Hòn đá thề và kho báu chôn vàng ở Cao Bằng
Lòng tham đã khiến con người mờ mắt, kho báu chưa kịp đào lên, những
cuộc tranh giành nhau đã làm nảy sinh những trận tàn sát. Vô số cuộc đào
bới đã được diễn ra quanh hòn đá bí ẩn khiến cả cánh rừng bị san phẳng.
Kho tàng chôn cất châu báu
Trong
khi đang lênh đênh trên dòng Bằng Giang thuộc phường sông Bằng, TX Sông
Bằng, tỉnh Cao Bằng, tôi tình cờ nghe được câu chuyện về “hòn đá bí ẩn”
đã tồn tại lâu đời từ một lão ngư dân.
Ngỏ
ý muốn được ông lão ngư dân dẫn đi để tận mắt được nhìn thấy hòn đá bí
ẩn kia, ông liền cho tôi địa chỉ của một ông giáo già vì theo như lão
nói thì: “Ở cái thị xã này chỉ còn mỗi ông ấy là biết rõ chính xác “hòn
đá thề” đó ở đâu thôi, giờ nơi ấy rừng rậm um tùm, không biết đường có
tìm cả ngày cũng chả thấy, có khi còn lạc không biết lối về”.
Nhảy
khỏi khoang thuyền từ biệt ông lão ngư dân, tôi tìm đến nhà của ông
Hoàng Nông Tiếp (SN 1945). Ông Tiếp đã sống ở mảnh đất Cao Bằng này từ
nhỏ, hiện đã về hưu sau mấy chục năm làm nghề gõ đầu trẻ. Khi tôi hỏi
ông về chuyện “hòn đá thề”, ông Tiếp khẽ chau mày mà bảo: “Lâu lắm mới
lại có người nhắc đến hòn đá kỳ bí ấy, tôi còn tưởng nó đã rơi vào lãng
quên rồi chứ. Kể từ ngày người dân nơi đây phát hiện ra hòn đá ấy đã có
biết bao câu chuyện ly kỳ nhưng cho đến nay vẫn chưa ai biết hòn đá kỳ
lạ vì sao lại “có mặt” giữa khu rừng hoang sơ ấy”.
Khẽ
nheo đôi mắt đã đầy những nếp nhăn, ông Tiếp kể cho tôi nghe: “Hòn đá
ấy có từ bao giờ cũng chẳng có ai đoán định nổi, chỉ biết từ thời ông
cha tôi đã có rồi. Trên phiến đá ấy có khắc hình một ông quan mặc áo gấm
bào cưỡi ngựa đang chồm lên rất tinh xảo, theo sau là một người nhỏ bé
đang cầm chiếc quạt trông giống như một tiểu đồng theo hầu. Trên hòn đá
còn có một bài thơ viết bằng chữ Nho, có người dịch được tiêu đề của bài
thơ là Vọng Sơn còn nội dung thì chưa ai biết. Ngoài ra còn một tấm bia
đá hình chữ nhật được ép chặt vào một tảng đá lớn cạnh đó như một ngôi
mộ cổ. Do hòn đá kỳ lạ nên những người phát hiện ra nó đều không dám xâm
phạm và cũng chẳng ai dám tới gần”.
Từ lâu trong cánh rừng ở phường Sông Bằng đã tồn tại hòn đá bí ẩn và xoay quanh đó là các câu chuyện kỳ lạ
|
“Cho
đến một ngày, có một ông thầy phong thủy đi qua, nghe người dân chúng
tôi truyền đến tai về câu chuyện hòn đá bí ẩn, ông thầy này đi vào xem
rồi phán rằng đây là một ngôi mộ cổ được đặt đúng vào khu mạch đất thể
“ngọa hổ tàng long” cảnh trí đều đầy ắp vượng khí bá vương, xung quanh
chắc chắn có chôn nhiều kho tàng, vàng bạc, châu báu”, ông Tiếp kể.
Kể
từ khi nghe được lời thầy phong thủy nói, những người dân tộc Tày sinh
sống quanh vùng đã đổ xô lên rừng tìm đến nơi có hòn đá để đào bới tìm
kiếm kho báu. Nhiều người còn kéo cả dòng họ lên cùng đào với hy vọng sẽ
tìm thấy kho tàng như thầy phán. Lòng tham đã khiến con người mờ mắt,
kho báu chưa kịp đào lên, nhiều người vì tranh nhau đã nảy sinh những
trận tàn sát khiến nhiều người phải mất mạng. Vô số cuộc đào bới đã được
diễn ra quanh hòn đá bí ẩn khiến cả cánh rừng bị san phẳng, một phần
của núi đá đã đổ ập xuống vì bị người dân đào rỗng lòng đất phía dưới.
“Thấy
người dân ầm ĩ vì kho báu dưới tảng đá, chính quyền thời đó đã phải ra
lệnh cấm không được đào bới quanh khu vực đó nữa. Tuy nhiên, nhiều người
vẫn lén lút đêm hôm đi đào bới, nghe đâu có người đã đào thấy cả một
chum toàn đồng tiền vàng và vô số những pho sách cổ”, ông Tiếp kể lại
cho tôi nghe.
Không
chỉ đào bới tìm kiếm vàng bạc châu báu, có người còn thuê thợ đục đẽo
đến cậy phá nhấc cả tấm bia đá được ghép vào thân của hòn đá cổ mang đi
đâu đó. Riêng về phần hòn đá nếu không vì quá to và quá nặng hẳn cũng đã
bị những người tới tìm kho báu khuân đi mất. Thời gian trôi qua, sau
khi đào bới chán chê, khu đất nơi có hòn đá bí ẩn lại trở nên hoang
vắng, câu chuyện về hòn đá chôn kho báu gần như đã bị rơi vào lãng quên
trong tiềm thức của mọi người. Chỉ một vài người cao tuổi sinh sống
quanh vùng là còn nhớ và biết đến.
Hòn đá bí ẩn trở thành nơi thề nguyền đôi lứa
Đến
gần chục năm sau đó, một số thanh niên nam nữ trong vùng đi rừng tình
cờ phát hiện ra hòn đá kỳ lạ xưa kia đã rỉ tai nhau, biến nơi đây thành
một chốn để vui chơi, hẹn hò. Do không mấy ai biết về nguồn gốc cũng như
"sự tích” kỳ lạ, nên hòn đá có chôn châu báu, vàng bạc bỗng dưng trở
thành “hòn đá thề”, là nơi để các đôi yêu nhau tỏ tình, thể thốt, nguyện
ước kết se duyên.
Không
chỉ có những trai, gái người dân tộc Tày, mà nhiều người hay biết về
hòn đá mỗi khi đến tuổi dựng vợ gả chồng đều rủ nhau đến đây để thề
nguyền trước khi chính thức làm lễ cưới. Hòn đá đã thành nơi tiếp nhận
tiếng lòng của những người đang yêu, những chuyện tình ngăn sông cấm núi
mà suốt đời họ nhung nhớ không nguôi. Ông Tiếp cho rằng, việc nhiều
người tìm đến đây để bày tỏ tình cảm có lẽ vì người ta quan niệm rằng,
tình yêu gửi vào đá sẽ bất diệt.
Một
số khác thấy hòn đá “lạ” lại ngỡ rằng của bậc “thần thánh” nào đó gửi
xuống trần gian nên đã mang lễ vật rồi tiền bạc đến đây làm lễ khấn vái
để xin được nhiều điều may mắn. Có người lại cho hòn đá kỳ lạ chính là
phần còn sót lại của đền thờ nhân vật nổi tiếng thời phong kiến là Nùng
Trí Cao.
Khi
ông Tiếp vừa dứt câu chuyện xa xưa về hòn đá và kho tàng châu báu,
trong lòng tôi rạo rực khôn xiết muốn được tận mắt đi vào rừng để chứng
thực về hòn đá kỳ lạ. Vứt bỏ lại đống hành lý, chỉ cầm theo chiếc máy
ảnh và cuốn sổ ghi chép, tôi cùng ông Tiếp đi xe tới khu rừng nơi có hòn
đá chứa đầy bí ẩn. Do đường đi vào là đường đồi núi nên tôi và ông Tiếp
chỉ đi được đến mé ngoài bìa rừng rồi phải bỏ lại xe máy ở đó và đi bộ.
Tuy nhiên, khi đi vào bên trong, ông Tiếp dặn tôi rằng: “Do ngày trước
người ta đào bới nhiều hố sâu lắm, giờ cây cối lại mọc um tùm nên anh
phải đi theo sát phía sau chân tôi, cẩn thận không bước hụt thụt xuống
hố thì có mà trời cứu”.
Ông Tiếp chỉ tay cảnh báo về những hố "tử thần" do người dân đào bới tìm vàng quanh hòn đá trước đây.
|
Lần
mò theo những bước chân của ông Tiếp, tôi cứ đi sâu dần, sâu dần vào
trong cánh rừng âm u, rậm rạp. Làn sương trên đỉnh núi theo gió lùa tràn
tới xuyên qua tán lá cây đọng thành những hạt mưa rơi lả tả từ trên
những tán cây xuống khiến đường đi hết sức trơn trượt. Ông Tiếp và tôi
mỗi bước đều phải bám vào những thân hoặc rễ cây chắc chắn để đỡ bị
trượt ngã. Mặc dù biết con đường để đi tới nơi có hòn đá bí ẩn còn xa
hun hút nhưng sức hấp dẫn của những câu chuyện kỳ lạ khiến đôi chân tôi
dường như không còn biết mệt mỏi chỉ mong sao nhanh được tận mắt nhìn
thấy “điều kỳ lạ” mà ông Tiếp vừa kể cho nghe…
Kỳ 2: Đi tìm nguồn gốc hòn đá bí ẩn ở Cao Bằng
KINH VÂN
Giải mã bí mật về hòn đá khắc thơ giữa rừng Cao Bằng
Trên hòn đá, người ta có thể nhận thấy hình một vị quan râu dài, mặc áo
bào, đầu đội mũ ô, đang cưỡi trên con ngựa có một chân giơ cao. Phía sau
vị quan là một người nhỏ nhắn, tay cầm theo một chiếc quạt, đi theo để
hầu hạ...
Sau
những cố gắng băng qua cánh rừng rậm rạp, cuối cùng, tôi và ông giáo
Hoàng Văn Tiếp cũng tới được khu vực đặt hòn đá bí ẩn. Khẽ vén những đám
lá cây mọc đan xuyên vào nhau, ông Tiếp khẽ chỉ tay xuống những hố sâu
có miệng rộng khoảng chừng hơn 1m mà bảo rằng đó chính là những chiếc hố
do người dân trước đây kéo nhau đi tìm kho báu chôn vàng đã đào khoét
sâu xuống lòng đất xung quanh hòn đá tạo thành.
Đi
thêm khoảng vài chục bước chân, trước mắt tôi là một hòn đá to nặng đã
bị cây cối phủ gần như kín mít, bên dưới của hòn đá là một phiến đá bằng
phẳng và hình dáng như một chiếc giường lớn được đặt để làm chỗ dừng
chân nghỉ ngơi ngắm nhìn cảnh vật xung quanh. Đúng như những gì ông Tiếp
đã kể trước khi tới đây, trải qua bao nhiêu năm, mặc dù bị cây cối, rêu
phong bao phủ nhưng bức họa được khắc trên hòn đá vẫn còn khá rõ nét.
Ông Tiếp dẫn PV đến nơi có hòn đá bí ẩn
|
Quan
sát kỹ có thể nhận thấy hình ảnh của một vị quan để râu dài, mặc áo
bào, đầu đội mũ ô, đang cưỡi trên một con ngựa có một chân giơ cao. Phía
sau vị quan là một người nhỏ nhắn, tay cầm theo một chiếc quạt, nhìn
giống như một người đi theo để hầu hạ. Bên cạnh bức họa vị quan là một
bài thơ chữ Hán được khắc vào nền đá gồm có 32 chữ vẫn còn rất rõ ràng, ở
trên đề hai chữ khắc lớn mà theo như lời ông Tiếp đó chính là tên của
bài thơ – Vọng Sơn.
Bức họa vị quan được khắc trên đá
|
Do
bị những người dân đào bới để tìm kho báu nên vùng đất xung quanh nơi
đặt hòn đá đã bị sụt lún khiến một phần của hòn đá bị chìm sâu dưới đất.
Phải mất rất nhiều công sức, tôi và ông Tiếp mới tìm được ra nơi trước
đây đặt tấm bia nhưng đã bị người khác lấy đi mất, giờ còn trơ lại một ô
vuông lõm vào trên nền đá. Thấy vài lỗ nhỏ sâu lưu lại gần khu vực bích
họa, tôi thắc mắc liền được cho hay: “Đó là vết đạn của bộ đội tập bắn,
khoảng những năm 1979, nhiều đơn vị lên đây đóng quân, một số chiến sĩ
không có chỗ tập bắn đã chọn chính tảng đá này để làm bia. Tuy nhiên, do
nền đá cứng nên chỉ rất ít đạn găm sâu được vào nền đá còn phần lớn đều
chỉ va rồi bắn ra ngoài”, ông Tiếp nói.
Bài thơ bằng chữ Hán có tiêu đề Vọng Sơn được khắc trên nền đá
|
Sau
khi cẩn thận lấy máy ảnh chụp lại những tư liệu về hòn đá bí ẩn này,
ông Tiếp và tôi nhanh chóng ra về, bởi thời tiết miền này thường có
những cơn mưa rừng và trời tối rất nhanh. Ra khỏi cánh rừng, khi trở về
nhà ông Tiếp, tôi tình cờ gặp được một anh nhà văn có tên Nguyễn Bính
sinh sống và làm việc tại Thị xã Cao Bằng. Anh Bính vốn là học trò cũ
của ông Tiếp, biết tôi đang băn khoăn về hòn đá kỳ lạ kia, anh Bính đã
bảo rằng: “Muốn biết rõ về hòn đá, có lẽ phải đi gặp ông Vương Hùng, ông
nguyên là phó giám đốc Sở văn hóa thông tin tỉnh Cao Bằng, có lần tôi
nghe nói ông đã từng ra tận nơi chỗ đặt hòn đá, sau đó cũng có một thời
gian dài tìm hiểu về gốc tích của hòn đá này”.
Lời
nói của anh Bính làm tôi vui sướng tột cùng, theo chân anh tôi tìm đến
nhà của ông Vương Hùng. Tiếp chúng tôi là một ông lão năm nay đã 82
tuổi, lúc mới bước chân vào nhà, thấy vợ ông Hùng có nói ông đang ốm,
khiến tôi ái ngại vì đã đến không đúng lúc, sợ làm ông mệt mỏi. Ấy thế
nhưng, có lẽ cái bệnh của ông sinh ra bởi sự nhàm chán vì suốt ngày
quanh quẩn ờ nhà, nên khi thấy tôi hỏi chuyện về hòn đá bí ẩn, đôi mắt
ông bỗng sáng rực, khuôn mặt giãn ra cùng nụ cười hết sức mãn nguyện.
Chẳng
cần dùng đến sách vở gì, ông Hùng kể một mạch về nguồn gốc của hòn đá:
“Theo những gì hồi đó tôi đi thực tế và thu thập tài liệu, nguồn gốc của
hòn đá rất có thể là của ông Lê Ngô Cát, một nhân vật lịch sử nổi tiếng
sống vào thời vua Tự Đức (1829-1883) tự là Bá Hạnh, hiệu Trung Mại,
(quê ở xã Hương Lang, huyện Chương Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội). Đương thời, ông làm chức Bố Chánh ở Cao
Bằng”.
Theo
ông Vương Hùng, Lê Ngô Cát chính là tác giả đầu tiên của cuốn Đại Nam
quốc sử diễn ca, một cuốn lịch sử bằng thơ. Trong các cuộc tìm kiếm sách
cũ ở Bắc Kỳ thời Vua Tự Đức (1847-1883), một người học trò ở Bắc Ninh
không rõ họ tên đã dâng nộp một cuốn sách cổ mà nội dung là diễn ca lịch
sử dân tộc bằng chữ Nôm. Vua mới chọn một viên quan ở Quốc Sử Quán tên
là Lê Ngô Cát biên soạn lại cuốn sách này và cuốn Đại Nam quốc sử diễn
ca đã ra đời trong hoàn cảnh như vậy.
