Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

DẦU GIÂY



Khét tiếng đến nay "Trạm Dầu Giây"
Có lũ cướp ngày, thời "ngăn sông cấm chợ"
Thò lò mũi xanh, mà ngông nghênh hơn giặc
Gây ra biết bao  "Cái đêm hôm ấy... đêm gì!?"*

Sáng nay qua Dầu Giây
"Đổi mới" quét đi, vừa quét lại nữa rồi...
Xe bon bon giữa đất trời êm ả
Bật cười vang ha hả!...

Chợt cứng họng, đờ môi...
Ừ nhỉ, đám rác ấy giờ này đâu rồi
Hạ cánh an cư hay còn trên... thượng giới?

Nổi da gà, rùng mình, nhói lói...

                                  Trần Hạnh Thu



*ĐỌC THÊM:

Nhớ những ngọn đuốc của đêm trước đổi mới
Ông là người thiết kế chủ trương “bù giá vào lương” đột phá thành trì bao cấp những năm 1980. Ông đã vĩnh viễn ra đi vào ngày 22-5.

Ông Tư Giao, “Lưỡng quốc quân sư”, người tham mưu “bù giá vào lương” thời kỳ đêm trước đổi mới. Ảnh: NPD
 
      Vĩnh biệt “Lưỡng quốc quân sư” Bùi Văn Giao:
      1. Năm 1978-1979, hậu quả khắc nghiệt của cơ chế bao cấp đã lan ra đến tận chiến trường biên giới. Bộ đội chiến đấu dù được ưu tiên tiêu chuẩn 21 kg gạo/tháng nhưng vẫn phải độn 5-7 kg khoai mì, khoai lang, bo bo, bột mì... Không gì bất hợp lý bằng chuyện các lò bánh mì “chui” ở vùng đô thị thiếu nguyên liệu phải mua bột mì chợ đen với giá cao ngất ngưởng, còn những người lính trên Đồng Tháp Mười lúa vàng màu mỡ nhất nước lại phải ăn bột mì.
      Tôi về phép, má tôi giấu cái nghèo trong bộ quần áo lành lặn nhất nhưng cũng đã sờn vai, rách gấu. Để đãi tôi có bữa ăn ngon, má phải kêu bán lậu con heo lấy lại bộ đồ lòng. Cuộc sống thật khắc nghiệt, lúa trúng đầy bồ nhưng nông dân xơ xác vì giá mua rẻ như cho, chỉ hai mươi xu một giạ. Nông dân đem lúa xay gạo ăn phải mang theo sổ và chỉ được xay theo định mức đầu người. Cán bộ, nhân viên được cấp số lương tượng trưng và số hàng nhu yếu phẩm hàng tháng, hàng quý theo cái nhà nước có... Thời đó, để sống được hầu như ai cũng phải làm một “con phe”, phải về nhà mang lậu ít lít gạo, con gà, chục trứng. Người quê lên thành ai cũng mang lậu ít trái dừa, thịt mỡ cho con cháu.
      Năm 1983, tôi ra quân đi học đại học, cuộc sống bao cấp ở Sài Gòn lại càng nghiệt ngã...
      2. Hè năm đó tôi về Long An như rơi vô một thế giới lạ. Rào cản, ngăn sông cấm chợ vẫn còn đó nhưng có một khe cửa hẹp để người ta có thể mua bán, giao dịch với nhau. Cán bộ, nhân viên được nhận tiền lương sòng phẳng, không còn phải buộc mua hàng phân phối. Người nông dân có giấy hoàn thành nghĩa vụ nông nghiệp được “mua bán hàng đối lưu”, “hàng hai chiều” với thương nghiệp nhà nước, hợp tác xã và có quyền dùng số hàng này đi trao đổi lấy hàng hóa khác ở địa phương khác. Tiếp theo đó, chuyện mua bán hàng đổi hàng dần dần được tiền tệ hóa. Bữa ăn của từng gia đình được cải thiện, cái mặc của dân cũng dần tươm tất hơn và hệ thống mua bán tư nhân lại rụt rè sống dậy.
      Đừng nghĩ mình là ông trời, buộc mọi việc theo ý mình. Thật ra, xã hội đã tự thân vận động, công việc của người hoạch định chính sách rất đơn giản, thấy chỗ nào bị tắc thì khơi thông dòng chảy.
      Người dân truyền nhau tác giả của sự xé rào, thay đổi kỳ diệu đó do ông bí thư Chín Cần là tư lệnh và ông Tư Giao, Trưởng ty Thương nghiệp là nhà thiết kế. Nguyên ông Chín Cần là người có cái đầu thực tiễn. Sau năm 1975, thấy những hiện tượng không bình thường của kinh tế-xã hội, ông lặn lội đi chiêu hiền đãi sĩ, tìm người cùng tâm huyết phá thế khó khăn.
      Trong đó, ông gặp được ông Tư Giao người Tân Trụ, Long An, nguyên là trí thức tham gia Thanh niên tiền phong và kháng chiến suốt hai thời kỳ. Năm 1976, ông Tư Giao đang là ủy viên Ủy ban Kinh tế kế hoạch khu Trung Nam bộ được ông Chín Cần rước về làm trưởng Ty Thương nghiệp, phó chủ tịch tỉnh rồi trưởng ban Kinh tế kế hoạch tỉnh. Và chính bộ đôi tâm đầu ý hợp này đã tạo ra cuộc phá rào ngoạn mục.
      Trong thời điểm đó, đang đầu tư khai thác Đồng Tháp Mười, tỉnh không có tài nguyên đặc sản, công nghiệp còn manh mún. Thế nhưng chỉ bằng cải tiến trong thương nghiệp, Long An đã tự cân đối được thu chi ngân sách và là một trong chưa đến 10 tỉnh thành của cả nước có dư để nộp ngân sách cho trung ương.
      3. Hồi đó tôi đến gặp ông Tư tại trụ sở của Ban Kinh tế kế hoạch Tỉnh ủy. Căn phòng ông Tư vắng vẻ, không có cảnh người xin chữ ký, thư ký, phục vụ..., chỉ có mình ông và những tủ sách. Ông cười: “Đừng nghĩ mình là ông trời, buộc mọi việc theo ý mình. Thật ra xã hội đã tự thân vận động, công việc của người hoạch định chính sách rất đơn giản, thấy chỗ nào bị tắc thì khơi thông dòng chảy”. Ngẫm lại, chuyện những năm về trước chỉ là phá đi những rào cản duy ý chí của cơ chế quản lý quan liêu. Cái quan trọng là người lãnh đạo như ông Chín và người trí thức như ông đã gặp nhau và có cơ hội phá đi rào cản đó.
      Sau thành công đó, ông được một số nhà lãnh đạo chú ý. Cuối năm 1987, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào xin cho ông sang Lào làm cố vấn. Sau đó, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh có ý điều ông ra Hà Nội làm thư ký riêng. Thế nhưng việc sắp xếp ấy không thành. Ông đành về lại Long An để... dưỡng già.
      Chuyện đời ông “lưỡng quốc quân sư” là bài học thành công của sự đột phá, của sự ăn ý giữa người lãnh đạo và người trí thức, đồng lòng phá bỏ những rào cản bất hợp lý, cản trở sự vận hành của các quy luật khách quan.
       ANH KIỆT - Pháp Luật TP.HCM


       

        Cái đêm hôm ấy... đêm gì?

      Sau loạt bài "Đêm trước đổi mới", rất nhiều bạn đọc đã gọi đến Tuổi Trẻ yêu cầu đăng lại bài ký sự một thời gây sóng gió "Cái đêm hôm ấy.... đêm gì?" của nhà văn Phùng Gia Lộc. Ngày ấy, khi xuất hiện trên báo Văn Nghệ, những dòng chữ rút ruột từ nỗi uất ức, cay đắng, ngỡ ngàng của Phùng Gia Lộc đã tạo nên một "cơn địa chấn".

      Tác giả Phùng Gia Lộc, tháng 6-1988 - Ảnh tư liệu
       
        Nhiều người đã phải giật mình, phải tự nhìn lại mình, nhìn lại những việc mình làm và đang hô hào người khác làm... Một hơi gió của đổi mới cũng bắt đầu từ đó, góp vào cơn gió sẽ đổi mới cả một đất nước, đổi đời cho hàng chục triệu con người.
        Theo yêu cầu của độc giả, Tuổi Trẻ xin đăng lại toàn văn bài ký sự "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" của nhà văn Phùng Gia Lộc trên Tuổi Trẻ Online. Xin bạn đọc thông cảm cho việc không thể đăng trên báo ngày, vì các trang còn phải dành cho tin, bài thời sự.
        _____________________

        Cuối năm 1983, tôi được ở nhà chờ quyết định về nghỉ chế độ. Chiều chủ nhật, thằng Học con tôi rủ rỉ nói:
        - Con bắt được bác Quang ăn bánh cuốn ở hàng anh Minh. Bác đi thồ sắn ở chợ Phúc Địa về. Bác cho mấy bó nhưng con không lấy. Bác dặn con về đừng nói với bố mẹ là đã gặp bác. Nói, hôm nào sang bác đánh chết.
        - Hừ! Lại thế nữa...
        Tôi buột miệng bảo với con thế, rồi thừ ra. Bạn bè anh em cùng một phòng với nhau mà đi qua không vào. Có điều gì nhỉ?
        Sáng thứ hai tôi sang cơ quan ứng mấy cân gạo và định bụng sẽ gặp, trút sấm sét lên đầu anh ấy. Nghe tôi trách, Lê Trung Quang, trưởng phòng tổ chức Ủy ban huyện Thọ Xuân, cười hà hà làm lành thật đôn hậu, dễ yêu:
        - Giá có một mình thì tôi vào. Đằng này những bốn binh, khao được, anh cũng liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng è, sợ tối.
        Là trưởng phòng tổ chức ủy ban huyện, anh cũng để gia đình vợ con đói thiếu. Ra anh còn kém cỏi hơn cả tôi, một kẻ chân chim trần trụi, một tay sắp trở thành "phó thường dân". "Nhà mình cũng bí. Nộp sản đi rồi, lúa đã cạn. Khó mà ăn thấu tết được". Quang lắc đầu bảo thế.
        Anh gạn tôi:
        - Ông ở đây với tôi đêm nay cho vui. Tôi buồn quá.
        Tôi chỉ vào mấy cân gạo đã bó buộc sau xe, bảo anh Quang:
        - Phải mang "hàng chiến lược" này về chứ.
        Nếu nghe lời Lê Quang Trung nằm lại với anh một đêm, thì tôi đã không thể nào hình dung nổi ở Phú Yên xã tôi Cái đêm hôm ấy là đêm gì...
        Có cái "các" quá giang của Lê Trung Quang cho mượn, tôi không phải mất ba đồng tiền đò. Qua sông Chu gió vù vù bên tai, tôi phải kéo vành mũ len, trùm thấp cho đỡ run. Tôi về đến nhà, trời đã sẩm tối, con mực xông ra í a í ẳng vờn chân lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong lòng, ngồi bên bếp than vỏ cao su um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi đang liến láu. Còn Học - thằng con nhớn đang học bài ở nhà trên.
        Thấy tôi về thằng Thức reo lên:
        - A bố! Bố về là bố về! Có chi không bố?
        - Có cái rét cóng đây này!
        Tôi nói rồi dắt xe vào nhà, mở túi gạo, vác xuống bếp khoe:
        - Ứng được năm cân gạo.
        Bà cụ thân sinh ra tôi mệt đã lâu, thấy tôi về, cũng gượng chống gậy xuống bếp sưởi. Cụ bảo:
        - Mẹ Học đi nấu cơm cho bố va ăn!
        Tôi hỏi:
        - Nhà ăn rồi hả mẹ?
        Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có giấu nó được tí gì. Nó nói:
        - Chỉ nấu cơm cho bà với em thôi! Mẹ với anh Học, với con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau cải.
        Tôi thấy cay sè trong mắt.
        - Thế thì nấu thêm vào. Hết thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?
        Vợ tôi định cãi câu gì đó, nhưng lại thôi, vội trao thằng Văn cho bà rồi lại mở túi gạo đi vo. Bà cụ nói:
        - Rau cải ế nhăn! Đói, chả mấy người mua. Hôm nay mẹ va không đong được gạo. May lấy được đấy, không thì mai gác con lên...
        Ngoài cửa gió ào ào, tiếng chó sủa ổng oảng ở đầu ngõ. Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Hoa cũng người họ Phùng, gọi tôi bằng bác. Chồng cô ấy là đội trưởng đội sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban định mức, rồi phó chủ nhiệm. Cô vào bếp vừa nói, vừa run:
        - Sao năm nay rét sớm thế này? Bác bán cho cháu mấy bó rau cải xào.
        Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp, mấy bà cháu phải dồn chỗ cho hai người đàn bà tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay, ngó chẳng khác những viên đạn bị nén trong cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ.
        - Bác có ngan, gà gì để cho cháu vài cân. Giá mấy cũng được, cháu không quản.
        - Còn có vài ba con, phải để hôm sau bà...
        Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ đẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái đầu mùa Đông này. Vì vậy gia đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo dành để hôm sau bà... thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be để hôm sau, thậm chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng dồn mua ván đóng sẵn áo quan để hôm sau... Ấy nhưng nói đến cái chết, cụ lại giận và làm nau: Bay trông tao chết à? Tao phải sống để nhìn con cháu được đến lúc sung sướng chứ. Khổ mãi rồi.
        Tôi hỏi Hoa để lấp láp câu hớ rồi cho bà cụ khỏi giận:
        - Mua đồ nhậu làm gì tối thế này?
        - À... mua cho mấy thằng về đội ta thu sản, khuya các hắn đớp. Đội và quản trị thuê khoán cháu nấu.
        Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện "bí mật nội bộ". Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là đêm "đồng khởi" thu sản, tổng vét cả xã. Họ sẽ đổi chéo, công an và dân quân đội này về đội kia, vét bằng hết. Vì đội 12 này là nặng gánh nhất, nên họ sẽ điều về đây những tay cứng cựa. Hoa khuyên:
        - Bác có thiếu sản, thì liệu mà xoay đi
        - Thế thì tao đét bán rau cho mi nữa.
        Vợ tôi toan từ chối, nhưng Hoa nài mãi và có tôi nói vào nên chị chàng mới chịu nghe. Hoa cầm đèn ra vườn soi cho vợ tôi hái. Cô ấy cầm rau, rồi còn đi các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì không phải ghế độn khoai độn sắn gì nên chín rất mau. Thấy chỉ nấu mình cơm tôi, lòng tôi lại buồn nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào lót cho nó ngủ trong buồng, rồi lấy cho tôi cái bát, đôi đũa. Cuộc chào mời đùn đẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.
        Tôi lùa hai bát cơm với nước dưa chua, rồi bỏ đấy. Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng Thức cũng lắc đầu không dám ăn chỗ cơm còn lại. Hắn sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó có quyền uy tối thượng. Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp trở thành kẻ sống nhờ...
        Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ:
        - Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa em?
        Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ:
        - Có biết thế này, đái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha đời! Bữa trước thì tuyên bố vớt được nấy ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà khở (gở) từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỷ lệ!
        Tôi vỗ về:
        - Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu?
        - Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với anh Nhà đội trưởng rồi. Thực tế mò được hạt nào đã ăn hết hạt nấy. Mấy lâu nay bán được đồng rau nào mua ăn, không bán được thì nhịn. Đã nói khất rồi. Không cho khất, thì nhà đấy có dỡ được, đến mà dỡ.
        - Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người khéo nói! Gia đình mình, con cái mình còn ăn đời ở kiếp nơi đây.
        Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc:
        - Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng cái đời...
        Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ cao su cháy tàn, đã vạc hai ba đống than, mà chẳng ai muốn nói với ai câu nào nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi và chán chuyện bỏ đi nằm. Thằng Học làm toán xong, lấy cho bà nồi than, rồi cũng rúc xuống bếp. Hắn đi bốc rơm lót ổ ngay cạnh bếp, lấy ván chắn rồi trải chiếu, ôm chăn ra nằm.
        - Ngủ đây mà ấm, bố ạ!
        Trong giường thằng Út Văn khóc í óe. Hắn lại đái lạnh đít rồi. Mẹ nó vào quả không sai. Nó được ôm ra bếp sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ. Gần một tuổi mà nó còn bắt nhá cơm bón và bú thì hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp thế đó! Tôi đùa với con để nó cười sằng sặc cho dịu cơn lo buồn.
        Gần mười hai giờ khuya, cả nhà đi nằm. Tôi ngủ với hai thằng oắt trong ổ rơm dưới bếp.
        Có điều gì đó bồn chồn và nơm nớp...
        Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã: từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực.
        Hoàng Văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc trên loa danh sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường. Chó sủa ơi là chó sủa. Cũng cái loa phóng thanh ấy, có tiếng ông chủ tịch xã gọi cán bộ về đội 12 hội ý.
        Ông trưởng công an xã Nguyễn Đình Định gào rát cổ trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân, công an tăng cường về chi viện cho đội 12, tạo đà cho đội hoàn thành chỉ tiêu huy động. Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.
        Gần một giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹch như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh, làm thằng Út Văn khóc thét lên, ôm riết lấy mẹ. Thằng Thức cũng im thin thít, nằm co trong lòng tôi không dám cựa. Bên nhà ông Ái, láng giềng cách vườn nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân đang lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghe rõ mồn một.
        - Cứ bắt lấy cái xe đạp! Phích, xô, bắt ráo!
        Ở cổng nhà tôi đã có bước chân rình rịch, con chó mực đang có chửa bị quất, kêu ử ử.
        Cạch cạch cạch.
        - Chị cò Lộc, mở cửa ra!
        Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức đang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học mười hai tuổi đã học lớp tám rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Một luồng đèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay che.
        - Có chuyện gì đấy, các bạn trẻ ơi?
        - Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông đừng hỏi vờ.
        Vợ tôi đã mở toang cửa, tay ôm thằng bé ngất lịm. Một anh, hai anh... bốn anh bạn trẻ ùa vào nhà. Anh đi đầu cao to, tóc cắt tăng gô, mặc áo bông thùng thình, soi đèn pin rồi đánh diêm châm cái đèn hoa kỳ ở bàn thờ. Có lẽ Tâm "hộ pháp" là người này. Phải, tôi đã thấy anh ta đứng chân hộ vệ giữa, trong một cuộc đá bóng với xã khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ ngón tay cái. Vợ tôi mời họ ngồi ghế. Bà cụ đang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy, run rẩy chào.
        Theo danh sách đội báo, chị còn thiếu hơn tạ thóc. Yêu cầu chị đem nộp ngay!
        Bà cụ tôi đáp thay con dâu:
        - Các bác các anh ơi! Có còn cái gì mà nộp. Các anh và các bác không thấy đàn con hắn đói xanh đói trong đi à? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá đây à?
        - Chúng tôi không hỏi mụ nghe chưa?
        Cả bốn người cùng soi đèn pin khắp nhà trong, nhà ngoài, dưới bếp, bên chái. Hai người tuông soi cả trong vườn rau. Vợ tôi mếu máo:
        - Làm gì có lúa để ngoài ấy. Các anh xéo nát cả rau.
        Tôi chạy ra trụ sở đội, định tìm cán bộ trình bày. Chủ tịch Phê, bạn dạy học với tôi ngày trước, đi bộ đội về giải nghệ, vào cấp ủy, đang đứng đấy. Thấy thế tôi mừng quýnh. Lại thấy cả Phùng Gia Miện anh họ tôi, làm bí thư đảng ủy cũng có mặt, tôi càng yên trí. Nhưng thấy tôi họ quay đi lảng tránh.
        Anh Miện bảo nhỏ tôi:
        - Chú về động viên gia đình thanh toán bằng đủ, nhà mình là cán bộ. Không có thóc thì nộp bằng tiền. Lãnh đạo đã nhất trí cho nộp cả bằng tiền rồi đó.
        Tôi đang định nói: "Đã không có thóc thì làm cóc gì có tiền", nhưng anh họ tôi đã dịu giọng:
        - Ở đội trên, hắn bắt cả anh Thiện, anh ruột tôi, mà tôi cũng phải điếc đi... "Mất mùa màng, lợi ích thứ ba của người lao động phải hy sinh cho lợi ích của nhà nước". Đồng chí bí thư tỉnh ủy đã chỉ thị thế, chú biết rồi đó.
        Lúc ấy ở trụ sở, công an, dân quân đã khuân về nào xe đạp, bàn ghế, tủ, chum vại, thùng tôn, lợn gà... để ngổn ngang ra tận ngõ. Tên chủ nhà thiếu thóc đề chữ bằng phấn trắng vào các đồ vật: Ông Ất, ông Do Khả, ông Hưng, ông Hồng, ông Khính (mẹ đẻ cô Hoa, mẹ vợ chú Được phó chủ nhiệm)... Mấy con bò bị bắt cột gần đó sợ đèn, sợ đám đông cứ lồng lên, chực bút mũi. Chúng xoay vòng quanh, mgửa lên mặt kêu "hấp bồ", "hấp bồ"...
        Tôi loạng choạng đi về nhà, thấy người ta đang còn soi đèn tìm rất kỹ. Tôi nói:
        - Các người anh em soi tìm gì cho mất công. Nhà tôi xin khất đến mai, tìm cái bán chác, nộp tiền bằng đủ.
        Anh đầu tốp nháy nháy mắt ra hiệu.
        - Đêm nay là đêm nay! Mai chúng tôi mất thưởng ai chịu cho?
        - Bắt cái xe đạp ni, bay!
        Hai ba anh chạy lại. Tôi từ tốn ngăn họ:
        - Các đàn anh ơi! Tôi không làm ruộng sản mà. Đây là xe đạp nhà nước cấp cho tôi để tôi đi công tác. Các vị bắt cái này không được đâu.
        - Nếu chúng tôi cứ bắt thì sao?
        Tôi loáng nghĩ được một mẹo. Rút cái "thẻ hội viên Hội văn nghệ tỉnh" ra, tôi nói:
        - Tôi phản đối! Tôi là "nhà báo"! Tôi sẽ kiện lên tận ông Đồng.
        Nước cờ của tôi không ngờ lại có hiệu quả. Họ im lặng. Hẳn họ đã biết tên tôi dưới những bài đăng nào chăng.
        Chợt vị "hộ pháp" nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài để dưới gầm bàn thờ, rồi đi lại, vừa gõ vừa hỏi:
        - Cái gì trong này, chị Lộc?
        Im lặng...
        - Cái gì trong này, chị nói mau?
        Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắc thở.
        - Có cái gì đâu...
        Mấy vị hăm hở lại, đạp lật nghiêng một cái. Nắp văn thiên bung ra, lúa chảy rào rào. Cả toán reo lên như một hiệp đào vàng trúng vỉa:
        - A! Lúa! A lúa! Lúa! Anh em ơi. Ghê thật! Thế mà giả nghèo giả khổ.
        Mẹ tôi chống gậy vái dài:
        - Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ tôi lạy các anh! Lúa của tôi. Đó là tạ lúa hai đứa con gái hắn mua góp lại cho, để hôm sau tôi chết, bà con thương mà chạy đến để ăn lưng cơm sốt.
        Thực ra là của hai bà chị trong đó mỗi người có mười cân thôi. Ba mươi chín cân tiêu chuẩn hai tháng vừa qua tôi lấy về, còn lại là hơn bốn mươi cân, vợ tôi đong để dành "hôm sau" cho bà.
        Bà cụ nói như rên rẩm:
        - Đã bảo xay phứa đi cho con nó ăn không nghe. Cứ bóp mồm bóp miệng, để dành làm chi. Sống chả thấy đâu nữa là!
        Một tay râu tóc lồm xồm hỏi:
        - Chị có gánh đi hay không thì bảo?
        Một tay khác tôi hơi quen mặt, đến trước vợ tôi lạy lia lịa:
        - Thôi em xin bà chị. Em đi làm ở đây thế này, nhưng lại có bọn khác đến chỗ em làm ác y hệt. Nhà em cũng thiếu mà. Chị không gánh, để cánh này bê cả hòm ra, chị phải chịu hai chục công là ít, chưa nói phạt tiền.
        Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra, để lôi hòm lúa. Bất đồ hai thằng Học và Thức từ bếp tuôn lên, ôm lấy tay chân chư vị, van rối rít.
        - Cháu van các chú! Các chú đừng lấy lúa này đi. Lâu nay các cháu phải nhịn để dành bữa sau cúng cỗ bà, làm ma bà!
        - Buông ra đi! Ô hay, đồ con nít!
        Bà cụ loạng choạng đi lại, giơ gậy cản:
        - Các ông không thương trẻ, thì các ông thương lấy thân già, để lấy phúc đức cho con cháu.
        Vì họ đá vấp gậy, lại yếu như con căng cắc lột, bà cụ ngã chỏng queo như chiếc ghế đổ.
        - Ối Đảng ôi là Đảng ôi! Chính phủ ôi... Trông xuống mà coi...
        Tôi xốc mẹ lên giường, bịt mồm cụ lại:
        - Mẹ! Mẹ không được la như thế! Đây không phải Đảng! Đảng ta không làm thế. Đảng không chủ trương thế này!
        Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm răng vào cổ tay mình để kìm giữ cái gì cứ chực tung ra. Hai vợ chồng xúc hết lúa ra thúng bì. Dặn thằng Học trông em, ngó bà, tôi cùng vợ hì hục gánh thóc ra trụ sở nộp...
        Đoạn cuối này tôi dành cho anh Quang.
        Lê Trung Quang ơi! Anh có thể giấu cái bi kịch của gia đình anh, nhưng tôi không còn có thể che giấu nỗi đau của nhân dân bất hạnh. Dù sự tiết lộ này có làm mất cái chức huyện ủy viên của anh, thì tôi cũng thấy cứ phải nói ra.
        Chuyện thật của nhà anh đây: lúa vay ăn còn nợ bảy tạ, con Lâm, thằng Sơn phải đi mò hến từng bữa, chị ấy nấu bánh đúc đi các làng đổi lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu. Việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa. Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?".
        PHÙNG GIA LỘC - Cuối năm 1987
        Theo Báo Văn Nghệ

        Đọc “Đêm trước”, nhớ Phùng Gia Lộc

          Quả thật không thể không nói đến tác dụng tích cực của báo chí, đặc biệt của thể loại phóng sự, được khôi phục một cách đúng lúc vào thời điểm đó đã thật sự góp phần không nhỏ tạo nên chuyển động xã hội quan trọng nhất của đất nước kể từ sau năm 1975.
          Trong sự sống dậy mạnh mẽ, sinh động của phóng sự hồi ấy, Cái đêm hôm ấy đêm gì... của Phùng Gia Lộc có một vị trí đặc biệt: nó gây xúc động lớn hơn cả, chấn động tâm trí người đọc khắp nước (bấy giờ báo Văn Nghệ (*) ở Hà Nội vừa đăng xong lập tức được báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật ở TP.HCM đăng lại ngay), và có lẽ trong hàng trăm phóng sự sôi nổi hồi ấy, riêng nó chắc sẽ còn sống lâu dài như một giá trị văn học độc đáo, khó quên, đánh dấu một thời.
          Hoàn cảnh ra đời của phóng sự cũng thật đặc biệt. Tôi nhớ những ngày ấy...
          Đang là những ngày âm ỉ mà nóng cháy của “Đêm trước”, và Thanh Hóa là một trong những điểm nóng nhất. Ở đấy cuộc đấu tranh giữa các lực lượng bảo thủ và các lực lượng đòi hỏi đổi mới có thể nói đã đến mức sống mái, thậm chí theo nghĩa đen của từ này. Một không khí khủng bố thật sự, uy hiếp đến cả tính mạng của nhiều người dũng cảm đấu tranh, trong đó có nhiều anh chị em cầm bút.
          Anh Phùng Gia Lộc, một người viết nghèo, đau yếu, hiền lành mà hết sức trung thực và can trường, là một mục tiêu trọng điểm của người đứng đầu tỉnh này và tay chân của họ. Lo lắng cho tính mạng của anh, các bạn viết và cả bạn đọc của anh bàn nhau phải tìm cách đưa anh đi lánh nạn.
          Đưa đi đâu? Các vùng nông thôn khác cũng đều đang khá căng. Chỉ ra Hà Nội mới có thể tương đối an toàn. Nhưng thoát ra được đến Hà Nội cũng chẳng dễ: có cả một mạng lưới dày đặc theo dõi, bao vây chặt các “mục tiêu”. Anh em phải năm lần bảy lượt mưu mô mới lén đưa được anh Phùng Gia Lộc đến một ga nhỏ, nhanh chóng bí mật đẩy anh lên tàu rồi cử người canh gác chặt hai đầu toa... hệt như thời các chiến sĩ hoạt động bí mật trong lòng địch... cho đến khi tàu tới ga Hà Nội.
          Ra đến Hà Nội rồi vẫn còn phải rất cảnh giác, vẫn phải giấu kín anh, đề phòng còn có thể bị “truy kích”. Giấu ở đâu bây giờ? Anh Phùng Gia Lộc vốn quen thân với anh Bế Kiến Quốc, biên tập viên văn xuôi ở báo Văn Nghệ. Anh Quốc báo với chúng tôi và chúng tôi quyết định đưa anh Lộc về giấu ngay ở tòa soạn báo.
          Anh Lộc ở ngay trong cơ quan, hết sức hạn chế đi ra bên ngoài, đêm ngủ ngay trên chiếc bàn lớn chúng tôi vẫn dùng làm chỗ giao ban và duyệt báo hằng ngày. Chúng tôi cũng căn dặn nhau rất kỹ, tuyệt đối không ai được tiết lộ sự có mặt của anh ở đây. Hồi đó báo chúng tôi còn rất nghèo. Các chị em ở phòng trị sự chung nhau mỗi người góp mấy lon gạo nấu cơm nuôi anh. Anh chị em biên tập thì góp mỗi người một ít tiền.
          Chính trong những ngày đó anh Lộc đã kể cho chúng tôi nghe tình cảnh bi đát của nông dân trong cái “đêm trước” vô cùng đen tối ở quê anh. Chúng tôi ngồi nghe, không ai cầm được nước mắt. Chúng tôi nói với anh Lộc: “Thôi bây giờ anh ở đây với anh em chúng tôi, no đói có nhau. Và anh ngồi đây, viết lại tất cả những gì anh đã biết, đã sống qua và đã kể đi. Chỉ cần viết đúng như anh đã kể”.
          Anh Lộc đã ngồi viết thiên phóng sự nổi tiếng Cái đêm hôm ấy đêm gì... như vậy đấy, đều về đêm, trên chiếc bàn lớn duy nhất của tòa soạn chúng tôi hồi bấy giờ, viết mệt quá thì nằm luôn lên bàn đó mà ngủ, nửa đêm sực thức dậy lại viết tiếp... Anh Bế Kiến Quốc là người trực tiếp biên tập bài báo ấy. Theo tôi được biết, anh Quốc hầu như không sửa bỏ chữ nào. Bài viết chỉ trong hai đêm thì xong. Và chúng tôi cho đăng ngay...
          Anh Lộc còn tiếp tục phải trốn ở chỗ chúng tôi mấy tháng nữa, rau muối với anh chị em chúng tôi... cho đến khi vị đứng đầu tỉnh anh bị đổ, an toàn cho những người trung thực ở quê anh đã được khôi phục...
          Như chúng ta đều biết, sau đó anh Lê Huy Ngọ được cử về làm bí thư Thanh Hóa, thay vị tiền nhiệm ghê gớm kia. Một trong những việc làm đầu tiên của anh Ngọ khi về Thanh Hóa là tổ chức một cuộc gặp gỡ và đối thoại trực tiếp với báo chí, lắng nghe ý kiến của những tờ báo đã tích cực tham gia cuộc đấu tranh quyết liệt cho một Thanh Hóa, và một nông thôn của chúng ta lành mạnh và phát triển.
          Tôi đã quen anh Ngọ hồi anh còn làm bí thư Vĩnh Phú. Hôm gặp lại nhau tại Thanh Hóa, tôi còn nhớ rõ anh nói với tôi như thổ lộ một suy nghiệm chắc đã nung nấu khá sâu và khá lâu, một câu hỏi tôi mà cũng có thể là anh tự hỏi mình: “Có phải Thanh Hóa đã được dùng làm “bãi thử” cho dân chủ hóa?”.
          Rất có thể đúng như vậy đấy. Dân chủ hóa xã hội không phải cứ nghĩ ra là có ngay được, cũng không phải có thể có trong ngày một ngày hai, mà là một cuộc vận động và đấu tranh xã hội kiên định, kiên trì, lâu dài. Phải “học làm dân chủ” như các bạn ta ở một nước xã hội chủ nghĩa cũ đã nói trong cuộc trăn trở chuyển mình của đất nước các bạn, một cuộc học có thể rất gian nan. Và cần có những “bãi thử”. Để mới dần dần thật sự có được.
          Phùng Gia Lộc là một chiến sĩ dũng cảm trong cuộc “học” gian nan đó của chúng ta một thời. Anh đã mất rồi, hầu như chỉ để lại cho chúng ta một bài báo ngắn. Trong văn học có những nhà văn rất xứng đáng là nhà văn, mà chỉ có một bài.
          NGUYÊN NGỌC
          -----------------
          (*) Nhà văn Nguyên Ngọc là tổng biên tập báo Văn Nghệ giai đoạn 1987 - 1988.

          Trở lại miền quê “Cái đêm hôm ấy... đêm gì?”

          TT - Bút ký “Cái đêm hôm ấy... đêm gì?” của Phùng Gia Lộc đăng trên báo Văn Nghệ cách nay ngót nghét 20 năm. Đó là câu chuyện truy nộp thuế  nông nghiệp ở một làng nhỏ ven sông Chu, xã Phú Yên (Thọ Xuân, Thanh Hóa) trong một đêm mưa rét mùa đông.
            Hơn 20 năm sau khi xảy ra câu chuyện buồn thương “nửa đêm thuế thúc trống dồn...” ấy, chúng tôi trở lại làng quê của nhà văn Phùng Gia Lộc và đã thấy những đổi thay từ cánh đồng, bữa cơm của nông dân đất Thanh Hóa bây giờ dù Phùng Gia Lộc đã ra đi  từ lâu!
            “Đêm trước của đổi mới”
            Từ Thanh Hóa, theo tuyến đường ngược qua Đông Sơn, Triệu Sơn… chúng tôi lại về bến đò bên sông Chu. Những người khách chờ đò sang sông nghe chúng tôi hỏi đường về nhà của Phùng Gia Lộc đều rất nhiệt tình chỉ đường.
            Con sông Chu duềnh sóng ngầu đục phù sa. Nhìn chuyến đò sang sông chở đến năm xe máy và ba xe đạp, tôi thầm nghĩ hình ảnh này đã nói lên phần nào đời sống kinh tế của dân trong vùng.
            Tìm vào trụ sở UBND xã, không có ai trực, hỏi tên ông bí thư xã, cô gái làm ở ủy ban xã bảo tên ông bí thư là Trịnh Doãn Được. Tôi hỏi lại: “Có phải vợ ông Được tên Hoa không?”. Cô gái tròn mắt nhìn chúng tôi như muốn hỏi: “Sao lại biết rõ ràng như vậy?”.
            Thì có gì đâu, trong bút ký của mình, nhân vật đầu tiên xuất hiện lúc nhập nhoạng tối tìm tới nhà Phùng Gia Lộc mua rau cải và ngan, gà về để “phục vụ” các đội viên đội “thu sản”chính là chị Hoa …
            “Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Chồng cô ấy là đội trưởng sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban định mức rồi phó chủ nhiệm… Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện bí mật nội bộ.
            Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là đêm đồng khởi thu sản, tổng vét cả xã…” (trích “Cái đêm hôm ấy đêm gì…”). Vậy là sau bao nhiêu năm công tác, từ thuở ấy đến nay ông Được đã giữ cương vị bí thư đảng ủy xã. Chúng tôi hỏi đường sang nhà của nhà văn Phùng Gia Lộc.
            Ngôi nhà vắng tanh. Giữa nhà là chiếc tủ nhỏ với bàn thờ nhà văn, một bức chân dung khắc bằng đá treo trên tường phía trên bát nhang. Ngôi nhà ấy trong “cái đêm hôm ấy ...” ngập đầy tiếng khóc của ba đứa con, một người vợ héo hon và bà mẹ già đau yếu…
            Phùng Gia Lộc vốn là một giáo viên dạy văn nhưng rất tài hoa. Nhiều người dân trong vùng vẫn nhớ những vở kịch của huyện Thọ Xuân trong những hội diễn quần chúng đều do ông viết. Tuy là anh giáo làng nhưng ông là hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa.
            Và dù ông đã được nhiều người biết đến bởi nhiều tác phẩm khác nhưng chính bút ký “Cái đêm hôm ấy đêm gì...” đã khiến tên Phùng Gia Lộc được biết đến nhiều hơn, và hơn cả giá trị văn chương, tất cả sự thật nhà văn viết ra trong bút ký ấy chính là sự dũng cảm của một người cầm bút, dù sau đó ông chuốc lấy vô vàn hệ lụy.
            Hỏi hàng xóm chung quanh, mới hay người con đầu của nhà văn, Phùng Gia Học sau này vào đại học rồi đi sang Nga, Đức gì đấy... nay đang sống ở TP.HCM. Phùng Gia Thức, người con thứ nay công tác ở Ngân hàng huyện Lang Chánh (Thanh Hóa).
            Đứa con út, Phùng Gia Văn dạo ấy chưa đầy một tuổi nay cũng đang học đại học. Ngôi nhà lụp xụp khi xưa đã thay bằng một ngôi nhà xây khang trang, với nhiều nhà dân ở xứ này thế cũng đã gọi là sang. Bà mẹ vào thăm mấy người con ở TP.HCM, không có ai ở nhà.
            Rốt cuộc chúng tôi cũng hỏi ra ông Được, bí thư, đang ở nhà ông Phùng Gia Khính. Ông Khính cũng là chỗ họ hàng với nhà văn Phùng Gia Lộc. Thật may, rất nhiều nhân vật trong bút ký “Cái đêm hôm ấy đêm gì...” đang ngồi ở nhà ông Khính.
            Ông Khính được nhắc đến trong cái đêm hôm ấy bởi ông là một trong số những nông dân nợ thuế, bị tịch thu tài sản để thế vào số thóc thiếu.
            Vừa nhắc đến cái chuyện “nửa đêm thuế thúc trống dồn”, ông Được bảo: “Dạo ấy tôi là phó chủ nhiệm mà, cứ chỉ thị trên về thế nào chúng tôi dưới này cứ vậy chấp hành, không thể khác được”.
            Cái chuyện thu thuế ấy không chỉ diễn ra trong thời điểm Phùng Gia Lộc viết mà còn dây dưa thêm về sau này mấy năm nữa. Câu chuyện ấy cũng không riêng xã Phú Yên mà của rất nhiều xã ở ven dòng sông Chu...
            Tươi rồi, gương mặt làng quê...
            Ngay trước ngõ ngôi nhà của nhà văn Phùng Gia Lộc, lối đi chạy từ bờ đê sông Chu vào làng đã mọc lên nhiều ngôi nhà lầu khang trang. Những ngõ thôn, ngõ xóm đều đã được đổ bêtông.
            Ông Được bảo: xã Phú Yên với hơn 1.100 hộ, 5.000 dân, hầu như tất cả đều có nhà ngói, 95% số hộ  có tivi, radio, nhưng hộ nghèo vẫn chiếm 14%. Tuy nhiên so với những gieo neo của 20 năm trước thì còn hơn chuyện trong mơ.
            Anh Trịnh Đình Chấn - từng là phó chủ tịch xã, nay là trưởng công an xã, vào cái đận “cái đêm hôm ấy...” là thôn trưởng thôn 9 của xã Phú Yên - bảo dạo ấy cả xã có 350ha lúa mà phải nộp thuế đến 450 tấn, mỗi sào nộp gần tạ rưỡi thóc, năng suất lại thấp, không nhà nào không nợ thuế với HTX .
            Bây giờ cũng sào lúa ấy, thuế nông nghiệp đã được miễn, chỉ nộp 5,5kg là chi phí dịch vụ, bảo vệ cộng với 17kg thóc thủy lợi phí, như vậy một sào còn 22kg.
            Làng này xưa gọi là làng Láng, dân gian có câu: “Làng Láng sáng hơn đèn” bởi dân vùng này giỏi làm ăn kinh tế bao giờ cũng khá giả, thế mà đã có những ngày tháng gieo neo đến vậy!
            Khi chạy xe máy từ thành phố Thanh Hóa lên, đi qua rất nhiều làng quê miệt Đông Sơn, Triệu Sơn, Thọ Xuân chúng tôi đã gặp những cánh đồng mênh mông bát ngát xanh, những ngôi làng đã mang một sinh khí khác không riêng gì xã Phú Yên.
            Hệ thống kênh mương cho đồng ruộng Phú Yên đã được kiên cố hóa. Ngôi trường cho con em học được xây từ 1 tỉ đồng tiền đóng góp của dân, 12km đường liên thôn đổ bêtông cũng là dân góp vào, tự nguyện góp chứ không thể “thuế thúc trống dồn” như xưa bởi những gì người dân làm họ biết là làm cho chính cuộc sống mỗi ngày của họ.
            Nhà văn hóa, khu vực trung tâm xã, nằm thoáng đãng bên này đê. Nhiều hộ dân ở làng nhưng giàu “bạc tỉ” nhờ buôn bán chè Thái, thuốc lào làm tổng đại lý cho cả vùng.
            Trên bờ đê sông Chu lộng gió, đang kỳ nghỉ hè nhưng nhìn đứa trẻ vừa đi tập trung ở trường về, gương mặt rạng rỡ, tôi cứ chạnh nhớ hình ảnh mấy bố con nhà văn Phùng Gia Lộc trong cái đêm hôm ấy bíu ríu vào nhau bên ổ rơm giữa nền nhà lạnh giá.
            Cả mấy đứa con ôm chân mấy đội viên thu thuế gào khóc xin để số lúa lại để “làm cỗ cúng ma cho bà cháu”... Chuyện đói nghèo đã qua, nhớ lại vẫn nghe cay khóe mắt! Cuộc sống đã tươi đẹp hơn, trong đó có phần đóng góp từ “tiếng kêu” của một anh giáo làng viết văn Phùng Gia Lộc.
            LÊ ĐỨC DỤC - HÀ ĐỒNG

            Không có nhận xét nào:

            Đăng nhận xét