


-Mọi người đều mù quáng đi trên con đường đời của mình! Vì đố ai thấy chính xác con đường ấy!
-Và đời ta, ta không thể đánh giá đúng được mà phải để đời sau đánh giá!
-Công và tội là hai giá trị tùy thuộc vào nhận thức nên rất dễ chuyển hóa thành nhau. Tuy nhiên chân lý tuyệt đối chỉ có một!

-----------------------------------------------------
 (ĐC sưu tầm trên NET)

Nguyễn Hiến Lê

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Hiến Lê
Sinh 8 tháng 1, 1912
Quảng Oai, Sơn Tây
Mất 22 tháng 12, 1984 (72 tuổi)
Thành phố Hồ Chí Minh
Công việc Dịch giả, nhà nghiên cứu
Nguyễn Hiến Lê (19121984) là một nhà văn, dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế,...

Cuộc đời

Trong hồi ký của mình, Nguyễn Hiến Lê viết:
"...Tôi sinh ngày 20 tháng 11 ta, giờ Dậu, năm Tân Hợi (nhằm ngày 8 tháng 1 năm 1912). Đổi ra bát tự để lấy lá số Tử Bình hay Hà Lạc thì tôi sinh năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quý Mùi, giờ Tân Dậu" .
Nguyễn Hiến Lê quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội). Xuất thân từ một gia đình nhà Nho, ông học tại Hà Nội, trước ở trường Yên Phụ, sau lên trường Bưởi.
Năm 1934, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội rồi vào làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt đầu quãng đời nửa thế kỷ gắn bó với Nam bộ, gắn bó với Hòn ngọc Viễn Đông.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long Xuyên. Năm 1952 chuyển lên Sài Gòn mở nhà xuất bản và biên dịch sách, sáng tác, viết báo.
Những năm trước 1975 và cả trong thời gian sau này, Nguyễn Hiến Lê luôn là một cây bút có tiếng, viết miệt mài và là một nhân cách lớn.
Trong đời cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách, về nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân, du kí, dịch tiểu thuyết, học làm người... Tính ra, số bộ sách của ông được xuất bản gần gấp 1,5 lần số tuổi của ông và tính từ năm ông bắt đầu có sách in (đầu thập niên 1950), trung bình mỗi năm ông hoàn thành ba bộ sách với 800 trang bản thảo có giá trị gửi tới người đọc.
Trong một số tác phẩm của mình, Nguyễn Hiến Lê đề bút danh Lộc Đình. Ông kể: "gần ngõ Phất Lộc có một cái đình không biết thờ vị thần nào mà kiến trúc rất đơn sơ. Hai cánh cửa gỗ luôn đóng kín, trên mái cổng tam quan có đắp một bầu rượu khá lớn nằm giữa hai con rồng uốn khúc châu đầu vào. Thuở bé, tôi được theo bà ngoại vào đình mấy lần, tôi thấy bên trong là một khoảng sân rộng vắng ngắt. Tuy vậy, mà quang cảnh lạnh lẽo trầm mặc thâm u của ngôi đình bỗng nhiên len sâu trong tâm tư tôi những khi ngồi học trong lớp, hoặc những khi tôi đến chơi nơi nào đông vui là tôi lại chạnh nghĩ đến ngôi đình, nhớ đến bà ngoại tôi. Nhất là sau ngày cha tôi và bà ngoại tôi vĩnh viễn ra đi trong cái ngõ hẹp tối tăm ấy...""Bút danh Lộc Đình tôi dùng ký dưới một bài văn ngắn từ hồi trẻ... Lộc là ngõ Phất Lộc, còn Đình là cái đình ấy."
Năm 1980 ông về lại Long Xuyên. Cùng năm ông bắt đầu viết Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, đến tháng 9 năm 1980 thì hoàn thành. Đồng thời ông tách những đoạn nói về văn nghiệp ra riêng, sửa chữa, bổ sung và biên tập lại thành cuốn sách Đời viết văn của tôi. Tác phẩm này được sửa chữa xong vào năm 1981, sau đó sửa chữa thêm và hoàn chỉnh vào năm 1983.
Ông lâm bệnh và mất lúc 8 giờ 50 phút  ngày 22 tháng 12 năm 1984 tại Bệnh viện An Bình, Chợ Lớn,  Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 73 tuổi. Linh cữu của ông được hỏa thiêu vào ngày 24 tháng 12 năm 1984 tại đài thiêu Thủ Đức.
Việc hỏa táng và làm tang lễ, ma chay đơn giản là ý nguyện của Nguyễn Hiến Lê lúc sinh thời . Trong một bức thư gửi nhà thơ Bàng Bá Lân đề ngày 18 tháng 7 năm 1981 ông từng viết:
Sau khi hỏa thiêu, di cốt của ông được đem về chôn cất trong khuôn viên nhà bà Nguyễn Thị Liệp (người vợ thứ hai của ông) ở thành phố Long Xuyên. Năm Kỷ Mão (1999), bà Liệp tạ thế và được an táng trong khuôn viên chùa Phước Ân ở Rạch Cai Bường (thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp), thì tro cốt của ông cũng được đặt bên trên phần mộ của bà. 

Một vài "tự bạch" về nhân sinh quan của ông

  • Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời, tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT - "Lời mở đầu" của tác phẩm "Đời viết văn của tôi".
Trong hồi ký của mình Nguyễn Hiến Lê cũng đã viết lại nhân sinh quan như sau

  1. Đời sống tự nó vô ý nghĩa, trừ ý nghĩa truyền chủng, nhưng mình phải tạo cho nó một ý nghĩa. Từ hồi ăn lông ở lỗ đến nay, nhân loại đã tiến về nhiều phương diện. Chúng ta được hưởng công lao, di sản của biết bao thế hệ thì phải duy trì di sản đó và cải thiện nó tùy khả năng mỗi người.
  2. Chúng ta làm điều phải vì tin nó là điều phải chứ không phải vì ý muốn của Thượng đế hay một vị thần linh nào, cũng không phải vì mong chết rồi được lên Niết bàn hay Thiên đàng.
  3. Quan niệm thiện ác thay đổi tùy nơi, tùy thời. Cái gì ích lợi cho một xã hội vào một thời nào đó thì được xã hội đó cho là thiện, cũng cái đó qua thời khác không còn ích lợi nữa mà hóa ra có hại thì bị coi là ác. Ví dụ đạo tòng phu, tòng tử của phụ nữ có lợi cho gia đình, xã hội thời nông nghiệp; tới thời kỹ nghệ không còn lợi cho gia đình, xã hội nên mất giá trị. Khi sản xuất được ít, đức tiết kiệm được đề cao; ngày nay ở Âu Mỹ, sản xuất vật dụng thừa thãi quá, nên sự phung phí gần thành một bổn phận đối với xã hội. Tuy nhiên vẫn có một số giá trị vĩnh cửu, từ hồi loài người bắt đầu văn minh, dân tộc nào cũng trọng, như đức nhân, khoan hồng, công bằng, tự do, tự chủ,...
  4. Đạo nào cũng phải hợp tình, hợp lý (bất viễn nhân) thì mới gọi là đạo được. Tôi không tin rằng hết thảy loài người chỉ thấy đời toàn là khổ thôi; cũng không tin rằng hết thảy loài người thích sống tập thể, không có của riêng.
  5. Đạo Khổng thực tế nhất, hợp tình hợp lý nhất, đầy đủ nhất, xét cả về việc tu thân, trị gia, trị quốc. Vậy mà tới nay lý tưởng của ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về tu thân, ba đức nhân, trí, dũng, luyện được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực của con người.
  6. Nên trọng dư luận nhưng cũng không nên nhắm mắt theo dư luận. Biết đắc nhân tâm, nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất bình của mình mà không sợ thất nhân tâm.
  7. Mỗi người đã phải đóng một vai trò trong xã hội thì tôi lựa vai trò thư sinh. Sống trong một gia đình êm ấm giữa sách và hoa, được lòng quý mến, tin cậy của một số bạn và độc giả, tôi cho là sướng hơn làm một chính khách mà được hàng vạn người hoan hô, mà còn có phần giúp ích cho xã hội được nhiều hơn bạn chính khách nữa. Nhưng làm nhà văn thì phải độc lập, không nhận một chức tước gì của chính quyền.
  8. Ghi được một vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn, tả được một nỗi khổ của con người khiến cho đời sau cảm động, bấy nhiêu cũng đủ mang danh nghệ sĩ rồi.
  9. Văn thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư tưởng thì mới hay. Ở Trung Hoa, thơ Lý Bạch, văn Tô Đông Pha hay nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn Du tự nhiên, bình dị mà bài nào cũng có giọng buồn man mác.
  10. Tôi khuyên con cháu đừng làm chính trị, nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân dân.
  11. Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập, cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ đừng gây rối thôi; tuyệt nhiên không được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của một người.
  12. Một xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không phải là nghề tự do thì không gọi là xã hội tự do được.
  13. Khi nghèo thì phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được sự độc lập và tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh và lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như vậy hay không.
  14. Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý hoặc được nhiều người ngưỡng mộ thì sẽ mang họa vào thân.
  15. Hôn nhân bao giờ cũng là một sự may rủi. Dù sáng suốt và chịu tốn công thì cũng không chắc gì kiếm được người hợp ý mình; phải chung sống năm ba năm mới rõ được tính tình của nhau. Từ xưa tới nay tôi thấy cuộc hôn nhân của ông bà Curie là đẹp nhất, thành công nhất cho cả cá nhân ông bà lẫn xã hội. Hiện nay ở Mỹ có phong trang kết hôn thử, tôi cho rằng chưa chắc đã có lợi cho cá nhân mà có thể gây nhiều xáo trộn cho xã hội.
  16. Có những hoa hữu sắc vô hương mà ai cũng quý như hoa hải đường, hoa đào; nhưng đàn bà nếu chỉ có sắc đẹp thôi, mà không được một nét gì thì là hạng rất tầm thường. Chơi hoa tôi thích nhất loại cây cao; có bóng mát, dễ trồng và có hương quanh năm như ngọc lan, hoàng lan. Ở đâu tôi cũng trồng hai loại đó.
  17. Rất ít khi con người rút được kinh nghiệm của người trước. Ai cũng phải tự rút kinh nghiệm của mình rồi mới khôn, vì vậy mà thường vấp té. Nhưng phải như vậy thì loài người mới tiến được.
  18. Cơ hồ không thay đổi được bản tính con người: người nóng nảy thì tới già vẫn nóng nảy, người nhu nhược thì tới già vẫn nhu nhược. Nhưng giáo dục vẫn có ích. Không nên cho trẻ sung sướng quá. Phải tập cho chúng có quy củ, kỷ luật, biết tự chủ và hiểu rằng ở đời có những việc mình không thích làm nhưng vẫn phải làm; và làm thì phải làm ngay, làm đàng hoàng, làm cho xong.
  19. Thay đổi bản tính con người như Mặc Tử, như Karl Marx muốn là chuyện không dễ một sớm một chiều. Thế giới còn những nước nhược tiểu nhiều tài nguyên thì còn bọn thực dân họ chỉ thay đổi chính sách thôi. Thực dân nào cũng vậy. Khi họ khai thác hết trên mặt đất, trong lòng đất thì họ sẽ khai thác biển, đáy biển, Họ còn sống lâu. Tuy nhiên cũng phải nhận rằng sự bóc lột trong một nước tân tiến thời nay đã giảm nhiều, thì sau này sự bóc lột các dân tộc nhược tiểu cũng sẽ giảm đi lần lần.
  20. Xã hội bao giờ cũng có người tốt và kẻ xấu. Như Kinh Dịch nói, lúc thì âm (xấu) thắng, lúc thì dương (tốt) thắng; mà việc đời sau khi giải quyết xong việc này thì lại sinh ra việc khác liền; sau quẻ Ký tế (đã xong) tiếp ngay quẻ Vị tế (chưa xong). Mình cứ làm hết sức mình thôi, còn thì để lại cho các thế hệ sau.
  21. Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút chứ đừng giàu quá. Nhưng hồi năm mươi tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng.

Tranh cãi

Tuy sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa nhưng Nguyễn hiến Lê trước 1975 rất có cảm tình với Hồ Chí Minh và cộng sản, Nguyễn Hiến Lê không giấu diếm điều này, và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không bắt ông vì mỗi cái tội thích hay không thích Cộng Sản trong đầu óc của ông ấy. Sau 30-04-1975, Nguyễn Hiến Lê viết:
Dù tôi khó chịu với cái quan điểm thiên cộng của ông trước kia, nhưng tôi vẩn phục ông ở cái chổ dám nói thật, viết thẳng " phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất "
Một số bài viết cho rằng trong một số tác phẩm của mình Nguyễn Hiến Lê đã không trích dẫn đầy đủ nguồn gốc của những tài liệu tham khảo và cố tình làm sai lệch góc nhìn của độc giả về sự kiện.
  • Trong bộ Lịch Sử Thế Giới, Nguyễn Hiến Lê đã viết không đầy đủ và chính xác về cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha. Nguyễn Hiến Lê đã gọi hai phe Cộng Hòa và Quốc Gia là phe Phát xít và phe Cộng sản, đồng thời ông cũng gọi gọi tướng Franco là nhà độc tài mà không có dẫn chứng cụ thể nào. [9]. Đồng thời ông cũng không trích dẫn đầy đủ về các tài liệu liên quan đến Giáo Hoàng thời Trung Cổ.
  • Trong quyển Lịch sử văn minh Trung Hoa, ông cũng đã thể hiện sự cẩu thả trong việc dịch các bài thơ [10].

Tác phẩm


Phần trên ngôi tháp nhỏ này là nơi lưu giữ di cốt của học giả Nguyễn Hiến Lê.

Văn học - Tiểu thuyết

  • Hương sắc trong vườn văn (2 quyển) - 1962
  • Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển) - 1955
  • Cổ văn Trung Quốc - 1966
  • Chiến Quốc sách (viết chung với Giản Chi) - 1968
  • Sử Ký Tư Mã Thiên (viết chung với Giản Chi) - 1970
  • Tô Đông Pha - 1970
  • Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (dịch) - 1970
  • Kiếp người (dịch Somerset Maugham) - 1962
  • Mưa (tuyển dịch nhiều tác giả) - 1969
  • Chiến tranh và hoà bình (dịch Lev Nikolayevich Tolstoy) - 1968
  • Khóc lên đi ôi quê hương yêu dấu (dịch Alan Paton) 1969
  • Quê hương tan rã (dịch C. Acheba) - 1970
  • Cầu sông Drina (dịch I. Andritch) - 1972
  • Bí mật dầu lửa (dịch Gaillard) - 1968
  • Con đường thiên lý - (Xuất bản 1990)
  • Mùa hè vắng bóng chim (dịch Hansuyn)
  • Những quần đảo thần tiên (dịch Somerset Maugham) - (Xuất bản 2002)
  • Kinh Dịch

Triết học

  • Nho giáo một triết lý chính trị - 1958
  • Đại cương triết học Trung Quốc (viết chung với Giản Chi) - 1965
  • Nhà giáo họ Khổng - 1972
  • Liệt tử và Dương tử - 1972
  • Một lương tâm nổi loạn - 1970
  • Thế giới ngày mai và tương lai nhân loại - 1971
  • Mạnh Tử - 1975
  • Trang Tử - (Xuất bản 1994)
  • Hàn Phi Tử - (Xuất bản 1994)
  • Tuân Tử - (Xuất bản 1994)
  • Mặc học - (Xuất bản 1995)
  • Lão Tử - (Xuất bản 1994)
  • Luận ngữ - (Xuất bản 1995)
  • Khổng Tử - (Xuất bản 1992)
  • Kinh Dịch, đạo của người quân tử - (Xuất bản 1990)

Lịch sử

  • Lịch sử thế giới (viết với Thiên Giang) - 1955
  • Đông Kinh Nghĩa Thục - 1956
  • Bài học Israel - 1968
  • Bán đảo Ả Rập - 1969
  • Lịch sử văn minh Ấn Độ (dịch Will Durant) - 1971
  • Bài học lịch sử (dịch Will Durant) - 1972
  • Nguồn gốc văn minh (dịch Will Durant) - 1974
  • Văn minh Ả Rập (dịch Will Durant) - 1975
  • Lịch sử văn minh Trung Quốc (dịch Will Durant) - (Xuất bản 1997)
  • Sử Trung Quốc (3 tập) 1982

Giáo dục – giáo khoa

  • Thế hệ ngày mai - 1953
  • Thời mới dạy con theo lối mới - 1958
  • Tìm hiểu con chúng ta - 1966
  • Săn sóc sự học của con em - 1954
  • Tự học để thành công - 1954
  • 33 câu chuyện với các bà mẹ - 1971
  • Thế giới bí mật của trẻ em - 1972
  • Lời khuyên thanh niên - 1967
  • Kim chỉ nam của học sinh - 1951
  • Bí quyết thi đậu - 1956
  • Để hiểu văn phạm - 1952
  • Luyện văn I (1953), II & III (1957)
  • Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (viết với T. V. Chình) - 1963
  • Tôi tập viết tiếng Việt - 1990
  • Muốn giỏi toán hình học phẳng - 1956
  • Muốn giỏi toán hình học không gian - 1959
  • Muốn giỏi toán đại số - 1958

Chính trị - Kinh tế

  • Một niềm tin - 1965
  • Xung đột trong đời sống quốc tế - 1962

Gương danh nhân

  • Gương danh nhân - 1959
  • Gương hi sinh - 1962
  • Gương kiên nhẫn - 1964
  • Gương chiến đấu - 1966
  • Ý chí sắt đá - 1971
  • 40 gương thành công - 1968
  • Những cuộc đời ngoại hạng - 1969
  • 15 gương phụ nữ - 1970
  • Einstein - 1971
  • Bertrand Russell - 1972
  • Đời nghệ sĩ - (Xuất bản 1993)
  • Gogol - (Xuất bản 2000)
  • Tourgueniev - (Xuất bản 2000)
  • Tchekhov - (Xuất bản 2000)

Khảo luận – tùy bút – du ký

  • Đế Thiên Đế Thích – 1968
  • Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười - 1954
  • Nghề viết văn - 1956
  • Vấn đề xây dựng văn hoá - 1967
  • Chinh phục hạnh phúc (dịch Bertrand Russell) - 1971
  • Sống đẹp - 1964
  • Thư ngỏ tuổi đôi mươi (dịch André Maurois) - 1968
  • Chấp nhận cuộc đời (dịch L. Rinser) - 1971
  • Làm con nên nhớ (viết với Đông Hồ) - 1970
  • Hoa đào năm trước - 1970
  • Con đường hoà bình - 1971
  • Cháu bà nội tội bà ngoại - 1974
  • Ý cao tình đẹp - 1972
  • Thư gởi người đàn bà không quen (dịch André Maurois) - 1970
  • 10 câu chuyện văn chương - 1975
  • Đời viết văn của tôi - (Xuất bản 1996)
  • Hồi ký Nguyễn Hiến Lê - (Xuất bản 1992)
  • Để tôi đọc lại - (Xuất bản 2001)

Tự luyện – Học làm người

  • Tương lai trong tay ta - 1962
  • Luyện lý trí - 1965
  • Rèn nghị lực - 1956
  • Sống 365 ngày một năm - 1968
  • Nghệ thuật nói trước công chúng - 1953
  • Sống 24 giờ một ngày (dịch Arnold Bennett) - 1955
  • Luyện tình cảm (dịch F. Thomas) - 1951
  • Luyện tinh thần (dịch Dorothy Carnegie) - 1957
  • Đắc nhân tâm (dịch Dale Carnegie) - 1951
  • Quẳng gánh lo đi và vui sống (dịch Dale Carnegie) - 1955
  • Giúp chồng thành công (dịch Dorothy Carnegie) - 1956
  • Bảy bước đến thành công (dịch G. Byron) - 1952
  • Cách xử thế của người nay (dịch Ingram) - 1965
  • Xây dựng hạnh phúc (dịch Aldous Huxley) - 1966
  • Sống đời sống mới (dịch Powers) - 1965
  • Thẳng tiến trên đường đời (dịch Lurton) - 1967
  • Trút nỗi sợ đi (dịch Coleman) - 1969
  • Con đường lập thân (dịch Ennever) - 1969
  • Sống theo sở thích (dịch Steinckrohn) - 1971
  • Giữ tình yêu của chồng (dịch Kaufmann) - 1971
  • Tổ chức gia đình - 1953

Các bài đăng trên tạp chí

242 bài trên tạp chí Bách Khoa, 50 bài trên các tạp chí Mai, Tin Văn, Văn, Giáo Dục Phổ Thông, Giữ Thơm Quê Mẹ. Ngoài ra ông còn viết lời giới thiệu cho 23 quyển sách.

ĐÔI DÒNG VỀ HỌC GIẢ NGUYỄN HIẾN LÊ
(1912 – 1984)
                                                           
Trương Vĩnh Khánh
Hội VHNT Đồng Tháp
Lời thưa: Cách đây ít lâu, trên trang trannhuong.com co bài của ban Trần Trung Thu đi tìm mộ cụ Nguyễn Hiến Lê ở Lấp Vò- Đồng Tháp quê tôi. Bài viết có ý than trách nhiều người, nhất là các nhà quản lý văn hóa giờ không biết Nguyễn Hiến Lê là ai!? Thật ra, bạn đã hỏi thăm chưa đúng chỗ chứ người An Giang & Đồng Tháp chúng tôi không mấy ai lại vô tình không biết và chúng tôi vô cùng tôn kính nhà văn, học giả kiệt xuất ấy. Dưới đây xin có đôi dòng về cụ:

    
      Vũ Ngọc Tiến bên mộ Nguyễn Hiến Lê
                      
Nguyễn Hiến Lê hiệu là Lộc Đình, sinh ngày 20 tháng 11 âm lịch năm Tân Hợi nhằm ngày 8 tháng 01 năm 1912 (Giấy khai sinh ghi ngày 8/4/1912). Nguyên quán làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội ). Ông là một học giả, nhà nghiên cứu văn hoá kiệt xuất, xuất thân trong một gia đình nho học, thân phụ là Nguyễn Văn Bí, hiệu Đặc Như.
            Thuở nhỏ ông học ở trường tiểu học Yên Phụ - trường Bưởi (Trung học), Trường Cao Đẳng Công Chánh (Hà Nội ) – Năm 1934 tốt nghiệp được bổ làm việc tại các tỉnh miền tây Nam bộ.
Sau cách mạng tháng 8/1945, ông từ bỏ đời sống công chức về Long Xuyên dạy học trường Trung học Thoại Ngọc Hầu (collège de Long Xuyen).
Năm 1952, ông lên Sài Gòn mở nhà xuất bản biên dịch sách, sáng tác và viết báo.
Tính đến năm 1975, ông đã cho xuất bản hơn 100 tác phẩm về nhiều lĩnh vực như: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân du ký, dịch tiểu thuyết, sách học làm người…
Từ năm 1975 cho đến lúc qua đời, ông còn trước tác được hơn 20 tác phẩm. Trong số đó có những cuốn như: “Lịch sử thế giới, Đông kinh nghĩa thục, Văn minh Arập, Sử Trung Quốc, Lịch sử văn minh Trung Quốc, nguồn gốc văn minh, Khảo luận về Ngữ pháp Việt Nam, gương danh nhân và kinh dịch”(in theo bản thảo chép tay của Nguyễn Hiến Lê  mới xuất bản năm 1992 của nhà xuất bản Văn học Hà Nội, được đánh giá là một công trình khảo cứu có giá trị khoa học đặc sắc về văn hóa phương Đông.
Vào năm 1967, chính quyền Sài Gòn đã trao tặng ông cùng Giản Chi: Giải nhất ngành biên khảo và giải tuyên dương sự nghiệp Văn học – Nghệ thuật (1973). Đi kèm với danh hiệu cao quí đương thời là tấm ngân phiếu một triệu đồng (tương đương 25 cây vàng lúc đó). Học giả Nguyễn Hiến Lê đã công khai từ chối nhận giải với lý do “nên dùng tiền ấy để giúp nạn nhân chiến tranh” và bản thân tác giả cũng không dự giải.
Năm 1980, ông về ẩn cư ở Long Xuyên. Ông lâm bênh và mất lúc 8 giờ 50 phút ngày 22 tháng 12 năm 1984 tại bênh viện An Bình – chợ Lớn TP Hồ Chí Minh- hưởng thọ 72 tuổi. Hoả thiêu vào ngày 24 tháng 12 năm 1984 tại đài thiêu Thủ Đức.
Di cốt Nguyễn Hiến Lê được đem về chôn cất trong khuôn viên nhà bà Nguyễn Thị Liệp (vợ thứ 2 quê ở Long Xuyên, còn bà cả tên Tuệ người miền Bắc).
Năm 1999 Bà Liệp tạ thế và được an táng trong khuôn viên chùa Phước Ân, ở rạch Cai Bường (thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp ). Di cốt của ông cũng được đem đặt trên phần mộ của bà.
Hiện người con trai của ông là Nguyễn Nhật Đức và bà Tuệ (vợ cả) đang định cư tại Pháp.
Nhân tiết Thanh Minh 24/3 âm lịch – Quý Tỵ, nhà văn Vũ Ngọc Tiến từ Hà Nội vào Lấp Vò- Đồng Tháp, ngỏ ý muốn đi viếng mộ Nguyễn Hiến Lê- người mà từ hồi chiến tranh, anh và bạn bè cùng trang lứa ngoài Bắc tôn kính như bậc thầy văn chương và triết học phương Đông. Nhóm văn bút Lấp Vò chúng tôi gồm Trương Vĩnh Khánh, Từ Quang, Trịnh Kim Thuấn xúc động trước tình cảm chân thành ấy đã rủ nhau mua đồ lễ, đưa nhà văn Vũ Ngọc Tiến đến chùa Phước Ân viếng mộ học giả, nhà văn khả kính Nguyễn Hiến Lê. Tại đây, Trương Vĩnh Khánh đã ứng tác bài thơ trước mộ:
Về miền Tây viếng thăm thầy
Trăm năm một cõi - đám mây vô thường
Cả đời nặng nợ văn chương
Chồng Nam, vợ Bắc đoạn trường lắm thay!
Quê hương thương nhớ lắt lay
Trăm nghìn trang sách -  trắng tay phong trần
Nghiêng nghiêng bóng nắng chiều xuân
Mờ mờ sương khói, trầm luân kiếp người.
Ngẩn ngơ vườn tháp lệ rơi
Tấm bia, ngọn cỏ nhàu phơi úa màu
Văn chương để lại ngàn sau
Xác thân lưu lạc thấm đau nỗi đời.
Tài hoa nặng nợ - số trời
Xót thầy nằm đó trông vời cố hương!...
                                         Thanh Minh 24/3 âm lịch – Quý Tỵ
                                          Vĩnh Thạnh- Lấp Vò- Đồng Tháp
                                                         TVK


Bàn thờ cụ Nguyễn Hiến Lê trong chùa Phước Ân


 Cổng chùa Phước Ân nơi ông bà Nguyễn Hiến Lê an nghỉ

Vũ Ngọc Tiến gửi cho viet-studies ngày 5-6-13

Tưởng nhớ Nguyễn Hiến Lê

Nếu có một cuốn Guinnetss ở Việt Nam, thì Nguyễn HIến Lê (1912-1984) đáng được ghi ít nhất ở hai mục 1) Nhà khảo cứu có sách in ra nhiều nhất ở Sài Gòn trước 1975. 2) Nhà viết sách có tiếng được in lại nhiều nhất từ sau 1975 đến nay, in và đón nhận một cách trân trọng, đàng hoàng, vì người ta biết rằng ở đó có những giá trị nhân bản không bị thời gian làm phai nhạt.

Nhà bách khoa. Sách viết cho “bách tính”
Theo tài liệu ghi ở cuốn Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của NXB Khoa học xã hội (1991) thì Nguyễn Hiến Lê sinh tại Phương Khê - Quảng Oai – Sơn Tây ngày 8-1-1912. Nhưng từ 1934, ông đã sống và làm việc nhiều ở các tỉnh Nam Bộ và có sách in ra đều đều ở Sài Gòn từ 1954. Nhìn qua danh mục sách viết của Nguyễn Hiến Lê, người ta thấy ông là một nhà nghiên cứu bách khoa. Ông thích lịch sử văn học, thạo văn học cổ Trung Quốc, nhưng cũng để tâm nhiều tới các khoa học nhân văn hiện đại, như tâm lý học (đặc biệt là tâm lý học thiếu nhi), lại sẵn sàng viết sách về các vấn đề thời sự trước mắt, miễn đó là vấn đề đáng được quan tâm. Hình như có lần ông đã nói đùa với bạn bè “không biết cái gì thì nhận viết sách về cái đó, để mà có dịp... học”. Hình ảnh của ông hiện lên qua các trang sách là hình ảnh một người thông minh, mau mắn, ham học, dùng cái lương tri, cái cận nhân tình của mình để hiểu thiên hạ. Rôi ông viết sách để chia sẻ hiểu biết của mình cho đông đảo bạn đọc, hào hứng mà viết, tận tình mà viết, với nghĩa rằng mình đã mất công rồi, phải viết lại sao cho người khác đỡ mất công mà cũng hiểu được như mình. Ngay từ trước 1975 ở Sài Gòn, một nhà văn có tiếng là mê Nguyễn Tuân, người rất kỹ càng tinh tế trong nhận thức và thẩm định, đã phải có lời ngả mũ bái phục Nguyễn Hiến Lê: “Từ hồi nào tới giờ, ông Nguyễn vẫn có tài của một nhà giáo, là trình bày ý kiến thật rành mạch, sáng sủa, khiến những vấn đề rắc rối tối tăm nhất cũng hoá ra giản dị, minh bạch”. “Trong lối viết gẫy gọn, thẳng thắn của ông Nguyễn có cái đột ngột, gần như thân mật”. Thật là một phong cách lý tưởng để viết sách cho đông đảo mọi người, một tiền đề tốt để đến với “bách tính” (trăm họ), điều mà người làm văn hoá chân chính nào cũng ao ước.

Tầm vóc học giả và cốt cách thi nhân
Do sự phát triển của mỹ văn (belles lettres), khái niệm nhà văn hiện đại ở ta thường được giải thích như là người thực hành trên ngôn ngữ. Nghĩa học giả bị đẩy hoàn toàn sang nghĩa khoa học.
Trong khi, từ 1930 về trước, hai khái niệm này được coi là cùng nghĩa; nhà văn trước tiên là người có tầm học rộng, uyên bác; đồng thời là một nghệ sĩ trong phong thái, bao gồm cả cách sống lẫn cách viết.
Phải nói rằng Nguyễn Hiến Lê là một thứ mẫu mực hiếm hoi còn sót lại của cách hiểu nhà văn theo nghĩa đó. Tầm rộng trong học vấn của ông không ai có thể nghi ngờ. Song sở dĩ văn ông vẫn có được sự dễ dàng thanh thoát, mà lại có sức lôi cuốn, ấy là vì luôn luôn ông cho người ta cái cảm tưởng như được tiếp xúc với một nghệ sĩ. Nghệ sĩ trong chữ nghĩa câu cú. Và nhất là nghệ sĩ trong một quan niệm sống, toát ra qua các trang viết, ở đó, có cái thiết thực, chặt chẽ, lại có cái siêu thoát; có niềm ham hố không cùng muốn được biết thấu đáo mọi chuyện, song lại có lời cổ vũ ngấm ngầm cho một cách sống ý nhị, biết đùa, biết nghe. Ta nhớ Nguyễn Hiến Lê tác giả của những cuốn sách dạy lập nghiệp, dạy “tổ chức công việc theo khoa học” - lại cũng là người sớm dịch Một quan niệm về sống đẹp của Lâm Ngữ Đường ra tiếng Việt. Ông đã lấy chính cách sống của ông để hiểu họ Lâm và tìm được cách truyền đạt cái khôn ngoan tinh quái, đồng thời là cái ham chơi, ham hưởng thụ rất Tàu... ở ngòi bút họ Lâm tới bạn đọc.
Con người của sự hoà nhập
Xem xét lại các tài liệu Nguyễn Hiến Lê có trong tay mỗi khi viết sách, người ta biết ông sử dụng thành thạo cả tiếng Anh, tiếng Pháp, lẫn chữ Hán. Vả chăng, vấn đề không phải chỉ ở chỗ giỏi tiếng. Cách tư duy Anh-Mỹ, với tất cả cái ngắn gọn, khúc triết và tinh thần thực dụng của nó, như thấm vào ông, toát ra ở việc sử dụng tiếng Việt, lối kể chuyện, cách bố cục các cuốn sách, cho tới mấy lời tâm sự ông viết sau khi soạn sách. Đối với nhiều người, điều này giống như một gợi ý, một sự cổ vũ: sẽ đến lúc, cái nhanh, cái hoạt của nếp tư duy hiện đại ấy đến với chúng ta, nếu như chúng ta biết học. Lạ một nỗi, lối tư duy ấy được Nguyễn Hiến Lê trình bày như là con đường trở về với chất Đông phương cổ điển. Cách đây nửa thế kỷ, Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại từng kể lại một nhận xét sâu sắc của ứng Hoè Nguyễn Văn Tố: “Điều thú vị trong Tứ thư, không kể đến lý thuyết, chính là những cái đột ngột bất thường, không theo luật lệ câu văn”. Cái thân tình của ngòi bút Nguyễn Hiến Lê mà nhiều người đã nhắc tới, là cái thân tình cổ điển ấy. Phải chăng, ngay từ trong những năm đất nước còn trong khói lửa chiến tranh, Nguyễn Hiến Lê đã dự đoán rằng sẽ đến lúc nhu cầu hoà nhập với thế giới là nhu cầu lớn của văn hoá ta, và chỉ có học, học tất cả, cả cổ cả kim cả đông lẫn tây, chúng ta mới có cơ may tìm tới bản lĩnh dân tộc chân chính?
 (http://vuongdangbi.blogspot.com/2008/10/tng-nh-nguyn-hin-l.html)

Trần Khuyết Nghi. Người trí thức chân chính Nguyễn Hiến Lê

Người post bài:  Huynh Cong Tin

     Nhà văn Nguyễn Hiến Lê, trong con mắt của những người đồng thời và của lớp hậu sinh thường được nhìn nhận như là một học giả có sự nghiệp trứ tác đáng nể về đủ mọi phương diện khảo cứu, biên soạn, dịch thuật với khoảng 120 tác phẩm để đời mà hầu như tác phẩm nào cũng có một giá trị riêng biệt đáng được nhắc nhở.

So với các lớp tiền phong, không phân biệt trong hay ngoài nước, ông có nhiều mặt vượt trội cả về số lượng lẫn tính đa dạng. Mà về văn phong giản dị, phương pháp làm việc khoa học, với cách trình bày bất cứ vấn đề nào cũng mạch lạc, rõ ràng và dễ hiểu dễ đi vào lòng người thì ai cũng phải chịu. Ngoài ra người ta còn trọng ông hơn nữa ở phần nhân cách, lối sống, tấm gương làm việc kiên trì nhẫn nại, cùng nhiều đức tính đáng quý khác, chứ không chỉ ở những kết quả của sự nghiệp văn chương đồ sộ mà ông đã cống hiến được cho đời. Tôi có gặp ông một lần nhưng ngắn ngủi và không có kỷ niệm gì đáng để ghi lại. Chỉ sau khi ông qua đời chừng vài năm, gặp một số người khác hiểu biết nhiều về ông hơn, tôi thấy dường như ai cũng nhắc đến công đức ông với lòng kính trọng một cách gần như tuyệt đối. Ngay như cụ Vương Hồng Sển khí phách Nam bộ ngang tàng vậy, lớn hơn ông những 8 tuổi mà cũng thừa nhận trong đời cụ chỉ quỳ lạy trước linh cữu có hai người, một là cha cụ, người thứ hai là "anh Lê"..., như lời cụ tự kể trong một bài báo viết ở đâu đó.
     Nhìn chung, ông Nguyễn Hiến Lê có công rất lớn trong việc truyền bá những tinh hoa tư tưởng đông tây, đặc biệt là những tri thức có tính cách thực hành và lối sống văn hóa mới cho những người cùng thời, nhất là cho thế hệ trẻ. Nhiều người nhận rằng nhờ có ông chỉ vẽ mà họ đỡ lúng túng rất nhiều khi bước chân vào đời, nắm vững phương pháp làm việc, học tập và xây dựng được một quan niệm tương đối ổn định về cuộc sống.
     Nhận xét của người đời về nhà văn Nguyễn Hiến Lê như vậy hẳn phải khách quan, vì hầu như không thấy có ý kiến phản biện, của cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Nếu cố tìm ở ông một chỗ gì thiếu thiếu trong sự nghiệp văn chương, thì có lẽ là chỗ ông chỉ giỏi bình luận, nhận xét tinh tế về thơ, văn thôi chứ không có sở trường sáng tác. Quyển tiểu thuyết duy nhất Con đường thiên lý   (viết xong năm 1972, xuất bản khoảng năm 1993) của ông không thành công lắm và cũng ít được nhắc nhở; ông có khả năng giới thiệu kiến thức, tư tưởng một cách siêu đẳng trên cơ sở tổng hợp đông tây kim cổ nhưng vẫn chưa thể gọi được là một nhà tư tưởng độc lập có lý thuyết riêng. Điều nầy nếu cố vạch ra cho có vẻ khách quan hơn thì cũng không làm hạn chế tí nào phần đóng góp mà ông đã làm được, vì ông đâu phải nhà thơ hay nhà sáng tác tiểu thuyết; còn nói về phương diện lập thuyết, chẳng những ông không có cao vọng mà trong suốt bốn ngàn năm văn hiến của ta cũng đâu dễ kể ra được một người.
     Tuy nhiên, dường như người ta thường chỉ chú ý đến Nguyễn Hiến Lê như một học giả, một nhân vật có nhiều thành tích xuất sắc về phương diện học thuật, một con người của sách vở, mà ít ai nhấn mạnh đầy đủ đến khía cạnh ông là một trí thức đầy trách nhiệm thể hiện ở thái độ yêu nước thương dân chân thành, lúc nào cũng bận bịu việc đời, trăn trở với những nỗi thăng trầm của dân tộc cũng như về những vấn nạn của thế giới mà số phận của dân tộc không thể tách rời. Ngay như một người tri kỷ của ông là Châu Hải Kỳ trong quyển sách viết riêng về ông (quyển Nguyễn Hiến Lê, cuộc đời và tác phẩm, NXB Văn Học, 1993) cũng chỉ tập trung giới thiệu, phân tích phần sự nghiệp văn chương là chính.
     Tất nhiên, chỉ với phần đóng góp lớn cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ không thôi, như mọi người nhận thấy, Nguyễn Hiến Lê cũng đã thể hiện vai trò, trách nhiệm của người trí thức trong xã hội. Điều rõ nét hơn là nhịp đập trái tim của ông luôn gắn liền với thời cuộc và những nỗi âu lo của cuộc sống, thể hiện bàng bạc kiên nhẫn và xuyên suốt trên từng trang viết của cả cuộc đời mình. Ông tuy có lặn hụp trong sách vở nhưng không đắm đuối để cho chữ nghĩa làm "tha hóa" đến quên mất những trách nhiệm hiện thực đối với cuộc sống đầy gian truân bấp bênh trục trặc của đồng bào đồng loại. Bởi vậy hình như ông không thích nói suông hoặc tranh luận những điều lặt vặt để phô trương vẻ hơn kém trong trận bút trường văn, mà chỉ viết những gì cảm thấy cần thiết cho sự tiến bộ xã hội. Văn ông nói chung bình dị ít gọt giũa nhưng bút lực thường trở nên mạnh mẽ hoạt bát, giọng thiết tha hùng hồn mỗi khi đề cập đến tổ tiên ông bà, đến một phong trào yêu nước, thậm chí khi biểu lộ xúc cảm bình thường trước một cảnh đẹp bình dị của quê hương, đất nước, một địa danh, một con người, một kỷ niệm...Quyển Đông Kinh nghĩa thục (1956) của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết, có thể coi là một tập ký sự lịch sử có tác dụng giáo dục tiêu biểu, nhờ được viết với một tình cảm tôn kính cổ nhân và yêu nước nồng nàn mà truyền được nhiệt huyết của thế hệ sĩ phu lớp trước cho thế hệ trẻ. Loại sách biên khảo triết lý của ông cũng thường có chủ ý nhất định, hướng vào việc giới thiệu những đề tài có giá trị ứng dụng vào thực tiễn xã hội, như cuốn Nho giáo một triết lý chính trị (1958) chẳng hạn, mà ta có thể xem như một bản lược đồ về phương pháp, kinh nghiệm trị dân theo quan niệm Khổng học. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, những bản dịch tiểu thuyết của ông đều có giá trị lớn về mặt giáo dục, đề cao tình yêu quê hương và chủ nghĩa nhân bản (có thể kể: Chiến tranh và hòa bình của Léon Tolstoi, Kiếp người của Somerset Maugham, Khóc lên đi ôi quê hương yêu dấu của Alan Paton, Quê hương tan ra của Chinua Achibe, Chiếc cầu trên sông Drina của Ivo Andritch, Mùa hè vắng bóng chim của Han Suyin...).
     Dù chưa thiết lập kỹ càng một định nghĩa vốn rất không dễ về người trí thức, chúng ta cũng khó hình dung một người trí thức mà lại chỉ biết có mình trong chuyện thăng tiến tạo lập sự nghiệp để chiếm lĩnh những vị trí đặc quyền trong xã hội về tiền tài danh vọng mà không quan thiết gì đến những khó khăn trục trặc của đồng loại, trước nhất là của cộng đồng những người gần gũi mình nhất, đã nuôi dưỡng đùm bọc mình cho tới khi khôn lớn. Xét riêng về phương diện thăng tiến trong nghề nghiệp thì nhà văn Nguyễn Hiến Lê cũng là một người thành đạt, tuy nhiên ông không chuộng hư danh phù phiếm hoặc an nhiên hưởng thụ thành quả, đánh mất mình, trái lại lúc nào cũng sống giản dị lo toan, tìm cách gióng lên tiếng nói trung thực tự đáy lòng để mong vớt vát được phần nào cho tình trạng xã hội đã khá suy bại đương thời. Có lẽ vì vậy nên mặc dù rất không ưa chính trị và không tham chính, ông vẫn phải nói hoài viết hoài dần dần lên đến trên 300 bài báo có tính thời sự liên quan đủ các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội...; tựu trung mặt nào ông viết trong loại nầy cũng không khỏi có dính dáng ít nhiều đến chính trị, bởi một lẽ dễ hiểu là mọi mặt trì trệ trong đời sống xã hội nếu có ở mọi thời đều phải liên quan đến trách nhiệm của kẻ cầm quyền. Nhưng điểm đặc biệt là tất cả những bài ông viết đều không mang dấu ấn của động cơ cá nhân hay có tính đại diện cho bất kỳ phe phái nào, cũng không chỉ trích cá nhân nào trong tầng lớp cầm quyền đương thời, mà chỉ dựa trên lương tri và kiến thức với tâm tình độ lượng thiết tha để phân tích vấn đề một cách khách quan tinh tường nhằm góp phần xây dựng những chính sách vĩ mô dài hạn mang lại lợi ích cho quần chúng.
 
(Sách viết về học giả Nguyễn Hiễn Lê. Nguồn: sachxua.net)
     Khi viết thể loại chính luận, do không có tư tâm tư kỷ nên lời ông thường trung thực mạnh mẽ, đôi khi gay gắt, phẫn nộ, đả thẳng vào các thói tệ hại của nhà cầm quyền, nên bài viết khi đăng ra thường bị đục bỏ nhiều chữ nhiều đoạn do chế độ kiểm duyệt báo chí của hệ thống thông tin lúc bấy giờ. Mặc dù đôi khi không thể không gay gắt trong cách bày tỏ nhưng thái độ của ông căn bản vẫn luôn ôn hòa, nhũn nhặn và xây dựng một cách thấu tình đạt lý chứ không bao giờ nói càn theo kiểu chỉ trích vô điều kiện thiếu trách nhiệm để thỏa mãn tự ngã. Về điểm nầy có lần ông đã minh thị trong một bài viết:"...Tôi muốn bàn qua về thái độ chúng ta đối với chính quyền. Tôi nghĩ rằng cái thú nhất của người cầm bút là được độc lập, và cái vinh dự lớn nhất của họ là giúp được chút ít gì cho quốc dân. Muốn giữ được độc lập và giúp được quốc dân thì nên ở ngoài chính quyền, đứng ở cương vị đối lập với chính quyền. Đối lập không nhất định là chỉ trích, lại càng không có nghĩa là đả đảo. Đối lập là một cách kiểm soát, hợp tác hữu hiệu nhất và nghiêm chỉnh nhất. Ta không lệ thuộc chính quyền thì mới dám nói thẳng với chính quyền và chính quyền mới chú ý tới lời nói của ta... Chúng ta còn phải tiếp tục tranh đấu cho được tự do ngôn luận...Muốn thành công thì một mặt chúng ta phải coi chừng những kẻ muốn bịt miệng chúng ta, mặt khác phải có thái độ đứng đắn. Chính quyền có điều đáng khen thì ta khen, chứ không nịnh; chính quyền lầm lẫn thì chúng ta thẳng thắn nhận định với những lý lẽ vô tư và vững vàng, những lời nhã nhặn và minh bạch. Chúng ta vì quốc gia mà xây dựng. Tất nhiên có những lúc ta phải tỏ nỗi bất bình--chẳng phải của riêng ta mà của quốc dân--chẳng hạn với những kẻ bán nước, hút máu mủ của dân; lúc đó giọng ta có thể gay gắt nhưng lòng ta không có chút căm thù cá nhân. Chúng ta đả một thái độ, một chính sách, chứ không đả một cá nhân..." ("Bọn cầm bút chúng ta làm được những gì lúc nầy?", Mấy vấn đề xây dựng văn hóa, NXB Tao Đàn, Sài Gòn, 1967, tr.167-168).
     Ở bài viết có đoạn vừa dẫn trên, ông đặt rõ vấn đề trách nhiệm của giới nhà văn trước thời cuộc. Lúc bấy giờ là năm 1967, chiến tranh đang hồi ác liệt, xã hội miền Nam đang sa sút trầm trọng nhiều mặt, tiếng nói của người trí thức trở nên lạc lõng, khiến tâm tư ông cũng có phần chao đảo:"Người cầm bút nào lúc nầy mà chẳng có nhiều buồn tủi rằng tất cả những cái mình viết ra đều là bá láp hết, chẳng có một tác động gì cả, rằng mình gần như vô dụng, may mắn lắm là khỏi đánh đĩ với cây viết...". Theo ông trong số 5 nhu cầu, mục tiêu căn bản của người dân lúc đó (gồm: hòa bình, chủ quyền, tự do dân chủ thực sự, mức sống tối thiểu của con người, và kiến thức tối thiểu của một công dân) thì nhà văn hay người trí thức chỉ có thể đóng góp cho phần mục tiêu sau cùng (giúp nâng cao kiến thức tối thiểu của một công dân); tất cả những mục tiêu còn lại đều hư ảo đành phải chịu bó tay bất lực hết. Và ông hô hào để làm được điều đó, trước hết người cầm bút phải tìm cách san bằng cái hố ngăn cách giữa mình với đại đa số nhân dân lao động phần lớn trình độ còn thấp kém chưa thể hưởng thụ được thứ văn chương xa hoa tách rời cuộc sống thực.
     Mặc dù đã có phần nao núng, ngờ vực vai trò của người trí thức trong thời loạn, ông không nỡ ngừng bút mà vẫn tiếp tục viết để hô hào, cảnh tỉnh đồng bào về những việc cần nghĩ, cần làm, chuẩn bị cho tương lai lâu dài, và như ông thường nói, "khi hòa bình lập lại". Căn cứ trên tất cả những gì Nguyễn Hiến Lê viết, người đọc thấy ông dường như không quan trọng vấn đề ý thức hệ, nên ở vùng "quốc gia" mà ông cũng không hề có ý kiến "chống cộng"; trái lại ông thường chê trách các chính quyền độc tài, đặc biệt như thời Ngô Đình Diệm mà ông gọi là "Ngô triều"; với các nước Âu Mỹ, nhất là Mỹ, ông luôn luôn cảnh giác người dân phải thận trọng, và cho rằng chế độ thực dân trên thực tế vẫn còn tồn tại, lẩn quất đó đây dưới những hình thức mới. Với ông, chỉ có vấn đề phúc lợi của dân chúng là quan trọng trên hết, chính quyền chỉ phụ thuộc và nhất thời. Khi tự phát biểu về nhân sinh quan, phần nêu chính kiến ông nói: "Làm nhà văn thì phải độc lập, không nên nhận một chức tước gì của chính quyền". Rồi ông đi vào chi tiết hơn:"Tôi khuyên con cháu đừng làm chính trị, nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân dân...Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập; cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ đừng quấy rối thôi, tuyệt nhiên không được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của mọi người...Một xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không phải nghề tự do thì không thể gọi là một xã hội tự do được" (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Học, 1993, tr.553).
     Tính cách trí thức của nhà văn Nguyễn Hiến Lê còn thể hiện ở chỗ ông luôn luôn nhìn xa trông rộng, đặt vấn đề gì cũng dựa trên cơ sở văn hóa khoa học vững chắc thu thái được từ kiến thức kinh nghiệm của muôn phương để định ra chiến lược phát triển dài hạn. Vấn đề giáo dục ông đã đặt ra một cách khẩn thiết từ năm 1953 với quyển Thế hệ ngày mai (NXB Phạm Văn Tươi) vì thấy đây là chuyện quyết định cho vận mệnh của cả dân tộc trong tương lai. Quan điểm của ông nhờ sự nghiên cứu thấu triệt và có lẽ một phần nhờ ảnh hưởng đạo trung dung của Nho giáo nên bao giờ cũng trầm tĩnh, đúng mực chứ không nông nổi xu thời. Giai đoạn trước năm 1975, điều kiện thông tin còn hạn chế hơn bây giờ nhiều, thế mà ông đã thu thập tài liệu rất đầy đủ để giới thiệu ra cho đồng bào biết rõ những biến chuyển quan trọng trong tình hình thế giới.
     Theo chỗ tôi biết, tất cả những vấn nạn của thế giới mà bây giờ chúng ta gọi là những vấn đề toàn cầu như nạn nhân mãn, tình trạng ô nhiễm môi trường, nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, hố ngăn cách giàu nghèo giữa các dân tộc...đều được ông (và hình như chỉ có mình ông) đưa ra giới thiệu đầy đủ và đánh động một cách nhiệt thành, tập trung trong quyển Những vấn đề của thời đại (tháng 7. 1974) và một số bài báo khác. Trước đó khá lâu, trong cuốn Một niềm tin (1965), ông đã dự báo được hầu hết những điểm quan trọng về xu thế phát triển của thế giới để từ đó định ra hướng phát triển của dân tộc, đến nay đọc lại vẫn còn hợp thời để tham khảo. Theo ông:"Ta phải tùy hoàn cảnh, tài nguyên thiên nhiên, mức tiến hóa xã hội, khu vực ảnh hưởng của nước mình...mà tạo lập một nền kinh tế thích hợp với nước mình, chứ không nên bắt chước Âu Mỹ...Dân tộc mình nghèo thì phải sống theo lối nghèo, đừng đua đòi Âu Mỹ trong giai đoạn hiện tại, chúng ta chỉ nên nhắm mục tiêu nầy: làm cho dân đừng đói rét, đâu cũng có đủ thuốc uống. Và đồng thời làm sao giảm lần lần được sự bất công trong xã hội. Muốn vậy phải rút bớt mọi tiêu pha không cần thiết" (Để tôi đọc lại, NXB Văn Học, 2001, tr. 228).
     Đến tháng 1.1975, khi thời cuộc đã biến chuyển tới hồi quyết liệt, trong loạt bài "Nhân loại lâm nguy" đăng trên tạp chí Bách Khoa, một lần nữa ông lại tha thiết đánh động tình trạng nguy cơ toàn cầu, giới thiệu hai bản báo cáo mà cũng là cảnh cáo đầu tiên của nhóm Câu lạc bộ La Mã (Club de Rome) về những vấn đề liên quan. Trong phần kết mà sau nầy (năm 1978) ông cho tuyển lại dưới nhan đề "Chúng ta phải làm gì?" trong tập Để tôi đọc lại (đến năm 2001 mới xuất bản), ông đã trên cơ sở phân tích những biến chuyển của tình hình thế giới mà nêu lên một loạt đề nghị từ đường lối phát triển tổng quát đến một số vấn đề liên quan các lãnh vực giáo dục, y tế, chính trị, xã hội (hố phân cách giàu nghèo, hạn chế sinh sản)... Ông lặp lại một quan điểm cơ bản đã nêu lên từ 10 năm trước trong cuốn Một niềm tin: "Đừng nhất thiết cái gì cũng bắt chước Âu Mỹ, đừng theo đúng con đường họ nữa". Rồi ông kết luận: "... Điều quan trọng nhất là chúng ta phải thay đổi nhân sinh quan, xét lại quan niệm về hạnh phúc, định lại các giá trị và mục tiêu ...Hạnh phúc của con người không phải ở chỗ có một lợi tức bằng Mỹ hay hơn Mỹ. Không có gì sái và vô lý bằng lấy lợi tức đo sự văn minh và hạnh phúc của một dân tộc...Dân tộc chúng ta cứ tự vạch một đường lối, phát triển riêng, chẳng cần phải bắt chước ai hết, chẳng cần phải mong theo kịp nước nầy hay nước nọ" (Để tôi đọc lại, sđd., tr.234-236).
     Cách nay 30 năm mà chỉ một mình ông phát biểu được những lời đó, mãi đến nay hầu như cũng không ai chịu nêu lên những ý kiến tương tự khi bàn về hướng đi của dân tộc Việt Nam, tôi cho rằng ông Nguyễn Hiến Lê là một bậc minh triết có nhiều tiên kiến nhưng hơi bị lạc lõng cô độc giữa chợ đời.
     Thời nào cũng vậy, các tầng lớp đặc quyền cũng vịn vào hai chữ "phát triển" để lạm dụng; họ lấy cớ vì lo cho dân tộc bị thua kém thế giới mà bày ra hết kế hoạch nầy đến dự án nọ, kỳ thật chỉ là để rút rỉa chứ ít khi đạt được tính khả thi như mong muốn. Ngày nay, tạm thời bỏ qua những phần tử lạm dụng xà xẻo đất nước, trong vấn đề phát triển kinh tế-xã hội, vì mong muốn bứt phá tình trạng nghèo nàn lạc hậu mà không ít người có thiện chí trong chúng ta cũng thường quen tìm đến những giải pháp dễ dãi bằng những công thức có sẵn đã được nghe nói, nhất là có khuynh hướng hô hào chạy theo những nước tiên tiến trong một tâm thái luôn luôn sợ bị tụt hậu, mà không chịu nghĩ mình làm như thế là nhằm đạt tới những mục tiêu gì xứng đáng, cho ai, có bảo đảm mang lại sự bình yên hạnh phúc cho đại đa số quần chúng hay không. Hơn thế nữa, trong điều kiện của quốc nạn tham nhũng và nhân tâm ly tán như hiện tại, mọi sự phát triển thiếu chuẩn bị về nền tảng con người thường chỉ có thể dẫn tới khả năng băng hoại ngày càng trầm trọng hơn, và trở thành cái cớ cho một số kẻ gian tham lợi dụng. Vấn đề hiện nay là lấy lại bình tĩnh, cân nhắc nên ưu tiên cho những mục tiêu trọng tâm nào. Nếu trình độ phát triển kinh tế có đôi phần tụt hậu thật sự so với vài nước khác có cùng mức khởi điểm thì điều đó cũng không quan trọng, vì vấn đề cốt lõi là làm sao cho xã hội phát triển có trật tự hơn, dân chúng được sống vui vẻ hạnh phúc hơn nhờ có sự công bằng và tin tưởng ở tương lai..., chứ không phải nhắm mắt chạy theo cho được các nước tiền tiến. Trong chiều hướng đó, thiết tưởng nên đặt ra những chỉ tiêu phát triển chậm vừa phải, thà ít mà tốt, chứ không phải người ta vi tính hóa thì mình cũng vi tính hóa, người ta thiết lập chính phủ điện tử thì mình cũng thiết lập chính phủ điện tử..., và phải hướng mục tiêu phát triển vào việc phục vụ cho phúc lợi của quảng đại quần chúng, trong đó nông dân và nhân dân lao động nghèo là đối tượng chủ yếu.
     Với tính cách của người trí thức luôn băn khoăn trăn trở và ý thức trách nhiệm trước tiền đồ dân tộc, ông Nguyễn Hiến Lê còn thường tổng duyệt lại những kinh nghiệm lịch sử, phân tích các mặt ưu khuyết điểm của phương đông, phương tây rồi dựa trên thực tế văn hóa của nước mình để đề xuất việc nào nên làm, việc nào nên tránh, rồi viết lại như những lời tha thiết dặn dò. Trong bài "Con đường hòa bình" (sau có in thành một tập sách nhỏ, rồi tuyển lại thêm lần nữa trong tập Để tôi đọc lại), ông lại nhắc:"Cái tai hại của chúng ta là có mặc cảm tự ti, tủi rằng cái gì mình cũng kém người, rồi mù quáng bắt chước người, chỉ mong theo gót được người, không dám có một ý muốn riêng của mình...Đã đến lúc chúng ta phải tư tưởng lại...Phải nhận cái thực trạng của mình, cái hoàn cảnh của thời đại, của thế giới...Trước hết chúng ta phải gột hết những nhiễm độc của phương tây mà trở về tinh thần bao dung, bất đồng nhi hòa của tổ tiên...". Cái ông gọi "nhiễm độc" chính là thói bất bao dung, kỳ thị, tham quyền tham lợi của phương tây mà hễ còn thì thế giới sẽ không bao giờ tránh được sự ly tán, chiến tranh, và hố ngăn cách giàu nghèo quá đáng..., đúng như chúng ta thấy đang diễn ra trong tình hình bất ổn của thế giới hiện nay.
     Ngoài những vấn đề quốc kế dân sinh hệ trọng có tầm chiến lược như đã giới thiệu sơ lược ở trên, Nguyễn Hiến Lê còn viết hàng trăm bài báo đóng góp ý kiến cho nhiều vấn đề cụ thể quan trọng khác, mà vấn đề nào ông cũng đề cập một cách thấu đáo tinh tường, đặc biệt liên quan đến lãnh vực văn hóa giáo dục. Một số bài viết quan trọng ông đã cho gom in thành tập Mấy vấn đề xây dựng văn hóa (1967), mà bây giờ đọc lại, tức là sau 36 năm, tôi thấy vẫn hoàn toàn hợp thời và có giá trị tham khảo thiết thực.
 
(Chân dung nhà văn Nguyễn Hiến Lê của họa sĩ Đỗ Duy Ngọc. Nguồn: motthegioi.vn)
     Nhiều người quá khen, cho ông Nguyễn Hiến Lê là một nhà trí thức tầm cỡ mẫu mực. Riêng tôi chỉ nghĩ ông như một người trí thức chân chính, thể hiện ở phong cách sống và làm việc tận tâm trung thực, đem sự hiểu biết của mình song song phục vụ bản thân còn phục vụ cho đời.
     Hai chữ "mẫu mực" thường không nói đúng lên một ý nghĩa gì xác thực, nếu không muốn nói có khi còn giả dối nữa; còn chữ "nhà" chỉ thích hợp để chỉ nhà văn, nhà khoa học..., không thích hợp khi dùng cho người trí thức hay người yêu nước. Vả chăng, bản chất của người trí thức gắn liền với đức khiêm cung; lương tâm trí thức và lòng tự trọng khiến cho người trí thức chân chính cảm thấy ngần ngại khi được đời quá tôn vinh sùng bái hoặc gán cho những danh hiệu hoa mỹ nầy khác mà không sát hoàn toàn với sự thực. Hơn thế nữa, ông Nguyễn Hiến Lê cũng không thể là một người trí thức toàn diện hoàn hảo, theo nghĩa đạt đủ mọi thứ tiêu chuẩn. Có người trách trong lãnh vực tư tưởng, ông chỉ chuyên tâm nghiên cứu Nho giáo mà bỏ qua một số học thuyết lớn khác (như đạo Phật, đạo Ky-tô, các trào lưu triết học phương tây, chủ nghĩa Mác...); ông chỉ làm việc trong tháp ngà mà không dấn thân vào những công việc cụ thể của quần chúng...      
     Những lời trách đại loại như trên, nếu có đúng cũng chỉ đúng một phần khi đứng từ một quan điểm khác để đánh giá, vì mỗi người đều chỉ có quyền chọn lựa một cách thế tồn tại và hoạt động ở đời, được một phần hẳn phải mất một phần, ngay trong sự hưởng thụ cũng vậy. Người bận bịu cho những việc có tính cách phong trào khó viết được nhiều sách, cũng như người trực tiếp tham gia công tác nhà nước, hưởng bổng lộc thì khó giữ được tinh thần khách quan độc lập... Duy có điều, do quá tôn trọng nguyên tắc lề lối sinh hoạt để đảm bảo sức khoẻ và công việc, suốt mấy mươi năm liền chỉ ngồi nhà đọc sách viết sách, tôi ngờ rằng kiến văn, vốn sống của ông Nguyễn Hiến Lê cũng có phần hạn chế trong chốn sách vở mà thiếu sự thâm nhập thực tế sinh động của đời sống vốn rất đa dạng, thành ra có thể ông hiểu đời qua sách vở, tiểu thuyết chứ không hiểu thấm trực tiếp hết những lẽ và nỗi ngoắt ngoéo khó khăn của cuộc nhân sinh hoan lạc nhưng cũng đầy thống khổ, phức tạp.
       Một bạn tri kỷ của ông Nguyễn Hiến Lê đã tìm cách biện hộ cho ông:" Không xông xáo tham dự trực tiếp vào mọi sinh hoạt, công tác xã hội, không thấy mặt ông ở nơi "trọng thể", hội hè đông đảo... nhưng không có vấn đề nào cấp thiết liên quan đến đến công cuộc cải tiến dân sinh, xã hội... mà không có những bài viết thiết thực kịp thời của ông để bày tỏ quan điểm của mình một cách minh bạch hay góp ý kiến xây dựng hết sức khách quan và thẳng thắn với chính quyền, với các giới tổ chức liên hệ. Những loạt bài về thanh niên, về chương trình học, thi cử, đào tạo giáo chức, cách mạng giáo chức, về tâm lý sinh viên xuất ngoại với những biện pháp thích nghi hầu cứu vãn tình trạng trước "nguy cơ xuất não", về xuất bản sách báo, kiểm duyệt...chứng tỏ rằng khi cần nói thẳng thì ông không ngần ngại nói ngay lên sự thật, nói lên cảm nghĩ chống đối của mình, song vẫn chân thành, có tinh thần xây dựng, không đả kích cá nhân, thành ra không ai làm khó dễ ông. Trên công việc làm, ông tiêu biểu cho hạng người cần mẫn, siêng năng, nói ra là tin cậy được..." (Châu Hải Kỳ, sđd., tr.72-73).
     Giả định có thể đồng ý thêm một số phân tích như trên, có lẽ người đời cũng không cần đòi hỏi thêm gì ở nhân vật đã đủ đáng kính trọng nầy, khi xét trên phương diện ông Nguyễn Hiến Lê là một người trí thức chân chính, có cuộc sống thanh bạch và đóng góp được ngần ấy những lợi ích cho cuộc sống. Để tạm kết luận về người trí thức Nguyễn Hiến Lê, tôi xin mượn đoạn định nghĩa sau đây của Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô Dmitri Sergeievich Likhachov (1906-1999) để khẳng định thêm đôi chút về ông:" Theo kinh nghiệm đường đời của tôi, trí thức là những người tự do về thế giới quan, không bị phụ thuộc vào những sức ép về kinh tế, đảng phái, nhà nước, không chịu một bổn phận nào về tư tưởng. Nguyên tắc chính của tính trí thức là sự tự do về trí tuệ, sự tự do như một phạm trù đạo đức... Tôi muốn nói rằng một nhà bác học chưa chắc đã phải là trí thức. Họ không còn là trí thức khi quá chú mục vào chuyên môn của mình mà quên mất ai sử dụng thành quả lao động của mình và sử dụng như thế nào. Khi đó, do theo đuổi những lợi ích chuyên môn, họ đã coi nhẹ lợi ích đồng loại và những giá trị văn hóa...".
Nguồn: Nguyễn Hiến Lê, Con người và tác phẩm, NXB. Trẻ, 2003.           

Lãng quên “tượng đài văn hóa” Nguyễn Hiến Lê

(LĐ) Lâm Điền
Chùa Phước Ân (Phước Ân tự) xã Vĩnh Thạnh, Lấp Vò - nơi học giả Nguyễn Hiến Lê an nghỉ vĩnh hằng.

Sau hơn 30 năm cầm bút, để lại cho đời 122 tác phẩm với nhiều thể loại, 250 bài báo và 23 đề tựa cho nhiều cây bút tên tuổi đương thời, cụ Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) được giới cầm bút tôn vinh là “Tượng đài văn hoá đọc”. Trớ trêu thay, sau tạ thế, ông đã bị một bộ phận người làm công tác quản lý ở một số tỉnh ĐBSCL đối xử lạnh lùng đến rớt nước mắt.

Bụt nhà không thiêng

Học giả Nguyễn Hiến Lê và Đồng Tháp có mối lương duyên đặc biệt: Cụ bắt đầu văn nghiệp biên khảo và kết thúc cuộc đời tại đây. Thế nhưng, trái với công lao ông làm cho hàng triệu triệu lượt người trong và ngoài nước hiểu, biết và yêu thương vùng đất Đồng Tháp qua trước tác “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười”, Đồng Tháp lại lãng quên ông.

Tháng 7.2013, tức 14 năm sau khi di cốt của ông an nghỉ tại chùa Phước Ân (xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò), Đồng Tháp mới nhận ra mối lương duyên này. Phân hội trưởng Phân hội văn học (Hội Liên hiệp VHNT Đồng Tháp) Hữu Nhân - tác giả của “Đôi điều quanh phần mộ của học giả Nguyễn Hiến Lê ở Đồng Tháp”, bài viết đầu tiên của Đồng Tháp về “sự hiện diện của cụ Lê” trên đất Sen Hồng - kể: “Tôi biết được mộ phần của cụ khoảng 3 tháng nay trong dịp rất tình cờ”.

Đầu tháng 5.2013, trong lần lang thang trên mạng, anh Nhân mới biết di cốt cụ Nguyễn Hiến Lê đang ở rạch Cai Bường. Sau chuyến đi đó, anh viết ngay bài báo với tất cả sự cảm phục tài năng và nhân cách của cụ, nhất là chuyện cụ công khai từ chối nhận Giải thưởng Văn chương toàn quốc (1967) và Giải Tuyên dương công trạng (Văn hóa - 1973) do chính quyền Sài Gòn trao tặng với lý do “dùng tiền ấy để giúp nạn nhân chiến tranh”. Nhiều vị lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp thừa nhận, nhờ bài báo này mới biết đến sự hiện diện của cụ Nguyễn Hiến Lê với lý do lâu nay chưa có thông tin.

Tuy nhiên, đó chỉ là cách nói tránh thực tế có phần phũ phàng: Trong lúc mãi đến nay những người trong cuộc chưa tỏ, thì ngoài ngõ đã tường từ rất lâu. Điều này được chính anh Hữu Nhân ghi nhận ngay trong bài báo: “Theo lời của cô Út - người phụ nữ có 37 năm làm công quả ở chùa Phước Ân và hàng ngày nhang khói khu nghĩa trang trong khuôn viên nhà chùa - thì từ khi ông Nguyễn Hiến Lê được cải táng về đây, năm nào cũng có nhiều đoàn người từ khắp nơi đến viếng mộ. Có người đến do cảm phục tài năng văn chương của ông. Có người là học trò cũ. Cũng có người là thân nhân gia đình ông. Thậm chí có những đoàn khách đến chùa, mặc trên người chiếc áo sau lưng có in hình ông. Chỉ riêng từ hôm tết tới nay đã có hàng chục đoàn khách lên đến cả trăm người đến viếng phần mộ”.

Không chỉ có vậy, từ năm 2009 đã có nhiều người vì bức xúc sự thiếu quan tâm của cơ quan chức năng trong đầu tư đường sá, tôn vinh nơi an nghỉ của “một trong những học giả lớn của Việt Nam trong thế kỷ 20” đã viết báo và trực tiếp “gõ cửa” chính quyền địa phương. Ông Trương Vĩnh Khánh - đang sinh sống tại huyện Lấp Vò - cho biết cụ thể: “Ngay từ năm 2009, khi từ Bình Định vào đây sinh sống tôi đã biết và viếng mộ cụ Nguyễn Hiến Lê. Thấy đường sá chật hẹp và gồ ghề, tôi báo cáo lên lãnh đạo ở huyện Lấp Vò. Vì vậy nếu nói không biết, không có thông tin là khó chấp nhận”.

Đã trễ còn trầy trật

Mất 14 năm, lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp mới biết di cốt cụ Nguyễn Hiến Lê an nghỉ trên vùng đất do mình quản lý qua một bài báo. Đó là sự chậm trễ không thể chối cãi. Nhưng trớ trêu thay, mãi đến nay nhiều lãnh đạo cơ quan hữu trách ở Đồng Tháp vẫn chưa có “phản ứng”. Thậm chí còn “cò kè bớt một thêm hai” với việc “khắc phục hậu quả”.  Khi chúng tôi đặt vấn đề: “Tới đây hội có dự tính gì về cụ Lê với tư cách nhà văn “duyên nợ đặc biệt” với Đồng Tháp”?

Chủ tịch Hội Liên hiệp VHNT Đồng Tháp Phạm Khiêm xin phép không trả lời với lý do: “Chờ anh em chuyên môn xem lại ông Nguyễn Hiến Lê đóng góp cụ thể thế nào rồi mới tính được”. Thậm chí, ngay cả cấp lãnh đạo cao hơn là Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Đồng Tháp cũng lúng túng không kém khi chúng tôi đặt câu hỏi: “Liệu có thể tôn vinh bằng hình thức dùng tên học giả đặt tên đường, tên trường...”?

Ông Trương Vĩnh Khánh bên bảo tháp lưu giữ di cốt học giả Nguyễn Hiến Lê.

Anh Nhân điện thoại cho lãnh đạo Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ xin ý kiến thì nhận được câu trả lời: “Sắp tới sẽ xem xét... cụ thể”. Một lối phản ứng có phần quá xa lạ, thậm chí đi ngược với truyền thống tốt đẹp mà trước đó nhiều bậc tiền bối đất Sen Hồng đã “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” dệt nên “bản hùng ca bất tận” về lòng tôn kính những người có công với đất Đồng Tháp. Mà việc kiên trì bảo vệ, gìn giữ và tôn tạo di tích mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trước nanh vuốt của quân thù trong 2 cuộc chiến tranh vệ quốc là minh chứng hùng hồn.

Tuy nhiên, điều khiến chúng tôi lo hơn là đằng sau sự chậm trễ này đang manh nha nguy cơ hiểu sai sự thật bắt nguồn từ sự thiếu chính xác trong bài báo của Hữu Nhân. Hữu Nhân viết: “Ngày 28.5 Kỷ Mão (9.7.1999), an táng bà Nguyễn Thị Liệp xong thì hai ngày sau, di cốt của ông Nguyễn Hiến Lê được đưa từ Long Xuyên sang và đặt ngay phía trên phần mộ bà Liệp...”. Tuy nhiên theo anh Nguyễn Thành Chuẩn - người cháu từng giữ nhiệm vụ “tiểu đồng” cho cụ Lê lúc sinh thời - thì di cốt của ông được đưa đi và an táng cùng ngày với bà Liệp. Theo anh Chuẩn, bảo tháp này không chỉ là nơi an nghỉ của riêng cụ ông và cụ bà. “Toàn ngôi tháp có đến 10 di cốt. Cụ Liệp được chôn dưới đất, 9 di cốt còn lại được chia ra 2 hộc tháp. Trong đó di cốt của cụ Lê được đặt trong hộc bên dưới cùng với 4 anh, chị em bà Liệp...”.

“Đơn giản hoá” văn nghiệp

Thật ra đây không phải là lần đầu tiên học giả Nguyễn Hiến Lê bị hậu nhân hành xử... lạ. Sinh thời, học giả Giản Chi (1904-2005) đã đánh giá văn tài của Nguyễn Hiến Lê là “của hiếm”. Trong đôi liễng đề tặng cụ Hiến Lê (Hiến Lê nhơn huynh nhã chính), ông viết: “Thương mang học hải như kim / Hoạt bát văn tài hữu kỷ nhân” (tạm dịch: (Trong) biển học mênh mông ngày nay, nhân tài văn học (như huynh) được mấy người?). Vậy mà tại An Giang - nơi cụ làm rể gần một phần ba thế kỷ và sống trọn vẹn những năm cuối đời - đã “đơn giản hoá” văn nghiệp đồ sộ của cụ đến mức không thể đơn giản hơn được nữa.

Nhà thơ Trịnh Bửu Hoài - nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp VHNT An Giang, người được giao nhiệm vụ chấp bút mục Văn học trong “Địa chí An Giang” (tập 2, 2007) - cho biết: “Nhận thấy văn nghiệp cụ Lê quá đồ sộ, nên dù cố gắng hết mức, tôi cũng chỉ có thể gói gọn trong 2 trang A4 với khoảng 1.000 từ”. Trong đó ông Hoài đã dành những câu chữ rất trang trọng: “Nguyễn Hiến Lê là một học giả được giới trí thức quý mến và kính trọng về tài hoa cũng như nhân cách. Ông lao động miệt mài, nghiêm túc, một tấm gương cho người cầm bút. Tác phẩm của ông được đại bộ phận công chúng đón nhận, được nhiều giải thưởng văn chương, là những đóng góp lớn cho đời sống xã hội, cho nền học thuật Việt Nam hiện đại”.

Thế nhưng đến khi in thành sách, người ta gần như đã vứt bỏ tất cả, và phần nói về cụ chỉ còn  đúng 64 từ... vô cảm: “Nguyễn Hiến Lê từ Bắc vào Nam, đến Long Xuyên nhận việc làm, đi khắp miền Tây Nam Bộ, bắt đầu viết ký sự, tiểu luận và dịch thuật. Sau đó ông về sống ở Sài Gòn một thời gian dài, dạy học và sáng tác; nhưng đến cuối đời ông trở lại An Giang, tiếp tục hoàn thành một số tác phẩm nữa”(trang 31). Nhiều người cầm bút đã xót xa gọi đó là cuộc “hạ bệ”, thậm chí là “hạ nhục” học giả Nguyễn Hiến Lê, bởi tập sách này lại dành khá nhiều đất cho nhiều cây bút mà tên tuổi và tác phẩm của họ không được nhiều bạn đọc biết đến”.

ĐBSCL đang là “vùng trũng” văn hoá nghệ thuật của cả nước, vậy mà người ta sẵn sàng “lãng quên”, sẵn sàng “hạ bệ” con người và văn nghiệp đồ sộ của cụ Nguyễn Hiến Lê. “Sau hàng loạt những sai lầm, giờ đến lúc chúng ta không được phép để xảy ra thêm những sai lầm nào nữa trong ứng xử với học giả Nguyễn Hiến Lê... Theo tôi, với tầm cỡ như cụ, cần có công trình kỷ niệm cấp quốc gia”... Chúng tôi xin mượn lời nhà thơ Trịnh Bửu Hoài để kết thúc bài viết này và xem đó cũng chính là tâm tư, tình cảm và kỳ vọng mà hàng triệu độc giả muốn đánh động đến lương tri người có trách nhiệm để sớm có công trình tôn vinh xứng tầm với học giả đáng kính: Nguyễn Hiến Lê.

Nguyễn Hiến Lê sao sáng trời Nam


>
DANH NHÂN VIỆT. Nguyễn Hiến Lê (1912–1984) là nhà giáo, nhà văn, học giả, dịch giả, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông là người được giới trí thức và nhân dân lao động kính trọng vì nhân cách cao qúy, cuộc sống thanh bạch, học vấn uyên bác và hiệu qủa lao động hiếm thấy. Trong “Lời mở đầu” tác phẩm “Đời viết văn của tôi” Nguyễn Hiến Lê đã viết: “Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời. Tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT”. Nguyễn Hiến Lê trí tuệ bậc Thầy, ngọn đèn văn hóa, sao sáng trời Nam. Cuộc đời và di sản của Nguyễn Hiến Lê là mẫu mực nhân cách người hiền còn mãi với thời gian.
Nguyễn Hiến Lê cuộc đời và di sản
Nguyễn Hiến Lê tự là Lộc Đình, sinh ngày 8.1.1912 (nhằm ngày 20 tháng 11 năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Qúy Mùi, giờ Tân Dậu) quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây nay thuộc huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây. Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho. Cha, mẹ và bác ruột của ông đều giữ được truyền thống của tổ tiên mấy đời trước, săn sóc sự học của ông rất chu đáo. Ông thuở nhỏ học ở trường Yên Phụ, trường Bưởi. Năm 1934, sau khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội, ông vào làm việc tại Sở Thủy Lợi ở miền Tây Nam Bộ. Năm 1937, ông cưới vợ là bà Trịnh Thị Tuệ và đổi về làm việc ở Sài Gòn cho đến năm 1945. Trong thời gian này, ông trau dồi tiếng Trung Quốc, tiếng Pháp, tự học tiếng Anh. và đã viết được trên ngàn trang sách để luyện văn. Mùa đông năm 1945 đến mùa xuân 1947, ông tản cư ở Tân Thạnh, Long Xuyên và học đông y. Năm 1947, ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long Xuyên. Năm 1953, ông thôi dạy học, chuyển lên Sài Gòn mở nhà xuất bản, viết sách và viết báo.
Nguyễn Hiến Lê học và viết liên tục và bền bỉ, có hướng rõ rệt, tập trung năng lực, không để phí thì giờ, hi sinh việc xuất bản để dành thời gian viết sách. Trong cuộc đời cầm bút của mình, ông đã viết được 120 bộ sách về nhiều lĩnh vực,. Sức lao động của ông hiếm thấy với hơn 30.000 trang chia cho 33 năm, trung bình mỗi năm 900 trang. Tác phẩm của ông là những đóng góp lớn cho văn hoá Việt Nam, thuộc nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ, triết học, giáo dục, gương danh nhân, chính trị, kinh tế, du kí, dịch tiểu thuyết, tiểu luận phê bình,…
120 tác phẩm của ông có khoảng 80 % là tác phẩm phổ biến rộng cho mọi giới (tiêu biểu nhất là loại sách học làm người, gương danh nhân, tổ chức công việc theo khoa học), còn lại khoảng 20% là sách chuyên khảo có giá trị đặc biệt về học thuật (thuộc lĩnh vực văn học, triết học, sử, cổ văn Trung Quốc). Tác phẩm xếp theo năm xuất bản, bao gồm:
• Tổ chức công việc theo khoa học – 1949
• Đắc nhân tâm (dịch Dale Carnegie) – 1951
• Kim chỉ nam của học sinh – 1951
• Luyện tình cảm (dịch F. Thomas) – 1951
• Để hiểu văn phạm – 1952
• Bảy bước đến thành công (dịch G. Byron) – 1952
• Tổ chức gia đình – 1953
• Thế hệ ngày mai – 1953
• Nghệ thuật nói trước công chúng – 1953
• Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười – 1954
• Săn sóc sự học của con em – 1954
• Hiệu năng – 1954
• Tự học để thành công – 1954
• Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển) – 1955
• Lịch sử thế giới (viết với Thiên Giang) – 1955
• Sống 24 giờ một ngày (dịch Arnold Bennett) – 1955
• Quẳng gánh lo đi và vui sống (dịch Dale Carnegie) – 1955
• Giúp chồng thành công (dịch Dorothy Carnegie) – 1956
• Nghề viết văn – 1956
• Muốn giỏi toán hình học phẳng – 1956
• Bí quyết thi đậu – 1956
• Đông Kinh Nghĩa Thục – 1956
• Rèn nghị lực – 1956
• Luyện tinh thần (dịch Dorothy Carnegie) – 1957
• Luyện văn I (1953), II & III (1957)
• Muốn giỏi toán đại số – 1958
• Thời mới dạy con theo lối mới – 1958
• Gương danh nhân – 1959
• Muốn giỏi toán hình học không gian – 1959
• Gương hi sinh – 1962
• Hương sắc trong vườn văn (2 quyển) – 1962
• Tương lai trong tay ta – 1962
• Kiếp người (dịch Somerset Maugham) – 1962
• Xung đột trong đời sống quốc tế – 1962
• Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (viết với T. V. Chình) – 1963
• Sống đẹp – 1964
• Gương kiên nhẫn – 1964
• Một niềm tin – 1965
• Luyện lý trí – 1965
• Đại cương triết học Trung Quốc (viết chung với Giản Chi) – 1965
• Cách xử thế của người nay (dịch Ingram) – 1965
• Sống đời sống mới (dịch Powers) – 1965
• Cổ văn Trung Quốc – 1966
• Gương chiến đấu – 1966
• Tìm hiểu con chúng ta – 1966
• Xây dựng hạnh phúc (dịch Aldous Huxley) – 1966
• Thẳng tiến trên đường đời (dịch Lurton) – 1967
• Lời khuyên thanh niên – 1967
• Tay trắng làm nên – 1967
• Vấn đề xây dựng văn hoá – 1967
• Tổ chức công việc làm ăn – 1967
• Chiến tranh và hoà bình (dịch Lev Nikolayevich Tolstoy) – 1968
• Chiến Quốc sách (viết chung với Giản Chi) -1968
• Bí mật dầu lửa (dịch Gaillard) – 1968
• Đế Thiên Đế Thích – 1968
• Bài học Israel – 1968
• 40 gương thành công – 1968
• Thư ngỏ tuổi đôi mươi (dịch André Maurois) – 1968
• Sống 365 ngày một năm – 1968
• Những cuộc đời ngoại hạng – 1969
• Bán đảo Ả Rập – 1969
• Khóc lên đi ôi quê hương yêu dấu (dịch Alan Paton) – 1969
• Mưa (tuyển dịch nhiều tác giả) – 1969
• Trút nỗi sợ đi (dịch Coleman) – 1969
• Con đường lập thân (dịch Ennever) – 1969
• Sử ký Tư Mã Thiên (viết chung với Giản Chi) – 1970
• Làm con nên nhớ (viết với Đông Hồ) – 1970
• Tô Đông Pha – 1970
• Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (dịch) – 1970
• Quê hương tan rã (dịch C. Acheba) – 1970
• Một lương tâm nổi loạn – 1970
• 15 gương phụ nữ – 1970
• Hoa đào năm trước – 1970
• Thư gởi người đàn bà không quen (dịch André Maurois) – 1970
• Einstein – 1971
• Con đường hoà bình – 1971
• Lợi mỗi ngày một giờ – 1971
• Lịch sử văn minh Ấn Độ (dịch Will Durant) – 1971
• Thế giới ngày mai và tương lai nhân loại – 1971
• 33 câu chuyện với các bà mẹ – 1971
• Chấp nhận cuộc đời (dịch L. Rinser) – 1971
• Ý chí sắt đá – 1971
• Chinh phục hạnh phúc (dịch Bertrand Russell) – 1971
• Sống theo sở thích (dịch Steinckrohn) – 1971
• Giữ tình yêu của chồng (dịch Kaufmann) – 1971
• Nhà giáo họ Khổng – Cảo Thơm 1972
• Liệt tử và Dương tử – Lá Bối 1973
• Cầu sông Drina (dịch I. Andritch) – 1972
• Bài học lịch sử (dịch Will Durant) – 1972
• Ý cao tình đẹp – 1972
• Thế giới bí mật của trẻ em – 1972
• Bertrand Russell – 1972
• Cháu bà nội tội bà ngoại – 1974
• Những vấn đề của thời đại – 1974
• Nguồn gốc văn minh (dịch Will Durant) – 1974
• Văn minh Ả Rập (dịch Will Durant) – 1975
• 10 câu chuyện văn chương – 1975
• Mạnh Tử – 1975
• Sử Trung Quốc (3 tập) 1982
• Con đường thiên lý – 1990
• Tôi tập viết tiếng Việt – 1990
• Hồi ký Nguyễn Hiến Lê – (Xuất bản 1992)
• Khổng Tử – viết xong 1978 (Xuất bản 1992)
• Đời nghệ sĩ – (Xuất bản 1993)
• Lão Tử – viết xong 1977 (Xuất bản 1994)
• Trang Tử – viết xong 1975 (Xuất bản 1994)
• Hàn Phi Tử – viết chung với Giản Chi, 1975 (Xuất bản 1994)
• Tuân Tử – viết xong 1975 (Xuất bản 1994)
• Mặc học – viết xong 1976 (Xuất bản 1995)
• Luận ngữ – viết xong 1978 (Xuất bản 1995)
• Đời viết văn của tôi – (Xuất bản 1996)
• Lịch sử văn minh Trung Quốc (dịch Will Durant) – (Xuất bản 1997)
• Gogol – (Xuất bản 2000)
• Tourgueniev – (Xuất bản 2000)
• Tchekhov – (Xuất bản 2000)
• Để tôi đọc lại – (Xuất bản 2001)
• Những quần đảo thần tiên (dịch Somerset Maugham) – 2002
• Kinh Dịch, đạo của người quân tử – viết xong 1979 (Xuất bản 1992, …,2002…)
Ngoài ra, Nguyễn Hiến Lê còn có 242 bài trên tạp chí Bách Khoa, 50 bài trên các tạp chí Mai, Tin Văn, Văn, Giáo Dục Phổ Thông, Giữ Thơm Quê Mẹ. Ngoài ra ông còn viết lời giới thiệu cho 23 quyển sách.
Năm 1980 ông về lại Long Xuyên. Ông lâm bệnh và mất ngày 22 tháng 12 năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 73 tuổi.
Danh thơm còn mãi
Phần mộ của nhà văn hoá lỗi lạc Nguyễn Hiến Lê tại chùa Phước Ân, gần ngã tư Cai Bường, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Võ, tỉnh Đồng Tháp.
Tác giả Trung Thu đã kể lại trên Nguyệt san Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh tháng 9 năm 2009 về việc Tìm mộ cụ Nguyễn Hiến Lê . “Mở đầu cuốn Đông Kinh Nghĩa Thục, Nguyễn Hiến Lê viết: “Mà có bao giờ người ta nghĩ đến việc thu thập tài liệu trong dân gian không? Chẳng hạn khi một danh nhân trong nước qua đời, phái một người tìm thân nhân hoặc bạn bè của người đã mất, để gom góp hoặc ghi chép những bút tích về vị ấy, rồi đem về giữ trong các thư khố làm tài liệu cho đời sau. Công việc có khó khăn tốn kém gì đâu, mà lại có lợi cho văn hóa biết bao”. Thật không ngờ, điều cụ luôn canh cánh trong lòng, đến khi mất lại vận vào chính đời cụ.
…Vĩnh Thạnh nghèo nàn và ướt át. Tôi phải hỏi tới người thứ tư mới biết chính xác đường vào chùa Phước Ân. Từ ngã tư Cai Bường rẽ tay trái vào hơn 1 km đường đất nữa mới tới. Con đường len lỏi qua những vườn cây ăn trái xanh mướt và một cây cầu gỗ bắc ngang con kênh. Nhà dân nằm im lìm dưới tán lá như trái chín giấu mình sau vòm lá. Không khí thuần khiết hòa vào hương xoài dịu êm khiến tôi ngẩn ngơ. Gia quyến cụ Nguyễn Hiến Lê phải cực kỳ tinh tế và hiểu ý cụ mới đem cụ về an nghỉ chốn bình yên này.
Chùa Phước Ân hiện ra trước mắt tôi vừa trang nghiêm vừa thân thiện. Ngôi chùa đơn sơ ẩn hiện sau lớp lá bồ đề lóng lánh nước mưa. Không một bóng người. Không gian im ắng. Tôi dắt xe chầm chậm qua sân chùa. Một bà cụ mặc áo nâu sòng, mái tóc hoa râm xuất hiện. Biết tôi muốn tìm mộ cụ Nguyễn Hiến Lê, bà chậm rãi trả lời. “Trong chùa này chỉ có thầy trụ trì với bà biết ông ấy thôi”.
Bà dẫn tôi vào chánh điện. Sau lớp kính mờ ảo của khung ảnh, nụ cười cụ Nguyễn Hiến Lê vẫn tươi rói và đôi mắt dường như vẫn dõi theo trần gian, đôi mắt như thăm thẳm một niềm an lạc. Di ảnh cụ được treo bên cạnh người vợ thứ hai là bà Nguyễn Thị Liệp. Sau khi cụ mất, bà xuất gia đi tu và mong muốn được an nghỉ tại chùa Phước Ân cùng chồng.

Học giả Nguyễn Hiến Lê khi còn sống. Ảnh: ST
Mộ cụ Nguyễn Hiến Lê nằm lọt thỏm trong khoảng 20 ngôi mộ khác. Ngôi mộ của một con người lỗi lạc nhỏ nhắn và giản dị đến nỗi bát nhang không một nén. Nhưng tôi biết, cụ rất ấm cúng khi nằm chung với toàn thể gia quyến trong một khu mộ.

Không hoành tráng lộng lẫy. Không bia đá trường cửu. Không khoa trương diễm lệ. Cụ nằm đó bên ngôi chùa trầm mặc nghe kinh kệ là một diễm phúc hiếm ai nghĩ tới. Có lẽ đây là lối đi mãn nguyện nhất đối với một tâm hồn vốn giản dị và thanh sạch.
Trong gian phòng ấm cúng bên ly trà nóng, bà cụ hỏi tôi có thân thích gì với cụ Lê không mà lại đi thăm mộ lúc trời mưa gió. Tôi thưa thật, tôi chỉ là người đọc sách của cụ. Tôi tìm mộ cụ chỉ để thắp một nén nhang trước hương hồn cụ để tỏ lòng cảm phục. Bà …hỏi tôi rằng cụ viết sách hay lắm sao mà mất lâu thế vẫn có người nhắc đến. …
Tôi cắm vào lư hương trên mộ cụ một nén nhang thành kính. Hương trầm tỏa bay làm cay cay khóe mắt”
Mới đây Trương Vĩnh Khánh , hội Văn hóa Nghệ thuật Đồng Tháp trong bài Đôi dòng về học giả Nguyễn Hiến Lê 1912-1984 thì lại có lời thưa là bạn Trần Trung Thu đã “hỏi thăm chưa đúng chỗ chứ người An Giang & Đồng Tháp chúng tôi không mấy ai lại vô tình không biết và chúng tôi vô cùng tôn kính nhà văn, học giả kiệt xuất ấy.”. Ông Trương Vĩnh Khánh đã bổ sung thêm một số tư liệu và ông Vũ Ngọc Tiến đã gửi cho Viet-studies:
Nguyễn Hiến Lê hiệu là Lộc Đình, sinh ngày 20 tháng 11 âm lịch năm Tân Hợi nhằm ngày 8 tháng 01 năm 1912 (Giấy khai sinh ghi ngày 8/4/1912). Nguyên quán làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội ). Ông là một học giả, nhà nghiên cứu văn hoá kiệt xuất, xuất thân trong một gia đình nho học, thân phụ là Nguyễn Văn Bí, hiệu Đặc Như.
Thuở nhỏ ông học ở trường tiểu học Yên Phụ – trường Bưởi (Trung học), Trường Cao Đẳng Công Chánh (Hà Nội ) – Năm 1934 tốt nghiệp được bổ làm việc tại các tỉnh miền tây Nam bộ.
Sau cách mạng tháng 8/1945, ông từ bỏ đời sống công chức về Long Xuyên dạy học trường Trung học Thoại Ngọc Hầu (collège de Long Xuyen).
Năm 1952, ông lên Sài Gòn mở nhà xuất bản biên dịch sách, sáng tác và viết báo.
Tính đến năm 1975, ông đã cho xuất bản hơn 100 tác phẩm về nhiều lĩnh vực như: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân du ký, dịch tiểu thuyết, sách học làm người…
Từ năm 1975 cho đến lúc qua đời, ông còn trước tác được hơn 20 tác phẩm. Trong số đó có những cuốn như: “Lịch sử thế giới, Đông kinh nghĩa thục, Văn minh Arập, Sử Trung Quốc, Lịch sử văn minh Trung Quốc, nguồn gốc văn minh, Khảo luận về Ngữ pháp Việt Nam, gương danh nhân và kinh dịch”(in theo bản thảo chép tay của Nguyễn Hiến Lê mới xuất bản năm 1992 của nhà xuất bản Văn học Hà Nội, được đánh giá là một công trình khảo cứu có giá trị khoa học đặc sắc về văn hóa phương Đông.
Vào năm 1967, chính quyền Sài Gòn đã trao tặng ông cùng Giản Chi: Giải nhất ngành biên khảo và giải tuyên dương sự nghiệp Văn học – Nghệ thuật (1973). Đi kèm với danh hiệu cao quí đương thời là tấm ngân phiếu một triệu đồng (tương đương 25 cây vàng lúc đó). Học giả Nguyễn Hiến Lê đã công khai từ chối nhận giải với lý do “nên dùng tiền ấy để giúp nạn nhân chiến tranh” và bản thân tác giả cũng không dự giải.
Năm 1980, ông về ẩn cư ở Long Xuyên. Ông lâm bênh và mất lúc 8 giờ 50 phút ngày 22 tháng 12 năm 1984 tại bênh viện An Bình – chợ Lớn TP Hồ Chí Minh- hưởng thọ 72 tuổi. Hoả thiêu vào ngày 24 tháng 12 năm 1984 tại đài thiêu Thủ Đức.
Di cốt Nguyễn Hiến Lê được đem về chôn cất trong khuôn viên nhà bà Nguyễn Thị Liệp (vợ thứ 2 quê ở Long Xuyên, còn bà cả tên Tuệ người miền Bắc).
Năm 1999 Bà Liệp tạ thế và được an táng trong khuôn viên chùa Phước Ân, ở rạch Cai Bường, thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Di cốt của ông cũng được đem đặt trên phần mộ của bà.
Hiện người con trai của ông là Nguyễn Nhật Đức và bà Tuệ (vợ cả) đang định cư tại Pháp.
Ông Trương Vĩnh Khánh cũng đã ứng tác bài thơ trước mộ cụ Nguyễn Hiến Lê khi cùng nhóm văn bút Lấp Vò là Từ Quang, Trịnh Kim Thuấn đưa nhà văn Vũ Ngọc Tiến đến chùa Phước Ân viếng mộ học giả, nhà văn khả kính Nguyễn Hiến Lê nhân tiết Thanh Minh 24/3 âm lịch – Quý Tỵ:
Về miền Tây viếng thăm thầy
Trăm năm một cõi – đám mây vô thường
Cả đời nặng nợ văn chương
Chồng Nam, vợ Bắc đoạn trường lắm thay!

Quê hương thương nhớ lắt lay
Trăm nghìn trang sách – trắng tay phong trần
Nghiêng nghiêng bóng nắng chiều xuân
Mờ mờ sương khói, trầm luân kiếp người.
Ngẩn ngơ vườn tháp lệ rơi
Tấm bia, ngọn cỏ nhàu phơi úa màu
Văn chương để lại ngàn sau
Xác thân lưu lạc thấm đau nỗi đời.
Tài hoa nặng nợ – số trời
Xót Thầy nằm đó trông vời cố hương!…

Nguyễn Hiến Lê trí tuệ bậc Thầy
Trong hồi ký của mình, Nguyễn Hiến Lê đã viết “Tự bạch” về nhân sinh:
  1. Đời sống tự nó vô ý nghĩa, trừ ý nghĩa truyền chủng, nhưng mình phải tạo cho nó một ý nghĩa. Từ hồi ăn lông ở lỗ đến nay, nhân loại đã tiến về nhiều phương diện. Chúng ta được hưởng công lao, di sản của biết bao thế hệ thì phải duy trì di sản đó và cải thiện nó tùy khả năng mỗi người.
  2. Chúng ta làm điều phải vì tin nó là điều phải chứ không phải vì ý muốn của Thượng đế hay một vị thần linh nào, cũng không phải vì mong chết rồi được lên Niết bàn hay Thiên đàng
  3. Quan niệm thiện ác thay đổi tùy nơi, tùy thời. Cái gì ích lợi cho một xã hội vào một thời nào đó thì được xã hội đó cho là thiện, cũng cái đó qua thời khác không còn ích lợi nữa mà hóa ra có hại thì bị coi là ác. Ví dụ đạo tòng phu, tòng tử của phụ nữ có lợi cho gia đình, xã hội thời nông nghiệp; tới thời kỹ nghệ không còn lợi cho gia đình, xã hội nên mất giá trị. Khi sản xuất được ít, đức tiết kiệm được đề cao; ngày nay ở Âu Mỹ, sản xuất vật dụng thừa thãi quá, nên sự phung phí gần thành một bổn phận đối với xã hội. Tuy nhiên vẫn có một số giá trị vĩnh cửu, từ hồi loài người bắt đầu văn minh, dân tộc nào cũng trọng, như đức nhân, khoan hồng, công bằng, tự do, tự chủ,…
  4. Đạo nào cũng phải hợp tình, hợp lý (bất viễn nhân) thì mới gọi là đạo được. Tôi không tin rằng hết thảy loài người chỉ thấy đời toàn là khổ thôi; cũng không tin rằng hết thảy loài người thích sống tập thể, không có của riêng.
  5. Đạo Khổng thực tế nhất, hợp tình hợp lý nhất, đầy đủ nhất, xét cả về việc tu thân, trị gia, trị quốc. Vậy mà tới nay lý tưởng của ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về tu thân, ba đức nhân, trí, dũng, luyện được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực của con người.
  6. Nên trọng dư luận nhưng cũng không nên nhắm mắt theo dư luận. Biết đắc nhân tâm, nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất bình của mình mà không sợ thất nhân tâm.
  7. Mỗi người đã phải đóng một vai trò trong xã hội thì tôi lựa vai trò thư sinh. Sống trong một gia đình êm ấm giữa sách và hoa, được lòng quý mến, tin cậy của một số bạn và độc giả, tôi cho là sướng hơn làm một chính khách mà được hàng vạn người hoan hô, mà còn có phần giúp ích cho xã hội được nhiều hơn bạn chính khách nữa. Nhưng làm nhà văn thì phải độc lập, không nhận một chức tước gì của chính quyền.
  8. Ghi được một vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn, tả được một nỗi khổ của con người khiến cho đời sau cảm động, bấy nhiêu cũng đủ mang danh nghệ sĩ rồi.
  9. Văn thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư tưởng thì mới hay. Ở Trung Hoa, thơ Lý Bạch, văn Tô Đông Pha hay nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn Du tự nhiên, bình dị mà bài nào cũng có giọng buồn man mác.
  10. Tôi khuyên con cháu đừng làm chính trị, nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân dân.
  11. Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập, cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ đừng gây rối thôi; tuyệt nhiên không được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của một người.
  12. Một xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không phải là nghề tự do thì không gọi là xã hội tự do được.
  13. Khi nghèo thì phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được sự độc lập và tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh và lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như vậy hay không.
  14. Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý hoặc được nhiều người ngưỡng mộ thì sẽ mang họa vào thân.
  15. Hôn nhân bao giờ cũng là một sự may rủi. Dù sáng suốt và chịu tốn công thì cũng không chắc gì kiếm được người hợp ý mình; phải chung sống năm ba năm mới rõ được tính tình của nhau. Từ xưa tới nay tôi thấy cuộc hôn nhân của ông bà Curie là đẹp nhất, thành công nhất cho cả cá nhân ông bà lẫn xã hội. Hiện nay ở Mỹ có phong trang kết hôn thử, tôi cho rằng chưa chắc đã có lợi cho cá nhân mà có thể gây nhiều xáo trộn cho xã hội.
  16. Có những hoa hữu sắc vô hương mà ai cũng quý như hoa hải đường, hoa đào; nhưng đàn bà nếu chỉ có sắc đẹp thôi, mà không được một nét gì thì là hạng rất tầm thường. Chơi hoa tôi thích nhất loại cây cao; có bóng mát, dễ trồng và có hương quanh năm như ngọc lan, hoàng lan. Ở đâu tôi cũng trồng hai loại đó.
  17. Rất ít khi con người rút được kinh nghiệm của người trước. Ai cũng phải tự rút kinh nghiệm của mình rồi mới khôn, vì vậy mà thường vấp té. Nhưng phải như vậy thì loài người mới tiến được.
  18. Cơ hồ không thay đổi được bản tính con người: người nóng nảy thì tới già vẫn nóng nảy, người nhu nhược thì tới già vẫn nhu nhược. Nhưng giáo dục vẫn có ích. Không nên cho trẻ sung sướng quá. Phải tập cho chúng có quy củ, kỷ luật, biết tự chủ và hiểu rằng ở đời có những việc mình không thích làm nhưng vẫn phải làm; và làm thì phải làm ngay, làm đàng hoàng, làm cho xong.
  19. Thay đổi bản tính con người như Mặc Tử, như Karl Marx muốn là chuyện không dễ một sớm một chiều. Thế giới còn những nước nhược tiểu nhiều tài nguyên thì còn bọn thực dân họ chỉ thay đổi chính sách thôi. Thực dân nào cũng vậy. Khi họ khai thác hết trên mặt đất, trong lòng đất thì họ sẽ khai thác biển, đáy biển, Họ còn sống lâu. Tuy nhiên cũng phải nhận rằng sự bóc lột trong một nước tân tiến thời nay đã giảm nhiều, thì sau này sự bóc lột các dân tộc nhược tiểu cũng sẽ giảm đi lần lần.
  20. Xã hội bao giờ cũng có người tốt và kẻ xấu. Như Kinh Dịch nói, lúc thì âm (xấu) thắng, lúc thì dương (tốt) thắng; mà việc đời sau khi giải quyết xong việc này thì lại sinh ra việc khác liền; sau quẻ Ký tế (đã xong) tiếp ngay quẻ Vị tế (chưa xong). Mình cứ làm hết sức mình thôi, còn thì để lại cho các thế hệ sau.
  21. Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút chứ đừng giàu quá. Nhưng hồi năm mươi tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng.
Nguồn: Nguyễn Hiến Lê,1980. “Đời viết văn của tôi” Nhà Xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1996, 400 trang; Tiểu sử học giả Nguyễn Hiến Lê theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam – Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội in trong “Kinh Dịch, đạo của người quân tử”, Nhà Xuất bản Văn học 1992, trang 7-8; Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
22. Ông viết trên trang đầu sách Không Tử, cuốn sách mà ông viết xong 1978, xuất bản 1992: “Triết thuyết nào cũng chỉ để cứu cái tệ của một thời thôi. Muốn đánh giá một triết thuyết thì phải đặt nó vào thời của nó, xem nó giải quyết được những vấn đề của thời đó không, có là một tiến bộ so với các thời trước, một nguồn cảm hứng cho các đời sau không. Và nếu sau mươi thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức trí con người được nâng cao thì phải coi nó là một cống hiến lớn cho nhân loại rồi.”
Nguyễn Hiến Lê nhân cách người hiền
Phan Ngọc Hiền tại bài viết Rành mạch như Nguyễn Hiến Lê đã cho thấy nhân cách của vị học giả đáng kính này nghiêm cẩn trong nghề viết văn và khách quan, rành mạch trong quan niệm sống …
Ông là tấm gương sáng về tinh thần lao động đã để lại một di sản đồ sộ, tới cả trăm cuốn sách có giá trị về nhiều mặt. Ông cũng là một nhân sĩ đáng trọng bởi dù ở hoàn cảnh nào vẫn luôn giữ được một cách nhìn nhận vấn đề khách quan, trung thực. Điều đặc biệt ở học giả Nguyễn Hiến Lê là không chỉ trong việc viết mà trong cuộc sống đời thường, ông luôn sòng phẳng, rành mạch thể hiện thái độ, quan niệm sống của mình…
1.Trong đời mình, cả hai lần học giả Nguyễn Hiến Lê được chính quyền Sài Gòn đề nghị trao giải Tuyên dương sự nghiệp văn học, nghệ thuật thì cả hai lần ông đều từ chối không nhận. Trả lời thắc mắc của một số bạn hữu, Nguyễn Hiến Lê cho hay: “Nguyên tắc của tôi là không nhận một vinh dự gì do một chính quyền tôi không trọng ban cho”. Được biết số tiền dành cho giải thưởng bấy giờ rất cao, lên tới 1.000.000 đồng, tương đương với 25 lượng vàng.
Xác định điều hữu ích lớn nhất mà mình có thể đóng góp cho đời là việc cầm bút, Nguyễn Hiến Lê đã kiên quyết gạt bỏ những việc làm mà ông cho là vô bổ, mất thời gian, ảnh hưởng tới nghiệp viết của mình. Một lần, chính phủ Nguyễn Văn Thiệu mời Nguyễn Hiến Lê tham gia Hội đồng Giáo dục toàn quốc, ông nhất mực thoái thác với lý do: Việc đề nghị cải tổ giáo dục ông đã có bài đăng trên tạp chí Bách khoa từ năm 1962. Giờ ông không có gì để nói thêm. Vả chăng, đang trong tình hình chiến tranh, có bàn thế chứ bàn nữa cũng chỉ… mất thời giờ. Một lần khác, có vị Bộ trưởng trong chính phủ Sài Gòn cho nhân viên đến mời ông tới “tư dinh” của ông ta nói chuyện riêng, ông đã thẳng thừng cật vấn người này: “Ông ấy lấy tư cách gì mà mời tôi như vậy? Tôi không thuộc quyền ông ấy. Nếu ông ấy mến tôi là nhà văn thì sao lại mời tôi lại thăm ông ấy?”. Lại có lần, Nguyễn Hiến Lê đã không thèm trả lời thư riêng của một vị Bộ trưởng chỉ vì vị này, trong thư gửi ông đã để một viên thư ký… ký thay.

Học giả Nguyễn Hiến Lê (thứ ba từ trái qua) cùng bạn bè, đồng nghiệp.
2. Nguyễn Hiến Lê từng tâm sự rằng, hồi trẻ, khi viết văn, ông hơi mắc bệnh khoa trương. Sau này tuổi càng lớn, ông càng trân trọng sự bình dị. Những gì viết trước đây, nếu chưa kịp in thì ông cũng chỉ giữ lại làm kỷ niệm, chứ không cho in lại nữa. Ông ngượng.
Trọng sự bình dị, ông còn trọng cá tính của mình nữa. Một lần, có nhà biên tập sau khi đọc đoạn văn ký sự của ông, đã cất công đảo câu văn lên, câu văn xuống, cắt tỉa, thêm bớt cho “có nhạc hơn”. Ông khen người nọ “sửa khéo” nhưng khi đưa in bài viết, ông giữ nguyên đoạn văn ông viết vì thấy phải nói như thế mới tự nhiên, mới đúng ý, đúng cảm xúc của mình.
Đa phần các sách của Nguyễn Hiến Lê đều bán chạy, song có những đề tài ông biết rất ít người đọc, nhưng vì ông thích, ông vẫn cứ viết. Như cuốn “Một niềm tin”, chỉ được in có hơn nghìn bản mà tới gần chục năm sau sách vẫn chưa tiêu thụ hết.
Khi dịch sách, Nguyễn Hiến Lê thường chọn những cuốn mà bút pháp của tác giả không trái với bút pháp của ông, nghĩa là phải bình dị, tự nhiên. Ông tâm sự ông thích sách của Lev Tolstoy, Somarset Maugham. Dịch “Chiến tranh và hòa bình” của Tolstoy, mặc dù nhận thấy bộ sách “rất dài và có nhiều chương lý thuyết về lịch sử đọc chán lắm”, nhưng ông vẫn dịch trọn, không để sót một dòng. Quan điểm của ông về vấn đề này rất rạch ròi: “Tôi nghĩ tác phẩm đó lớn quá, nước mình nên có một bản dịch đầy đủ, rồi sau muốn phổ biến rộng thì sẽ cắt bớt”.
Nhắc tới các sách dịch của Nguyễn Hiến Lê, độc giả thường nhớ nhiều tới hai cuốn “Quẳng gánh lo đi và vui sống” và “Đắc nhân tâm” của Dale Carnegie. Đây là một tác giả có những quan điểm về xử thế mà Nguyễn Hiến Lê rất tâm đắc, song vẫn có chỗ ông thẳng thắn bày tỏ quan điểm không đồng thuận. Như trong bài viết “Nhân sinh quan của tôi”, Nguyễn Hiến Lê đã nêu ý kiến: “Nên trọng dư luận nhưng không nên nhắm mắt theo dư luận. Biết đắc nhân tâm nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất bình của mình mà không sợ thất nhân tâm”.
3. Là người có lối nghĩ Tây học, tân tiến, song Nguyễn Hiến Lê vẫn không sao dung nạp được cách sống tự do thái quá, xem nhẹ sự liên kết giữa các thành viên trong gia đình như ở một số nước Âu, Mỹ. Ông kể: “Người Âu Mỹ, khi lớn rồi thì ra ở riêng, cả tháng, có khi cả năm không lại thăm cha mẹ một lần; cha mẹ già thì đưa vào viện dưỡng lão”. Ông cũng than phiền về một nghịch lý trong xã hội Việt Nam, ấy là việc “người già phải giữ cháu cho con, sắp hàng mua thực phẩm cho con, nấu cơm cho con. Mấy bạn già của tôi cũng phàn nàn phải làm “vú đực” cho cháu”.
Năm 1965, một người con trai của Nguyễn Hiến Lê tên là Nhật Đức (khi ấy đang sống và làm việc tại Pháp) đã bất ngờ xin phép bố mẹ cho được kết hôn với một phụ nữ Pháp. Nguyễn Hiến Lê nghe tin vậy thì rất giận. Biết tính con trai đã làm gì là quyết làm bằng được nên ông không… cấm, song cũng nhất định không can dự vào việc này, để hai mẹ con tự lo. Mấy năm sau, người con trai này kêu cầu mẹ mình ở lại Paris trông nom con cái giùm vì hai vợ chồng đang làm thủ tục… ly dị. Nhận được tin con, đầu Nguyến Hiến Lê như bốc hỏa. Ông nhắn cho vợ: “Bảo nó trước kia đã tự ý lựa vợ, tự mưu hạnh phúc cho nó, bất chấp ý kiến cha mẹ thì bây giờ nó cũng phải chịu lấy hậu quả của sự quyết định của nó, chứ tại sao lại cầu cứu tới má nó, bắt má nó bỏ nhà, bỏ cửa công việc dạy học bên đây, làm vú em cho con nó rồi bắt lây cô Liệp (vợ sau của Nguyễn Hiến Lê – PNH) bỏ nhà cửa ở Long Xuyên mà lên đây săn sóc cho tôi”. Ông mắng con là đã Âu hóa quá mau, chỉ thờ cá nhân chủ nghĩa, “không biết tới gia đình, không còn tình của con người nữa”.
Vậy nhưng sau này, khi người con trai nói trên của Nguyễn Hiến Lê đã ly dị vợ rồi, và bà vợ đầu của ông cũng đã ổn định cuộc sống ở Pháp, trong khi cuộc sống trong nước thì đói kém, Nguyễn Hiến Lê lại thấy: Hóa ra, trong cái rủi có cái may. Từ đó, ông quay sang ân hận vì mình đã quá nóng nảy với con. Ông tâm sự: “Đời nó như bị cái gì đó chi phối, nó tưởng nó làm chủ tương lai của nó được, tự tạo hạnh phúc được mà rồi nó thất bại… Kinh nghiệm của cha mẹ không giúp gì được cho con thì tôi còn rầy con tôi làm chi nữa”.
Đối chiếu việc đam mê viết sách của mình với trách nhiệm gia đình, Nguyễn Hiến Lê cũng không khỏi có phút ngẫm ngợi: “Viết đối với tôi như một môn tiêu khiển rẻ tiền nhất. Nhưng đôi khi tôi ân hận rằng vì tôi chúi đầu vào sách, vợ con tôi nhiều lúc cũng thấy chán”.
4. Sau ngày giải phóng miền Nam, mặc dù vợ con đang sống ở Pháp và Nguyễn Hiến Lê hoàn toàn có đủ điều kiện để sang đó định cư theo con đường hợp pháp, song ông vẫn chọn phương thức ở lại trong nước. Một số văn nghệ sĩ ngoài Bắc và nhà văn tham gia kháng chiến ở bưng biền đã tìm đến thăm ông, hỏi han sức khỏe và tình hình công việc. Nguyễn Hiến Lê tiếp chuyện họ một cách lịch sự, cầu thị, song không vồ vập. Đặc biệt, tiếp chuyện thì tiếp chuyện vậy chứ ông “không đáp lễ” (tức không đến thăm trả lễ) ai cả. Ông không muốn để ai đó hiểu lầm là ông muốn ôm chân những người của “chế độ mới”.
Tuy có những điểm bất ưng về cung cách làm việc của một số cán bộ trong chính quyền mới, song Nguyễn Hiến Lê cũng rành mạch thừa nhận: “Xét chung, các học giả miền Bắc có cảm tình với tôi; chính quyền đối với tôi cũng có biệt nhãn”. Ông cũng trung thực ghi lại lời khuyên của học giả Đào Duy Anh với ông: “Ông khuyên tôi nên coi cán bộ ở bưng về như con cháu mình, tìm hiểu họ chứ đừng trách họ. Họ gian lao chiến đấu cả chục năm, nay thành công thì tất nhiên muốn được hưởng lạc, muốn được nắm quyền và tin chắc rằng chính sách của họ đúng, phải có tin như vậy mới làm việc được. Họ ít được học, không có kinh nghiệm hành chánh, cho nên phải dò dẫm…”.
Một lần, khi thấy tình hình sức khỏe của Nguyễn Hiến Lê mỗi ngày mỗi suy, một nhân viên ở Ban Tuyên huấn Thành ủy Sài Gòn đã đề nghị giới thiệu ông vào điều trị ở Bệnh viện Thống Nhất, với chế độ dành cho cán bộ cấp cao của thành phố, Nguyễn Hiến Lê đã nhất mực từ chối. Ông giải thích thái độ đó của mình: “Tôi có công gì với Cách mạng đâu mà vô đó nằm?…Vô đó người ta gọi tôi là đồng chí, tôi sẽ mắc cỡ, chịu sao nổi?”
Nguyễn Hiến Lê sao sáng trời Nam
P. Schneider một nhà Việt Nam học người Pháp nổi tiếng với nhiều tác phẩm mà nổi bật hơn cả là cuốn “Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bạch Vân Quốc ngữ thi tập” đã có bài thơ “Ngọn đèn” (L.M. Hoàng lược dịch) tặng cụ Nguyễn Hiến Lê trong lần gặp cuối tác giả cuốn sách: Kinh Dịch đạo của người quân tử (viết xong năm 1978, xuất bản năm 1992)
NGỌN ĐÈN
Tặng Nguyễn Hiến Lê
Xe dừng tôi trước ngõ
“Anh bảo tôi ngồi dưới đèn
Để nhìn nhau cho rõ”
Thành phố đã khác xưa
Thay tên và đổi họ
Riêng một ngọn đèn đây
Hiểu lòng chung thuỷ đó
Vẫn ngọn đèn ngày nào
Bóng sáng tròn mờ tỏ
Ngoài kia là đêm đen
Tương lai đầy khốn khó
Thấy nhau một bận này
Tuyệt mù ngày tái ngộ.
Đêm trước đổi mới (1976-1986), mặc dù Nguyễn Hiến Lê biết rõ loại sách triết học của ông đang dịch và viết cũng như nhà sách Nguyễn Hiến Lê sẽ gặp nhiều khó khăn không thể tự xuất bản tác phẩm ít nhất “ trong mươi năm tới” nhưng ông “vẫn tiếp tục thực hiện cho xong chương trình đã hoạch định, rồi cứ để đó không bao giời in được cũng không sao”.
Viết xong cuốn Kinh Dịch, đạo của người quân tử, năm 1980 ông về lại Long Xuyên. Ông lâm bệnh và mất ngày 22 tháng 12 năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 72 tuổi. Với nhân cách lớn, ông kịp để lại hơn 20 tác phẩm nữa sau ngày đất nước thống nhất, ngoài 100 tác phẩm trước đó.
Huỳnh Như Phương trong Một tượng đài của văn hoá đọc đã viết những lời rất trân trọng đối với Nguyễn Hiến Lê. Ông là tấm gương đạo đức nghề nghiệp và lương tri của người trí thức, là tinh thần tự lực tự cường đã lập nhà xuất bản của riêng mình để hạ giá thành và xuất bản đúng lương tâm, là tấm gương tự học để trở thành nhà văn hoá ở đỉnh cao. Ông học rất cẩn trọng để viết và viết rất cẩn trọng để dạy làm người.
“Năm 1980, khi nhà văn Nguyễn Hiến Lê quyết định chuyển về ẩn dật ở Long Xuyên, có lẽ ông chưa thể hình dung rằng không đầy mười năm sau, sách của ông sẽ được in lại trang trọng và xuất hiện trên các quầy sách trong một thị trường văn học rất kén chọn độc giả. Lúc đó, nhìn dáng ông thong dong và lặng lẽ lui vào ngõ vắng, hẳn không ít người nghĩ rằng, cùng với sự rút lui của tác giả, những cuốn sách của ông cũng đã qua cái thời của nó.
Còn nhớ, số báo cuối cùng của tạp chí Bách khoa ra ngày 19-4-1975 đã đăng những bài kỷ niệm cuốn sách thứ 100 của Nguyễn Hiến Lê, đánh dấu kỳ tích của một người lao động sáng tạo và học thuật. Vốn là một kỹ sư công chánh từ miền Bắc vào lập nghiệp ở miền Nam, từ năm 1952 ông mới định cư hẳn ở Sài Gòn và tập trung cho nghề văn. Nếu tính từ khi cuốn sách đầu tiên được in vào năm 1949, trong vòng 30 năm, ông đã miệt mài và nghiêm cẩn sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn, dịch thuật, trước tác để cống hiến cho đời những cuốn sách thuộc nhiều thể loại khác nhau: sách học làm người, gương danh nhân, giáo dục, chính trị, ngữ pháp, ký sự, tiểu thuyết, kinh nghiệm viết văn…, đặc biệt là những công trình biên khảo công phu và đồ sộ về triết học.
Hồi ký của Nguyễn Hiến Lê ghi lại tinh thần làm việc say mê và tính kỷ luật của ông: mỗi ngày, ông dành thời gian để sắp xếp tài liệu, ghi chép, suy nghĩ trước khi ngồi vào bàn viết. Ông có thói quen viết vào buổi sáng và buổi chiều, còn buổi tối dành để đọc sách báo. Trung bình mỗi năm ông in ba cuốn sách, tổng cộng khoảng 900 trang. Có người kêu: thời gian ở đâu mà ông viết được nhiều vậy? Ông bảo: có gì đâu mà nhiều, tình bình quân mỗi ngày chỉ viết có ba trang chứ mấy! Viết văn, nhiều người cứ ngồi chờ cảm hứng đến. Với những người như ông thì muốn có cảm hứng, phải ngồi vào bàn và cầm bút viết ra giấy. Kiên trì, nhẫn nại, toàn tâm toàn ý, Nguyễn Hiến Lê xây dựng sự nghiệp mình như vậy. Thật là đáng trọng một nghị lực, một tính cách, một nhân cách: hơn 20 năm ở Sài Gòn ông chỉ đi ăn đám cưới bốn, năm lần; ông từ chối lời mời dạy học ở Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn vì sợ thì giờ bị phân tán; hai lần ông lịch sự mà kiên quyết không nhận giải thưởng văn học nghệ thuật để giữ trọn sĩ khí của một nhà văn hoá độc lập với chính quyền.
Những người viết sách ngày nay học được rất nhiều ở Nguyễn Hiến Lê về đạo đức nghề nghiệp và lương tri của người trí thức. Sách của ông không tránh khỏi những thiếu sót nhất định do hạn chế lịch sử, nhưng ông không bao giờ viết điều gì trái với lương tâm, để mười năm, hai mươi năm sau phải hổ thẹn khi đọc lại. Ông luôn luôn đúng hẹn với các nhà xuất bản, cố gắng giao nộp bản thảo trong dạng thức hoàn chỉnh với tất cả khả năng của mình, không để sót những lỗi kỹ thuật vì vô ý. Mỗi lần sách được tái bản, ông đều xem lại, sửa chữa và bổ sung. Ông cẩn trọng đến mức, hồi dịch Chiến tranh và hoà bình, do tình hình chiến sự, ông đã chép tay trên giấy than thành ba bản: một đưa cho nhà xuất bản Lá Bối, một cất ở nhà và một gửi về quê, phòng bị thất lạc.
Những doanh nhân làm sách ngày nay còn có thể học ở Nguyễn Hiến Lê một tấm gương về tinh thần tự lực tự cường. Để không bị các nhà phát hành bóc lột, để góp phần làm giảm giá thành của sách, ông đã lập nhà xuất bản mang tên mình, tìm cách phân phối sách cho các đại lý và hàng tháng đi xe ôm thu hồi tiền bán sách. Sách của nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê, tuy hoạt động dưới thời “thực dân mới”, nhưng cuốn nào cũng mang đậm tinh thần dân tộc, không hề có những nhan đề giật gân, câu khách và những hình bìa diêm dúa như một số cuốn sách bây giờ.
Một điều nữa góp phần khẳng định Nguyễn Hiến Lê như một tượng đài của văn hoá đọc, đó là ông đã thể hiện tấm gương tự học để trở thành nhà văn hoá ở đỉnh cao. Ở Sài Gòn thời đó, ông thường xuyên nhận được những cuốn sách mới nhập về từ Âu Mỹ, ông nắm bắt thông tin về khoa học, tư tưởng trên thế giới một cách nhạy bén, kịp thời; nhưng ông không vồ vập mà cân nhắc, chọn lọc để giới thiệu cái gì có ích cho dân tộc mình. Chưa thấy ai chê ông là người nệ cổ, cũng chưa thấy ai trách ông là người sùng ngoại, xu thời.
Nguyễn Hiến Lê từng nói, để viết ra được một cuốn sách, cần phải đọc thật nhiều sách; viết là một cách học tập, học tập để mà viết. Muốn có gì để nói với mọi người, thì trước hết mình phải nạp năng lượng tri thức và tiêu hoá năng lượng. Nhờ thế, những hạt giống được gieo trong sách mới nẩy mầm và đơm hoa kết trái.”
 ViengNHL3
Cổng chùa Phước Ân nơi ông bà Nguyễn Hiến Lê an nghỉ 
HienLe1
Phần mộ và nơi lưu dấu của nhà văn, học giả Nguyễn Hiến Lê tại chùa Phước Ân xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp thật thanh thản và khiêm nhường. Nguyễn Hiến Lê cốt cách người hiền, sâu sắc cứng cỏi, gần gũi thiên nhiên. Thầy sống tư cách chết yên bình giữa vùng quê yên tĩnh. Con người ấy, văn chương ấy quý giá biết bao!
HienLe4
Bàn thờ cụ Nguyễn Hiến Lê trong chùa Phước Ân
Tôi thành kính dâng hương và ngắm nhìn kỹ những dòng chữ: “NGUYỄn HIẾN LÊ từ trần 22.12.1984 (1.12 Giáp Tý) Hưởng thọ 74 tuổi; Tì kheo Ni THÍCH NỮ HUỆ ĐỨC Thế danh Nguyễn Thị Liệp sanh 1909 Kỷ Dậu, Viên tịch 8.7.1999 (26.5 Kỷ Mão); “PHỤNG VỊ PHƯỚC AN ĐƯỜNG THƯỢNG,TỬ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG, TỬ THẬP NHẤT THẾ, húy NHỰT KÍNH, hiệu THIỆN CHÍ NGUYỂN CÔNG HÒA THƯỢNG, GIÁC LINH LIÊN TÒA”, ngắm nhìn rặng dừa, đồng ruộng và ngộ ra được rất nhiều điều…
NguyenHienLe
Tuyển tập Nguyễn Hiến Lê hiện có tại nhà sách sông Hương. Các ông Nguyễn Quang Thắng, Châu Hải Kỳ lưu giữ nhiều thông tin và trước tác về người Thầy lỗi lạc này.
Nguyễn Hiến Lê sao sáng trời Nam.
HienLe2
HienLe3
Hoàng Kim
Tài liệu tham khảo chính
1) Nguyễn Hiến Lê, 1980. “Đời viết văn của tôi” Nhà Xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1996, 400 trang;
2) Châu Hải Kỳ (2007). Nguyễn Hiến Lê – Cuộc đời & Tác phẩm. TP. Hồ Chí Minh: NXB Văn học ;
3) Hoàng Kim (2007) Nguyễn Hiến Lê http://danhnhanviet.blogspot.com/2007/12/nguyn-hin-l.html;
4) Hoàng Kim (2011) Phan Ngọc Hiền: Rành mạch như Nguyễn Hiến Lê http://dayvahoc.blogspot.com/2011/03/ranh-mach-nhu-nguyen-hien-le.html ;
5) Tiểu sử học giả Nguyễn Hiến Lê theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam – Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội in trong “Kinh Dịch, đạo của người quân tử”, Nhà Xuất bản Văn học 1992, trang 7-8;
6) TUYỂN TẬP NGUYỄN HIẾN LÊ trên Nhà sách Sông Hương ;
7) Trung Thu ( 2010) Tìm mộ cụ Nguyễn Hiến Lê http://phapluattp.vn/20100101044224103p1112c1113/tim-mo-cu-nguyen-hien-le.htm;
8)  Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Tiếng Việt: Nguyễn Hiến Lê http://vi.wikipedia.org/wiki/ Nguyen_Hien_Le;
9) Trương Vĩnh Khánh 2013. Đôi dòng về học giả Nguyễn Hiến Lê. Vũ Ngọc Tiến đăng trên Viet-studies ngày 5.6.2013  http://www.viet-studies.info/NguyenHienLe_TruongVinhKhanh.htm

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 156

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG I/30

KIẾP GIANG HỒ 4