So
với Đại Việt sử ký toàn thư, pho sử lớn nhất của nước ta, thì Đại Nam
quốc sử diễn ca chỉ là một bài vè minh họa cho các sự kiện lịch sử đã
được nhắc đến trong pho sử này. Nhưng sự phóng khoáng của trí tưởng
tượng và sự lộng lẫy của hình ảnh trong lời văn làm Đại Nam quốc sử diễn
ca vẫn có một sự hấp dẫn đặc biệt. Ở đây lịch sử được kể lại một lần
nữa qua tài năng và mỹ cảm của người viết, lúc rủ rỉ thiết tha như lời
truyền dạy bên đống lửa, lúc ngân nga như câu hát đồng dao. Qua đó Lê
Ngô Cát tiếp tục phủ thêm một mầu sắc huyền thoại vào lịch sử chính
thống, nhưng đồng thời làm cho các nhân vật và các sự kiện từ thời Đinh -
Lê trở về trước trở nên sáng tỏ và sống động.
Ông Vương Hùng kể về nguồn gốc của hòn đá bí ẩn
|
Về
sự ra đời của hòn đá có bức họa vị quan cùng bài thơ Vọng Sơn, ông Hùng
cho biết, mọi chuyện bắt nguồn từ khi vua Tự Đức xem sách của Lê Ngô
Cát dâng lên, biết là người có tài, vua cho truyền Lê Ngô Cát tới đối
ẩm, ngâm thơ. Với tài văn chương của mình, Lê Ngô Cát đã làm cho vua hết
sức hài lòng. Thấy vua quý mến, Lê Ngô Cát nghĩ rằng mình sẽ được giữ
lại kinh thành chứ không phải về chốn thâm sơn cùng cốc, heo hút, vắng
lặng nữa. Mọi chuyện không được như mong muốn, Lê Ngô Cát sau đó chỉ
được vua thưởng cho 2 đồng tiền vàng cùng một tấm lụa, chứ không hề nói
đến việc giữ ở lại kinh thành.
Hôm
sau, khi một số bạn bè biết Lê Ngô Cát được thưởng, mới hè nhau kéo đến
đòi khao, bực mình vì “có tiếng chẳng có miếng” ông mới làm hai câu thơ
“Vua khen thằng Cát có tài/ Thưởng cho chiếc khố với 2 đồng tiền”.
Vô
tình câu thơ vui của Lê Ngô Cát lại lọt đến tai vua, nghĩ Lê Ngô Cát có
tính bất kính, vua liền ra chỉ cho Lê Ngô Cát trở về Cao Bằng và mãi
mãi làm quan ở chốn hoang vu. Chán nản trở về, Lê Ngô Cát ngày ngày lấy
việc đi ngao du sơn thủy làm niềm vui, không còn tha thiết lợi danh chốn
quan trường. Bởi vậy, qua sự đối chiếu, bức họa trên đá chính là chân
dung của Lê Ngô Cát và bài thơ Vọng Sơn cũng chính là do ông làm. Để làm
rõ hơn, ông Vương Hùng đã dịch bài thơ cả nghĩa Hán Việt lẫn ý thơ cho
tôi nghe. Bài thơ có tiêu đề là Vọng Sơn gồm 8 câu.
Nghĩa
Hán Việt: Bà Hoàng Giang Sơn/ Trung Tá Hùng Anh/ Thạch Phang Tiêu Lạc/
Thủy Kính Trường Thanh/ Thiên Nhiên Cảnh Trí/ Âm đốn Thần Tình/ Vọng Sơn
Đáo Thủy/ Ngã Mã Cô Đinh.
Nghĩa
dịch: Sông Núi của Bà Hoàng/ Sâu rộng đẹp đẽ/ Hòn đá lăn xuống vỡ
ra/Nước như gương sáng trong/ Trời đất thiên nhiên bày ra như một cảnh
trí/ Ngắm núi tôi tới đây/ Cùng ngựa và cô Đinh.
Qua
lời dịch của bài thơ, có thể nhận thấy Lê Ngô Cát đang ngao du ngắm
cảnh thiên nhiên, trong lúc hứng chí đã làm ra bài thơ Vọng Sơn, cho
người khắc lên trên đá. Người đi theo sau ngựa chính là một cô a hoàn có
tên là “cô Đinh”. Bà “Hoàng” được nhắc đến trong câu thơ đầu được ông
Hùng khẳng định đây chính là bà A Nùng, mẹ của thủ lĩnh người Tày Nùng
Trí Cao trong thời kỳ chống quân Tống. Khi bà mất, được nhân dân trong
vùng lập đền thờ. Thời nhà Lý, đền Bà Hoàng được phong là thượng đẳng
thần và hàng năm tổ chức Quốc lễ 2 lần vào mùa xuân và thu.
Nói về việc trước đây nhiều người từng cho rằng có kho báu được chôn
xung quanh hòn đá bí ẩn, ông Vương Hùng cho hay: “Về việc kho báu thì
tôi cũng không chắc chắn, nhưng đã có người đào được một chiếc chum nhỏ
bên trong có nhiều tiền cổ chứ không hề có vàng bạc hay châu báu”.
Trước
khi chúng tôi ra v, ông Hùng cười và nói rằng “Lâu lắm mới có người để
hàn huyên tâm sự về lịch sử, văn hóa, tôi thấy vui lắm. Quả thực, hòn đá
kia chứa đựng trong đó cả một kho tàng về văn hóa cũng như giá trị lịch
sử của dân tộc về một nhân vật có thật. Hy vọng sẽ được nhiều người
quan tâm để có biện pháp bảo tồn, hơn là để cho thời gian bào mòn, tàn
phá”.
Theo Kim Vân
Infonet
Theo Kim Vân
Infonet
Kỳ bí ngôi mộ đá cổ hơn 200 năm giữa thành phố
(Dân trí) - Khu lăng mộ đá này là công trình cuối cùng từ thời Lê Trung Hưng được lưu giữ đến nay. Theo lịch sử ghi chép lại, đây là khu lăng mộ của một hoạn quan...
Lăng mộ của “hoạn quan”
Quần thể khu di tích lăng mộ đá tại phố Nam Sơn, phường An Hoạch,
thành phố Thanh Hóa được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1993.
Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật gắn với lịch sử có tính chất
độc đáo. Tổng quan là một khu lăng mộ, trong đó có nhiều công trình
nghệ thuật điêu khắc hoàn toàn bằng đá.
Theo những người cao niên tại đây kể lại, xưa kia trong làng có một
người tên là Lê Trung Nghĩa, gia đình ông vốn nghèo khó đến nỗi phải
trốn làng bỏ đi để không phải làm theo nhưng tục lệ của làng. Sau thời
gian lưu lạc khỏi làng, ông đã đi lính cho triều đình được chọn làm quân
cấm vệ và tình nguyện bị “hoạn” để phục vụ trong cung. Do có nhiều đóng
góp cũng như lòng “trung quân ái quốc” nên ông được thăng chức cao lên
đến Đô đốc Tổng trấn tước Quận Công và được gọi là Quận Mãn.
Ông Lê Đình Nhung, 68 tuổi là người con của dòng họ Lê Đình hiện đang
trông coi khu lăng mộ kể: “Sử cũ ghi lại, vào năm 1786, vua Lê Chiêu
Thống và chúa Trịnh Bồng đã xảy ra xung khắc với nhau. Vua Lê Chiêu
Thống đã sai tướng Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An kéo quân ra hộ giá. Lúc
này, Lê Trung Nghĩa đang làm trấn thủ tại Thanh Hóa được giao nhiệm vụ
đem quân chặn đánh Nguyễn Hữu Chỉnh ở địa phận huyện Tĩnh Gia. Ông Lê
Trung Nghĩa bại trận và bị giết chết”.
Khu lăng mộ có nhiều kiến trúc độc đáo bằng đá hơn 200 năm tại phường An Hoạch, thành phố Thanh Hóa.
“Ông (Quận Mãn) khi còn sống, biết mình không con cháu thờ tự khi qua
đời nên ông đã tự bỏ tiền mua ruộng đất của 9 làng quanh khu vực này
cho nhân dân cày cấy. Khi ông còn sống dân làng biết ơn ông có công khai
đất lập làng nên đã xin được lập một sinh từ cho ông. Khu sinh từ này
rộng mấy ha nằm trên một khu đất cao ráo, ông đã thuê thợ đá làng Nhồi,
huyện Đông Sơn lấy đá về xây dựng lên các khu thờ tự cùng với các pho
tượng nhân, vật nguyên khối đặt xung quanh. Tới khi ông chết dân làng
đem xác ông về đây chôn cất, thờ cúng nên được gọi là lăng mộ”, ông
Nhung kể tiếp.
Công trình kiến trúc bằng đá cổ
Do chiến tranh tàn phá, đứng từ ngoài đường nhìn vào không ai có thể
thấy rõ được đây là một khu lăng mộ đá với nhiều kiến trúc đá cổ. Con
đường từ cổng chính vào khu lăng mộ bị cỏ dại mọc um tùm lấn cả lối đi.
Toàn thể khu lăng mộ đá này đến nay chỉ còn rộng khoảng gần 500m2, nằm
lọt vào giữa một bên là khu dãy nhà hành chính của phường An Hoạch, một
bên là Trạm Y tế phường.
Đầu rồng thời Lê Trung Hưng được trạm bằng đá nguyên khối trong khu lăng mộ.
Bà Lê Thị Nguyệt cho biết: Bốn tấm bia đang bị nghiêng, lún cùng với chữ trên bia đá đang bị mờ đi rất nhiều.
Khu lăng mộ nằm trên diện tích đất rộng hơn 200m2 với tổng quan bao
gồm nhiều kiến trúc bằng đá độc đáo khác nhau bao gồm: Từ bên ngoài cổng
vào có 2 lính canh cổng, bên trái là một tượng “cụ rùa” chiều dài gần
1,5m, rộng 1m, cao hơn 50cm. Bên trái có 1 chiếc ngai vàng nhỏ bằng đá.
Lăng mộ chính nằm trên diện tích hơn 50m2, nơi đây xưa kia là ngôi
đình có mái che nhưng đến nay chỉ còn lưu dấu lại các cột đá của ngôi
đình. Từ ngoài vào có 2 con chó đá (con ngao) cao gần 1,5m đứng canh
cổng. Ngay tại cửa thềm lên xuống chính điện, hai bên có đôi rồng chầu
được chạm trổ, điêu khắc tinh xảo.
Khu vực chính giữa của lăng mộ có một chiếc ngai vàng lớn bằng đá, kê
trước ngai là một bàn đá nguyên khối dài gần 1m, rộng gần 0,5m. Hai bên
là hai hàng tượng đá đứng chầu, trong đó mỗi bên 5 vị quan văn, 5 vị
quan võ, một con ngựa đứng, đôi voi quỳ.
Khu vực hồ sen cũ vẫn còn nhưng diện tích đã bị thu hẹp lại. Khu đất
nối giữa khu lăng mộ và hồ sen còn có 4 tấm bia đá, mỗi bên đặt 2 tấm
bia. Mỗi tấm cao khoảng 2m, rộng 1,2m, dày 0,15m, trên bia có các chữ
Hán cổ là các văn tự do ông Lê Quý Thuần (con trai của nhà bác học Lê
Quý Đôn soạn thảo). Bốn tấm bia đá này ghi lại tiểu sử của Mãn Quận
công, tên các làng cúng tế, địa giới, điện tích đất xưa kia của 9 làng
và nơi đặt khu lăng mộ.
Cỏ dại mọc chen lẫn hai tấm bia cổ.
Một tượng voi quỳ bị gãy mất chiếc ngà.
Tuy nhiên, hiện nay công trình kiến trúc bằng đá này đang xuống cấp
nghiêm trọng. Các pho tượng đá do thời gian đã bị sứt mẻ…. “Cụ rùa” nằm
ngay cổng đi vào của khu lăng mộ đã bị mất phần đầu nhô ra, đặc biệt là 4
tấm văn bia được đặt trên nền đất nên đang bị lún nghiêm trọng, không
có mái che nên các văn tự trên đây đang bị mờ đi, xung quanh cỏ mọc um
tùm.
Hàng năm, khu lăng mộ đá này có rất nhiều người dân địa phương cũng
như khách thập phương về dâng lễ và tham quan. Có cả khách nước ngoài về
tham quan công trình kiến trúc đá cổ này.
Thái Bá
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét