Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

Câu chuyện lịch sử 4

(Đại Chúng sưu tầm trên NET)

Hải Thượng Lãn Ông

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
 

Ảnh họa Hải Thượng Lãn Ông
Hải Thượng Lãn Ông (chữ Hán: 海上懶翁, "Ông già lười Hải Thượng"[1]) là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác[2][3](黎有晫) (11 tháng 12, 1720 – 1791). Ông tinh thông y học, văn chương, là danh nhân Việt Nam thế kỉ XVIII được nhiều người kính trọng.

Thân thế và chí hướng lập thân

Lê Hữu Trác sinh ngày 11 tháng 12 năm Giáp Thìn 1720 tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) . Tuy nhiên, cuộc đời ông phần nhiều (từ năm 26 tuổi đến lúc mất) gắn bó với ở quê mẹ thôn Bầu Thượng (hay Bàu Thượng), xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh) . Ông là con của ông Lê Hữu Mưu và bà Bùi Thị Thưởng . Là người con thứ bảy nên ông còn được gọi là cậu Chiêu Bảy.
Dòng tộc ông vốn có truyền thống khoa bảng; ông nội, bác, chú (Lê Hữu Kiều), anh và em họ đều đỗ Tiến sĩ và làm quan to. Thân sinh của ông từng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư (năm Kỷ Mùi 1739). Khi ấy, Lê Hữu Trác mới 20 tuổi, ông phải rời kinh thành về quê nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến thân.
Nhưng xã hội bấy giờ rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi. Chỉ một năm sau (1740), ông bắt đầu nghiên cứu thêm binh thư và võ nghệ, "nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình" (Tựa "Tâm lĩnh").
Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra xã hội thối nát, chiến tranh chỉ tàn phá và mang bao đau thương, làm ông chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên đã nhiều lần từ chối sự đề bạt. Đến năm 1746, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự "bẻ tên cởi giáp" theo đuổi chí hướng mới.

Theo đuổi nghề thuốc

Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân đội, giải ngũ về phải gánh vác công việc vất vả "trăm việc đổ dồn vào mình, sức ngày một yếu" (Lời tựa "Tâm lĩnh"), lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, sau mắc cảm nặng, chạy chữa tới hai năm mà không khỏi. Sau nhờ lương y Trần Độc, người Nghệ An là bậc lão nho, học rộng biết nhiều nhưng thi không đỗ, trở về học thuốc, nhiệt tình chữa khỏi.
Trong thời gian hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông thường đọc "Phùng thị cẩm nang" và hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần Độc thấy lạ, bèn đem hết những hiểu biết về y học truyền cho ông. Vốn là người thông minh học rộng, ông mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ lợi ích cho mình mà có thể giúp người đời, nên ông quyết chí học thuốc.
Hương Sơn, ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu "Hải Thượng Lãn ông". Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha và cũng là xã Bầu Thượng quê mẹ. "Lãn ông" nghĩa là "ông lười", ngụ ý lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích gắn bó.
Mùa thu năm Bính Tý (1754), Lê Hữu Trác ra kinh đô mong tìm thầy để học thêm vì ông thấy y lý mênh mông nhưng không gặp được thầy giỏi, ông đành bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn "từ khước sự giao du, đóng cửa để đọc sách" (Tựa "Tâm lĩnh"), vừa học tập và chữa bệnh. Mười năm sau tiếng tăm của ông đã nổi ở vùng Hoan Châu.
Sau mấy chục năm tận tụy với nghề nghiệp, Hải Thượng Lãn ông đã nghiên cứu rất sâu lý luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ; tìm hiểu nền y học cổ truyền của dân tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh phong phú của mình, ông hệ thống hóa tinh hoa của lý luận Đông y cùng với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lý luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ truyền của dân tộc. Sau hơn chục năm viết nên bộ "Y tôn tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức, Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng. Phần quan trọng nữa của bộ sách phản ảnh sự nghiệp văn học và tư tưởng của Hải Thượng Lãn ông.

Lên kinh

Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), ông nhận được lệnh chúa triệu về kinh. Lúc này ông đã 62 tuổi, sức yếu lại quyết chí xa lánh công danh, nhưng do theo đuổi nghiệp y đã mấy chục năm mà bộ "Tâm lĩnh" chưa in được, "không dám truyền thụ riêng ai, chỉ muốn đem ra công bố cho mọi người cùng biết, nhưng việc thì nặng sức lại mỏng, khó mà làm được" ("Thượng kinh ký sự"), ông hy vọng lần đi ra kinh đô có thể thực hiện việc in bộ sách. Vì vậy ông nhận chiếu chỉ của chúa Trịnh, từ giã gia đình, học trò rời Hương Sơn lên đường.
Ra kinh vào phủ chúa xem mạch và kê đơn cho thế tử Trịnh Cán, ông được Trịnh Sâm khen "hiểu sâu y lý" ban thưởng cho ông 20 xuất lính hầu, và bổng lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại. Nhưng ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thường ốm yếu để được trọ ở ngoài. Bọn ngự y ghen tỵ với Lãn ông không chịu chữa theo đơn của ông, nên thế tử không khỏi, ông biết thế nhưng không hề thắc mắc với bọn thầy thuốc thiếu lương tâm này, mặt nữa ông không thật nhiệt tình chữa, kết quả để sớm thoát khỏi vòng cương tỏa của quyền thần, danh lợi.
Thời gian ở kinh đô, ông nhiều lần xin về thăm cố hương Hải Dương, nhưng mãi đến tháng 9 năm 1782, sau chúa Trịnh mới cho phép ông về. Không lâu sau, ông lại có lệnh triệu về kinh vì Trịnh Sâm ốm nặng. Về kinh ông chữa cho Trịnh Sâm khỏi và cũng miễn cưỡng chữa tiếp cho Trịnh Cán. Trịnh Sâm lại trọng thưởng cho ông. Ông bắt buộc phải nhận nhưng bụng nghĩ: "Mình tuy không phải đã bỏ quên việc ẩn cư, nhưng nay hãy tạm nhận phần thưởng rồi sau vứt đi cũng được" ("Thượng kinh ký sự").
Sau khi Trịnh Sâm chết vì bệnh lâu ngày sức yếu, Trịnh Cán lên thay, nhưng Trịnh Cán cũng ốm dai dẳng nên "khí lực khô kiệt", khó lòng khỏe được. Do nóng lòng trở về Hương Sơn, nhân có người tiến cử một lương y mới, Lê Hữu Trác liền lấy cớ người nhà ốm nặng rời kinh. Ngày 2 tháng 11 (năm 1782) Lãn ông về đến Hương Sơn.

Sự nghiệp cuối đời

Năm 1783 ông viết xong tập "Thượng kinh ký sự" bằng chữ Hán tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy, thế lực của nhà chúa - những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Tập ký ấy là một tác phẩm văn học vô cùng quý giá. Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhiều: chữa bệnh, dạy học, nhưng ông vẫn tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, viết thêm (tập Vân khí bí điển, năm 1786) để hoàn chỉnh bộ "Tâm lĩnh". Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, ông còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại.
Ông qua đời vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791) tại Bầu Thượng, (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), thọ 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở khe nước cạn chân núi Minh Từ thuộc xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn.
Lê Hữu Trác là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, trong đó có thuốc Nam, kế thừa xuất sắc sự nghiệp "Nam dược trị Nam nhân" của Tuệ Tĩnh thiền sư. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh là công trình y học xuất sắc nhất trong thời trung đại Việt Nam và các cuốn Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự không chỉ có giá trị về y học mà còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học.

Ngời sáng Danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác


Cứ mỗi độ xuân về là thầy thuốc không thể không nhớ đến một con người mà tên tuổi vằng vặc như sao Khuê với ánh sáng trường tồn theo chiều dài lịch sử. Ánh sáng ấy là kết tinh của tấm lòng thương dân bao la với tài năng siêu việt thành tấm gương sáng để lớp lớp thầy thuốc Việt noi theo từ thế hệ này sang thế hệ khác với tất cả niềm tự hào. Ông là Danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Đầu thế kỷ XVIII, xã hội phong kiến Việt Nam quay cuồng trong cơn binh lửa giữa nạn tranh giành quyền lực Vua Lê - Chúa Trịnh khiến trăm họ lầm than, muôn dân cơ hàn đói rét bệnh tật... Ở thôn Văn Xá, xã Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hưng Yên bấy giờ  (nay thuộc xã Liêu Xá, Yên Mỹ, Hưng Yên), vào năm Canh Tý (1720) ngày 17 tháng 11 âm lịch có một con người được sinh ra mà sau này tên tuổi trở thành ngôi sao sáng của y học cổ truyền và hiện đại Việt Nam  về y đức, y thuật. Ông là Đại danh y Lê Hữu Trác.
Đại danh y Lê Hữu Trác lúc mới sinh có tên là Lê Hữu Huân, sau lấy hiệu là Hải Thượng Lãn Ông. Vào năm Bính Dần (1746), khi ông vừa 26 tuổi, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh để xin ra khỏi quân ngũ, thực sự "bẻ tên cởi giáp" theo đuổi chí hướng nghề thuốc để cứu dân lành.
Bắt tay vào nghề thuốc với vốn tri thức có sẵn từ nhỏ về thiên văn, địa lý, âm dương ngũ hành cộng với phẩm chất thông tuệ có sẵn nên việc học của ông thật nhanh chóng. Ngay từ đầu, ông đã tâm niệm: "Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên lo tính mạng con người; phải lo cái lo của con người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu người làm nhiệm vụ của mình, không được mưu lợi, kể công". Và suốt đời "làm thuốc" của mình, ông phấn đấu không mệt mỏi để thực hiện điều tâm niệm cao cả đó.

 Tượng Hải Thượng Lãn Ông ở Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Sáng ngời y đức
Trước khi theo nghề thuốc, Hải thượng Lãn Ông là một bệnh nhân bị cảm nặng do sớm khuya đèn sách, không chịu nghỉ ngơi. Bệnh trọng 2 năm không chữa khỏi, sau nhờ lương y Trần Độc, người Nghệ An là bậc lão nho, học rộng biết nhiều nhưng thi không đỗ, trở về học thuốc, nhiệt tình chữa khỏi. Âu cũng là duyên cơ khi mà bệnh nhân trong lúc được thầy cứu chữa đã miệt mài đọc sách thuốc của thầy. Thấy lạ, thầy Trần Độc bèn đem hết những hiểu biết về y học truyền cho ông.
Nói đến Hải Thượng Lãn Ông trước hết là nói đến y đức. Khái niệm y đức của ông thật giản dị :"Đã hiến thân cho nghề thuốc thì phải biết quên mình để  dồn hết tâm lực vào trước thuật, trước là cứu người, sau là đúc kết để dựng nên ngọn cờ đỏ thắm giữa y trường". Ngay từ ngày ấy ông đã rất "hiện đại", nói như ngôn ngữ ngày nay là chữa bệnh và nghiên cứu khoa học!. Rộng hơn, ông phân tích mối quan hệ thầy thuốc - bệnh nhân: "Thầy thuốc là người có nhiệm vụ bảo vệ sinh mệnh người ta. Lẽ sống chết, điều phúc họa đều ở trong tay mình xoay chuyển, lẽ nào người có trí tuệ không đầy đủ, hành động không chu đáo, tâm hồn không thoáng đạt, trí quả cảm không thận trọng mà dám theo đòi bắt chước học nghề y".
Trong mọi nghề khác, học là thành tài song trong ngành y, sự học chỉ là một phần và điều làm nên tên tuổi, tài năng là tự tu dưỡng với 8 chữ răn mình: Nhân - Minh - Đức - Trí - Lượng - Thành - Khiêm - Cần (tức là nhân ái, sáng suốt, đức độ, hiểu biết, rộng lượng, thành thực, khiêm tốn, cần cù), cụ thể hơn là phải tránh 8 tội: lười biếng, keo kiệt, tham lam, dối trá, dốt nát, bất nhân, hẹp hòi, thất đức. Y học mang trong nó những thiên chức cao cả nhưng y học cũng là một nghề và người hành nghề thì cũng là những con người cụ thể. Vì thế, từ thực tế, ông kịch liệt phê phán những người lợi dụng ngành y để mưu lợi "hoặc bắt bí người ta trong đêm mưa gió khó khăn... bệnh dễ thì kêu là bệnh khó, bệnh khó thì dọa là bệnh chết, dối mình, dối người để mưu cầu cho mình... Đối với kẻ giàu sang thì sốt sắng để mong được lợi, đối với người nghèo khó thì lạnh nhạt, thờ ơ...".
Cuộc đời Hải Thượng Lãn Ông là một dẫn chứng hùng hồn về y đức mà không cần cao giọng giảng giải, thuyết lý nhiều. Ông tận tuỵ với người bệnh, không quản đêm hôm mưa gió, đường sá xa xôi cách trở hay khi bản thân đang mệt mỏi, ốm đau, ông đều đến tận nơi, xem bệnh cụ thể rồi mới cho thuốc. Bệnh nặng cần mua thuốc tốt, ông sẵn sàng bỏ tiền để cứu bệnh nhân dù biết rằng sau này bệnh nhân không có khả năng hoàn trả. Ông luôn thận trọng và hy sinh cả những thú vui riêng tư thích du ngoạn đây đó ngắm non nước cảnh vật chỉ vì "nhỡ khi vắng mặt ở nhà có người đến cầu bệnh nguy cấp thì phụ lòng trông mong của họ, lỡ nguy hại đến tính mạng...". Người nghèo đã khổ nhưng người nghèo mang bệnh mới là thậm khổ nên ông hết lòng thương yêu người bệnh nghèo khổ, vợ góa con côi bởi vì "kẻ giàu sang không thiếu gì người chăm sóc, người nghèo hèn không đủ sức để mời danh y". Ông tôn trọng nhân cách của người bệnh và luôn nghiêm khắc với bản thân mình, giữ tâm hồn luôn trong sáng. 

 Phố Lãn Ông ngày nay.
Nhân cách lớn và y thuật lớn giữa bầu trời y học
Con người thầy thuốc là vậy mà con người xã hội trong ông cũng là tấm gương lớn về nhân cách. Hải Thượng Lãn Ông là hiện thân của tấm lòng cương trực, chí khí thanh cao, không màng công danh phú quý, không nịnh hót kẻ giàu sang. Khi ông 62 tuổi, vào năm Cảnh Hưng 43 (1782), ông nhận được lệnh chúa triệu về kinh xem mạch kê đơn cho Thế tử Trịnh Cán. Việc trên đòi đâu dám chống và từ quê mẹ, ông thượng kinh. Chúa Trịnh Sâm gặp ông, tiếp một buổi khen "hiểu sâu y lý", ban thưởng cho ông 20 suất lính hầu và bổng lộc ngang với chức quan Kiểm soát bộ hộ để giữ ông lại. Nhưng ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thường ốm yếu để được trọ ở ngoài. Bọn ngự y ghen tỵ với Lãn Ông, không chịu chữa theo đơn của ông nên Thế tử không khỏi, ông biết thế nhưng không hề thắc mắc với bọn thầy thuốc thiếu lương tâm này, mặt nữa ông không thật nhiệt tình chữa, để sớm thoát khỏi vòng cương tỏa của quyền thần, danh lợi. Thế nhưng với dân, với đồng nghiệp, với học trò, Hải Thượng Lãn Ông lại là một con người khác. Ông là một tấm gương mẫu mực cho thuật xử thế: "Khi gặp người cùng nghề cần khiêm tốn, hòa nhã, cẩn thận, chớ nên coi rẻ khinh thường, đối với người cao tuổi thì nên cung kính; đối với người có học thì nên tôn thờ như bậc thầy; đối với người cao ngạo thì nên nhún nhường; đối với người non nớt thì nên dìu dắt; giữ lòng như vậy là điều phúc lớn".
Trong lịch sử y học Việt Nam, ông là người đặt nền móng xây dựng y thuật với cuốn Y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển đề cập từ nội khoa, ngoại khoa, phụ khoa, nhi khoa, thương khoa, truyền nhiễm, cấp cứu đến y đức, vệ sinh phòng bệnh, phương pháp nuôi dưỡng, thậm chí cả chế biến các món ăn dưỡng bệnh... Có thể nói Y tông tâm lĩnh là tinh hoa của y học nhân loại và y dược cổ truyền Việt Nam.Để có được di sản cụ thể này, từ việc kê đơn bốc thuốc, thăm khám bệnh hàng ngày, ông đặc biệt chăm chỉ  ghi chép để tổng kết, đối chiếu, so sánh và từ đó tổng kết thành bài học lớn. Y thuật của ông có giá trị lâu dài bởi ông chịu nghe đồng nghiệp, kể cả học trò và tiếp thu kinh nghiệm của người xưa một cách có chọn lọc, linh hoạt, sáng tạo, không hề rập khuôn máy móc. Từ đó ông có quan điểm về nhận định bệnh tật và phương pháp điều trị sáng tạo phù hợp với đặc điểm phong thổ, khí hậu và đặc điểm của con người Việt Nam.
 Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, ông còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại. Năm 1783, ông viết xong tập Thượng kinh ký sự bằng chữ Hán tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ Chúa Trịnh và quyền uy, thế lực của nhà chúa - những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán và Chúa Trịnh Sâm. Tập ký ấy là một tác phẩm văn học vô cùng quý giá. Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhiều: chữa bệnh, dạy học nhưng ông vẫn tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, viết thêm tập Vân khí bí điển năm 1786 để hoàn chỉnh bộ Tâm lĩnh.
Ngày rằm tháng Giêng năm Tân Hợi (1791), tại Bầu Thượng (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), “ngôi sao sáng trên bầu trời y học” khuất bóng, thọ 71 tuổi nhưng gương sáng của ông còn mãi vằng vặc giữa trời...

Trần Ngọc Bội


Chuyện tình trắc trở của Danh y Hải Thượng Lãn Ông

 
    Chuyen tinh trac tro cua Danh y Hai Thuong Lan Ong

    (Phunutoday) - Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một đại danh y tài năng xuất chúng, hết lòng thương yêu người bệnh, một nhân cách cao thượng và là một nhà tư tưởng, nhà văn nổi tiếng của dân tộc ở thế kỷ XVIII. Thế nhưng, ít ai ngờ rằng vị “thần y” này cũng đã trải qua một chuyện tình trắc trở, vì nặng lòng với đất nước và người cùng khổ mà ông trót lãng quên người vợ mà mình đã cầu hôn dạm hỏi nhưng chưa kịp làm lễ cưới. Trọn 40 năm sau, ông mới có dịp về lại quê xưa và gặp lại người cũ lúc này đã xuống tóc quy y, nương nhờ cửa Phật. Cuộc tái ngộ cảm động đã làm dấy lên trong lòng vị danh y bao cơn sóng lòng dào dạt…

    Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tư (1720) tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng (nay là xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ) tỉnh Hưng Yên. Tuy nhiên, phần lớn cuộc đời ông đã sống và thành danh ở quê mẹ thuộc xứ Bầu Thượng, xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
    Lê Hữu Trác là con thứ bảy của ông Lê Hữu Mưu và bà Bùi Thị Thưởng. Dòng họ của ông có truyền thống khoa bảng khi có nhiều người trong nội tộc đều đỗ tiến sĩ và làm quan to. Cha Lê Hữu Trác là ông Lê Hữu Mưu đã đỗ đệ tam giáp tiến sĩ làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức ngự sử, tước bá, khi mất được truy tặng Thượng thư.
    Vị danh y lỗi lạc
    Sau khi cha mất, Lê Hữu Trác có thi vào tam trường rồi gác đèn sách, không thi thố nữa. Cũng trong thời gian này (1739), phong trào nông dân nổi dậy chống phong kiến đã nổ ra trên quy mô lớn, lan đến cả quê hương của Lê Hữu Trác, ông vừa dùi mài kinh sử vừa nghiên cứu binh thư rồi đeo gươm tòng quân và được tướng nhà Trịnh nhiều lần đề bạt khen thưởng. Tuy vậy, tận thấy chiến tranh gây đau thương chết chóc đã làm cho ông chán nản nên đã nhiều lần từ chối sự đề bạt đó.
    Mãi cho đến năm 1746, ông mới xin được về quê ở Hà Tĩnh khi người anh mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội. Thời gian ở quê, ông đã vô tình mang căn bệnh quái ác bị lây nhiễm trong quân ngũ mà không hề hay biết, đến lúc phát hiện ra thì bệnh tình đã nặng, chạy chữa khắp nơi nhưng vẫn âm ỉ. Mãi sau này, khi gặp lương y Trần Độc là người nổi tiếng cả vùng Hoan Châu (Nghệ An) đồng thời là bậc lão nho, học rộng biết nhiều về y học nhiệt tình chữa trị nên đã khỏi bệnh. Không chỉ vậy, vị lương y tâm tốt này còn đem hết cái hiểu thấu về y học truyền cho Lê Hữu Trác và mối lương duyên với y học cũng xuất phát từ đấy.
    Lê Hứu Trác
    Chính trong thời gian này, để có thời gian học, ông đã dựng nhà cạnh rừng, tự đặt tên hiệu là Lãn ông (ông lười) ý nói lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích gắn bó. Với sự say mê, vài ba năm sau ông đă chữa được một số bệnh thông thường trong gia đình và làng xóm.
    Từ đó, ông vừa học tập và chữa bệnh vừa cố gắng học hỏi thêm và trời đã không phụ khi mà mười năm sau, tiếng tăm của ông đã nổi ở vùng Hoan Châu (Nghệ An). Không chỉ chữa bệnh cứu người, Hải Thượng Lãn ông còn nghiên cứu lý luận Trung y, tìm hiểu nền y học cổ truyền của dân tộc với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lý luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ truyền của dân tộc. Ngoài ra, ông còn viết sách và bộ "Lãn ông tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học thực sự là một kho tàng vô giá để lại.
    Năm 62 tuổi, ông nhận được lệnh chúa triệu về kinh chữa bệnh cho Trịnh Cán, Trịnh Sâm và trong thời gian gần một năm ở kinh đô, Lãn Ông đã về thăm cố hương Hưng Yên của mình. Ấy là vào tháng 9 năm 1782, sau hơn 40 năm xa cách, được trở về mảnh đất "chôn nhau cắt rốn", ông đã thực sự bồi hồi. Đặc biệt hơn, lần về lại này ông đã xúc động khi biết rằng, người vợ năm xưa mình đã từ hôn vẫn còn đây, vẫn nồng nàn chung thủy bằng cách xuống tóc đi tu, nguyện một đời nhớ thương người chồng chưa cưới đã vì nước, vì trăm họ mà lãng quên mình.
    Cuộc gặp cảm động sau 40 năm nghìn trùng cách biệt
    Câu chuyện tình cảm với người con gái quê xưa ở chốn cũ có lẽ sẽ không được vị danh y lỗi lạc này nhớ đến bởi lúc nào ông cũng bận bịu giữa hàng tá công việc. Thứ nữa, người con gái ấy tuy đã hứa hôn với ông nhưng trước lúc về quê mẹ ở ẩn cách đây 40 năm về trước, mặc dù ngày ấy ông rất yêu thương nhưng biết chắc về quê sẽ khó có ngày tao ngộ nên đã tạ tội với cô gái và hai gia đình để xin được từ hôn.
    Chuyện xưa và người xưa những tưởng đã vùi chôn vào năm tháng thì bất ngờ, mọi chuyện được gợi nhắc và sống dậy khi ông trở lại kinh thành chữa bệnh cho chúa Trịnh, và câu chuyện “thượng kinh ký sự” của vị đại thần y lần này không đơn thuần chỉ là chữa bệnh, đó còn là cuộc trở về quê cũ, thăm lại người xưa để tạ lỗi với hương xưa, người đã vì ông mà để lỡ mất một thời hương sắc thanh xuân.
    Chuyện bắt đầu trong “Thượng kinh ký sự”, một ngày nọ có hai lão ni cô đến chỗ Hải Thượng Lãn Ông và cho biết, ở chùa Huê Cầu đang đúc chuông lớn nhưng công quả chưa thành nên họ lên kinh thành để khuyến hóa (quyên góp ủng hộ). Thậm chí, một trong hai vị ni cô để tạo lòng tin với ông còn tiết lộ, bà chính là con gái của quan tả thừa ty tỉnh Sơn Nam quê ở Huê Cầu.
    Nghe nói đến quan tả thừa ty tỉnh Sơn Nam, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bất chợt giật mình, bởi ngày xưa chính ông đã đem lòng yêu thương rồi cầu hôn, đã nộp lễ vấn danh và lễ hỏi với cô con gái rượu của vị quan này. Có điều, sau đó lưu lạc nhau nên hai người đã không đến được với nhau. Sau đó thì ông về Hà Tĩnh lấy vợ, sinh con và cũng nghĩ đơn giản là người xưa cũng đã yên bề gia thất với một công tử hào hoa nào đó nên đã cố tình lãng quên. Nhưng từ sau lần gặp hai ni cô, Lê Hữu Trác càng day dứt hơn khi biết rằng, người con gái năm xưa vẫn ở vậy, thủy chung vẹn tình với người chồng chưa một ngày nên nghĩa của mình.
    Càng day dứt hơn khi biết rằng, nhiều người đã tìm đến và cũng đã có lúc gia đình nàng ép gả cho một công tử nhà giàu nhưng nàng nhất mực từ chối vì lý do, nàng là gái đã có chồng, chỉ là bạc phước phận nên không được đầu ấp tay gối, nang không xứng với bất kỳ người đàn ông nào khác. Chỉ nghe đến vậy, khóe mắt của vị danh y lỗi lạc đã rớm lệ, ông biết nàng nói vậy để chống chế chứ kỳ thực, nàng đã dành trọn trái tim cho ông.
    Để thử xem người xưa có nhớ mình không, Lãn Ông tự giới thiệu: “Tôi là người ở Liêu Xá, lánh nạn di cư đến, ở Hương Sơn quê mẹ, chẳng dè phải triệu về kinh. Nhà trọ tiêu điều, tuy có hằng tâm nhưng biết làm sao được!”. Nghe chữ Liêu Xá, ni cô Huê Cầu mặt đỏ bừng, nhận ra người tình xưa và vội vàng bỏ đi. Ngay lập tức Lãn Ông cho người tâm phúc kín đáo đi theo, tìm cho ra chỗ người tình xưa đang ở trọ. Hải Thượng Lãn Ông cũng không ngờ rằng, cả đời ông sống mẫu mực, hết lòng vì quê hương dân tộc nhưng lại mắc lỗi với một người con gái vì những bồng bột của tuổi trẻ. Sau nhiều đêm trằn trọc, day dứt, sau cũng ông đã quyết định xin phép chúa Trịnh về thăm lại quê cũ ở Huê Cầu nhưng kỳ thực là thăm và tạ lỗi với người xưa.
    Tìm về quê cũ, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bâng khuâng khi gặp lại cảnh cũ người xưa. Qua lần tìm, ông càng xót xa hơn khi biết rằng, người xưa đã quy y cửa phật! Sau khi từ chối tất cả những người đến với mình, người con gái chung thủy này đã ở vậy nuôi dưỡng bố mẹ, đến lúc bố mẹ tạ thế thì cô đã gửi thân vào chốn cửa thiền. Cuộc tái ngộ lần thứ hai sau hơn 40 năm trời cách biệt diễn ra ở ngôi chùa nhỏ Huê Cầu mừng tủi thì ít mà day dứt, ân lại thì nhiều. Hải Thượng Lãn Ông sau khi bày tỏ nỗi niềm của mình, ông xin bà cho mình được là người anh lớn, bảo dưỡng đứa em gái nhỏ suốt đời, xin rước bà về gõ mỏ tụng kinh ngay trong cái am ngay trong vườn nhà ở Hương Sơn quê mẹ.
    Lê Hữu Trác khẩn khoản: “Mùa đông cũng như mùa hè, lạnh ấm đều sẽ do ta lo liệu, một là báo ân, hai là để chuộc lỗi. Vì ta bất cẩn trong việc này, có thủy mà không có chung, khiến cho người mang hận mà ta mang tiếng là bạc bẽo”.
    Tượng đài Lệ Hữu Trác Trước thịnh tình ấy của cố nhân, sư nữ Huê Cầu mặc dầu rất xúc động nhưng bà đã khéo léo chối từ: “Quan nhân có hậu tình, còn tôi chẳng gặp chồng, cái thân cô khổ cũng là do số mệnh vậy, đâu dám trách ai. Nay tôi được biết tấm lòng tốt này cũng an ủi cảnh lung lạc vậy. Chỉ xin nếu quan nhân còn nghĩ đến tôi, nghe nói Hoan Châu có nhiều gỗ tốt và rẻ, xin nhờ mua giúp một cỗ quan tài”. Vị sư nữ muốn yên giấc nghìn thu trong quà tặng tình yêu của bậc danh y, dù ấy là tình yêu chỉ một bề thánh thiện. Ra sức thuyết phục nhưng không làm bà lung lay ý chí, Lê Hữu Trác đã lập tức sai người đi tìm mua món quà theo tâm nguyện của người xưa nhưng vì thời gian gấp gáp nên chưa mua được. Kịp đến khi chuẩn bị về quê, ông đã gửi lại 5 quan tiền để nhờ người mua một cỗ áo quan tặng vợ cũ.
    Về sau, khi đã về lại miền Trung, Hải Thượng Lãn Ông vẫn không quên được chuyện xưa, dù rằng đã đáp ứng tâm nguyện của người cũ và trước tấm thịnh tình của ông, ni sư Huê Cầu cũng đã nguôi ngoai và tha thứ cho lầm lỗi của người tình phụ. Buồn lòng và thương cảm trước cảnh long đong của người con gái vì mình mà nhất mực chung tình, Lê Hữu Trác đã làm một bài thơ vừa là để bày tỏ nỗi niềm, vừa tự trách mình. Bài thơ này về sau nổi tiếng và được in trong tập “Thượng kinh ký sự”, nguyên văn bằng chữ Hán, bản dịch của Ngô Tất Tố như sau:
    Vô tâm nên nỗi lụy người ta
    Trông mặt nhau đây luống xót xa
    Gượng cười khôn giấu đôi hàng lệ
    Tóc bạc che mờ nửa mặt hoa
    Kiếp này hãy kết làm huynh muội
    Kiếp khác xin hoàn nghĩa thất gia
    Ai nỡ phụ ai, ai nỡ phụ
    Dở dang, dang dở biết ru mà?
    Tĩnh Nhi

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét