Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

DẦU GIÂY



Khét tiếng đến nay "Trạm Dầu Giây"
Có lũ cướp ngày, thời "ngăn sông cấm chợ"
Thò lò mũi xanh, mà ngông nghênh hơn giặc
Gây ra biết bao  "Cái đêm hôm ấy... đêm gì!?"*

Sáng nay qua Dầu Giây
"Đổi mới" quét đi, vừa quét lại nữa rồi...
Xe bon bon giữa đất trời êm ả
Bật cười vang ha hả!...

Chợt cứng họng, đờ môi...
Ừ nhỉ, đám rác ấy giờ này đâu rồi
Hạ cánh an cư hay còn trên... thượng giới?

Nổi da gà, rùng mình, nhói lói...

                                  Trần Hạnh Thu



*ĐỌC THÊM:

Nhớ những ngọn đuốc của đêm trước đổi mới
Ông là người thiết kế chủ trương “bù giá vào lương” đột phá thành trì bao cấp những năm 1980. Ông đã vĩnh viễn ra đi vào ngày 22-5.

Ông Tư Giao, “Lưỡng quốc quân sư”, người tham mưu “bù giá vào lương” thời kỳ đêm trước đổi mới. Ảnh: NPD
 
      Vĩnh biệt “Lưỡng quốc quân sư” Bùi Văn Giao:
      1. Năm 1978-1979, hậu quả khắc nghiệt của cơ chế bao cấp đã lan ra đến tận chiến trường biên giới. Bộ đội chiến đấu dù được ưu tiên tiêu chuẩn 21 kg gạo/tháng nhưng vẫn phải độn 5-7 kg khoai mì, khoai lang, bo bo, bột mì... Không gì bất hợp lý bằng chuyện các lò bánh mì “chui” ở vùng đô thị thiếu nguyên liệu phải mua bột mì chợ đen với giá cao ngất ngưởng, còn những người lính trên Đồng Tháp Mười lúa vàng màu mỡ nhất nước lại phải ăn bột mì.
      Tôi về phép, má tôi giấu cái nghèo trong bộ quần áo lành lặn nhất nhưng cũng đã sờn vai, rách gấu. Để đãi tôi có bữa ăn ngon, má phải kêu bán lậu con heo lấy lại bộ đồ lòng. Cuộc sống thật khắc nghiệt, lúa trúng đầy bồ nhưng nông dân xơ xác vì giá mua rẻ như cho, chỉ hai mươi xu một giạ. Nông dân đem lúa xay gạo ăn phải mang theo sổ và chỉ được xay theo định mức đầu người. Cán bộ, nhân viên được cấp số lương tượng trưng và số hàng nhu yếu phẩm hàng tháng, hàng quý theo cái nhà nước có... Thời đó, để sống được hầu như ai cũng phải làm một “con phe”, phải về nhà mang lậu ít lít gạo, con gà, chục trứng. Người quê lên thành ai cũng mang lậu ít trái dừa, thịt mỡ cho con cháu.
      Năm 1983, tôi ra quân đi học đại học, cuộc sống bao cấp ở Sài Gòn lại càng nghiệt ngã...
      2. Hè năm đó tôi về Long An như rơi vô một thế giới lạ. Rào cản, ngăn sông cấm chợ vẫn còn đó nhưng có một khe cửa hẹp để người ta có thể mua bán, giao dịch với nhau. Cán bộ, nhân viên được nhận tiền lương sòng phẳng, không còn phải buộc mua hàng phân phối. Người nông dân có giấy hoàn thành nghĩa vụ nông nghiệp được “mua bán hàng đối lưu”, “hàng hai chiều” với thương nghiệp nhà nước, hợp tác xã và có quyền dùng số hàng này đi trao đổi lấy hàng hóa khác ở địa phương khác. Tiếp theo đó, chuyện mua bán hàng đổi hàng dần dần được tiền tệ hóa. Bữa ăn của từng gia đình được cải thiện, cái mặc của dân cũng dần tươm tất hơn và hệ thống mua bán tư nhân lại rụt rè sống dậy.
      Đừng nghĩ mình là ông trời, buộc mọi việc theo ý mình. Thật ra, xã hội đã tự thân vận động, công việc của người hoạch định chính sách rất đơn giản, thấy chỗ nào bị tắc thì khơi thông dòng chảy.
      Người dân truyền nhau tác giả của sự xé rào, thay đổi kỳ diệu đó do ông bí thư Chín Cần là tư lệnh và ông Tư Giao, Trưởng ty Thương nghiệp là nhà thiết kế. Nguyên ông Chín Cần là người có cái đầu thực tiễn. Sau năm 1975, thấy những hiện tượng không bình thường của kinh tế-xã hội, ông lặn lội đi chiêu hiền đãi sĩ, tìm người cùng tâm huyết phá thế khó khăn.
      Trong đó, ông gặp được ông Tư Giao người Tân Trụ, Long An, nguyên là trí thức tham gia Thanh niên tiền phong và kháng chiến suốt hai thời kỳ. Năm 1976, ông Tư Giao đang là ủy viên Ủy ban Kinh tế kế hoạch khu Trung Nam bộ được ông Chín Cần rước về làm trưởng Ty Thương nghiệp, phó chủ tịch tỉnh rồi trưởng ban Kinh tế kế hoạch tỉnh. Và chính bộ đôi tâm đầu ý hợp này đã tạo ra cuộc phá rào ngoạn mục.
      Trong thời điểm đó, đang đầu tư khai thác Đồng Tháp Mười, tỉnh không có tài nguyên đặc sản, công nghiệp còn manh mún. Thế nhưng chỉ bằng cải tiến trong thương nghiệp, Long An đã tự cân đối được thu chi ngân sách và là một trong chưa đến 10 tỉnh thành của cả nước có dư để nộp ngân sách cho trung ương.
      3. Hồi đó tôi đến gặp ông Tư tại trụ sở của Ban Kinh tế kế hoạch Tỉnh ủy. Căn phòng ông Tư vắng vẻ, không có cảnh người xin chữ ký, thư ký, phục vụ..., chỉ có mình ông và những tủ sách. Ông cười: “Đừng nghĩ mình là ông trời, buộc mọi việc theo ý mình. Thật ra xã hội đã tự thân vận động, công việc của người hoạch định chính sách rất đơn giản, thấy chỗ nào bị tắc thì khơi thông dòng chảy”. Ngẫm lại, chuyện những năm về trước chỉ là phá đi những rào cản duy ý chí của cơ chế quản lý quan liêu. Cái quan trọng là người lãnh đạo như ông Chín và người trí thức như ông đã gặp nhau và có cơ hội phá đi rào cản đó.
      Sau thành công đó, ông được một số nhà lãnh đạo chú ý. Cuối năm 1987, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào xin cho ông sang Lào làm cố vấn. Sau đó, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh có ý điều ông ra Hà Nội làm thư ký riêng. Thế nhưng việc sắp xếp ấy không thành. Ông đành về lại Long An để... dưỡng già.
      Chuyện đời ông “lưỡng quốc quân sư” là bài học thành công của sự đột phá, của sự ăn ý giữa người lãnh đạo và người trí thức, đồng lòng phá bỏ những rào cản bất hợp lý, cản trở sự vận hành của các quy luật khách quan.
       ANH KIỆT - Pháp Luật TP.HCM


       

        Cái đêm hôm ấy... đêm gì?

      Sau loạt bài "Đêm trước đổi mới", rất nhiều bạn đọc đã gọi đến Tuổi Trẻ yêu cầu đăng lại bài ký sự một thời gây sóng gió "Cái đêm hôm ấy.... đêm gì?" của nhà văn Phùng Gia Lộc. Ngày ấy, khi xuất hiện trên báo Văn Nghệ, những dòng chữ rút ruột từ nỗi uất ức, cay đắng, ngỡ ngàng của Phùng Gia Lộc đã tạo nên một "cơn địa chấn".

      Tác giả Phùng Gia Lộc, tháng 6-1988 - Ảnh tư liệu
       
        Nhiều người đã phải giật mình, phải tự nhìn lại mình, nhìn lại những việc mình làm và đang hô hào người khác làm... Một hơi gió của đổi mới cũng bắt đầu từ đó, góp vào cơn gió sẽ đổi mới cả một đất nước, đổi đời cho hàng chục triệu con người.
        Theo yêu cầu của độc giả, Tuổi Trẻ xin đăng lại toàn văn bài ký sự "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" của nhà văn Phùng Gia Lộc trên Tuổi Trẻ Online. Xin bạn đọc thông cảm cho việc không thể đăng trên báo ngày, vì các trang còn phải dành cho tin, bài thời sự.
        _____________________

        Cuối năm 1983, tôi được ở nhà chờ quyết định về nghỉ chế độ. Chiều chủ nhật, thằng Học con tôi rủ rỉ nói:
        - Con bắt được bác Quang ăn bánh cuốn ở hàng anh Minh. Bác đi thồ sắn ở chợ Phúc Địa về. Bác cho mấy bó nhưng con không lấy. Bác dặn con về đừng nói với bố mẹ là đã gặp bác. Nói, hôm nào sang bác đánh chết.
        - Hừ! Lại thế nữa...
        Tôi buột miệng bảo với con thế, rồi thừ ra. Bạn bè anh em cùng một phòng với nhau mà đi qua không vào. Có điều gì nhỉ?
        Sáng thứ hai tôi sang cơ quan ứng mấy cân gạo và định bụng sẽ gặp, trút sấm sét lên đầu anh ấy. Nghe tôi trách, Lê Trung Quang, trưởng phòng tổ chức Ủy ban huyện Thọ Xuân, cười hà hà làm lành thật đôn hậu, dễ yêu:
        - Giá có một mình thì tôi vào. Đằng này những bốn binh, khao được, anh cũng liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng è, sợ tối.
        Là trưởng phòng tổ chức ủy ban huyện, anh cũng để gia đình vợ con đói thiếu. Ra anh còn kém cỏi hơn cả tôi, một kẻ chân chim trần trụi, một tay sắp trở thành "phó thường dân". "Nhà mình cũng bí. Nộp sản đi rồi, lúa đã cạn. Khó mà ăn thấu tết được". Quang lắc đầu bảo thế.
        Anh gạn tôi:
        - Ông ở đây với tôi đêm nay cho vui. Tôi buồn quá.
        Tôi chỉ vào mấy cân gạo đã bó buộc sau xe, bảo anh Quang:
        - Phải mang "hàng chiến lược" này về chứ.
        Nếu nghe lời Lê Quang Trung nằm lại với anh một đêm, thì tôi đã không thể nào hình dung nổi ở Phú Yên xã tôi Cái đêm hôm ấy là đêm gì...
        Có cái "các" quá giang của Lê Trung Quang cho mượn, tôi không phải mất ba đồng tiền đò. Qua sông Chu gió vù vù bên tai, tôi phải kéo vành mũ len, trùm thấp cho đỡ run. Tôi về đến nhà, trời đã sẩm tối, con mực xông ra í a í ẳng vờn chân lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong lòng, ngồi bên bếp than vỏ cao su um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi đang liến láu. Còn Học - thằng con nhớn đang học bài ở nhà trên.
        Thấy tôi về thằng Thức reo lên:
        - A bố! Bố về là bố về! Có chi không bố?
        - Có cái rét cóng đây này!
        Tôi nói rồi dắt xe vào nhà, mở túi gạo, vác xuống bếp khoe:
        - Ứng được năm cân gạo.
        Bà cụ thân sinh ra tôi mệt đã lâu, thấy tôi về, cũng gượng chống gậy xuống bếp sưởi. Cụ bảo:
        - Mẹ Học đi nấu cơm cho bố va ăn!
        Tôi hỏi:
        - Nhà ăn rồi hả mẹ?
        Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có giấu nó được tí gì. Nó nói:
        - Chỉ nấu cơm cho bà với em thôi! Mẹ với anh Học, với con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau cải.
        Tôi thấy cay sè trong mắt.
        - Thế thì nấu thêm vào. Hết thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?
        Vợ tôi định cãi câu gì đó, nhưng lại thôi, vội trao thằng Văn cho bà rồi lại mở túi gạo đi vo. Bà cụ nói:
        - Rau cải ế nhăn! Đói, chả mấy người mua. Hôm nay mẹ va không đong được gạo. May lấy được đấy, không thì mai gác con lên...
        Ngoài cửa gió ào ào, tiếng chó sủa ổng oảng ở đầu ngõ. Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Hoa cũng người họ Phùng, gọi tôi bằng bác. Chồng cô ấy là đội trưởng đội sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban định mức, rồi phó chủ nhiệm. Cô vào bếp vừa nói, vừa run:
        - Sao năm nay rét sớm thế này? Bác bán cho cháu mấy bó rau cải xào.
        Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp, mấy bà cháu phải dồn chỗ cho hai người đàn bà tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay, ngó chẳng khác những viên đạn bị nén trong cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ.
        - Bác có ngan, gà gì để cho cháu vài cân. Giá mấy cũng được, cháu không quản.
        - Còn có vài ba con, phải để hôm sau bà...
        Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ đẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái đầu mùa Đông này. Vì vậy gia đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo dành để hôm sau bà... thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be để hôm sau, thậm chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng dồn mua ván đóng sẵn áo quan để hôm sau... Ấy nhưng nói đến cái chết, cụ lại giận và làm nau: Bay trông tao chết à? Tao phải sống để nhìn con cháu được đến lúc sung sướng chứ. Khổ mãi rồi.
        Tôi hỏi Hoa để lấp láp câu hớ rồi cho bà cụ khỏi giận:
        - Mua đồ nhậu làm gì tối thế này?
        - À... mua cho mấy thằng về đội ta thu sản, khuya các hắn đớp. Đội và quản trị thuê khoán cháu nấu.
        Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện "bí mật nội bộ". Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là đêm "đồng khởi" thu sản, tổng vét cả xã. Họ sẽ đổi chéo, công an và dân quân đội này về đội kia, vét bằng hết. Vì đội 12 này là nặng gánh nhất, nên họ sẽ điều về đây những tay cứng cựa. Hoa khuyên:
        - Bác có thiếu sản, thì liệu mà xoay đi
        - Thế thì tao đét bán rau cho mi nữa.
        Vợ tôi toan từ chối, nhưng Hoa nài mãi và có tôi nói vào nên chị chàng mới chịu nghe. Hoa cầm đèn ra vườn soi cho vợ tôi hái. Cô ấy cầm rau, rồi còn đi các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì không phải ghế độn khoai độn sắn gì nên chín rất mau. Thấy chỉ nấu mình cơm tôi, lòng tôi lại buồn nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào lót cho nó ngủ trong buồng, rồi lấy cho tôi cái bát, đôi đũa. Cuộc chào mời đùn đẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.
        Tôi lùa hai bát cơm với nước dưa chua, rồi bỏ đấy. Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng Thức cũng lắc đầu không dám ăn chỗ cơm còn lại. Hắn sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó có quyền uy tối thượng. Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp trở thành kẻ sống nhờ...
        Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ:
        - Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa em?
        Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ:
        - Có biết thế này, đái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha đời! Bữa trước thì tuyên bố vớt được nấy ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà khở (gở) từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỷ lệ!
        Tôi vỗ về:
        - Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu?
        - Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với anh Nhà đội trưởng rồi. Thực tế mò được hạt nào đã ăn hết hạt nấy. Mấy lâu nay bán được đồng rau nào mua ăn, không bán được thì nhịn. Đã nói khất rồi. Không cho khất, thì nhà đấy có dỡ được, đến mà dỡ.
        - Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người khéo nói! Gia đình mình, con cái mình còn ăn đời ở kiếp nơi đây.
        Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc:
        - Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng cái đời...
        Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ cao su cháy tàn, đã vạc hai ba đống than, mà chẳng ai muốn nói với ai câu nào nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi và chán chuyện bỏ đi nằm. Thằng Học làm toán xong, lấy cho bà nồi than, rồi cũng rúc xuống bếp. Hắn đi bốc rơm lót ổ ngay cạnh bếp, lấy ván chắn rồi trải chiếu, ôm chăn ra nằm.
        - Ngủ đây mà ấm, bố ạ!
        Trong giường thằng Út Văn khóc í óe. Hắn lại đái lạnh đít rồi. Mẹ nó vào quả không sai. Nó được ôm ra bếp sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ. Gần một tuổi mà nó còn bắt nhá cơm bón và bú thì hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp thế đó! Tôi đùa với con để nó cười sằng sặc cho dịu cơn lo buồn.
        Gần mười hai giờ khuya, cả nhà đi nằm. Tôi ngủ với hai thằng oắt trong ổ rơm dưới bếp.
        Có điều gì đó bồn chồn và nơm nớp...
        Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã: từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực.
        Hoàng Văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc trên loa danh sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường. Chó sủa ơi là chó sủa. Cũng cái loa phóng thanh ấy, có tiếng ông chủ tịch xã gọi cán bộ về đội 12 hội ý.
        Ông trưởng công an xã Nguyễn Đình Định gào rát cổ trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân, công an tăng cường về chi viện cho đội 12, tạo đà cho đội hoàn thành chỉ tiêu huy động. Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.
        Gần một giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹch như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh, làm thằng Út Văn khóc thét lên, ôm riết lấy mẹ. Thằng Thức cũng im thin thít, nằm co trong lòng tôi không dám cựa. Bên nhà ông Ái, láng giềng cách vườn nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân đang lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghe rõ mồn một.
        - Cứ bắt lấy cái xe đạp! Phích, xô, bắt ráo!
        Ở cổng nhà tôi đã có bước chân rình rịch, con chó mực đang có chửa bị quất, kêu ử ử.
        Cạch cạch cạch.
        - Chị cò Lộc, mở cửa ra!
        Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức đang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học mười hai tuổi đã học lớp tám rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Một luồng đèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay che.
        - Có chuyện gì đấy, các bạn trẻ ơi?
        - Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông đừng hỏi vờ.
        Vợ tôi đã mở toang cửa, tay ôm thằng bé ngất lịm. Một anh, hai anh... bốn anh bạn trẻ ùa vào nhà. Anh đi đầu cao to, tóc cắt tăng gô, mặc áo bông thùng thình, soi đèn pin rồi đánh diêm châm cái đèn hoa kỳ ở bàn thờ. Có lẽ Tâm "hộ pháp" là người này. Phải, tôi đã thấy anh ta đứng chân hộ vệ giữa, trong một cuộc đá bóng với xã khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ ngón tay cái. Vợ tôi mời họ ngồi ghế. Bà cụ đang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy, run rẩy chào.
        Theo danh sách đội báo, chị còn thiếu hơn tạ thóc. Yêu cầu chị đem nộp ngay!
        Bà cụ tôi đáp thay con dâu:
        - Các bác các anh ơi! Có còn cái gì mà nộp. Các anh và các bác không thấy đàn con hắn đói xanh đói trong đi à? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá đây à?
        - Chúng tôi không hỏi mụ nghe chưa?
        Cả bốn người cùng soi đèn pin khắp nhà trong, nhà ngoài, dưới bếp, bên chái. Hai người tuông soi cả trong vườn rau. Vợ tôi mếu máo:
        - Làm gì có lúa để ngoài ấy. Các anh xéo nát cả rau.
        Tôi chạy ra trụ sở đội, định tìm cán bộ trình bày. Chủ tịch Phê, bạn dạy học với tôi ngày trước, đi bộ đội về giải nghệ, vào cấp ủy, đang đứng đấy. Thấy thế tôi mừng quýnh. Lại thấy cả Phùng Gia Miện anh họ tôi, làm bí thư đảng ủy cũng có mặt, tôi càng yên trí. Nhưng thấy tôi họ quay đi lảng tránh.
        Anh Miện bảo nhỏ tôi:
        - Chú về động viên gia đình thanh toán bằng đủ, nhà mình là cán bộ. Không có thóc thì nộp bằng tiền. Lãnh đạo đã nhất trí cho nộp cả bằng tiền rồi đó.
        Tôi đang định nói: "Đã không có thóc thì làm cóc gì có tiền", nhưng anh họ tôi đã dịu giọng:
        - Ở đội trên, hắn bắt cả anh Thiện, anh ruột tôi, mà tôi cũng phải điếc đi... "Mất mùa màng, lợi ích thứ ba của người lao động phải hy sinh cho lợi ích của nhà nước". Đồng chí bí thư tỉnh ủy đã chỉ thị thế, chú biết rồi đó.
        Lúc ấy ở trụ sở, công an, dân quân đã khuân về nào xe đạp, bàn ghế, tủ, chum vại, thùng tôn, lợn gà... để ngổn ngang ra tận ngõ. Tên chủ nhà thiếu thóc đề chữ bằng phấn trắng vào các đồ vật: Ông Ất, ông Do Khả, ông Hưng, ông Hồng, ông Khính (mẹ đẻ cô Hoa, mẹ vợ chú Được phó chủ nhiệm)... Mấy con bò bị bắt cột gần đó sợ đèn, sợ đám đông cứ lồng lên, chực bút mũi. Chúng xoay vòng quanh, mgửa lên mặt kêu "hấp bồ", "hấp bồ"...
        Tôi loạng choạng đi về nhà, thấy người ta đang còn soi đèn tìm rất kỹ. Tôi nói:
        - Các người anh em soi tìm gì cho mất công. Nhà tôi xin khất đến mai, tìm cái bán chác, nộp tiền bằng đủ.
        Anh đầu tốp nháy nháy mắt ra hiệu.
        - Đêm nay là đêm nay! Mai chúng tôi mất thưởng ai chịu cho?
        - Bắt cái xe đạp ni, bay!
        Hai ba anh chạy lại. Tôi từ tốn ngăn họ:
        - Các đàn anh ơi! Tôi không làm ruộng sản mà. Đây là xe đạp nhà nước cấp cho tôi để tôi đi công tác. Các vị bắt cái này không được đâu.
        - Nếu chúng tôi cứ bắt thì sao?
        Tôi loáng nghĩ được một mẹo. Rút cái "thẻ hội viên Hội văn nghệ tỉnh" ra, tôi nói:
        - Tôi phản đối! Tôi là "nhà báo"! Tôi sẽ kiện lên tận ông Đồng.
        Nước cờ của tôi không ngờ lại có hiệu quả. Họ im lặng. Hẳn họ đã biết tên tôi dưới những bài đăng nào chăng.
        Chợt vị "hộ pháp" nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài để dưới gầm bàn thờ, rồi đi lại, vừa gõ vừa hỏi:
        - Cái gì trong này, chị Lộc?
        Im lặng...
        - Cái gì trong này, chị nói mau?
        Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắc thở.
        - Có cái gì đâu...
        Mấy vị hăm hở lại, đạp lật nghiêng một cái. Nắp văn thiên bung ra, lúa chảy rào rào. Cả toán reo lên như một hiệp đào vàng trúng vỉa:
        - A! Lúa! A lúa! Lúa! Anh em ơi. Ghê thật! Thế mà giả nghèo giả khổ.
        Mẹ tôi chống gậy vái dài:
        - Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ tôi lạy các anh! Lúa của tôi. Đó là tạ lúa hai đứa con gái hắn mua góp lại cho, để hôm sau tôi chết, bà con thương mà chạy đến để ăn lưng cơm sốt.
        Thực ra là của hai bà chị trong đó mỗi người có mười cân thôi. Ba mươi chín cân tiêu chuẩn hai tháng vừa qua tôi lấy về, còn lại là hơn bốn mươi cân, vợ tôi đong để dành "hôm sau" cho bà.
        Bà cụ nói như rên rẩm:
        - Đã bảo xay phứa đi cho con nó ăn không nghe. Cứ bóp mồm bóp miệng, để dành làm chi. Sống chả thấy đâu nữa là!
        Một tay râu tóc lồm xồm hỏi:
        - Chị có gánh đi hay không thì bảo?
        Một tay khác tôi hơi quen mặt, đến trước vợ tôi lạy lia lịa:
        - Thôi em xin bà chị. Em đi làm ở đây thế này, nhưng lại có bọn khác đến chỗ em làm ác y hệt. Nhà em cũng thiếu mà. Chị không gánh, để cánh này bê cả hòm ra, chị phải chịu hai chục công là ít, chưa nói phạt tiền.
        Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra, để lôi hòm lúa. Bất đồ hai thằng Học và Thức từ bếp tuôn lên, ôm lấy tay chân chư vị, van rối rít.
        - Cháu van các chú! Các chú đừng lấy lúa này đi. Lâu nay các cháu phải nhịn để dành bữa sau cúng cỗ bà, làm ma bà!
        - Buông ra đi! Ô hay, đồ con nít!
        Bà cụ loạng choạng đi lại, giơ gậy cản:
        - Các ông không thương trẻ, thì các ông thương lấy thân già, để lấy phúc đức cho con cháu.
        Vì họ đá vấp gậy, lại yếu như con căng cắc lột, bà cụ ngã chỏng queo như chiếc ghế đổ.
        - Ối Đảng ôi là Đảng ôi! Chính phủ ôi... Trông xuống mà coi...
        Tôi xốc mẹ lên giường, bịt mồm cụ lại:
        - Mẹ! Mẹ không được la như thế! Đây không phải Đảng! Đảng ta không làm thế. Đảng không chủ trương thế này!
        Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm răng vào cổ tay mình để kìm giữ cái gì cứ chực tung ra. Hai vợ chồng xúc hết lúa ra thúng bì. Dặn thằng Học trông em, ngó bà, tôi cùng vợ hì hục gánh thóc ra trụ sở nộp...
        Đoạn cuối này tôi dành cho anh Quang.
        Lê Trung Quang ơi! Anh có thể giấu cái bi kịch của gia đình anh, nhưng tôi không còn có thể che giấu nỗi đau của nhân dân bất hạnh. Dù sự tiết lộ này có làm mất cái chức huyện ủy viên của anh, thì tôi cũng thấy cứ phải nói ra.
        Chuyện thật của nhà anh đây: lúa vay ăn còn nợ bảy tạ, con Lâm, thằng Sơn phải đi mò hến từng bữa, chị ấy nấu bánh đúc đi các làng đổi lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu. Việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa. Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?".
        PHÙNG GIA LỘC - Cuối năm 1987
        Theo Báo Văn Nghệ

        Đọc “Đêm trước”, nhớ Phùng Gia Lộc

          Quả thật không thể không nói đến tác dụng tích cực của báo chí, đặc biệt của thể loại phóng sự, được khôi phục một cách đúng lúc vào thời điểm đó đã thật sự góp phần không nhỏ tạo nên chuyển động xã hội quan trọng nhất của đất nước kể từ sau năm 1975.
          Trong sự sống dậy mạnh mẽ, sinh động của phóng sự hồi ấy, Cái đêm hôm ấy đêm gì... của Phùng Gia Lộc có một vị trí đặc biệt: nó gây xúc động lớn hơn cả, chấn động tâm trí người đọc khắp nước (bấy giờ báo Văn Nghệ (*) ở Hà Nội vừa đăng xong lập tức được báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật ở TP.HCM đăng lại ngay), và có lẽ trong hàng trăm phóng sự sôi nổi hồi ấy, riêng nó chắc sẽ còn sống lâu dài như một giá trị văn học độc đáo, khó quên, đánh dấu một thời.
          Hoàn cảnh ra đời của phóng sự cũng thật đặc biệt. Tôi nhớ những ngày ấy...
          Đang là những ngày âm ỉ mà nóng cháy của “Đêm trước”, và Thanh Hóa là một trong những điểm nóng nhất. Ở đấy cuộc đấu tranh giữa các lực lượng bảo thủ và các lực lượng đòi hỏi đổi mới có thể nói đã đến mức sống mái, thậm chí theo nghĩa đen của từ này. Một không khí khủng bố thật sự, uy hiếp đến cả tính mạng của nhiều người dũng cảm đấu tranh, trong đó có nhiều anh chị em cầm bút.
          Anh Phùng Gia Lộc, một người viết nghèo, đau yếu, hiền lành mà hết sức trung thực và can trường, là một mục tiêu trọng điểm của người đứng đầu tỉnh này và tay chân của họ. Lo lắng cho tính mạng của anh, các bạn viết và cả bạn đọc của anh bàn nhau phải tìm cách đưa anh đi lánh nạn.
          Đưa đi đâu? Các vùng nông thôn khác cũng đều đang khá căng. Chỉ ra Hà Nội mới có thể tương đối an toàn. Nhưng thoát ra được đến Hà Nội cũng chẳng dễ: có cả một mạng lưới dày đặc theo dõi, bao vây chặt các “mục tiêu”. Anh em phải năm lần bảy lượt mưu mô mới lén đưa được anh Phùng Gia Lộc đến một ga nhỏ, nhanh chóng bí mật đẩy anh lên tàu rồi cử người canh gác chặt hai đầu toa... hệt như thời các chiến sĩ hoạt động bí mật trong lòng địch... cho đến khi tàu tới ga Hà Nội.
          Ra đến Hà Nội rồi vẫn còn phải rất cảnh giác, vẫn phải giấu kín anh, đề phòng còn có thể bị “truy kích”. Giấu ở đâu bây giờ? Anh Phùng Gia Lộc vốn quen thân với anh Bế Kiến Quốc, biên tập viên văn xuôi ở báo Văn Nghệ. Anh Quốc báo với chúng tôi và chúng tôi quyết định đưa anh Lộc về giấu ngay ở tòa soạn báo.
          Anh Lộc ở ngay trong cơ quan, hết sức hạn chế đi ra bên ngoài, đêm ngủ ngay trên chiếc bàn lớn chúng tôi vẫn dùng làm chỗ giao ban và duyệt báo hằng ngày. Chúng tôi cũng căn dặn nhau rất kỹ, tuyệt đối không ai được tiết lộ sự có mặt của anh ở đây. Hồi đó báo chúng tôi còn rất nghèo. Các chị em ở phòng trị sự chung nhau mỗi người góp mấy lon gạo nấu cơm nuôi anh. Anh chị em biên tập thì góp mỗi người một ít tiền.
          Chính trong những ngày đó anh Lộc đã kể cho chúng tôi nghe tình cảnh bi đát của nông dân trong cái “đêm trước” vô cùng đen tối ở quê anh. Chúng tôi ngồi nghe, không ai cầm được nước mắt. Chúng tôi nói với anh Lộc: “Thôi bây giờ anh ở đây với anh em chúng tôi, no đói có nhau. Và anh ngồi đây, viết lại tất cả những gì anh đã biết, đã sống qua và đã kể đi. Chỉ cần viết đúng như anh đã kể”.
          Anh Lộc đã ngồi viết thiên phóng sự nổi tiếng Cái đêm hôm ấy đêm gì... như vậy đấy, đều về đêm, trên chiếc bàn lớn duy nhất của tòa soạn chúng tôi hồi bấy giờ, viết mệt quá thì nằm luôn lên bàn đó mà ngủ, nửa đêm sực thức dậy lại viết tiếp... Anh Bế Kiến Quốc là người trực tiếp biên tập bài báo ấy. Theo tôi được biết, anh Quốc hầu như không sửa bỏ chữ nào. Bài viết chỉ trong hai đêm thì xong. Và chúng tôi cho đăng ngay...
          Anh Lộc còn tiếp tục phải trốn ở chỗ chúng tôi mấy tháng nữa, rau muối với anh chị em chúng tôi... cho đến khi vị đứng đầu tỉnh anh bị đổ, an toàn cho những người trung thực ở quê anh đã được khôi phục...
          Như chúng ta đều biết, sau đó anh Lê Huy Ngọ được cử về làm bí thư Thanh Hóa, thay vị tiền nhiệm ghê gớm kia. Một trong những việc làm đầu tiên của anh Ngọ khi về Thanh Hóa là tổ chức một cuộc gặp gỡ và đối thoại trực tiếp với báo chí, lắng nghe ý kiến của những tờ báo đã tích cực tham gia cuộc đấu tranh quyết liệt cho một Thanh Hóa, và một nông thôn của chúng ta lành mạnh và phát triển.
          Tôi đã quen anh Ngọ hồi anh còn làm bí thư Vĩnh Phú. Hôm gặp lại nhau tại Thanh Hóa, tôi còn nhớ rõ anh nói với tôi như thổ lộ một suy nghiệm chắc đã nung nấu khá sâu và khá lâu, một câu hỏi tôi mà cũng có thể là anh tự hỏi mình: “Có phải Thanh Hóa đã được dùng làm “bãi thử” cho dân chủ hóa?”.
          Rất có thể đúng như vậy đấy. Dân chủ hóa xã hội không phải cứ nghĩ ra là có ngay được, cũng không phải có thể có trong ngày một ngày hai, mà là một cuộc vận động và đấu tranh xã hội kiên định, kiên trì, lâu dài. Phải “học làm dân chủ” như các bạn ta ở một nước xã hội chủ nghĩa cũ đã nói trong cuộc trăn trở chuyển mình của đất nước các bạn, một cuộc học có thể rất gian nan. Và cần có những “bãi thử”. Để mới dần dần thật sự có được.
          Phùng Gia Lộc là một chiến sĩ dũng cảm trong cuộc “học” gian nan đó của chúng ta một thời. Anh đã mất rồi, hầu như chỉ để lại cho chúng ta một bài báo ngắn. Trong văn học có những nhà văn rất xứng đáng là nhà văn, mà chỉ có một bài.
          NGUYÊN NGỌC
          -----------------
          (*) Nhà văn Nguyên Ngọc là tổng biên tập báo Văn Nghệ giai đoạn 1987 - 1988.

          Trở lại miền quê “Cái đêm hôm ấy... đêm gì?”

          TT - Bút ký “Cái đêm hôm ấy... đêm gì?” của Phùng Gia Lộc đăng trên báo Văn Nghệ cách nay ngót nghét 20 năm. Đó là câu chuyện truy nộp thuế  nông nghiệp ở một làng nhỏ ven sông Chu, xã Phú Yên (Thọ Xuân, Thanh Hóa) trong một đêm mưa rét mùa đông.
            Hơn 20 năm sau khi xảy ra câu chuyện buồn thương “nửa đêm thuế thúc trống dồn...” ấy, chúng tôi trở lại làng quê của nhà văn Phùng Gia Lộc và đã thấy những đổi thay từ cánh đồng, bữa cơm của nông dân đất Thanh Hóa bây giờ dù Phùng Gia Lộc đã ra đi  từ lâu!
            “Đêm trước của đổi mới”
            Từ Thanh Hóa, theo tuyến đường ngược qua Đông Sơn, Triệu Sơn… chúng tôi lại về bến đò bên sông Chu. Những người khách chờ đò sang sông nghe chúng tôi hỏi đường về nhà của Phùng Gia Lộc đều rất nhiệt tình chỉ đường.
            Con sông Chu duềnh sóng ngầu đục phù sa. Nhìn chuyến đò sang sông chở đến năm xe máy và ba xe đạp, tôi thầm nghĩ hình ảnh này đã nói lên phần nào đời sống kinh tế của dân trong vùng.
            Tìm vào trụ sở UBND xã, không có ai trực, hỏi tên ông bí thư xã, cô gái làm ở ủy ban xã bảo tên ông bí thư là Trịnh Doãn Được. Tôi hỏi lại: “Có phải vợ ông Được tên Hoa không?”. Cô gái tròn mắt nhìn chúng tôi như muốn hỏi: “Sao lại biết rõ ràng như vậy?”.
            Thì có gì đâu, trong bút ký của mình, nhân vật đầu tiên xuất hiện lúc nhập nhoạng tối tìm tới nhà Phùng Gia Lộc mua rau cải và ngan, gà về để “phục vụ” các đội viên đội “thu sản”chính là chị Hoa …
            “Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Chồng cô ấy là đội trưởng sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban định mức rồi phó chủ nhiệm… Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện bí mật nội bộ.
            Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là đêm đồng khởi thu sản, tổng vét cả xã…” (trích “Cái đêm hôm ấy đêm gì…”). Vậy là sau bao nhiêu năm công tác, từ thuở ấy đến nay ông Được đã giữ cương vị bí thư đảng ủy xã. Chúng tôi hỏi đường sang nhà của nhà văn Phùng Gia Lộc.
            Ngôi nhà vắng tanh. Giữa nhà là chiếc tủ nhỏ với bàn thờ nhà văn, một bức chân dung khắc bằng đá treo trên tường phía trên bát nhang. Ngôi nhà ấy trong “cái đêm hôm ấy ...” ngập đầy tiếng khóc của ba đứa con, một người vợ héo hon và bà mẹ già đau yếu…
            Phùng Gia Lộc vốn là một giáo viên dạy văn nhưng rất tài hoa. Nhiều người dân trong vùng vẫn nhớ những vở kịch của huyện Thọ Xuân trong những hội diễn quần chúng đều do ông viết. Tuy là anh giáo làng nhưng ông là hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa.
            Và dù ông đã được nhiều người biết đến bởi nhiều tác phẩm khác nhưng chính bút ký “Cái đêm hôm ấy đêm gì...” đã khiến tên Phùng Gia Lộc được biết đến nhiều hơn, và hơn cả giá trị văn chương, tất cả sự thật nhà văn viết ra trong bút ký ấy chính là sự dũng cảm của một người cầm bút, dù sau đó ông chuốc lấy vô vàn hệ lụy.
            Hỏi hàng xóm chung quanh, mới hay người con đầu của nhà văn, Phùng Gia Học sau này vào đại học rồi đi sang Nga, Đức gì đấy... nay đang sống ở TP.HCM. Phùng Gia Thức, người con thứ nay công tác ở Ngân hàng huyện Lang Chánh (Thanh Hóa).
            Đứa con út, Phùng Gia Văn dạo ấy chưa đầy một tuổi nay cũng đang học đại học. Ngôi nhà lụp xụp khi xưa đã thay bằng một ngôi nhà xây khang trang, với nhiều nhà dân ở xứ này thế cũng đã gọi là sang. Bà mẹ vào thăm mấy người con ở TP.HCM, không có ai ở nhà.
            Rốt cuộc chúng tôi cũng hỏi ra ông Được, bí thư, đang ở nhà ông Phùng Gia Khính. Ông Khính cũng là chỗ họ hàng với nhà văn Phùng Gia Lộc. Thật may, rất nhiều nhân vật trong bút ký “Cái đêm hôm ấy đêm gì...” đang ngồi ở nhà ông Khính.
            Ông Khính được nhắc đến trong cái đêm hôm ấy bởi ông là một trong số những nông dân nợ thuế, bị tịch thu tài sản để thế vào số thóc thiếu.
            Vừa nhắc đến cái chuyện “nửa đêm thuế thúc trống dồn”, ông Được bảo: “Dạo ấy tôi là phó chủ nhiệm mà, cứ chỉ thị trên về thế nào chúng tôi dưới này cứ vậy chấp hành, không thể khác được”.
            Cái chuyện thu thuế ấy không chỉ diễn ra trong thời điểm Phùng Gia Lộc viết mà còn dây dưa thêm về sau này mấy năm nữa. Câu chuyện ấy cũng không riêng xã Phú Yên mà của rất nhiều xã ở ven dòng sông Chu...
            Tươi rồi, gương mặt làng quê...
            Ngay trước ngõ ngôi nhà của nhà văn Phùng Gia Lộc, lối đi chạy từ bờ đê sông Chu vào làng đã mọc lên nhiều ngôi nhà lầu khang trang. Những ngõ thôn, ngõ xóm đều đã được đổ bêtông.
            Ông Được bảo: xã Phú Yên với hơn 1.100 hộ, 5.000 dân, hầu như tất cả đều có nhà ngói, 95% số hộ  có tivi, radio, nhưng hộ nghèo vẫn chiếm 14%. Tuy nhiên so với những gieo neo của 20 năm trước thì còn hơn chuyện trong mơ.
            Anh Trịnh Đình Chấn - từng là phó chủ tịch xã, nay là trưởng công an xã, vào cái đận “cái đêm hôm ấy...” là thôn trưởng thôn 9 của xã Phú Yên - bảo dạo ấy cả xã có 350ha lúa mà phải nộp thuế đến 450 tấn, mỗi sào nộp gần tạ rưỡi thóc, năng suất lại thấp, không nhà nào không nợ thuế với HTX .
            Bây giờ cũng sào lúa ấy, thuế nông nghiệp đã được miễn, chỉ nộp 5,5kg là chi phí dịch vụ, bảo vệ cộng với 17kg thóc thủy lợi phí, như vậy một sào còn 22kg.
            Làng này xưa gọi là làng Láng, dân gian có câu: “Làng Láng sáng hơn đèn” bởi dân vùng này giỏi làm ăn kinh tế bao giờ cũng khá giả, thế mà đã có những ngày tháng gieo neo đến vậy!
            Khi chạy xe máy từ thành phố Thanh Hóa lên, đi qua rất nhiều làng quê miệt Đông Sơn, Triệu Sơn, Thọ Xuân chúng tôi đã gặp những cánh đồng mênh mông bát ngát xanh, những ngôi làng đã mang một sinh khí khác không riêng gì xã Phú Yên.
            Hệ thống kênh mương cho đồng ruộng Phú Yên đã được kiên cố hóa. Ngôi trường cho con em học được xây từ 1 tỉ đồng tiền đóng góp của dân, 12km đường liên thôn đổ bêtông cũng là dân góp vào, tự nguyện góp chứ không thể “thuế thúc trống dồn” như xưa bởi những gì người dân làm họ biết là làm cho chính cuộc sống mỗi ngày của họ.
            Nhà văn hóa, khu vực trung tâm xã, nằm thoáng đãng bên này đê. Nhiều hộ dân ở làng nhưng giàu “bạc tỉ” nhờ buôn bán chè Thái, thuốc lào làm tổng đại lý cho cả vùng.
            Trên bờ đê sông Chu lộng gió, đang kỳ nghỉ hè nhưng nhìn đứa trẻ vừa đi tập trung ở trường về, gương mặt rạng rỡ, tôi cứ chạnh nhớ hình ảnh mấy bố con nhà văn Phùng Gia Lộc trong cái đêm hôm ấy bíu ríu vào nhau bên ổ rơm giữa nền nhà lạnh giá.
            Cả mấy đứa con ôm chân mấy đội viên thu thuế gào khóc xin để số lúa lại để “làm cỗ cúng ma cho bà cháu”... Chuyện đói nghèo đã qua, nhớ lại vẫn nghe cay khóe mắt! Cuộc sống đã tươi đẹp hơn, trong đó có phần đóng góp từ “tiếng kêu” của một anh giáo làng viết văn Phùng Gia Lộc.
            LÊ ĐỨC DỤC - HÀ ĐỒNG

            Xem tiếp...

            Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

            Câu chuyện lịch sử 6

            (Đại Chúng sưu tầm trên NET)

            Tội ác man rợ của "đồ tể số một thế giới

              Với vai trò là“kiến trúc sư“ trưởng của nạn diệt chủng với những hành động tàn sát liên quan đến cái chết bi thảm của 6 triệu người Do Thái ở châu Âu., Adolf Eichmann đã được người đời mệnh danh là “tên sát nhân kinh khủng nhất mọi thời đại”.
              50 năm sau ngày phiên tòa xét xử tên tội phạm chiến tranh khét tiếng nhất thế giới này, nhiều nhà sử học trên thế giới vẫn còn phải rùng mình khi nhắc đến tội ác man rợ cũng như những tháng ngày đằng đẵng truy lùng viên trung tá quân đội nguy hiểm nhất của Đức quốc xã này.
              Tội ác kinh hoàng
              Eichmann sinh ngày 19/3/1906 tại Solingen- Áo, trong một gia đình kinh tế khá giả, nhưng bản thân thì chưa bao giờ học hành đến nơi đến chốn. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường phổ thông, Eichmann chưa bao giờ nghĩ mình sẽ ra nhập quân đội. Tuy nhiên, một biến cố lớn xảy ra đã làm thay đổi cuộc đời của Eichmann: Mẹ mất và gia đình chuyển đến sinh sống tại vùng Eichmann, nơi có người bạn thân tên Ernst Kaltenbrunner đang là thành viên của Đảng Đức quốc xã (NSDAP) có chi nhánh tại Áo. Nghe theo lời khuyên của bạn, lại vốn có sẵn sự căm ghét người Do Thái từ bé, nên vào năm 1932, Eichmann đã ghi danh vào Đảng Đức Quốc xã.
              Chân dung Adolf Eichmann
              Từ bé, Adolf Eichmann đã có tầm vóc không cao, tóc đen, da bánh mật và cặp mắt màu xanh da trời, đặc trưng của miền Careli của Áo. Vì thế, bạn bè cùng lứa vẫn gọi đùa cậu ta là “der kleine Jude” tức “người Do Thái bé nhỏ”. Họ không biết rằng chính cái biệt danh đó lại là nỗi đau khoét sâu thêm sự căm ghét người Do Thái vốn đã có từ lâu, tận trong máu thịt của kẻ dân tộc cực đoan trẻ tuổi và hẹp hòi này. Vì thế khi gia nhập NSDAP, vốn sẵn có máu bài Do Thái và thái độ phục vụ trung thành, tận tụy, Adolf Eichmann đã được chính tổng tư lệnh các lực lượng SS – Thống chế Heinrich Himmler rất tin dùng. Đường công danh của Eichmann thăng tiến đến chóng mặt so với đồng nghiệp cùng thời.
              Năm 1939, Eichmann đã được đeo lon đại úy, một năm sau lên thiếu tá và năm sau nữa đã là trung tá, trưởng phòng các vấn đề người Do Thái. Bắt đầu năm 1940 hầu như tất cả các cuộc thảm sát người Do Thái ở những vùng lãnh thổ châu Âu bị Đức chiếm đóng đều có sự can dự của Eichmann với những mức độ khác nhau. Ngày 20/1/1942, Eichmann tham gia một hội nghị bí mật và quan trọng ở Vanzee. Hitler đích thân chỉ thị: “Phải giải quyết triệt để vấn đề Do Thái”. Sau hội nghị, Eichman đã chỉ huy các cơ quan, đơn vị cấp dưới của mình thực hiện triệt để chủ trương nói trên bằng các biện pháp hết sức dã man. Hắn và đồng bọn đã gây nên nhiều tội ác chống nhân loại, chống lại người Do Thái.
              Năm 1941, những cuộc đồ sát người Do Thái được đẩy lên đỉnh điểm thành "Đại diệt chủng người Do Thái". Lúc này, Hitler đã đặt phương châm cho kế hoạch tàn sát này của mình là: "Giết sạch không ghê tay". Trong năm này, sau khi chiếm đóng Belarus, Đức Quốc xã đã sử dụng các bệnh nhân tâm thần trong các bệnh viện ở Minsk làm vật thí nghiệm. Lúc đầu, những người này bị buộc đứng sát nhau theo hàng dọc để bị giết bằng cách bắn xâu chuỗi, nhưng quân Đức lúc đó cho rằng, phương pháp này là quá chậm. Rồi chất nổ được sử dụng, nhưng số người chết không nhiều trong khi nhiều người khác chỉ bị mất tay và chân. Sau cùng, người Đức chọn cách dùng súng máy để giết hết số bệnh nhân tâm thần này.
              Tháng 10/1941, tại Mogilev tại Ba Lan, Đức Quốc xã mà đứng đầu là Eichmann thử nghiệm một loại hình tàn sát khác mang tên “Gaswagen”- tức xe hơi ngạt. Đầu tiên, họ sử dụng một xe quân sự hạng nhẹ, nhưng phải mất 30 phút mới giết chết nạn nhân; kế đó, họ dùng một xe tải lớn hơn, nhét đầy người vào trong và chỉ cần 8 phút để kết thúc mạng sống tất cả người trong xe. Tiếp sau đó, các cuộc tàn sát được tiến hành có hệ thống trên toàn bộ lãnh thổ bị Đức Quốc xã chiếm đóng.
              Đầu tháng 8/1944, Eichmann báo cáo với Himmle: “Đến nay, tôi có thể tin tưởng báo cáo với Ngài rằng quyết định của hội nghị Vanzee đã được thực thi nghiêm chỉnh. Sáu triệu tên Do Thái đã bị tiêu diệt”.
              Cuộc truy lùng gắt gao nhất mọi thời đại
              Phiên tòa xét xử Adolf Eichmann vào năm 1961
              Là một một nhân viên mật vụ giàu kinh nghiệm nên Eichmann sớm đã đánh hơi thấy được sự thất bại của Đức quốc xã trong chiến tranh thế giới thứ hai. Bởi vậy, trước lúc Berlin thất thủ, Eichmann đã cắt đứt mọi liên hệ với vợ con và gia đình, bí mật tìm cách thoát thân, hòng tránh sự trừng phạt của công lý. Đầu tiên, hắn đổi tên là Otto Heninger, cải trang thành lính trơn, đầu hàng và chịu ngồi tù trong trại giam quân đội Đồng minh. Năm 1949, hắn trốn trại, chạy sang Roma, Italia, rồi sau đó, vượt biển sang Nam Mỹ. Năm 1952, Eichmann đến Thủ đô của Argentina. Tại đây, hắn lại thay tên, đổi họ một lần nữa trở thành Ricardo Clemento - công dân Argentina, nhân viên Chi nhánh Hãng xe hơi “Mercedes-Benz” tại Buenos Aires.
              Ngày 19/1/1951 cơ quan tình báo bí mật Ixraen- Mossad được thành lập. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cơ quan này là bắt những tên phát xít là tội phạm chiến tranh về quy án. Giám đốc Mossad khi đó là Isser Harel đã tuyên bố: "Chúng ta (người Ixraen) không được quên và không thể thờ ơ với linh hồn của 6 triệu người dân Do Thái vô tội đã chết thảm thương trong các trại tập trung của phát xít Đức". Cũng từ đây, một kế hoạch được gọi là “Chiến dịch săn lùng kẻ sát nhân lớn nhất mọi thời đại” chính thức được khởi động với hơn 450 thành viên xuất sắc nhất của Mossad vào cuộc.
              Tuy nhiên, mọi cuộc truy tìm với những thành viên xuất sắc nhất cũng không thể giúp Mossad truy tìm được kẻ sát nhất tàn khốc nhất mọi thời đại- Adolf Eichmann. Với kinh nghiệm chiến đấu từ bản thân, Eichmann luôn tạo cho mình một vỏ bọc chắc chắn mà không một lực lượng tinh nhuệ nào có thể tìm ra được hắn. Tuy nhiên, tội ác ắt phải trả giá. Vào ngày 11/5/1960, tức 15 năm sau ngày trốn chạy, Adolf Eichmann đã bị bắt giữ khi sinh sống với gia đình tại thủ đô Buenos Aires của Argentina.
              Ngày 11 tháng 4 năm 1961 Adolf Eichmann được đưa ra xét xử tại tòa àn Jerusalem. Eichmann đã bị kết án 15 tội, trong đó có tội phi nhân tính và tội giết hại hàng triệu dân Do Thái vô tội. Sau khi phiên tòa kết thúc, Eichmann bị tuyên án tử hình bằng hình thức treo cổ. Đây là án tử hình duy nhất của Israel, một đất nước xưa nay chưa bao giờ dùng hình thức trừng phạt này.
              50 năm với những tranh cãi
              Năm 2011, Ixraen sẽ kỷ niệm 50 năm ngày diễn ra phiên tòa xét xử Adolf Eichmann, cũng giống như 1 năm trước nước Đức kỷ niệm 60 năm ngày diễn ra phiên tòa Nuremberg, nơi những kẻ đầu sỏ của chủ nghĩa phát xít bị kết án tội phạm chiến tranh. Cũng giống như phiên tòa Nuremberg, người Đức mãi đến những năm 70 của thế kỷ trước mới công nhận phiên tòa xét xử Adolf Eichmann được diễn ra công bằng.
              Eichmann phải ngồi nghe xử trong một lồng kiếng chống đạn để tránh sự phẫn nộ của những nhân chứng là người Do Thái còn sống sót sau cuộc đại diệt chủng.
              Giống như tại phiên tòa Nuremberrg, nơi mà lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà lãnh đạo chính phủ bị buộc trách nhiệm cá nhân về các hành động của mình trong chiến tranh. Trong phiên tòa tại Ixraen, Adolf Eichmann luôn tuyên bố rằng ông ta không biết hoặc không chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra. “Tôi chỉ nghe theo và tuân lệnh cấp trên. Chưa bao giờ tôi có làm điều gì mà không do lệnh từ cấp trên (Hitler hay Himmler) bảo tôi làm"- Adolf Eichmann biện hộ.
              Trong phiên tòa đặc biệt này, Eichmann phải ngồi nghe xử trong một lồng kiếng chống đạn để tránh sự phẫn nộ của những nhân chứng là người Do Thái còn sống sót sau cuộc đại diệt chủng. Hai luật sư biện hộ cho Eichmann luôn phàn nàn rằng họ không được chất vấn các nhân chứng còn sống mà chỉ nghe họ nói trên tòa. Chính vì vậy, tại thời điểm đó, nhiều người Đức cho rằng, phiên tòa xét xử Adolf Eichmann là không công bằng (?).
              Không những thế, khi tin Eichmann bị bắt về Do Thái loan tải, nhiều nhóm chính khách cực hữu Argentine đã phản đối dữ dội. Chính quyền Israel lúc đầu phủ nhận đã đứng sau âm mưu bắt cóc Eichmann và tuyên bố rằng một nhóm hoạt động cá nhân Do Thái đã làm việc này. Sau đó có nhiều cuộc thương lượng giải hòa giữa hai nước qua môi giới tại Liên Hiệp Quốc.
              Sau 14 tuần lễ thu thập chứng cứ và các tài liệu liên quan đến tội ác tày trời của Adolf Eichmann, Ngày 11 tháng 12 năm 1961, Eichamnn đã bị kết án, tuy nhiên sau đó Eichamnn cũng đệ đơn chống án theo đúng luật pháp của Israel. Ngày 29 tháng 5 năm1962, tòa án tối cao Israel đã bác đơn chống án của Eichamnn. Trong bản án chánh thẩm tuyên bố :"Eichmann bào chữa rằng hắn chỉ nghe lệnh trên nhưng thực ra hắn không nghe mệnh lệnh gì cả. Hắn là cấp trên của chính mình và tự ra lệnh trong các kế hoạch về dân Do Thái... Ý tưởng của cái gọi là ‘Giải pháp tối hậu’ đáng lý sẽ không biến dạng thành cuộc đốt da xáo thịt của hàng triệu người nếu không có đầu óc cuồng tín và lòng dạ khát máu của bị cáo và đồng lõa".
              Tòa án Israel sau đó đã tuyên án Adolf Eichmann phạm tội diệt chủng và “Kẻ sát nhân kinh khủng nhất mọi thời đại” đã bị xử tử bằng cách treo cổ. Xác của Adolf Eichmann sau đó bị đốt và hài cốt được rắc xuống biển Địa Trung Hải. Lý do mà người Israel rắc hài cốt Adolf Eichmann xuống biển là do: “Không còn tông tích mộ phần để sau này không có cơ hội cho người khác lập lễ lạc tưởng niệm về Eichmann và những hành vi vô nhân của ông ta”.
              Hải Hiền (Theo Wenhui)

              Điều ít được biết về đội quân chó biết nói của Hitler

                Mục đích của Hitler là đào tạo những chú chó đặc biệt để dần thay thế vị trí của binh sỹ quân đội trong tương lai...

                Trong những năm cuối Thế chiến II, tại một số doanh trại của Đức Quốc Xã có mở những lớp học đặc biệt. Giảng viên là các huấn luyện viên thú, còn học sinh là những chú chó được lựa chọn khắp nơi trên nước Đức...

                Một ý tưởng độc đáo

                Mọi chuyện bắt đầu khi tiến sĩ Bondeson - một nhà khoa học nổi tiếng bấy giờ kể cho Hitler về chú chó biết nói ở vùng ngoại ô của thành phố Hamburg, Đức. Khi người ta hỏi bằng tiếng Đức "Chú mày tên gì?", lập tức con chó này sủa lên một tiếng “Tan” và quả thực, ở nhà nó có tên là Tan. Khi được hỏi "muốn ăn gì", chú chó này sủa lên hai tiếng “trứng gà”. 

                Điều ít được biết về đội quân chó biết nói của Hitler 1
                Bondeson đề xuất ý tưởng sẽ huấn luyện chó thành một đội quân đặc biệt nhất trên thế giới và được Hitler chấp thuận. Hitler nhận thấy, loài chó thông minh gần như con người nên ông còn muốn thành lập cả một đội quân khuyển với mục tiêu giúp Hitler giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Thế giới II. Hoặc không thì chúng cũng có thể giúp việc cho các binh sĩ, bảo vệ trại tập trung.

                Để phục vụ mục đích này, Đức Quốc Xã bắt đầu tuyển dụng chó ở khắp mọi nơi trên nước Đức và huấn luyện chúng sử dụng chân ra tín hiệu.

                Điều ít được biết về đội quân chó biết nói của Hitler 2
                Adolf Hitler tin rằng, những con chó có trí thông minh như người.

                Kết quả của cuộc nghiên cứu này là đã huấn luyện thành công một số con chó có khả năng nói chuyện như con người. Chúng có thể thốt ra cụm từ "Mein Fuhrer", nghĩa là “vua của tôi” khi được hỏi "Adolf Hitler là ai?". Thậm chí, một con chó Đức tên Don còn có thể nói "Đói, hãy cho tôi bánh".

                Được biết, chú chó đầu tiên có khả năng hiểu và nói được tiếng người này có tên là Dachshund Kurwenal. Đây cũng là một trong những con chó xuất sắc trong chương trình nghiên cứu đặc biệt của Đức Quốc Xã. 

                Trường học cho chó

                Trong một cuốn sách nói đến lớp học đặc biệt trên có ghi lại: "Đức Quốc Xã lên nắm quyền đã cho xây dựng một trường đào tạo chó nghiệp vụ có tên là Tier-Sprechschule ASRA. Nó được thành lập từ thập niên 1930 và tồn tại trong suốt những năm chiến tranh sau đó. Ở ngôi trường đặc biệt này, người ta dạy cho chó nghe, nói, đọc, viết. Một số người thuộc ban lãnh đạo Đức Quốc Xã cho rằng, có nhiều con chó có trí thông minh như người. Vì thế, nếu chúng có thể làm chủ ngôn ngữ của mình, biết nói chuyện và viết thì sẽ dần thay thế được quân đội tham gia vào hoạt động như: canh gác tại các trại tập trung và một số nhiệm vụ quan trọng khác”. 

                Điều ít được biết về đội quân chó biết nói của Hitler 3
                Để hiện thực hóa kế hoạch mở lớp "huấn luyện chó thông minh đặc biệt" đầu tiên, vào năm 1933, Adolf Hitler đã ra quy định cấm tất cả hành động ngược đãi và tàn sát động vật. 

                Ngay sau khi quy định này có hiệu lực, trên các băng-rôn, áp-phích ca ngợi lòng nhân từ của Adolf Hitler với động vật đều có hình ảnh trùm phát xít chạm đầu vào mũi một con ngựa tỏ vẻ rất thân thiết. Dưới hình ảnh này, họa sỹ đã thiết kế một dòng chữ rực rỡ sắc màu: “Động vật là bạn bè lý tưởng của chúng ta”. 

                Điều ít được biết về đội quân chó biết nói của Hitler 4
                Mặc dù là kẻ độc ác nhưng Hitler lại rất yêu chó. Khi còn sống, Hitler đã từng sở hữu hai chú chó đã được huấn luyện qua lớp học đặc biệt này. Một chú chó trong số này có tên là Blondi. Theo một số tư liệu còn ghi lại, Blondi rất thông minh, nó có thể đọc các âm tiết trong bảng chữ cái bằng những tiếng sủa.

                Điều ít được biết về đội quân chó biết nói của Hitler 5
                Ngoài việc dạy chó biết nói, Đức Quốc Xã còn nghiên cứu việc dùng "thần giao cách cảm" giữa chó và người.
                Để có thể đào tạo ra những con chó thông minh như Blondi, quân đội Đức đã phải đi khắp nơi để tìm “nhân tài” cho lớp học đặc biệt của mình. Adolf Hitler đã yêu cầu hiệu trưởng cùng với giảng viên của ngôi trường huấn luyện phải đào tạo ra khoảng 1.000 chú chó có khả năng đặc biệt, với mục đích dần thay thế vị trí của binh sỹ quân đội trong tương lai. 

                Trong chương trình học, những con chó sẽ phải học cách phân biệt giọng nói của nhiều người. Ngoài ra, việc rèn luyện trí nhớ bằng cách lặp đi lặp lại câu hỏi cũng được đưa vào chương trình giáo dục.

                Điều ít được biết về đội quân chó biết nói của Hitler 6
                Theo một số tài liệu còn ghi lại, quá trình đào tạo ra chó nghiệp vụ tinh khôn cùng khả năng đọc, viết như con người vô cùng khó khăn. 

                Từ một chú chó bình thường, nó phải trải qua nhiều cuộc tuyển chọn và chương trình huấn luyện dài hơi trong vài năm, gồm phần lý thuyết chung, luyện tập các động tác cơ bản và chuyên khoa nghiệp vụ. 

                Điều ít được biết về đội quân chó biết nói của Hitler 7
                Thường thì mỗi huấn luyện viên chỉ được đào tạo một chú chó. Chúng phải nhớ và thuộc nguồn hơi của thầy dạy, sau khi thuần thục sẽ tiếp xúc với tiếng nói của nhiều người, đồng thời phải học đi học lại những câu nói quen thuộc để tạo ra phản xạ có điều kiện. 

                Được biết, mỗi chú chó được huấn luyện với quy trình bài bản từ mức độ thấp đến cao sẽ mất khá nhiều thời gian và chi phí cho mỗi “học viên” không hề nhỏ chút nào. 

                Ý tưởng chết yểu

                Tại thời điểm đó, Hitler đã rất tự hào nói rằng: “Ngôi trường Tier-Sprechschule ASRA là nơi duy nhất trên thế giới huấn luyện các chú chó biết đọc, viết như con người. Chúng ta nên hy vọng vài năm nữa, những học viên tại ngôi trường đặc biệt này sẽ tốt nghiệp và trở thành những chiến sỹ dũng cảm trên tiền tuyến thay thế cho con người”. 

                Điều ít được biết về đội quân chó biết nói của Hitler 8
                Tuy nhiên, chỉ sau phát biểu đó không lâu, Hitler đã phải tự kết liễu cuộc đời khi Đức Quốc Xã bại trận vào năm 1945. Trước khi tự sát vào ngày 30/4/1945, Hitler đã ra lệnh cho bác sĩ thử nghiệm thuốc độc lên Blondi trước xem liệu có phải là thuốc giả không rồi mới cho phép tiêm lên người ông. Kết cục là Blondi ra đi cùng Hitler. 

                Trong một tài liệu vừa được giải mật gần đây cho thấy, khi quân Đồng Minh tấn công vào các thành phố của Đức đã biết đến thí nghiệm trên. Họ vô cùng lo sợ về những con chó thông minh này, nên quân Đồng Minh đã lên kế hoạch dùng xúc xích, chocolate có tẩm độc để tiêu diệt "đội quân 4 chân" kỳ lạ.

                * Bài viết có sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn: Unmuseum, Telegraph, NY Daily News, Wikipedia...

                 

                Xem tiếp...

                Câu chuyện lịch sử 7

                (Đại Chúng sưu tầm trên NET)

                Chuyện về chiếc ghế tử thần (1): Lịch sử chiếc ghế tử thần


                Một chiếc ghế điện được trưng bày trong bảo tàng.


                Ai cũng đã từng nghe đến chiếc ghế điện dùng để xử tử tù nhân, nhưng không phải ai cũng biết được lịch sử ra đời và những câu chuyện kịch tính xung quanh chiếc ghế không êm ái này.

                Sự xuất hiện của ghế điện ở Mỹ là một bước ngoặt đáng chú ý. Kể từ khi ra đời, ghế điện đã trở thành nhân chứng cho lịch sử tư pháp Mỹ, là cái ghế cuối cùng mà tù nhân, từ những kẻ giết người cho đến những tội phạm chính trị, ngồi lên trước khi sự sống lìa xa.
                Trong quá trình phát triển, quan niệm của người Mỹ về hành quyết cũng dần thay đổi. Từ thời còn là thuộc địa của Anh cho đến những năm đầu lập quốc, các bản án dành cho tội phạm rất nghiệt ngã.
                Những người phạm tội nghiêm trọng bị hành hình công khai, thông thường là treo cổ, một số trường hợp thì bị thiêu, chặt đầu... Một số bị thích dấu, phạt roi hoặc bị đánh giập mũi. Thậm chí cả những người phạm tội nhẹ cũng vừa bị phạt về thể xác vừa bị làm nhục trước đám đông.
                Người không đi lễ nhà thờ sẽ bị cùm ở giữa trung tâm thành phố vài ngày liền. Phụ nữ dám chì chiết chồng có thể bị xuyên thanh sắt qua lưỡi hoặc bị đeo lồng sắt vào đầu, mồm bị bịt để không thể nói được. Đối với thế giới hiện đại, những hình thức trừng phạt này là sự tàn bạo không thể tưởng tượng nổi.
                Dần dần, các tòa án ở Mỹ nhẹ tay hơn với tội phạm. Những hình thức hành quyết man rợ nhất ngày càng ít được sử dụng. Phạm tội nhẹ chỉ bị phạt giam thay vì bị làm nhục. Tòa án quân sự thường áp dụng hình thức xử bắn với người bị kết án tử.
                Đầu thế kỷ 19, người ta dùng hình thức treo cổ nơi công cộng, sau đó tiến tới treo cổ trong nhà tù. Người dân cũng không còn hứng thú với các vụ hành hình công khai. Đa phần cho rằng nên thực hiện công lý tránh đổ máu, càng yên lặng và nhân văn càng tốt.

                Một vụ xử tử bằng hình phạt treo cổ.
                Hình thức treo cổ có vẻ đáp ứng được những yêu cầu trên nhưng cũng có vấn đề riêng. Khoảng cách rơi nếu quá ngắn sẽ không tạo đủ lực để làm gãy cổ tội phạm, khiến người này bị bóp nghẹt từ từ, đôi khi giãy giụa tới 20 phút. Khoảng cách rơi quá dài sẽ tạo ra quá nhiều lực và vô tình sẽ biến thành hình phạt chặt đầu. Những vấn đề khác cũng rất dễ bị tính toán nhầm như loại thòng lọng, cách buộc, vị trí buộc, cân nặng của tội phạm... Trong bối cảnh đó, yêu cầu về phương thức hành hình hiệu quả được đặt ra cấp thiết.
                Thời đó, ở thành phố Buffalo, bang New York, có một nha sĩ tên là Alfred Southwick. Là một người hoạt động trong ngành y, ông luôn cho rằng có thể dùng điện để gây tê. Khi tình cờ chứng kiến một người đàn ông ngã vào một máy phát điện và bị giật chết, nha sĩ Southwick nảy ra một ý tưởng: Chết do bị điện giật có lẽ là cách chết nhanh nhất và không đau đớn. Nó có thể được dùng thay thế hình thức treo cổ.
                Cũng trong thời điểm đó, tiến sĩ George Fell, người cùng thành phố với nha sĩ Southwick, cũng có kết luận tương tự. Sau khi trao đổi ý tưởng của họ tại một cuộc họp của hội khoa học thành phố Buffalo, tiến sĩ Fell và Southwick đã gặp đại tá Rockwell - chủ tịch Hội ngăn chặn đối xử tàn bạo với động vật. Họ nói với ông Rockwell rằng, cái chết bằng điện là phương pháp nhân văn và hiệu quả hơn là dìm vào nước khi muốn loại bỏ những con vật vô ích. Ông Rockwell đồng ý với ý kiến đó. Năm 1882, Southwick và Fell bắt đầu hàng loạt thí nghiệm đối với động vật ở thành phố Buffalo rồi đăng kết quả nghiên cứu lên các tạp chí khoa học.
                Nha sĩ Southwick có một người bạn có quyền lực ở bang New York, đó là thượng nghị sĩ Daniel MacMillan. Khi Southwick trình bày với MacMillan về kết quả thí nghiệm, MacMillan cực kỳ ấn tượng với ý tưởng này. Ông vốn là một người ủng hộ án tử hình và cho rằng có thể dùng phương pháp hành hình bằng điện, một cách vừa nhanh vừa không đau đớn, để đập tan luận điệu của những người muốn bỏ án tử hình.
                Thượng nghị sĩ nhanh chóng trình bày ý tưởng với Thống đốc bang New York, ông David Bennet Hill, và thuyết phục được thống đốc. Năm 1885, trong thông điệp bang, ông đã yêu cầu cơ quan lập pháp New York tìm ra một cách hành hình có thể thay thế treo cổ. Tuy nhiên, cơ quan lập pháp dường như không giải quyết mối quan tâm của Thống đốc Hill.
                Đến năm 1886, ông Hill đã chỉ định một ủy ban điều tra và báo cáo về những phương pháp hành hình tù nhân khả thi và nhân văn nhất. Trong báo cáo 95 trang, ủy ban đã chỉ ra rằng hành hình bằng điện là lựa chọn tối ưu. Báo cáo đã đề xuất sửa đổi luật hình sự, thay treo cổ bằng xử tử bằng điện.
                Thống đốc Hill ký dự luật hình sự sửa đổi ngày 5/6/1988 và sẽ áp dụng từ ngày 1/1/1889. Người ta thiết kế một chiếc ghế gỗ đặc biệt để tù nhân ngồi và cho dòng điện chạy qua người. Điều còn lại là quyết định xem dùng dòng điện xoay chiều hay một chiều để xử tử. Vấn đề tưởng như đơn giản nhưng lại làm bùng lên một cuộc chiến dữ dội.
                Nguồn: Thùy Dương/Baotintuc

                Chuyện về chiếc ghế tử thần (2): Cuộc chiến các dòng điện

                Chuyện về chiếc ghế tử thần - Kỳ 2: Cuộc chiến các dòng điện
                Nikola Tesla trong phòng thí nghiệm.


                Thomas Edison là người phát minh ra bóng đèn điện và tên tuổi của ông được người ta gắn với điện. Nhưng một số nhà khoa học trước ông cũng đã phát hiện ra điện, chỉ có điều họ chưa biết cách ứng dụng nó vào cuộc sống.

                Năm 1873, Zenobe Theophile Gramme đã chứng minh rằng điện có thể được truyền đi từ nơi này đến nơi kia thông qua dây dẫn trên cao. Tuy nhiên, việc truyền dẫn điện vẫn chỉ là lý thuyết cho đến khi Edison tìm ra cách sản xuất và kiểm soát điện để phục vụ xã hội.
                Edison đã xây nhà máy điện đầu tiên năm 1879 và gần như ngay lập tức, các thành phố ở Mỹ đều muốn ký hợp đồng để thành phố mình được sử dụng thứ được coi là kỳ quan mới của khoa học này. Ngày càng có nhiều thành phố lung linh ánh đèn điện nhờ hệ thống điện một chiều (DC) của Edison.


                Tuy nhiên, trong hệ thống điện một chiều, điện chỉ truyền theo một hướng nên cần thêm nhiều thiết bị để đảm bảo điện “chảy” đúng đường. Hơn nữa, điện áp trong hệ thống điện một chiều thường bị sụt mạnh sau khi truyền qua được một quãng đường ngắn. Do đó, cần phải xây nhiều nhà máy điện mới có thể cung cấp điện ổn định cho một thành phố cỡ trung bình.
                Chuyện về chiếc ghế tử thần - Kỳ 2: Cuộc chiến các dòng điện
                Thomas Edison
                 Lúc đó, một thiên tài người Crôatia là Nikola Tesla đã nhận ra nhược điểm của hệ thống một chiều và phát minh ra hệ thống chạy xoay chiều (AC). Theo đó, điện sẽ đổi hướng nhiều lần trong một giây, tạo ra từ trường cho phép tải một lượng điện lớn mà không thất thoát dọc đường.
                Trước Tesla, cũng có một số hệ thống điện xoay chiều được dùng ở vài thành phố nhưng những hệ thống này thua kém hệ thống của Tesla. Trong thời gian đó, nhà phát minh Edison đã tuyển dụng Tesla vào làm việc cho mình. Khi trình bày với Edison ý tưởng về hệ thống điện xoay chiều, Tesla đã bị ông chủ bác bỏ và Tesla bỏ việc ở chỗ Edison trong tức giận.
                Năm 1887, Tesla được cấp bằng sáng chế cho hệ thống điện xoay chiều và được nhà phát minh George Westinghouse chú ý. Ông đã mua 40 bằng sáng chế của Tesla và chỉ trong vòng vài năm, hơn 100 thành phố, thị trấn đã dùng hệ thống điện xoay chiều của Westinghouse. Mất thị phần và nhân viên vào tay Westinghouse khiến Edison rất tức giận.
                Ai cũng nhận thấy rằng chỉ trong vài năm nữa, điện xoay chiều sẽ nhanh chóng thay thế điện một chiều, trừ Edison. Để chứng minh điều ngược lại, ông đã bám lấy niềm tin rằng điện một chiều tốt hơn, an toàn hơn.


                Chuyện về chiếc ghế tử thần - Kỳ 2: Cuộc chiến các dòng điện
                George Westinghouse
                Nói là làm, năm 1887, ông bắt đầu tìm cách làm mất uy tín của Westinghouse và hệ thống xoay chiều. Ông sai nhân viên thu thập tin tức về những cái chết do điện xoay chiều. Ông thuê người vận động hành lang để hạn chế lượng điện được phép truyền qua đường dây điện. Và điều quan trọng nhất, Edison muốn dư luận biết rằng ông muốn ghế điện ở New York dùng dòng điện xoay chiều.
                Ngày 5/6/1888, tờ New York Evening Post đăng một bức thư của một người tên là Harold Brown, trong đó cảnh báo về sự nguy hiểm của điện xoay chiều. Ông Brown cho rằng Ban kiểm soát điện New York nên cấm hệ thống điện xoay chiều trước khi xảy ra thảm kịch liên quan đến mạng sống của con người. Có một điều cần lưu ý rằng ông Brown từng là nhân viên cũ của nhà phát minh Edison trong những năm 1870. Dù không có bằng chứng nhưng người ta có cảm giác ông Brown chính là đại diện mà Edison chọn để chống lại Westinghouse.
                Nếu quả như vậy thì ông Brown hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vì ông rất nhiệt tình và thu hút được nhiều sự chú ý. Brown thực hiện hàng loạt thí nghiệm với dòng điện xoay chiều và một chiều dưới sự chứng kiến của Ban kiểm soát điện cùng với báo chí. Sau đó, các thí nghiệm được làm ở phòng thí nghiệm của Edison tại New Jersey. Trong thời gian này, người nào “thí” mạng sống một con vật làm thí nghiệm sẽ được Edison trả 25 xu.
                Hội pháp lý y học New York theo dõi chặt chẽ các thí nghiệm này do hội được Bộ Nhà tù giao nhiệm vụ tìm hiểu về hệ thống hành quyết mới. Vì không ai trong hội có kinh nghiệm về điện nên những lý lẽ của ông Brown có nhiều sức nặng với họ. Khi hội nộp báo cáo tháng 12/1888, hội đã đề xuất chiếc ghế hành quyết nên dùng điện xoay chiều.
                Trong khi đó, nhà phát minh George Westinghouse cũng ra sức bảo vệ dòng điện của mình. Ông và các đại diện phản bác dữ dội các lý lẽ của ông Brown. Họ tuyên bố ông này chính là “tay sai” của Edison trong khi ông Brown một mực phủ nhận. Ông Brown còn thách Westinghouse tham gia một thí nghiệm mà trong đó ông sẽ để cho điện một chiều chạy qua người mình còn Westinghouse để cho dòng điện xoay chiều chạy qua. Westinghouse không bình luận gì về thách đố này và Brown cho rằng Westinghouse sợ.
                Trong lúc Edison và Westinghouse mải mê với cuộc chiến của mình thì dự luật hành quyết trở thành luật. Ông Brown được chính quyền chỉ định làm kỹ thuật viên ghế điện chính thức của bang New York. Và chiếc ghế tử thần dùng dòng điện xoay chiều ra đời.

                Chuyện về chiếc ghế tử thần - Kỳ cuối: "Quay chín" tù nhân

                Người đầu tiên "được" ngồi trên ghế điện sẽ là người đầu tiên bị kết án tử hình ở New York trong năm 1889. William Kemmler - một kẻ giết người ở thành phố Buffalo - chính là người có "vinh dự" đó.



                Chuyện về chiếc ghế tử thần - Kỳ cuối:Chiếc ghế điện ở nhà tù Auburn.

                Phiên xét xử Kemmler diễn ra rất nhanh chóng. Ngày 10/5/1889, hắn bị kết tội giết người và 3 ngày sau đã bị kết án tử hình. Tuy nhiên, ngày thi hành án ngay lập tức bị hoãn lại do luật sư W. Bourke Cockran kháng án với lý do chiếc ghế điện tử hình vi phạm luật vì nó là hình phạt bất bình thường và độc ác.

                Cockran là một luật sư có giá nên việc ông quan tâm đến một tên bán ma túy vặt như Kemmler khiến dư luận chú ý. Mặc dù ông tuyên bố chỉ hành động vì lợi ích của con người nhưng trong thực tế, ông được George Westinghouse thuê để ngăn chặn ông Brown dùng dòng điện xoay chiều cho ghế tử hình.

                Dưới bàn tay của Westinghouse, ông Brown không thể mua nổi một chiếc máy phát điện xoay chiều mới. Ông buộc phải mua máy cũ, chuyển chúng đến Braxin rồi lại chuyển về Mỹ.

                Trong khi tiếp xúc với báo chí, ông Brown luôn nhấn mạnh rằng máy phát điện dùng cho ghế điện là do Westinghouse sản xuất và nó dùng dòng điện xoay chiều chết người. Cũng giống như Edison, Westinghouse không muốn tên tuổi và ngành kinh doanh của mình bị gắn với cái chết.

                Một lần nữa, cuộc chiến giữa dòng điện xoay chiều và một chiều lại xuất hiện trước tòa. Tòa án vẫn quyết định Kemmler sẽ bị hành quyết theo như kế hoạch. Chưa chịu thua, Cockran kháng án lên Tòa Thượng thẩm bang. Nhưng tòa này cũng nhanh chóng bác lý lẽ của Cockran.

                Chuyện về chiếc ghế tử thần - Kỳ cuối:Vụ hành quyết Kemmler qua tranh vẽ.

                Trong lúc diễn ra hai phiên tòa phúc thẩm, ông Brown đã nhanh chóng lắp đặt ghế điện ở nhà tù Auburn. Nhưng một lần nữa, ngày hành quyết lại bị hoãn khi vào ngày 2/5/1890, Roger Sherman, một luật sư khác do Westinghouse thuê, đến thành phố Buffalo với một lệnh ký tên chánh án Tòa án Tối cao Mỹ. Nhưng, kể cả khi được xem xét tại tòa án cao nhất nước Mỹ, tòa vẫn cho rằng bang New York không vi hiến khi dùng ghế điện xử tử.

                Ngày hành quyết Kemmler được ấn định lúc 6 giờ sáng ngày 6/8/1890. Trong số các nhân chứng của vụ hành quyết có nha sĩ Southwick và George Fell - hai "cha đẻ" của ý tưởng ghế điện.

                Lúc chuẩn bị cho Kemmler ngồi lên ghế điện, tay viên cai ngục run lên khi ông thắt dây để giữ Kemmler ngồi cố định trên ghế. Một điện cực dưới hình thù một cái mũ, bên trong chứa bọt biển được gắn vào đầu Kemmler. Một điện cực khác gắn vào sống lưng. Các điện cực đều được tẩm dung dịch muối.

                Trong phòng khác, chiếc máy phát điện của Westinghouse kêu o o. Đèn trên bảng điều khiển đều sáng. Bảng điều khiển cho thấy nó đã đạt 2.000, vôn - con số đã được chứng minh là tốt nhất để giết một người. Người ta bật công tắc để dòng điện đi vào ghế. Điện truyền qua người Kemmler trong 17 giây. Hắn co giật dữ dội và trông đỏ rực. Khi dòng điện được ngắt, nha sĩ Southwick thốt lên: "Đây là kết quả cao nhất sau 10 năm làm việc và nghiên cứu. Từ hôm nay chúng ta đã sống trong thế giới văn minh hơn".

                Tuy nhiên, có một vấn đề nghiêm trọng: Kemmler chưa chết. Người ta nháo nhác ra lệnh bật lại nguồn điện. Nhưng vì chiếc máy phát điện đã bị tắt nên cần thời gian để tích điện lại. Trong khi đó, Kemmler rên rỉ và thở hổn hển. Các nhân chứng kinh hoàng, có người ngất xỉu.

                Khi máy phát điện đạt 2.000 vôn, dòng điện lại được truyền vào ghế. Rút kinh nghiệm, lần này họ để dòng điện truyền vào người Kemmler hơn một phút. Khói bốc nghi ngút từ đầu Kemmler. Mùi da thịt cháy bốc lên và có tiếng nổ lép bép. Khi ngắt dòng điện, Kemmler lần này chết hẳn.

                Báo chí đưa tin về vụ hành hình đầu tiên bằng ghế điện với đủ loại tít, từ nghiêm túc đến giật gân. Có báo còn cho rằng lửa đã bắn ra từ mồm Kemmler. Dư luận phản đối mạnh mẽ nhưng không đủ để khiến các nhà làm luật hủy bỏ luật hành quyết bằng điện.

                Trong khi Kemmler đau đớn vì bị quay chín bằng điện đúng theo nghĩa đen thì Edison và Brown vẫn một mực khẳng định rằng kẻ tử tù qua đời không đau đớn, chỉ trong giây đầu tiên dòng điện chạy qua người. Edison cho rằng các vụ hành quyết trong tương lai cần máy phát điện mạnh hơn.

                Các vụ hành quyết tiếp theo ở nhà tù Sing Sing diễn ra suôn sẻ hơn, dọn đường cho dư luận chấp nhận hình thức này. Edison đã thắng Westinghouse trong cuộc chiến dòng điện nhưng chiến thắng của ông chỉ là tạm thời. Hệ thống điện một chiều của ông nhanh chóng bị thất sủng và bị dòng điện xoay chiều "hất cẳng".

                Trong gần 72 năm, New York đã dùng nhiều loại ghế điện khác nhau. Trong thời gian đó, có 695 người chết trên ghế điện. Các bang khác cũng thông qua luật xử tử bằng điện và tự thiết kế ghế điện. Trong lúc chờ Kemmler bị xử tử, nhiều bang đã có dự luật sẵn. Một số bang lại mất nhiều năm mới bỏ được hình thức treo cổ để thay bằng ghế điện. Tuy nhiên, có những bang lại không bao giờ dùng ghế điện như California, Arizona... mà dùng khí xyanua.

                Năm 1977, bang Texas bắt đầu xử tử bằng tiêm thuốc độc vì cho rằng biện pháp này nhân đạo hơn ghế điện. Từ năm 1981, bang Oklahoma và nhiều bang khác cũng "bắt chước". Nhiều vụ xử tử bằng ghế điện không thành công đã khiến dư luận nước Mỹ cho rằng biện pháp này vừa nguyên thủy vừa không đáng tin.

                Ngày càng có nhiều bang bỏ ghế điện và dần dần chiếc ghế tử thần chỉ còn trong lịch sử của loài người.

                Thùy Dương
                Xem tiếp...