Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2014
SANTANA 11
(ĐC sưu tầm trên NET)
Thể hiện rõ ràng nhất, tuyệt vời nhất, thiêng liêng nhất và cũng vĩ đại nhất về sự sáng tạo vô song của loài người không phải là triết học, khoa học tự nhiên hay bất cứ cái gì khác, mà đó chính là âm nhạc!
Thể hiện rõ ràng nhất, tuyệt vời nhất, thiêng liêng nhất và cũng vĩ đại nhất về sự sáng tạo vô song của loài người không phải là triết học, khoa học tự nhiên hay bất cứ cái gì khác, mà đó chính là âm nhạc!
Li Jie 4
(ĐC sưu tầm trên NET)
Biết chắc rằng kiếp phàm phu tục tử
Vô vọng thôi được hoài đoái tình em
Nhưng anh vẫn mơ một ngày vô cớ
Tình nguyện em về ru muôn thuở đời lành
ĐC
Biết chắc rằng kiếp phàm phu tục tử
Vô vọng thôi được hoài đoái tình em
Nhưng anh vẫn mơ một ngày vô cớ
Tình nguyện em về ru muôn thuở đời lành
ĐC
Thứ Năm, 30 tháng 1, 2014
CÂU CHUYỆN VỀ RƯỢU 8 (đệ tử Lưu Linh)
(ĐC tổng hợp và sưu tầm)
- Một mai Trời réo ta đi
Ta cứ ở lại tì tì chơi Xuân
Máu me, bí tỉ phong trần
Nghêu ngao giả điếc, giả quên đường về!
Trời nghe bật tiếng cười khì:
- Hoãn cho mày cuộc phân ly xác hồn
Thỏa thuê bù khú đi con
Bợm gì quá thể, bợm hơn cả Trời!
Trần Hạnh Thu
1- LY RƯỢU TUA
Sứt trôn, mẻ miệng, đủ thứ mùi
Qua tay ngàn đứa, vẫn say đời
Đổ nước nghiêng thành hơn mỹ nữ
Một mẻ xoay vần, cả lũ toi!
2- BỎ RƯỢU
Ly rượu mềm môi, ly rượu mềm môi
Ta đắm say nàng đến thế thôi
Báo vợ bỏ con mà chung chạ
Lụn bại, lơ ngơ, nát hết đời!
Ly rượu bầm môi, ly rượu bầm môi
Nồng nàn quyến rũ mấy cũng thôi
Cái nợ mưu sinh còn trơ đó
Tương lai mù mịt đã hụ còi
Thôi "biến" đi nhé nàng Tửu ơi
Muốn chơi, tìm thằng khác mà chơi
Chuốc cho say mèm rồi bỏ mặc
Cũng phường đĩ bợm, bạc như vôi!
3- VỀ VỚI RƯỢU
Chia ly chưa cạn, đã bùi ngùi
Tội tình chi nhỉ, nàng Tửu ơi
Đâu phải tại nàng mà hư đốn?
Hư đốn là vì quá chén thôi!
Ly rượu nồng môi, ly rượu nồng môi
Tình ta đằm thắm lại đi thôi
Xưa kia tiên, thánh đều say cả
Nhạc họa thơ ca cứ ngát trời!
Trần Hạnh Thu
Nàng học ngành "Kế toán"
Mở quán kem lạc lối
Ế nhệ giữa thương trường
Tôi là kẻ mua đường
Lao đao trên hè tối
Lạc vào ngồi già cỗi
Nói huyên thuyên đất trời
"Đừng quậy nhé ông ơi!..."
Chàng ra điều ngăn chặn
Nàng ra điều ngao ngán:
"Về đi! Ông say rồi..."
Nhưng mà tôi cứ ngồi
Ngả nghiêng tình bầu bạn:
"Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên bán bộ bất tương phùng"...
Thế rồi chàng vui cùng
Và nàng cười thích thú
Quán kem đang ủ rũ
Bỗng ồn ã tình yêu
Tôi bói điều cao siêu
Về duyên phần đôi lứa
Hùng vĩ, chàng rực lửa
Nàng là nước mênh mông
Hợp nhau mà cũng không
Giận hờn trong say đắm
Đất, trời này đẹp lắm
Nhờ nước, lửa có nhau
Buôn bán chẳng đùa đâu
Phải khói nhang thờ cúng
Phải tâm đầu ý hợp
Hòa ca với cộng đồng
Cởi mở nhẹ cõi lòng
Chàng, nàng đều tươi rói
Tôi rộn ràng lễ hội
Say rồi lại càng say
Tíu tít lúc chia tay
Yêu đương mời tái ngộ
Tôi hẹn hò vang phố
Hớn hở về liêu xiêu...
Trần Hạnh Thu
Mua cái lẩu dê ngót trăm ngàn
Tiếc gì có dịp đãi bạn vàng
Hương lên nghi ngút, thơm đáo để
Cuộc rượu đêm nay chắc nồng nàn!
Xì xụp mời nhau nếm "mùi" trần
Khoắng hoài chỉ thấy mấy hòn gân
Tóp mỡ lều bều đôi ba miếng
Quan tham đâu cả, nước toàn dân?
Bạn lỡm: món này lạ mà ngon
Xương tan, thịt nát, chỉ gân còn
Chua cay đủ độ xoay vần rượu
Húp dại, răng già đỡ nhai khôn!...
Ngượng nghịu rằng đây lẩu thiếu "dương"
Vượng khí, hóa thần, chẳng sợ cương!...
Mua bán thời nay hơi khốn nạn
May đời, bạn chỉ khoái "nước non"!
Cười qua cợt lại, đèn kéo quân
Khề khà khen nàng rượu hiền ngoan
Chê cô bán lẩu xinh mà ác
Làm cuộc nhậu vui đượm vị buồn!
Trần Hạnh Thu
THU CHIỀU TRONG QUÁN VẮNG
Ngồi đồng trong quán rượu đêm
Dưới đèn vàng héo chợt em rạng ngời
Người con gái Củ Chi ơi!
Da ngăm khỏe khoắn, răng cười dòn tan
Mắt mơ đằm thắm chứa chan
Làm anh bấn loạn, bần thần, ngây ngô...
Đã qua muôn nẻo giang hồ
Kiếm cung gãy cánh, cơ đồ nát tan
Đã từng mỹ nữ, cung tần
Phấn son chán nản, nông choèn nhớ nhung
Tàn đời, vô vọng ước mong
Về đây rượu lạt vui cùng buồn tênh.
Quán tàn vắng khách hàn huyên
Cô đơn một xó say mèm tóc râu
Nhìn mình trên vách gục đầu
Cười người ngủ gật lỡ tàu đêm ga...
Thế rồi em bỗng hiện ra
Long lanh như giọt mộng mơ tình đầu
Mát lành như gió đồng sâu
Mặn mà như khúc ca dao đối hò
Ngọt ngào như tiếng ầu ơ
Tinh anh như ánh trăng mùa lúa non...
Ô hay, chẳng lụy vàng son
Tự nhiên tuyệt sắc ngăm dòn thế thôi!?
Tha hương, tạm trú xa đời
Dằn lòng cam chịu rủi xui tình trường
Tưởng rằng hết nẻo tơ vương
An bài số phận bến dừng đào hoa
Sao đành em lại hiện ra
Cho anh khốn khổ, xót xa canh tàn?
Quán khuya lắng ánh úa vàng
Lòng anh thất thểu, hoang mang thu chiều
Tình yêu lảng tránh tình yêu
Bình minh cám cảnh tiêu điều này chăng?
Dìm đò, phá bến sang ngang
Đạp cầu hò hẹn gãy phăng cho rồi...
Người con gái Củ Chi ơi
Thời gian đã tách xa vời không gian!
Tự thiêu duyên cháy ngút ngàn
Gửi em xá-lỵ vô vàn nhớ thương...
Trần Hạnh Thu
Ngẩng mặt ngó Trời, Trời ngó đâu?
Chắc là giận lắm kẻ điếc, liều
Dựng đứng, đặt điều không biết thẹn
Lại còn nhăn nhở: "Thích tào lao!"...
Cũng tại Trời bày cảnh đìu hiu
Một hồn, một xác, một buồn thiu
Giải khuây quá chén thành tao loạn
Quàng xiên, khoác lác, vẽ vời điêu
Quen hơi ngất ngưởng tít cheo leo
Xuống làm chi nữa, dưới chán phèo
Cứ đeo, may phước nên rồng rắn
Bằng không, giun dế thỏa lộn lèo*!
Trần Hạnh Thu
Chú thích: *Mượn chữ của Hồ Xuân Hương
Có những chiều phất phơ mưa phố
Dưới tàn cây trứng cá lề đường
Hai khách héo ngồi trong quán xó
Chén tạc chén thù những miếng rượu suông...
Kệ gió tạt, nhạt nhòa nắng phế
Quẳng gánh lo o bế một ngày thường
Rượu nồng lên, ra rả ồn trần thế
Quên béng nợ nần, khoác lác đế vương!
Râu tóc bạc cứ phô hồn thơ trẻ
Tung tăng đời bóng xế, mặc đêm buông!...
Trần Hạnh Thu
Tao không nốc rượu triền miên
Chỉ khi trời lặn trăng lên mới...lầy
Hũ chìm thì... đúng là đây
Nhưng ai bảo nghiện, thằng này chửi cho...
Nghiện rồi thì đố mà lo
Còn tao đang dựng cơ đồ đấy thôi?
Suốt ngày đít bệt chỗ ngồi
Đầu bay lêu lổng khắp nơi Hoang Đường
Cần cù sàng sẩy Yêu Thương
Rải ra tứ xứ mười phương dòng đời
Không rao bán, chẳng chào mời
Ngất nga ngất ngưởng trao người thiên duyên...
Tao không nốc rượu triền miên
Tại chiều cô lạnh cho nên... thích lầy...
Tao sống thế, đúng hay sai?
...Híc, híc...híc,...tao lại say nữa rồi!...
Trần Hạnh Thu
Ê, hỏi ả đào này:
Chuốc rượu sao nặng vậy
Mới ngửi thôi đã say
Uống rồi là say mãi?
Say như điên như dại
Say oạt oại cả người
Say mù đất mù trời
Say tơi bời hoa lá....
Rượu gì mà say lạ
Ngắc ngoải nhớ mênh mông
Lã chã buồn lung tung
Rồi rống cười ha hả!?
Say gì mà chẳng đã
Muốn uống mãi khôn nguôi
Uống cho tận nát đời
Đến tàn canh cuộc sống...
Ê, hỏi ả đào này:
Em có say không vậy
Hay rượu pha bùa ngải
Chỉ mình "qua" say thôi!?
Trần Hạnh Thu
1- UỐNG RƯỢU MỘT MÌNH
Một mình uống rượu canh khuya
Bàn thừa thãi ghế, bạn bè ta không
Vợ con cách mặt xa lòng
Người tình thuở cũ truy phong lâu rồi!
Đắng cay uống với sầu đời
Dưới sao lấp lánh, giữa trời đen xanh
Bên con chó mực trung thành
Trong thì thào gió tự tình ngàn phương...
Say mèm nghiêng ngả Thái Dương
Vịn vào Vũ Trụ, quay cuồng Tự Nhiên
Đất về bồng bế ta lên
Ầu ơ thương lắm chênh vênh cuộc tàn!...
2- THẦM THÌ
Đêm say, uống rượu, quên đèn
Nâng ly quá hớp, ngó lên bầu trời
Hằng hà lay láy nơi nơi
Ngàn sao ơi có nỗi đời như ta:
Cứ buồn, cứ nhớ thiết tha
Lặng thinh pho tượng nhưng mà tình si?!...
***
Trăm năm khắc khoải thầm thì
Muôn năm có cảm thông gì hay không?!
Trần Hạnh Thu
Và sông qui hàng, thoi thóp đợi tan dòng...
Ơi hỡi cơ đồ, bao giờ xây xong thế?
Bao giờ ngừng cuộc tàn phá, hóa bê tông?
Trần Hạnh Thu
BỢM HƠN TRỜI
"Trời kêu ai nấy dạ"- Một mai Trời réo ta đi
Ta cứ ở lại tì tì chơi Xuân
Máu me, bí tỉ phong trần
Nghêu ngao giả điếc, giả quên đường về!
Trời nghe bật tiếng cười khì:
- Hoãn cho mày cuộc phân ly xác hồn
Thỏa thuê bù khú đi con
Bợm gì quá thể, bợm hơn cả Trời!
Trần Hạnh Thu
Sứt trôn, mẻ miệng, đủ thứ mùi
Qua tay ngàn đứa, vẫn say đời
Đổ nước nghiêng thành hơn mỹ nữ
Một mẻ xoay vần, cả lũ toi!
2- BỎ RƯỢU
Ly rượu mềm môi, ly rượu mềm môi
Ta đắm say nàng đến thế thôi
Báo vợ bỏ con mà chung chạ
Lụn bại, lơ ngơ, nát hết đời!
Ly rượu bầm môi, ly rượu bầm môi
Nồng nàn quyến rũ mấy cũng thôi
Cái nợ mưu sinh còn trơ đó
Tương lai mù mịt đã hụ còi
Thôi "biến" đi nhé nàng Tửu ơi
Muốn chơi, tìm thằng khác mà chơi
Chuốc cho say mèm rồi bỏ mặc
Cũng phường đĩ bợm, bạc như vôi!
3- VỀ VỚI RƯỢU
Chia ly chưa cạn, đã bùi ngùi
Tội tình chi nhỉ, nàng Tửu ơi
Đâu phải tại nàng mà hư đốn?
Hư đốn là vì quá chén thôi!
Ly rượu nồng môi, ly rượu nồng môi
Tình ta đằm thắm lại đi thôi
Xưa kia tiên, thánh đều say cả
Nhạc họa thơ ca cứ ngát trời!
Trần Hạnh Thu
LẠC
Chàng đang học "Nhân văn"Nàng học ngành "Kế toán"
Mở quán kem lạc lối
Ế nhệ giữa thương trường
Tôi là kẻ mua đường
Lao đao trên hè tối
Lạc vào ngồi già cỗi
Nói huyên thuyên đất trời
"Đừng quậy nhé ông ơi!..."
Chàng ra điều ngăn chặn
Nàng ra điều ngao ngán:
"Về đi! Ông say rồi..."
Nhưng mà tôi cứ ngồi
Ngả nghiêng tình bầu bạn:
"Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên bán bộ bất tương phùng"...
Thế rồi chàng vui cùng
Và nàng cười thích thú
Quán kem đang ủ rũ
Bỗng ồn ã tình yêu
Tôi bói điều cao siêu
Về duyên phần đôi lứa
Hùng vĩ, chàng rực lửa
Nàng là nước mênh mông
Hợp nhau mà cũng không
Giận hờn trong say đắm
Đất, trời này đẹp lắm
Nhờ nước, lửa có nhau
Buôn bán chẳng đùa đâu
Phải khói nhang thờ cúng
Phải tâm đầu ý hợp
Hòa ca với cộng đồng
Cởi mở nhẹ cõi lòng
Chàng, nàng đều tươi rói
Tôi rộn ràng lễ hội
Say rồi lại càng say
Tíu tít lúc chia tay
Yêu đương mời tái ngộ
Tôi hẹn hò vang phố
Hớn hở về liêu xiêu...
Trần Hạnh Thu
NHẮN MỜI
Bạn hiền kiếm ở đâu ta?
Trước là uống rượu, sau là hàn huyên
Đông-tây-nam-bắc, cổ-kim
Trên trời-dưới biển, thánh hiền-thất phu
Hơn-thua, danh-lợi, khôn-ngu
Để là vui chút, nhẹ đầu hôn mê
Ngày ngày huyễn hoặc ngô nghê
Hồn vùi đống sách, xác tê ghế mòn
Đầu chồn lủi thủi leo non
Râu phờ, mắt mỏi, cô thân giữa ngàn...
Bạn hiền đâu đó, có chăng
Bằng không, hỏi có mấy thằng như ta?
Để chiều bù khú, ba hoa
Vui chung rượu lạt, hò ca cũng tình
Cười cười, nói nói linh tinh
Cho vơi chất chứa nín thinh một ngày
Xả thân nhẫn nại vai cày
Trên đồng giấy trắng gieo đầy mực đen
Oải tay nuôi chí vững bền
Ép tim bơm máu tưới lền ước mong!...
Bạn hiền, bợm nhậu có không?
Ta mời vang vọng, đừng im như tờ!
Chiều nay gió mỏng mưa thưa
Một mâm thịt chó, đến... vua còn thèm!...
Trần Hanh Thu
Đông-tây-nam-bắc, cổ-kim
Trên trời-dưới biển, thánh hiền-thất phu
Hơn-thua, danh-lợi, khôn-ngu
Để là vui chút, nhẹ đầu hôn mê
Ngày ngày huyễn hoặc ngô nghê
Hồn vùi đống sách, xác tê ghế mòn
Đầu chồn lủi thủi leo non
Râu phờ, mắt mỏi, cô thân giữa ngàn...
Bạn hiền đâu đó, có chăng
Bằng không, hỏi có mấy thằng như ta?
Để chiều bù khú, ba hoa
Vui chung rượu lạt, hò ca cũng tình
Cười cười, nói nói linh tinh
Cho vơi chất chứa nín thinh một ngày
Xả thân nhẫn nại vai cày
Trên đồng giấy trắng gieo đầy mực đen
Oải tay nuôi chí vững bền
Ép tim bơm máu tưới lền ước mong!...
Bạn hiền, bợm nhậu có không?
Ta mời vang vọng, đừng im như tờ!
Chiều nay gió mỏng mưa thưa
Một mâm thịt chó, đến... vua còn thèm!...
Trần Hanh Thu
LẨU "LỪA"
"Khôn ăn cái, dại ăn nước"
Thành ngữ
Mua cái lẩu dê ngót trăm ngàn
Tiếc gì có dịp đãi bạn vàng
Hương lên nghi ngút, thơm đáo để
Cuộc rượu đêm nay chắc nồng nàn!
Xì xụp mời nhau nếm "mùi" trần
Khoắng hoài chỉ thấy mấy hòn gân
Tóp mỡ lều bều đôi ba miếng
Quan tham đâu cả, nước toàn dân?
Bạn lỡm: món này lạ mà ngon
Xương tan, thịt nát, chỉ gân còn
Chua cay đủ độ xoay vần rượu
Húp dại, răng già đỡ nhai khôn!...
Ngượng nghịu rằng đây lẩu thiếu "dương"
Vượng khí, hóa thần, chẳng sợ cương!...
Mua bán thời nay hơi khốn nạn
May đời, bạn chỉ khoái "nước non"!
Cười qua cợt lại, đèn kéo quân
Khề khà khen nàng rượu hiền ngoan
Chê cô bán lẩu xinh mà ác
Làm cuộc nhậu vui đượm vị buồn!
Trần Hạnh Thu
THU CHIỀU TRONG QUÁN VẮNG
Ngồi đồng trong quán rượu đêm
Dưới đèn vàng héo chợt em rạng ngời
Người con gái Củ Chi ơi!
Da ngăm khỏe khoắn, răng cười dòn tan
Mắt mơ đằm thắm chứa chan
Làm anh bấn loạn, bần thần, ngây ngô...
Đã qua muôn nẻo giang hồ
Kiếm cung gãy cánh, cơ đồ nát tan
Đã từng mỹ nữ, cung tần
Phấn son chán nản, nông choèn nhớ nhung
Tàn đời, vô vọng ước mong
Về đây rượu lạt vui cùng buồn tênh.
Quán tàn vắng khách hàn huyên
Cô đơn một xó say mèm tóc râu
Nhìn mình trên vách gục đầu
Cười người ngủ gật lỡ tàu đêm ga...
Thế rồi em bỗng hiện ra
Long lanh như giọt mộng mơ tình đầu
Mát lành như gió đồng sâu
Mặn mà như khúc ca dao đối hò
Ngọt ngào như tiếng ầu ơ
Tinh anh như ánh trăng mùa lúa non...
Ô hay, chẳng lụy vàng son
Tự nhiên tuyệt sắc ngăm dòn thế thôi!?
Tha hương, tạm trú xa đời
Dằn lòng cam chịu rủi xui tình trường
Tưởng rằng hết nẻo tơ vương
An bài số phận bến dừng đào hoa
Sao đành em lại hiện ra
Cho anh khốn khổ, xót xa canh tàn?
Quán khuya lắng ánh úa vàng
Lòng anh thất thểu, hoang mang thu chiều
Tình yêu lảng tránh tình yêu
Bình minh cám cảnh tiêu điều này chăng?
Dìm đò, phá bến sang ngang
Đạp cầu hò hẹn gãy phăng cho rồi...
Người con gái Củ Chi ơi
Thời gian đã tách xa vời không gian!
Tự thiêu duyên cháy ngút ngàn
Gửi em xá-lỵ vô vàn nhớ thương...
Trần Hạnh Thu
CHIM DI TRÚ
Tự dưng cứ buồn và cứ nhớ đến em
Người con gái hầu bàn trong quán rượu
Có nét mê hồn của loài chim di trú
Chao liệng làm duyên nhử đám phỉnh phờ
Đôi mắt em long lanh dưới đèn mờ
Tóc rối nhẹ trên bờ vai suông mịn
Làn da trắng khoe những đường bất tuyệt
Làm anh chết trân thành gốc si già!
Đã đậu những đâu, bay qua mấy hẹn hò,
Chưa có tổ nên lượn lờ khuyến mãi(?)
Cho anh thẫn thờ trĩu lòng ái ngại
Thấy thương tình mình và thương cả đời em.
Anh hỏi làm quen, em nói: "Quê Quảng Bình"
Anh cợt trêu: "Lại Thạch Kim, Thạch Nhọn..."*
Sực nghe dội về tiếng bom gầm ớn lạnh
Anh hát thầm thì: "Quảng Bình quê ta ơi!..."**
Ôi! Một thời xa quá hóa xưa rồi
Anh bạc mái đầu nên anh còn nhớ
Thế hệ trước "khoan khoan hò..." gian khổ
Chỉ mong một niềm hạnh phúc cánh chim nay!
Em hớp hồn nên anh uống đắm say
Bài thơ yêu thương, học cả đời chưa thuộc!...
Nếu ước được, anh sẽ xin điều ước:
Em đi lấy chồng cho anh được nguôi ngoai.
Tự dưng cứ buồn và cứ nhớ về người
Như kẻ khờ còn uống nhầm thuốc lú
Giữa bạn bè chắc em cười thích thú:
"Có lão già dại gái, tửng từng tưng!...".
Trần Hạnh Thu
Chú thích: *Lời thơ trong bài thơ nổi tiếng: "Gửi em, cô thanh niên xung phong" của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
**Ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Hoàng Vân.
Người con gái hầu bàn trong quán rượu
Có nét mê hồn của loài chim di trú
Chao liệng làm duyên nhử đám phỉnh phờ
Đôi mắt em long lanh dưới đèn mờ
Tóc rối nhẹ trên bờ vai suông mịn
Làn da trắng khoe những đường bất tuyệt
Làm anh chết trân thành gốc si già!
Đã đậu những đâu, bay qua mấy hẹn hò,
Chưa có tổ nên lượn lờ khuyến mãi(?)
Cho anh thẫn thờ trĩu lòng ái ngại
Thấy thương tình mình và thương cả đời em.
Anh hỏi làm quen, em nói: "Quê Quảng Bình"
Anh cợt trêu: "Lại Thạch Kim, Thạch Nhọn..."*
Sực nghe dội về tiếng bom gầm ớn lạnh
Anh hát thầm thì: "Quảng Bình quê ta ơi!..."**
Ôi! Một thời xa quá hóa xưa rồi
Anh bạc mái đầu nên anh còn nhớ
Thế hệ trước "khoan khoan hò..." gian khổ
Chỉ mong một niềm hạnh phúc cánh chim nay!
Em hớp hồn nên anh uống đắm say
Bài thơ yêu thương, học cả đời chưa thuộc!...
Nếu ước được, anh sẽ xin điều ước:
Em đi lấy chồng cho anh được nguôi ngoai.
Tự dưng cứ buồn và cứ nhớ về người
Như kẻ khờ còn uống nhầm thuốc lú
Giữa bạn bè chắc em cười thích thú:
"Có lão già dại gái, tửng từng tưng!...".
Trần Hạnh Thu
Chú thích: *Lời thơ trong bài thơ nổi tiếng: "Gửi em, cô thanh niên xung phong" của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
**Ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Hoàng Vân.
TỰ TRÀO
Ngẩng mặt ngó Trời, Trời ngó đâu?
Chắc là giận lắm kẻ điếc, liều
Dựng đứng, đặt điều không biết thẹn
Lại còn nhăn nhở: "Thích tào lao!"...
Cũng tại Trời bày cảnh đìu hiu
Một hồn, một xác, một buồn thiu
Giải khuây quá chén thành tao loạn
Quàng xiên, khoác lác, vẽ vời điêu
Quen hơi ngất ngưởng tít cheo leo
Xuống làm chi nữa, dưới chán phèo
Cứ đeo, may phước nên rồng rắn
Bằng không, giun dế thỏa lộn lèo*!
Trần Hạnh Thu
Chú thích: *Mượn chữ của Hồ Xuân Hương
CÓ NHỮNG CHIỀU NHƯ THẾ
Có những chiều phất phơ mưa phố
Dưới tàn cây trứng cá lề đường
Hai khách héo ngồi trong quán xó
Chén tạc chén thù những miếng rượu suông...
Kệ gió tạt, nhạt nhòa nắng phế
Quẳng gánh lo o bế một ngày thường
Rượu nồng lên, ra rả ồn trần thế
Quên béng nợ nần, khoác lác đế vương!
Râu tóc bạc cứ phô hồn thơ trẻ
Tung tăng đời bóng xế, mặc đêm buông!...
Trần Hạnh Thu
LẦY
Tao không nốc rượu triền miên
Chỉ khi trời lặn trăng lên mới...lầy
Hũ chìm thì... đúng là đây
Nhưng ai bảo nghiện, thằng này chửi cho...
Nghiện rồi thì đố mà lo
Còn tao đang dựng cơ đồ đấy thôi?
Suốt ngày đít bệt chỗ ngồi
Đầu bay lêu lổng khắp nơi Hoang Đường
Cần cù sàng sẩy Yêu Thương
Rải ra tứ xứ mười phương dòng đời
Không rao bán, chẳng chào mời
Ngất nga ngất ngưởng trao người thiên duyên...
Tao không nốc rượu triền miên
Tại chiều cô lạnh cho nên... thích lầy...
Tao sống thế, đúng hay sai?
...Híc, híc...híc,...tao lại say nữa rồi!...
Trần Hạnh Thu
SAY LẠ
Ê, hỏi ả đào này:
Chuốc rượu sao nặng vậy
Mới ngửi thôi đã say
Uống rồi là say mãi?
Say như điên như dại
Say oạt oại cả người
Say mù đất mù trời
Say tơi bời hoa lá....
Rượu gì mà say lạ
Ngắc ngoải nhớ mênh mông
Lã chã buồn lung tung
Rồi rống cười ha hả!?
Say gì mà chẳng đã
Muốn uống mãi khôn nguôi
Uống cho tận nát đời
Đến tàn canh cuộc sống...
Ê, hỏi ả đào này:
Em có say không vậy
Hay rượu pha bùa ngải
Chỉ mình "qua" say thôi!?
Trần Hạnh Thu
ĐỘC TỬU TUYỆT
1- UỐNG RƯỢU MỘT MÌNH
Một mình uống rượu canh khuya
Bàn thừa thãi ghế, bạn bè ta không
Vợ con cách mặt xa lòng
Người tình thuở cũ truy phong lâu rồi!
Đắng cay uống với sầu đời
Dưới sao lấp lánh, giữa trời đen xanh
Bên con chó mực trung thành
Trong thì thào gió tự tình ngàn phương...
Say mèm nghiêng ngả Thái Dương
Vịn vào Vũ Trụ, quay cuồng Tự Nhiên
Đất về bồng bế ta lên
Ầu ơ thương lắm chênh vênh cuộc tàn!...
2- THẦM THÌ
Đêm say, uống rượu, quên đèn
Nâng ly quá hớp, ngó lên bầu trời
Hằng hà lay láy nơi nơi
Ngàn sao ơi có nỗi đời như ta:
Cứ buồn, cứ nhớ thiết tha
Lặng thinh pho tượng nhưng mà tình si?!...
***
Trăm năm khắc khoải thầm thì
Muôn năm có cảm thông gì hay không?!
SAY THỨC
Thấy non phủ phục, cúi đầu thom thỏm thởVà sông qui hàng, thoi thóp đợi tan dòng...
Ơi hỡi cơ đồ, bao giờ xây xong thế?
Bao giờ ngừng cuộc tàn phá, hóa bê tông?
Trần Hạnh Thu
CÂU CHUYỆN VỀ RƯỢU 7 (tửu dược)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Có lẽ khó có một loại thức uống nào lại có tính hai mặt như rượu. Cho đến nay, người ta cũng không biết một cách chính xác rượu đã được con người phát minh ra từ bao giờ, chỉ biết rằng việc làm bia, gầy rượu, cất rượu đã xuất hiện ở phương Đông từ rất sớm. Có lẽ ngay từ thời kỳ còn sống bằng hình thức hái lượm, loài người đã chú ý đến những trái cây chín rụng và sự lên men. Đến cuối thời kỳ xã hội nguyên thủy, với sự phát triển của trồng trọt, con người đã biết sử dụng ngũ cốc để làm ra bia, rượu. Bia là loại nước giải khát lên men có từ rất sớm. Những di tích khảo cổ cho thấy ở Ai Cập, nhân dân hai bên bờ sông Nil đã biết làm bia cách đây trên 6.000 năm. Tại Trung Quốc, trong Chiến quốc sách đã có ghi chép việc "Nghi địch làm rượu" và trong những văn vật đào được tại di chỉ văn hoá Long Sơn, người ta thấy có nhiều dụng cụ làm bằng sành để đựng và uống rượu. Ở Việt Nam, cách đây hàng 4 - 5 ngàn năm, với những lương thực, thực phẩm sản xuất được, người Việt đã biết tạo nên những món ăn đậm đà hương vị dân tộc: đồ xôi, làm bánh chưng, bánh dày, nấu rượu, làm mắm...
Thực ra, tất cả thức uống có chứa cồn éthylic, gây say, đều được gọi là bia hoặc rượu. Bia, rượu gây say nhiều hay ít tuỳ thuộc ở độ cồn (lượng cồn éthylic nguyên chất chứa trong 100ml bia, rượu) cao hay thấp. Khi nói rượu 45 độ, nghĩa là trong 100ml rượu đó có chứa 45ml cồn éthylique nguyên chất. Rượu có rất nhiều loại, tuỳ theo cách phân loại, nhưng tựu chung chỉ có 2 loại chính là rượu lên men không chưng cất từ nước ép hoa quả như rượu vang (vin, wine), rượu cần... và rượu chưng cất (spirits), là rượu lên men từ rỉ đường, bột ngũ cốc, nước ép mía, củ cải đường... sau đó thu nhận qua các tháp cất, như rượu Bông Lúa, rượu Nàng Hương, rượu Đế, rượu Vodka... Rượu mùi là rượu pha chế từ cồn ethylic, đường kính, acide citrique với các chất tạo màu và tạo mùi.
Ở nước ta, ngoài rượu vang, còn có rất nhiều loại rượu cất ngon nổi tiếng như rượu làng Vân (Bắc Ninh), Nguyên Xá (Thái Bình), Trương Xá (Hưng Yên), Nga Mi (Hà Tây), Quảng Xá (Thanh Hoá), Bắc Hà (Lào Cai) và nhiều nơi khác. Mấy năm gần đây, lại xuất hiện nhiều loại rượu "dởm" như "rượu săm", "rượu pha thuốc sâu", "rượu pha phân đạm"... đã là nguyên nhân gây biết bao bệnh tật, thậm chí tử vong, ở không ít người nào vô phúc uống phải! Trừ rượu của nhà máy và một số nơi có truyền thống cất rượu lâu đời, còn phần lớn rượu chưng cất đều còn rất nhiều chất độc hại hoà tan như aldéhyde, butanol, metanol, phenol, histamin... vô cùng độc hại cho gan, thận, não, tụy, mắt...
Trên sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng, thường người ta hay nói đến tác hại của rượu. Nhưng thực ra, tác dụng của rượu cũng không phải là ít. Vậy thì chúng ta nên hiểu như thế nào? Theo chúng tôi, bản thân rượu không có tội. Điều cơ bản là dùng khi nào và liều lượng ra sao mà thôi: Nếu dùng đúng lúc, liều lượng phù hợp thì rượu sẽ là một thứ thuốc và thực phẩm quý, ngược lại, dùng không đúng lúc và quá liều lượng thì rượu sẽ có tác hại không thể lường hết được.
Trước hết, hãy nói về tác dụng của rượu. Trong xã hội loài người, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, không ở đâu là không có rượu. Rượu được dùng làm thực phẩm, làm thuốc, làm đồ lễ tế, được sử dụng trong những dịp lễ hội, những bữa tiệc tùng, cả những lúc vui, buồn. Rượu cũng là nguồn cảm hứng cho văn nghệ sĩ sáng tác nên những áng thơ văn bất hủ.
Trong y học, rượu có một tác dụng rất đáng kể. Nó luôn gắn liền với sự phát triển của nền y học phương Đông. Theo các tác giả Chung Dung, Tôn Văn Kỳ, Chu Quân Ba trong quyển sách Những toa rượu thuốc cổ truyền danh tiếng thì trong chữ Hán, từ "y" có chữ "dậu" (rượu) ở phía dưới. Đó là vì rượu có thể chữa được nhiều bệnh nên đã được thể hiện trong chữ tượng hình. Ngày xưa người ta cho rằng "rượu đứng đầu trăm thứ thuốc". Trong các sách thuốc cổ, người ta cho rằng rượu có tác dụng "dẫn thuốc trừ độc khí", "Thông huyết mạch, tán thấp khí", "trừ phong, hạ khí", "khai vị trợ tiêu hoá", "ấm ruột và dạ dày, ngừa phong hàn", "làm hết đau lưng, nhức mỏi"...
Từ thời xa xưa, khi chưa tìm ra thuốc mê và thuốc tê, khi cần phẫu thuật, các thầy thuốc thường cho bệnh nhân uống rượu say để họ không còn biết đau. Ông Lý Thời Trần, một danh y nổi tiếng đời Minh, đã viết: "Uống ít sẽ giúp điều hoà máu huyết, khí dễ lưu thông, tinh thần tráng kiện, phòng lạnh, xoá được buồn phiền, gây hưng phấn". Chỉ riêng quyển sách chữa bệnh bằng thức ăn kết hợp với Trung Y, Trung Dược, các tác giả đã tuyển chọn tới 361 toa rượu thuốc giới thiệu với bạn đọc. Trong quyển sách Phòng và chữa bệnh bằng món ăn hàng ngày, ông Vương Thừa Ân đã viết: "Các tài liệu dược học cổ đều ghi: Rượu vị cay, thơm nồng tinh nóng, dùng ít thì giúp cho sức lực cường tráng (...). Tác dụng của rượu: hành huyết, khai uất, trừ phong. Trong bào chế, rượu dùng để tăng sức mạnh của các vị thuốc đi lên các bộ phận nửa trên cơ thể. Chế rượu vào thuốc để uống hay tẩm rượu vào thuốc để sao đều nhằm những mục đích đó". Theo Hải Thượng Lãn Ông, một danh y của Việt Nam mà nhân dân ta ai cũng bíêt tiếng, thì "Rượu rất ôn, dùng để tẩm thuốc, uống ít để thông khí huyết"... Đó là những ưu điểm của rượu.
Nhưng đối với rượu, mặt nhược điểm mới thật là tai hại. Trước hết phải nói đến tác hại về mặt sức khoẻ. Có thể nói, rượu là kẻ thù của gan và não. Đối với gan, nếu uống rượu thường xuyên, các chất dự trữ của gan như glycogen bị tiêu huỷ, gan không thải độc được. Khi đó, không những gan không hoàn thành được nhiệm vụ thải độc của mình cho cơ thể mà bản thân gan sẽ bị nhiễm mỡ, các tế bào gan bị thoái hoá, xơ dần và xơ gan do rượu là tất yếu đối với người nghiện rượu nặng.
Tác động của rượu lên não thì bất kỳ ai cũng nhận ra: người nghiện rượu không thể tự kiềm chế, hay gây gổ, nói năng huyên thiên, đặc biệt tiểu não bị ngộ độc nên các hoạt động không chính xác, thậm chí có người say đến mức không thể chỉ ngón tay lên mũi của mình! Chính vì người say không tự chủ được, dễ "bốc đồng", nên không biết bao nhiêu tai nạn xe cộ đã xảy ra. Rượu còn làm teo não, thoái hoá não, giảm trí thông minh.
Rượu cũng làm viêm niêm mạc dạ dày, viêm ruột, rối loạn chuyển hoá, làm cho cơ thể kém hấp thu các chất muối khoáng gây thiếu các chất K, Na, Ca... nên cơ bắp teo nhỏ, nhẽo, sức co bóp của tim giảm, huyết áp thấp, xương xốp, dễ gãy... Rượu cũng cản trở việc hấp thu vitamin nên người nghiện rượu thường bị bệnh thiếu vitamin.
Rượu cũng là nguyên nhân gây nên nhiều trường hợp đột tử, vì sau khi uống rượu, mạch máu ngoại vi bị giãn nở, nếu gặp lạnh, mạch máu sẽ co lại đột ngột, bị vỡ và rất dễ xuất huyết não. Sau khi uống rượu, nếu gặp lạnh đột ngột cũng dễ rối loạn tuần hoàn, hạ huyết áp, có thể gây nên nhồi máu cơ tim. Nhiều người cho rằng uống nhiều rượu sẽ gây nên hưng phấn tình dục, tăng cường thế năng tình dục. Thật là sai lầm. Thật ra, khi đàn ông say rượu, khả năng kiềm chế bị yếu đi, họ dễ biểu hiện sự thô bạo và thậm chí tàn nhẫn khi mưu toan chiếm đoạt người phụ nữ. Tình trạng "cưỡng hiếp vợ" khi say rượu là khá phổ biến. Rượu cũng góp phần làm tăng tội hiếp dâm, nhất là hiếp dâm trẻ em - một tệ nạn đang bị dư luận xã hội lên án gay gắt. Nếu người đàn ông uống quá nhiều rượu, anh ta sẽ bị giảm sút khả năng tình dục và có khi bị tàn lụi, nói cách khác, dễ bị liệt dương.
Đối với người phụ nữ mang thai và thai nhi, rượu có một tác hại khó lường. Khi người phụ nữ mang thai mà uống rượu, rượu lưu chuyển trong máu người mẹ, thâm nhập qua nhau thai vào máu của con. Nếu chị ta nghiện rượu thì trong suốt thời kỳ mang thai, đứa con phải chịu những tác hại của rượu. Những đứa trẻ sơ sinh này khi chào đời, cơ thể đã có những tổn thương nặng nề. Nếu người mẹ cho con bú mà nghiện rượu thì con của họ thường ngủ rất say, nhưng nếu chị ta lại ngừng uống thì đứa bé lại bị kích thích, ngủ không yên, rượu đã trở thành một thứ ma tuý. Đối với nhân cách con người, tác hại của rượu đã quá rõ ràng. Vì rượu mà đã biết bao gia đình tan hoang, vợ bỏ chồng, cha lìa con.
Theo các nhà khoa học, trạng thái say rượu được chia làm 5 mức độ từ nhẹ đến nặng là: hơi say, hưng phấn, điên khùng, mất trí và say mềm, với hàm lượng cồn trong máu ứng với từ 0,1% đến 0,5%. Triệu chứng ngộ độc rượu nhẹ thì cảm thấy mặt và chân tay nóng bừng, hưng phấn, thích nói huyên thiên, hoạt động không tự chủ, nhức đầu, chóng mặt, ù tai, hơi thở sặc mùi rượu; nặng thì đau vùng thượng vị, buồn nôn hoặc nôn, nói lảm nhảm, điếc, rối loạn thị giác, ảo giác, mất cảm giác, lúc đầu đồng tử co, sau giãn, co giật, hạ thân nhiệt, trụy tim mạch, bán hôn mê hoặc hôn mê, nếu không cấp cứu kịp thời có thể chết. Khi bị say rượu, có thể dùng một số thứ "giã rượu" sau đây:
- Uống nước ép cuống lá dong: Lấy Lá dong (loại để gói bánh chưng), ép cuống lá lấy nước cho uống.
- Uống dấm: dấm ăn: 50g, đường cát: 25g, gừng tươi: 3lát. Đun qua, cho uống.
- Uống nước đậu xanh: lấy đậu xanh hãm nước sôi hoặc sắc qua, cho uống.
- Uống nước mía ép hoặc ăn mía nếu người say rượu còn có thể tự ăn được.
- Ăn dưa hấu: ăn dưa hấu nhiều lần cho đến khi tỉnh rượu.
- Uống nước cam, quýt, chanh tươi: ép quả cam, quýt hay chanh tươi, cho uống.
Ngoài ra có thể ăn: khoai lang đỏ, trứng muối, hồng tươi, đậu phụ; uống nước rau muống, nước rau má...
Để chữa say rượu, trước đây, người ta thường cho bệnh nhân uống nước chè đặc hoặc cà phê nhiều lần cho đến khi hết say để lượng cồn trong cơ thể được thải ra ngoài theo đường tiết niệu. Nhưng gần đây, người ta nhận thấy khi cho lợi tiểu nhiều, chất aldéhyde trong rượu (lượng cồn thừa trong cơ thể sẽ tồn tại dưới dạng aldéhyde) làm cho thận bị kích thích mạnh nên "lợi bất cập hại" vì làm cho thận bị tổn thương./.
.duocphuha.com
(Bài đã đăng ở Tạp chí Thế giới mới, Việt Nam)
Theo ThS Hoàng Khánh Toàn (Sức Khỏe & Đời Sống)
Rượu và sức khỏe - BS Nguyễn Đức Kiệt
Đông Dược Phú Hà - Rượu là một trong những loại thực phẩm lâu đời nhất của con người. Rượu được dùng cả khi buồn lẫn lúc vui, khắp mọi nơi trên thế giới. Rượu ảnh hưởng đến sức khoẻ và nhân cách của con người. Uống ít, rượu có lợi cho sức khoẻ. Dùng quá liều, rượu có tác hại khôn lường...Có lẽ khó có một loại thức uống nào lại có tính hai mặt như rượu. Cho đến nay, người ta cũng không biết một cách chính xác rượu đã được con người phát minh ra từ bao giờ, chỉ biết rằng việc làm bia, gầy rượu, cất rượu đã xuất hiện ở phương Đông từ rất sớm. Có lẽ ngay từ thời kỳ còn sống bằng hình thức hái lượm, loài người đã chú ý đến những trái cây chín rụng và sự lên men. Đến cuối thời kỳ xã hội nguyên thủy, với sự phát triển của trồng trọt, con người đã biết sử dụng ngũ cốc để làm ra bia, rượu. Bia là loại nước giải khát lên men có từ rất sớm. Những di tích khảo cổ cho thấy ở Ai Cập, nhân dân hai bên bờ sông Nil đã biết làm bia cách đây trên 6.000 năm. Tại Trung Quốc, trong Chiến quốc sách đã có ghi chép việc "Nghi địch làm rượu" và trong những văn vật đào được tại di chỉ văn hoá Long Sơn, người ta thấy có nhiều dụng cụ làm bằng sành để đựng và uống rượu. Ở Việt Nam, cách đây hàng 4 - 5 ngàn năm, với những lương thực, thực phẩm sản xuất được, người Việt đã biết tạo nên những món ăn đậm đà hương vị dân tộc: đồ xôi, làm bánh chưng, bánh dày, nấu rượu, làm mắm...
Thực ra, tất cả thức uống có chứa cồn éthylic, gây say, đều được gọi là bia hoặc rượu. Bia, rượu gây say nhiều hay ít tuỳ thuộc ở độ cồn (lượng cồn éthylic nguyên chất chứa trong 100ml bia, rượu) cao hay thấp. Khi nói rượu 45 độ, nghĩa là trong 100ml rượu đó có chứa 45ml cồn éthylique nguyên chất. Rượu có rất nhiều loại, tuỳ theo cách phân loại, nhưng tựu chung chỉ có 2 loại chính là rượu lên men không chưng cất từ nước ép hoa quả như rượu vang (vin, wine), rượu cần... và rượu chưng cất (spirits), là rượu lên men từ rỉ đường, bột ngũ cốc, nước ép mía, củ cải đường... sau đó thu nhận qua các tháp cất, như rượu Bông Lúa, rượu Nàng Hương, rượu Đế, rượu Vodka... Rượu mùi là rượu pha chế từ cồn ethylic, đường kính, acide citrique với các chất tạo màu và tạo mùi.
Ở nước ta, ngoài rượu vang, còn có rất nhiều loại rượu cất ngon nổi tiếng như rượu làng Vân (Bắc Ninh), Nguyên Xá (Thái Bình), Trương Xá (Hưng Yên), Nga Mi (Hà Tây), Quảng Xá (Thanh Hoá), Bắc Hà (Lào Cai) và nhiều nơi khác. Mấy năm gần đây, lại xuất hiện nhiều loại rượu "dởm" như "rượu săm", "rượu pha thuốc sâu", "rượu pha phân đạm"... đã là nguyên nhân gây biết bao bệnh tật, thậm chí tử vong, ở không ít người nào vô phúc uống phải! Trừ rượu của nhà máy và một số nơi có truyền thống cất rượu lâu đời, còn phần lớn rượu chưng cất đều còn rất nhiều chất độc hại hoà tan như aldéhyde, butanol, metanol, phenol, histamin... vô cùng độc hại cho gan, thận, não, tụy, mắt...
Trên sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng, thường người ta hay nói đến tác hại của rượu. Nhưng thực ra, tác dụng của rượu cũng không phải là ít. Vậy thì chúng ta nên hiểu như thế nào? Theo chúng tôi, bản thân rượu không có tội. Điều cơ bản là dùng khi nào và liều lượng ra sao mà thôi: Nếu dùng đúng lúc, liều lượng phù hợp thì rượu sẽ là một thứ thuốc và thực phẩm quý, ngược lại, dùng không đúng lúc và quá liều lượng thì rượu sẽ có tác hại không thể lường hết được.
Trước hết, hãy nói về tác dụng của rượu. Trong xã hội loài người, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, không ở đâu là không có rượu. Rượu được dùng làm thực phẩm, làm thuốc, làm đồ lễ tế, được sử dụng trong những dịp lễ hội, những bữa tiệc tùng, cả những lúc vui, buồn. Rượu cũng là nguồn cảm hứng cho văn nghệ sĩ sáng tác nên những áng thơ văn bất hủ.
Trong y học, rượu có một tác dụng rất đáng kể. Nó luôn gắn liền với sự phát triển của nền y học phương Đông. Theo các tác giả Chung Dung, Tôn Văn Kỳ, Chu Quân Ba trong quyển sách Những toa rượu thuốc cổ truyền danh tiếng thì trong chữ Hán, từ "y" có chữ "dậu" (rượu) ở phía dưới. Đó là vì rượu có thể chữa được nhiều bệnh nên đã được thể hiện trong chữ tượng hình. Ngày xưa người ta cho rằng "rượu đứng đầu trăm thứ thuốc". Trong các sách thuốc cổ, người ta cho rằng rượu có tác dụng "dẫn thuốc trừ độc khí", "Thông huyết mạch, tán thấp khí", "trừ phong, hạ khí", "khai vị trợ tiêu hoá", "ấm ruột và dạ dày, ngừa phong hàn", "làm hết đau lưng, nhức mỏi"...
Từ thời xa xưa, khi chưa tìm ra thuốc mê và thuốc tê, khi cần phẫu thuật, các thầy thuốc thường cho bệnh nhân uống rượu say để họ không còn biết đau. Ông Lý Thời Trần, một danh y nổi tiếng đời Minh, đã viết: "Uống ít sẽ giúp điều hoà máu huyết, khí dễ lưu thông, tinh thần tráng kiện, phòng lạnh, xoá được buồn phiền, gây hưng phấn". Chỉ riêng quyển sách chữa bệnh bằng thức ăn kết hợp với Trung Y, Trung Dược, các tác giả đã tuyển chọn tới 361 toa rượu thuốc giới thiệu với bạn đọc. Trong quyển sách Phòng và chữa bệnh bằng món ăn hàng ngày, ông Vương Thừa Ân đã viết: "Các tài liệu dược học cổ đều ghi: Rượu vị cay, thơm nồng tinh nóng, dùng ít thì giúp cho sức lực cường tráng (...). Tác dụng của rượu: hành huyết, khai uất, trừ phong. Trong bào chế, rượu dùng để tăng sức mạnh của các vị thuốc đi lên các bộ phận nửa trên cơ thể. Chế rượu vào thuốc để uống hay tẩm rượu vào thuốc để sao đều nhằm những mục đích đó". Theo Hải Thượng Lãn Ông, một danh y của Việt Nam mà nhân dân ta ai cũng bíêt tiếng, thì "Rượu rất ôn, dùng để tẩm thuốc, uống ít để thông khí huyết"... Đó là những ưu điểm của rượu.
Nhưng đối với rượu, mặt nhược điểm mới thật là tai hại. Trước hết phải nói đến tác hại về mặt sức khoẻ. Có thể nói, rượu là kẻ thù của gan và não. Đối với gan, nếu uống rượu thường xuyên, các chất dự trữ của gan như glycogen bị tiêu huỷ, gan không thải độc được. Khi đó, không những gan không hoàn thành được nhiệm vụ thải độc của mình cho cơ thể mà bản thân gan sẽ bị nhiễm mỡ, các tế bào gan bị thoái hoá, xơ dần và xơ gan do rượu là tất yếu đối với người nghiện rượu nặng.
Tác động của rượu lên não thì bất kỳ ai cũng nhận ra: người nghiện rượu không thể tự kiềm chế, hay gây gổ, nói năng huyên thiên, đặc biệt tiểu não bị ngộ độc nên các hoạt động không chính xác, thậm chí có người say đến mức không thể chỉ ngón tay lên mũi của mình! Chính vì người say không tự chủ được, dễ "bốc đồng", nên không biết bao nhiêu tai nạn xe cộ đã xảy ra. Rượu còn làm teo não, thoái hoá não, giảm trí thông minh.
Rượu cũng làm viêm niêm mạc dạ dày, viêm ruột, rối loạn chuyển hoá, làm cho cơ thể kém hấp thu các chất muối khoáng gây thiếu các chất K, Na, Ca... nên cơ bắp teo nhỏ, nhẽo, sức co bóp của tim giảm, huyết áp thấp, xương xốp, dễ gãy... Rượu cũng cản trở việc hấp thu vitamin nên người nghiện rượu thường bị bệnh thiếu vitamin.
Rượu cũng là nguyên nhân gây nên nhiều trường hợp đột tử, vì sau khi uống rượu, mạch máu ngoại vi bị giãn nở, nếu gặp lạnh, mạch máu sẽ co lại đột ngột, bị vỡ và rất dễ xuất huyết não. Sau khi uống rượu, nếu gặp lạnh đột ngột cũng dễ rối loạn tuần hoàn, hạ huyết áp, có thể gây nên nhồi máu cơ tim. Nhiều người cho rằng uống nhiều rượu sẽ gây nên hưng phấn tình dục, tăng cường thế năng tình dục. Thật là sai lầm. Thật ra, khi đàn ông say rượu, khả năng kiềm chế bị yếu đi, họ dễ biểu hiện sự thô bạo và thậm chí tàn nhẫn khi mưu toan chiếm đoạt người phụ nữ. Tình trạng "cưỡng hiếp vợ" khi say rượu là khá phổ biến. Rượu cũng góp phần làm tăng tội hiếp dâm, nhất là hiếp dâm trẻ em - một tệ nạn đang bị dư luận xã hội lên án gay gắt. Nếu người đàn ông uống quá nhiều rượu, anh ta sẽ bị giảm sút khả năng tình dục và có khi bị tàn lụi, nói cách khác, dễ bị liệt dương.
Đối với người phụ nữ mang thai và thai nhi, rượu có một tác hại khó lường. Khi người phụ nữ mang thai mà uống rượu, rượu lưu chuyển trong máu người mẹ, thâm nhập qua nhau thai vào máu của con. Nếu chị ta nghiện rượu thì trong suốt thời kỳ mang thai, đứa con phải chịu những tác hại của rượu. Những đứa trẻ sơ sinh này khi chào đời, cơ thể đã có những tổn thương nặng nề. Nếu người mẹ cho con bú mà nghiện rượu thì con của họ thường ngủ rất say, nhưng nếu chị ta lại ngừng uống thì đứa bé lại bị kích thích, ngủ không yên, rượu đã trở thành một thứ ma tuý. Đối với nhân cách con người, tác hại của rượu đã quá rõ ràng. Vì rượu mà đã biết bao gia đình tan hoang, vợ bỏ chồng, cha lìa con.
Theo các nhà khoa học, trạng thái say rượu được chia làm 5 mức độ từ nhẹ đến nặng là: hơi say, hưng phấn, điên khùng, mất trí và say mềm, với hàm lượng cồn trong máu ứng với từ 0,1% đến 0,5%. Triệu chứng ngộ độc rượu nhẹ thì cảm thấy mặt và chân tay nóng bừng, hưng phấn, thích nói huyên thiên, hoạt động không tự chủ, nhức đầu, chóng mặt, ù tai, hơi thở sặc mùi rượu; nặng thì đau vùng thượng vị, buồn nôn hoặc nôn, nói lảm nhảm, điếc, rối loạn thị giác, ảo giác, mất cảm giác, lúc đầu đồng tử co, sau giãn, co giật, hạ thân nhiệt, trụy tim mạch, bán hôn mê hoặc hôn mê, nếu không cấp cứu kịp thời có thể chết. Khi bị say rượu, có thể dùng một số thứ "giã rượu" sau đây:
- Uống nước ép cuống lá dong: Lấy Lá dong (loại để gói bánh chưng), ép cuống lá lấy nước cho uống.
- Uống dấm: dấm ăn: 50g, đường cát: 25g, gừng tươi: 3lát. Đun qua, cho uống.
- Uống nước đậu xanh: lấy đậu xanh hãm nước sôi hoặc sắc qua, cho uống.
- Uống nước mía ép hoặc ăn mía nếu người say rượu còn có thể tự ăn được.
- Ăn dưa hấu: ăn dưa hấu nhiều lần cho đến khi tỉnh rượu.
- Uống nước cam, quýt, chanh tươi: ép quả cam, quýt hay chanh tươi, cho uống.
Ngoài ra có thể ăn: khoai lang đỏ, trứng muối, hồng tươi, đậu phụ; uống nước rau muống, nước rau má...
Để chữa say rượu, trước đây, người ta thường cho bệnh nhân uống nước chè đặc hoặc cà phê nhiều lần cho đến khi hết say để lượng cồn trong cơ thể được thải ra ngoài theo đường tiết niệu. Nhưng gần đây, người ta nhận thấy khi cho lợi tiểu nhiều, chất aldéhyde trong rượu (lượng cồn thừa trong cơ thể sẽ tồn tại dưới dạng aldéhyde) làm cho thận bị kích thích mạnh nên "lợi bất cập hại" vì làm cho thận bị tổn thương./.
.duocphuha.com
(Bài đã đăng ở Tạp chí Thế giới mới, Việt Nam)
RƯỢU TỎI: PHƯƠNG THUỐC CHỮA BỆNH THẦN KỲ
Lời giới thiệu của một người từng dùng rượu tỏi:
Thân gửi đến các bạn.
Tôi đồng ý nên cẩn thận với các bài về sức khỏe đăng trên mạng vì quá nhiều nguồn không đáng tin cậy. Nhưng không vì thế mà ta lại bỏ qua những toa thuốc hay, rẻ tiền, hiệu quả... Uổng quá phải không các bạn? Vấn đề là làm sao để biết được toa thuốc nào hay,, hợp với cơ địa của mình.
Khi bạn đọc một toa thuốc mình cần, việc đầu tiên bạn cảm nhận ngay tính hợp lý của nó hay không từ những trải nghiệm. Sau đó, bạn tham khảo loại thuốc đó trên những trang web Đông Tây y có uy tín xem có đúng hay không, và cuối cùng là hỏi trực tiếp các bác sĩ, các lương y, rồi thực hiện thử một thời gian xem có hiệu quả như thế nào.
Riêng chuyện của tôi, năm 57 tuổi, tôi bắt đầu chơi tennis. Trong thời gian đầu, lúc nào các khớp cũng đau nhức. Có lẽ do lớn tuổi ,do chỉ số acid uric trong máu cao gấp đôi mức cho phép (bệnh Goutte nhẹ, thỉnh thoảng, 6-7 tháng, sáng dậy, khớp ngón chân cái bị sưng đau một hai ngày rồi tự hết) và do tennis là môn thể thao nặng. Khi ra sân, tôi phải băng hỗ trợ các khớpnhưng vẫn bị đau nhức liên tục, lúc chơi cũng như lúc nghỉ .Có lúc tôi nghĩ thể trạng mình không còn thích hợp với môn thể thao này. Thời gian đó tôi rất ít dùng thuốc trị bệnh ngoài những lúc cảm cúm thông thường. Do ý chí , theo đuổi luyện tập, sau một năm, tôi giảm cân được 10kg, từ 85kg còn 75kg. Các chỉ số acid uric ,cholesterol đều giảm đến mức trung bình trong định mức. Đây là điều đáng mừng về bệnh goutte và tim mạch. Thể dục thể thao là một phương thuốc kỳ diệu cho sức khỏe, nhưng cái đau nhức khớp thì không giảm. Tôi uống thêm Glucosamin ngày 1 viên 1500 U.
Một ngày, đọc được bài rượu tỏi qua email của người bạn vừa gởi, điều đập mạnh vào tôi lúc đó là rượu tỏi có tác dụng trị đau nhức khớp. Tôi tìm hiểu thêm như đã nói ở trên và thực hiện, làm và uống rượu tỏi thử xem sao, tỏi có làm mình chết đâu mà sợ, một ngày vài c.c rượu tỏi như mình ăn tỏi trong bữa cơm thôi,còn một vài c.c rượu đó chưa đủ để nóng người .Ngoài trị đau khớp ra theo như đã tìm ,nó còn có tính năng tẩy cholesterol trong mạch máu, làm tiêu mỡ trong máu, diệt khuẩn, ngừa cảm cúm, có lợi cho tiêu hóa... và còn ngăn chận được sự phát triển tế bào ung thư nữa. Hơn nữa, mấy ông bạn Bác sĩ cũng nói uống rượu tỏi tốt cho khớp cho tim mạch. Tôi yên tâm thử nghiệm.
Với mong muốn hết đau nhức khớp để chơi banh tốt hơn, tôi uống đều đặng mỗi ngày (ngày 2 lần mỗi lần 1/2 ly mắt trâu - ly cúng Thần Tài). Sau một tháng, nhìn lại, chứng đau khớp đã giảm đi 9/10, đặc biệt trong người cảm thấy sung mãn như trẻ lại. Tôi cho rằng khi mạch máu được thông hơn, lượng máu mang đến từng tế bào đồng thời nhiều oxy hơn ,đủ chất bổ dưỡng hơn, thì toàn cơ thể khỏe hẳn lên, đem cho ta cảm giác sung mãn. Tôi ra sân không còn phải băng khớp nữa, chơi khỏe hơn hẳn trước sự ngạc nhiên của các bạn. Một khi, người chơi banh trên 60 tuổi đã dùng băng trợ khớp rồi thì khó lòng bỏ nó, thông thường là vậy. Đến giờ, gần 2 năm nay, tôi vẫn uống rượu tỏi đều đặn mỗi ngày không bị bón, không thấy phản ứng nào không tốt, ngoài việc nghe nóng nhẹ trong người. Các ông bạn già trong sân thấy vậy nên làm theo, ai cũng công nhận bài thuốc này rẻ tiền ,dễ làm, công hiệu. Có anh bạn 70 ,bị mủ tai từ nhỏ, uống rượu tỏi vài tháng mới phát hiện ngoài dự kiến... Tai đã hết mủ! Năm nay, 63 tuổi, tôi nghĩ rượu tỏi cần thiết cho cơ thể tôi và sẽ dùng nó lâu dài, hằng ngày như cơm
Nay, tôi muốn nói lên cùng các bạn kinh nghiệm của mình, một toa thuốc mang lại hiệu quả rất tốt cho tôi và các bạn trong sân của tôi. Nếu bỏ qua nó quả là phí phạm cho cuộc đời. Với những gì cơ thể cần, nếu quá liều đều trở thành chất độc, nhưng khi dùng đúng liều lượng, vẫn có lợi cho cơ thể.
Nói về công thức: Tỏi+giấm+chanh+mật ong, chỉ dùng cho phụ nữ.
Liều lượng dùng cũng như rượu tỏi, khoảng 17cc /ngày, chia làm 2 lần thì lượng chua ngọt không thể làm hại, chỉ có lợi cho cơ thể mà thôi.
(Đính kèm: Bài rượu tỏi).
RƯỢU TỎI
Vào những năm 1960-1970, WHO_cơ quan theo dõi sức khoẻ & bệnh tật thế giới
của Liên Hiệp Quốc phát hiện Ai Cập là một nước nghèo, khí hậu sa mạc khắc nghiệt, nhưng sức khoẻ chung của nhân dân Ai Cập lại vào loại tốt, ít bệnh tật, tuổi thọ trung bình tương đối cao. WHO đặt vấn đề với chính phủ Nasser, xin cử một phái đoàn của WHO về Ai Cập nghiên cứu xem tại sao có hiện tượng lạ như thế mà ngành Y tế Ai cập chưa giải thích được.
Ðược Tổng Thống Nasser đồng ý WHO huy độn, nhiều chuyên gia y tế về Ai Cập nghiên cứu chia nhau đi xuống nông thôn, các vùng có khí hậu khắc nghiệt để thu thập các tài liệu đặc biệt. Cuối cùng các nhà nghiên cứu (đông nhất là Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản) nhận xét là ở Ai Cập, nhà nào cũng có 01 lọ rượu ngâm tỏi để uống. Nhân dân Ai Cập nói từ bao nhiêu thế kỷ nay vẫn là thế.
Ngày xưa Ai Cập là một đế chế lớn, chinh chiến liên miên, chủ yếu là sử dụng gươm dao chém giết nhau. Thời ấy chưa có thuốc kháng sinh, nên họ chỉ dùng nước tỏi để uống và cũng để rửa các vết thương. Ở các vùng, tỏi được ngâm rượu theo những công thức khác nhau. Chuyên gia các nước đem những công thức đó về nước mình nghiên cứu và phân tích, kết luận cái gì tốt. Rồi sau đó, thông qua một báo cáo gởi cho WHO. WHO tổng kết & hội thảo về vấn đề này. Rồi đến năm 1980 họ thông báo:
Rượu tỏi chữa trị được 04 nhóm bệnh:
1) Thấp khớp (sưng khớp, vôi hoá các khớp, mỏi xương cốt).
2) Tim mạch (huyết áp thấp, huyết áp cao, hở van tim, ngoại tâm thư)
3) Phế quản (viêm phế quản, viêm họng, hen phế quản).
4) Tiêu hoá (ăn khó tiêu, ợ chua, viêm tá tràng, loét bao tử)
Ðến năm 1983, Nhật lại thông báo bổ sung thêm 02 nhóm bệnh nữa là:
5) Trĩ nội & trĩ ngoại.
6) Ðại tháo đường (tiểu đường)
Nhật cũng công bố: "Ðây là một loại thuốc tuyệt vời của nhân loại vì dễ làm, rẻ tiền, không gây phản ứng phụ, có hiệu quả chữa bệnh rất cao".
Con người ta thông thường tuổi từ 40 trở lên (có thể trẻ hơn nữa) là đã có bệnh. Các bộ phận trong cơ thể bắt đầu thoái hoá, bộ phận nào yếu thì thoái hoá nhanh, đặc biệt là làm cho các chức năng hấp thụ chất béo (lipid) chất, đường (glucone) bị suy giảm. Các chất đó không hấp thụ hết qua đường tiêu hoá, phần thừa không thải ra ngoài được, dần dần lắng đọng trong thành vách mạch máu, làm xơ cứng động mạch & xơ cứng một số bộ phận khác rồi lâu ngày gây ra những chứng bệnh như trên.
Trong tỏi có 02 chất quan trọng:
1) Phitoncid là loại kháng sinh thực vật có tác dụng diệt một số vi khuẩn.
2) Hoạt tính màu vàng giúp làm tiêu chất béo dưới dạng cholesterol bám vào thành quách mạch máu, làm cho đường đi của máu từ tim ra & về tim bị nghẽn. Chính nhờ 02 chất này mà tỏi có tác dụng chữa bệnh cao.
CÁCH BÀO CHẾ RƯỢU TỎI
Tỏi khô (đã bóc bỏ vỏ) 40 g đem thái nhỏ, cho vào chai ngâm với 100 ml rượu trắng 40-45 độ, thỉnh thoảng lại lắc chai rượu, dần dần rượu chuyển từ màu trắng sang màu vàng, đến ngày thứ 10 thì chuyển sang màu nghệ và uống được. Mỗi ngày dùng 2 lần, sáng uống 40 giọt (tương đương một thìa cà phê) trước khi ăn; tối uống 40 giọt trước khi ngủ. Uống khoảng 20 ngày thì hết, bởi vậy cứ sau 10 ngày lại ngâm tiếp, để ngày nào cũng có rượu tỏi dùng. Uống liên tục suốt đời với một lượng rượu rất nhỏ như thế, người kiêng rượu hoặc không uống được rượu vẫn dùng được.
Ở nước ta, đã có nhiều người áp dụng bài thuốc rượu tỏi trên của WHO, nhưng liều lượng thì linh hoạt (thậm chí có người uống tới 3 thìa cà phê rượu tỏi/lần) nhưng khôngthấy phản ứng phụ.
Những năm gần đây, các nhà khoa học ở nhiều nước đã nghiên cứu phát hiện nhiều đặc tính trị liệu quý của tỏi. Nổi bật là tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm. Tác dụng kháng virus cũng đã được nói đến. Với hệ tim mạch, những nghiên cứu mới cho thấy tỏi có tác dụng làm giảm triglycerid và hàm lượng cholesterol xấu (LDL), nhưng lại tăng cholesterol tốt (HDL) do đólàm giảm các rối loạn chuyển hóa mỡ trong máu.
Tỏi có khả năng giúp cơ thể phòng ngừa được ung thư, đó là điều nhiều nhà khoa học đã thừa nhận; song có điều trị được ung thư khi nó đã phát triển thành khối u hay không thì chưa chứng minh được, còn cần nghiên cứu tiếp. Tỏi có nhiều hữu ích, đó là điều rõ ràng. Tuy nhiên đã là thuốc thì phải tính đến liều lượng thích hợp (thuốc dùng liều quá cao cũng có hại) và các phản ứng phụ, không nên lạm dụng. Dùng tỏi quá nhiều có thể gây hơi thở hôi, rối loạn dạ dày - ruột, ức chế tuyến giáp... Bởi vậy, chỉ nên áp dụng bài thuốc rượu tỏi với liều lượng mà WHO đã dày công nghiên cứu, phổ biến. Với liều lượng ấy là có tác dụng phòng và chữa được nhiều bệnh, với cách dùng an toàn có thể dùng hằng ngày một cách lâu dài.
BS Vũ Định
(Sức Khỏe & Đời Sống)
Rượu tỏi một tép Lý Sơn
16-07-2013 - 17:30 | admin
- Rượu tỏi một tép Lý Sơn
- Bao bì: Bình thủy tinh phong cách Hàn Quốc 1 lít
- Khối lượng: ~1kg
- Mô tả: Tỏi có khả năng làm giảm cholesterol, chống tắc nghẽn
mạch máu giống như thuốc Aspirine, còn có hoạt tính làm giảm khả năng
sinh ra các phần tử tự do, làm chậm quá trình lão hóa tế bào, bảo vệ
hồng cầu không bị oxy hóa. Nên có tác dụng làm giảm mỡ máu, hạ huyết áp,
tiêu viêm, phòng chống ung thư, ích thọ dưỡng nhan...
World Health Organization đã chính thức công bố rượu tỏi có thể chữa được 5 nhóm bệnh sau:
• Thấp khớp (sưng, vôi hóa, mỏi)
• Tim mạch (huyết áp thấp hoặc cao, nở van tim, ngoại tâm thu)
• Phế quản, họng (viêm, hen, xuyễn)
• Tiêu hóa (khó tiêu, ợ chua, viêm tá tràng, loét bao tử)
• Ngủ bất bình thường hay mất ngủ
(Theo Lương y VÕ HÀ - Báo Sức Khỏe & Đời Sống)
CÔNG DỤNG RƯỢU TỎI MỘT TÉP LÝ SƠN
- Giảm mỡ máu (Theo Lương y VÕ HÀ – Báo Sức Khỏe & Đời Sống)
- Phòng tránh ung thư (Theo BS Ninh Hồng - Báo Sức Khỏe & Đời Sống)
- Ngăn ngừa bệnh tăng huyết áp và giảm huyết áp (ở những người bị cao huyết áp) (Theo Khắc Nam – Báo Sức Khỏe & Đời Sống)
- Chữa bệnh cảm, cúm, ói , mửa, nóng sốt do trúng gió (uống vào hạ nóng )
- Chữa đau nhức do phong thấp
- Rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy
THÀNH PHẦN RƯỢU TỎI (Vừa đủ 1 lít)
- 200gr tỏi một tép Lý Sơn (hay còn gọi là tỏi một nhánh, tỏi mồ côi Lý Sơn) khô đã bóc sạch vỏ.
- ~900ml rượu nếp 40 độ (tự nấu - không dùng men công nghiệp)
THỜI GIAN NGÂM RƯỢU TỎI
- Hơn 30 ngày
MÀU SẮC
- Trắng ngả vàng, hơi đục
- Càng để lâu càng ngả về màu vàng
CÁCH DÙNG RƯỢU TỎI
Mỗi lần dùng 1 muỗng cà phê vào buổi sáng trước khi ăn và buổi tối trước khi ngủ. Có thể pha chung vơi nước đun sôi để nguội (hoặc hâm hẩm) để dễ uống. Uống liên tục cả đời. Người phải kiêng rượu không uống được rượu vẫn có thể dùng được vì mỗi lần chỉ uống 1 muỗng cà phê, một số lượng không đáng kể.Theo ThS Hoàng Khánh Toàn (Sức Khỏe & Đời Sống)
CÂU CHUYỆN VỀ RƯỢU 6/g (tửu nạn)
(ĐC sưu tầm trên NET)
hungmanh-kcam-Tác phẩm.
(Tạp văn)
Mấy vần thơ về Rượu.
nhặt được của Tiền nhân.
Trong sách xưa có câu thơ này nhưng không nhớ của ai :
“Nhân sinh hữu tửu tu đương tuý .
“Nhất chích hà tàng đáo cửu nguyên ?”
(Lúc sống có rượu cứ nên uống bằng say.(Bởi )
một giọt có dấu được xuống mồ ? (- khi đã chết ! )
khiến ta thấy tâm đắc lắm .
Nó phù hợp với bản thân ta khi đó (lần đọc đầu tiên)đang ở cái
tuổi
mà Nho lý nói là “nhi bất hoặc” và cũng đã cơ bản hiểu về ĐỜI ,về
NGƯỜI .
Cứ ngẫm thật nghiêm túc thì thấy cái đúng, cái phải của
câu từ và ý nghĩa của nó ngay . “Có” và “thấy” mà chẳng
được dùng (hoặc chẳng chịu dùng) . --Lại nữa :
“Dùng mà chưa đủ (hoặc không được đủ) thi rõ ràng không
thể gọi là thoả đáng được ! Tất nhiên ta không bàn tới cái
sự chừng mực, chuẩn mực hay công thức của một cái gì
đó hay của một ai đó -- bởi cái đã gọi là qui định haymức độ
nó “xa vời” lắm so với cái sự tự do, tự nhiên trong cuộc
sống hàng ngày.
--RƯỢU ấy mà !Theo khái niệm của ta thì nó là thứ
men mà người đời ưa thích nhất. Chẳng thế mà có bậc
Tiền nhân đã ao ước :
--“An đắc trung sơn "Thiên nhật tửu" .
Mính đinh trực đáo thái bình thời .
(Ước được thứ Rượu Nghìn Ngày trong núi kia mà uống.
Để có một cuộc say thẳng tới buổi thái bình) .
thì đủ biết rằng Rượu cần thiết trong đời sống tinh thần lắm
lắm chứ !
Tương truyền nhà thơ lớn nước Đại Đường tên là
Lý Thái Bạch thường làm thơ trong khi uống rượu hoặc khi
đang say . Cóa một bài thơ của Vương Xương Linh (cũng
là nhà thơ lớn TQ) dẫn dụ sau đây có thể xác định câu
ta vừa nói :
“Cớ chi ? Sao rượu, Sao Văn .
“Đúc nên một Lý tiên sinh ở đời .
“Ba ngàn say--viết nên bài .
“Ngàn năm bạn với trăng trời sáng soi” !
(Theo bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu)
Ông Thi sỹ họ Lý này còn tụng ca cái “Đức”(!?) của Rượu
mới lạ chứ ! Rượu mà cũng có đức như kẻ hiền tài ư ?
xin đừng nhầm với tác phẩm của Lưu Linh ca tụng rượu
(Tửu đức tụng)-Lại còn khuyên người đời lấy Rượu làm vui
nữa . . .tất là phải có lý do .
…“Nhân sinh đắc ý tu tận hoan .
Mạc sử kim bôi không đối nguyệt.”. . .
(Người ta được dịp đắc ý hãy nên tận hưởng sự vui vẻ,
“Chẳng nên để” chén vàng thiếu ánh trăng soi --tức là phải
luôn có rượu trong chén).
( “Ca tụng cái đức của rượu” -- Lý Thái Bạch).
Trời ạ ! còn gì hay và thú vỵ hơn không?
Gặp dịp vui mà không cùng hoà nhập với nhau ! Để đến
nỗi chén vàng không có rượu, cho ánh trăng không có chỗ
lọt vào, thì có đáng buồn đáng trách lắm không?
--Hỡi những ai là “tri âm, tri kỷ” !
Ta tin rằng những người có chữ nghĩa và hiểu nhiều
biết lắm thì chắc chắn ít có sự nhầm lẫn !
Dẫu cứ cho “uống rượu là một tội lỗi” đi nữa thì ông
chẳng đã
là một Thy sỹ làm được nhiều thơ và toàn là thơ hay đó sao?.
Này nhé:
“Ba ngàn say viết nên bài .
“Ngàn năm bạn với trăng trời sáng soi”. . . cơ mà !
Nghĩa là :
Ba ngàn bài thơ hay được làm ra trong lúc say Rượu !
Đúng chưa? Câu thơ quá rõ rồi còn gi ! Không hay,không
có giá trị thì sao lại sánh được với “Trăng sáng”và“Trời cao”
được ! ?. Điều còn lại xin tự độc giả hiểu với nhau .
Có một lần vua nhà Đường cho vời Nhà thơ họ Lý này
đến đàm đạo văn chương , ông không sao bước qua được
mạn thuyên đến đón, bởi vẫn đang còn say (!).Mà mồm thì
không ngớt nói mình là :“Tiên trong làng rượu.”:
“Thiên tử hô lai bất thướng thuyền
“Tự xưng thần thị “Tửu trung Tiên”!
(Vua triệu đến mà không sao bước nổi lên thuyền đến đón.
Miệng cứ lảm nhảm xưng mình là: “Tiên trong làng Rượu” .) !
Uống rượu đã say mà vẫn biết nói tốt về mình , nói hay về
mình thì đó là người mới say thể xác mà chưa say trí tuệ .
Còn nếu ngược lại thế thì cũng là đương nhiên thôi—
Đó là cái say hoàn toàn (Cả thần kinh và cả thể xác !)
Người đời vẫn nói Tiên tửu hay Tục tửu cốt để phân biệt
“thứ bậc” ẩm giả ở đời đấy . Và lẽ đương nhiên :
Tiên tửu vẫn hay hơn tục tửu ! Người Quân tử đã không cho
phép mình khuất phục trước uy lực , không cho tiền bạc ,
chức vị ,lợi danh thao túng thì có lẽ nào chút men cay kia
đánh đổ được dễ dàng !
“Ngươi” có thể hành hạ ta về thể xác, chứ đâu dễ thao túng
được trí lực ta . .(!?)
Uống rượu mà nói năng vui vẻ, mà vẫn giữ được mình thì là
chuyện bình thường thôi nhưng cũng đáng khen rồi .
Thế nhưng uống rượu có thể say,có thể chưa say mà làm
được thơ hay để đời thì quả là hiếm (!.)Thảo nào người đời
tặng danh hiệu TIÊN THI_THÁNH THI_là xứng lắm !
* --Ông Đỉnh Nam--Nguyễn Thượng Hiền(1868—1925) là
môt quan nhân C-M chống Pháp thời nhà Nguyễn cũng có một
câu thơ về Rượu như sau:
“Nhân hướng mộng trung tranh tướng tướng”
“Ngã tòng bôi lý trịch càn khôn . . .”.
(Người đời hướng vào giấc mộng tranh giành ngôi vị .
Ta đây theo lý của chén Rượu mà vứt cả đất trời) .
Câu thơ này được lắm, nó sinh ra trong hoàn cảnh
phong trào Đông Du đã lắng xuống và vị Quan nhân này
đã bất mãn với đời . . . Cuối cùng ông lui về đất Nông Cống-
Thanh Hoá ở ẩn cho đến già . . .
* --Ông Nguyễn Du , tác giả Truyện Kiều cũng có nhiều
bài thơ nói về Rượu . Xin trích dẫn một đôi câu:
“Hữu khuyển thả tu sát .
Hữu tửu thả tu khuynh .
Nhãn tiền đắc táng dỹ nan nhận .
Hà sự mang mang thân hậu danh ?”
Nghĩa là :
“Có chó cứ việc giết thịt .
Có rượu cứ nên nghiêng bầu .
Trước mắt, việc được thua còn chưa nhận biết,
thì mơ màng gì đến tên tuổi khi đã chết rồi !.”.
(Hành lạc từ-- Nguyễn Du).
Ông lại viết :
“Sinh tiền bất tận tôn trung tửu.
Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi”.
(Sống không uống hết rượu trong vò.
Chết rồi ai tưới rượu lên (mộ) cho”?
Lại còn câu này nữa:
“ Tịch thượng hữu kỹ kiều như hoa .
“ Lô trung hữu tửu như kim ba . . .
(Trên chiếu có gái đẹp như hoa .
Trong vò có rượu sánh như sóng vàng . . .)
Và… Nếu có thể thì chèn thêm vài câu sẵn có của ông
ở trên kia vào để thành một bài mới :
“Nhãn tiền đắc táng dỹ nan nhận
“Hà sự mang mang thân hậu danh”.
(Việc trước mắt được thua còn khó nhận biết
cớ sao cứ mơ màng chuyện danh tiếng về sau ?) Thì tuyệt hảo.
* --Ông Cao Bá Quát viết:
“Lắc bầu rượu giốc nghiêng non nước xuống,
Chén “tiếu đàm” mời mọc “Trích Tiên” .
“Hóng túi thơ nong hết gió trăng vào.
Cơn “xướng hoạ” thì thầm “Lão Đỗ” .
(Phú Nôm –“Tài tử đa cùng”-- Cao Bá Quát .)
-----
“Lão Đỗ” tức Đỗ Phủ, tên chữ là Thiếu Khanh—Nhà thơ lớn
thời thịnh Đường, còn “Trích Tiên” chính là Lý Thái Bạch đã
nói trên kia (ông ấy tự ví mình làTiên trên trời bị đày xuống
trần gian).
Vế đối này thật là khẩu khí ,mà cũng rất ngạo ngông ! ?
Vâng ! Mỗi cử chỉ, mỗi hành vi được diễn đạt trong bài
phú “Tài tử đa cùng” đều rất tự nhiên , đều có chủ động.
Thoải mái mà tự tin, phóng khoáng mà chuẩn xác . . .
lại còn pha cả “lộng ngôn--ngoa ngữ” nữa chứ-để thể hiện
được cái “phong độ ung dung, vừa hào hoa phong nhã mà
lại vừa mạnh mẽ quật cường” của Thi sỹ họ Cao .
Lạ thay cho văn chương và câu chữ, sức cuốn hút của
chúng thật quyến rũ và mạnh mẽ phi phàm !.
Nhiều nhà phê bình đã nói đến “Cái tôi bản ngã” của
họ Cao . Phải chăng ở đây cũng có bộc lộ chút ít rồi chăng !?.
“Lắc bầu rượu” mà rót như là rót cả Non cả Nước xuống.
Chuyện bàn luận nói cười lại dính dáng đến cả bậc Tiên thi !?
(Tức TRích tiên-tức Lý Bạch Tiên sinh--Ông đã tự ví mình như một vị
Tiên bị đầy đọa (do có lỗi) xuống hạ giới)
Một túi thơ liệu rộng lớn bao nhiêu, mà“nong” hết Gió-Trăng
và Mây-Nước? Lại còn dám rủ rê Thi hào Đỗ Phủ của đất nước
Trung Hoa với cái đại từ nhân xưng “sếch mé” : “Lão” để
cùng xướng hoạ khi nổi hứng thi ca , thì quả là không tưởng,
quả là lộng ngôn tới bất ngờ . . (Bất ngờ ở cái sự táo bạo
từ hành vi đến ngôn ngữ)--này . . .
Thêm một chút gia vị cho đoạn văn này, ta hãy đọc
tham khảo vài ba câu thơ khác của chàng họ Cao đa đoan
đa sự và cả đa tình nữa, để thấy cái chất phóng khoáng và
mộng mơ của một con người lãng mạn , đầy phiêu lãng này. :
“Ai hãy đến nhà họ Tôn học lấy nét bút điêu luyện?
(Để )Trên đầu ngọn sóng kia vẽ thêm một kẻ ngâm thơ.
(Thuỳ hướng Tôn gia truyền diệu bút .
Đào đầu thiêm tá lãng ngâm nhân)
Hồ Tây đối với họ Cao là cả một kho đồ sộ những cảm
xúc để từ đó mà tha hồ múa bút, tha hồ miên man trong
suy tưởng . . .
Trong “ 8 bài tứ tuyệt chơi Tây Hồ” (Du Tây Hồ bát
tuyệt) Cao Bá Quát có những câu đầy trữ tình và nhân cách
hoá :
“Lòng xuân nghiêng ngả không thể cầm giữ nổi.
“Hồ Tây quả là một nàng Tây Thi. . . .
“Vẻ mặt nở nang là khi lớp sóng mới lặng
‘Dây lưng uốn éo là lúc ngọn cỏ nương xanh”(dịch)
Cũng ở Hồ Tây ông đã viết :
“Xin mời bác Sóng hãy sơi một chén rượu.
“Tuổi thiếu niên tôi rất thích làm người ta buồn cười.
(giá như) bác lôi những ngọn núi phía Tây lại thì tốt.
Và san bằng bức thành phía Đông đi thì lại càng hay”.
Nguyên âm
(Khuyến nhĩ trùng ba tửu nhất chi .
Thiếu niên dư tối giải nhân di .
Khiển lai Tây bạn sơn vưu hảo .
San khước Đông biên quách cánh nghi .)
Lại nữa:
Cái sắc thái cuộc sống và tệ nạn xã hôi đương thời
đã góp thêm tư liệu cho những bài phóng sự bằng thơ
của Cao thi sỹ:
“Xưa nay những kẻ hám lợi danh,
Thường tất tả ngoài đường xá. . .
Quán rượu đầu gió,có rượu ngon,
Thì người tỉnh ít, kẻ say vô số .
(Cổ lai danh lợi nhân,
(Bôn tẩu lộ đồ trung.
(Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu .
(Tỉnh giả thường thiếu , tuý giả đồng-- (Cao-Bá-Quát)
Rượu ngon mà làm cho người đời quên cả lợi danh thì
cũng nên say lắm chứ !Bởi ham hố lợi danh còn nguy hiểm
hơn nhiều nếu so với uống rượu ! . . Có đáng chê trách gì
ông Đỉnh Nam-Nguyễn Thượng Hiền vì thoái trào của cách
mạng Đông Du mà đã chán nản thốt lên :”Ta theo cái lí của
chén rượu mà vứt cả đất trời”, mặc xác cho : “Người đời cứ
nhắm nhăm theo cái mộng tranh giành ngôi vị”?!
Xét cho công bằng thì rượu cũng có công trạng trong việc
giải cái sầu, cái mộng mị háo danh đấy chứ !?
Bỗng dưng người viết lại nhớ tới câu thơ chữ Hán:
“Dục phá thành sâu tu dụng tửu”.
(Muốn phá được bức thành sầu nên dùng đến rượu !)
Hình như câu này cũng là của ông Đỉnh Nam --vị ẩm giả
nói trên !
Thôi nào !
Hãy quay về vị trí cũ để nghe Chàng họ Cao của chúng ta
uống rượu và nói với Trăng những gì ?
“Cử bôi thí yêu nguyệt.
Nguyệt nhập bôi trung hành.
Hàm bôi đục yến ,cánh phi khứ.
Chỉ hữu nhân ảnh tương tung hoành.
Đình bôi thả phục trí .
Hựu kiến cô quang sinh .
Vấn quân hà sự luyến luyến bất phục xả
Ngã thị Trúc Lâm cùng đồ chi Bộ Binh! “
(Trà Giang thu Nguyệt ca—Cao Bá Quát )
Nghĩa là: “ Cất chén lên thử mời trăng-
Trăng đi vào trong chén.
Ngậm chén định uống ,Trăng lại biến đâu mất rồi.
Chỉ còn thấy bóng người ngang dọc .
Ngưng chén còn đang định thần, thì lại thấy trăng le lói
soi . . .
Bực mình mới hỏi vì sao mà cứ lưu luyến không nỡ rời
xa nhau vậy ?
Ta chẳng qua cũng như anh chàng Bộ Binh cùng đường
trong bọn Trúc lâm mà thôi !.
( “Bài ca trăng thu sông Trà”—C B Q)
Cứ xét cái hành trạng cũng đã ngờ ngợ là “dở hơi” rồi
còn gì ?! Ai đời lại đi mời trăng uống rượu bao giờ ?.
Tiếp đến vài câu sau lại càng thấy “dở hơi” hơn !
Ấy thế nhưng khi thấy Thi sỹ tự ví mình là anh chàng
Bộ Binh --Nguyễn Tịch ở rừng Trúc thì độc giả mới té ngửa
nhận ra ông là kẻ “đọc sách”, kẻ có học, có chữ nghĩa
Kẻ mà ai đó trong cổ thư đã khẳng định:
“Vạn ban giai hạ phẩm,
Duy hữu độc thư cao”.
(Vạn thứ đều là thấp kém.
Mỗi kẻ đọc sách (hoặc “Chỉ có đọc sách) là cao cả”
mà thôi !
Khoan đã ! Ta đang nói kẻ “đọc sách” ngày xưa cơ !
Ngày xưa đã nói người “đọc sách” là nói tới kẻ có “học hành
chữ nghĩa” rồi ,là “tú tài” ,là “văn chương”, là “thông kim
bác cổ” rồi . Còn bây giờ thì thiếu gì người đọc sách (!?)
Có khác chăng là đọc (và cả học nhiều lớp, nhiều trường nữa
nhiều, nhiều lắm lắm) mà liệu có tiếp thu, có để lại trong đầu
được gì hay không ?. Và nữa : có “chuẩn mực” có “hiệu quả
hay kết quả hay không",ấy lại là chuyện chưa bàn đến (!?
Chưa kể có kẻ mua sách nhiều (để “hoá trang”, hoặc để
“trang sức” cho mình) Họ sẵn tiền mua sách rồi xếp vào tủ
cho oai, cho oách . Sách thì lúc nào cũng mới toanh, hoặc
ngược lại “mốc meo và bụi bặm” vì “quên”… không đọc .
Xin lưu ý sách ngày xưa ít thôi và là của quý hiếm lắm,
bởi ít người viết sách hoặc “dám” viết sách. Người đứng đắn
chuẩn mực và thận trọng họ không dám “làm càn” , bởi họ
biết lựợng sức mình . . . Người đã quá trình “đọc sách” rồi
tức là đã được học hành thì đều phải "tự biết mình, biết ta",
chứ đâu dám ba hoa, khoác lác và cứ ngạo mạn làm bừa,
viết ẩu. Giỏi giang như cụ Tố Như kia, rất thấu đáo về
NGƯỜI và ĐỜI , về NHÂN TÌNH và THẾ THÁI ,đúc kết
nên bao nguyên lý sống ở đời , khi viết Truyện Kiều tuyệt tác
đã có những câu mở đầu đầy trải nghiệm:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” . . .
Vậy mà vẫn còn phải kết một câu rất khiêm tốn ở cuối truyện
rằng (đây chỉ là):
“Lời quê góp nhặt rông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh”
Lại tiếp mạch cho chuyện về họ Cao:
-- Thử hỏi không đọc sách thì sao Cao Thi sĩ lại biết được
tích truyện này mà ví mình như Nguyễn Tịch-- Cái anh chàng
“giỏi Chữ hay Thơ” kia - Một trong 7 người tài ở ẩn trong rừng
Trúc (Thất hiền ẩn sỹ) đời nhà Tấn TQ . Ông Nguyễn Tịch này
có biệt hiệu là Bộ binh , cả đời dẫu có cũng không dùng Ngựa
đi La hoặc cưỡi Bò, cưỡi Trâu gì cả ! Có bao nhiêu tiền ông ta
đều dùng uống rượu cho đến say tuý luý , rồi đi “lang thang”
mà quên cả đường về nhà . Hết đường (cùng đồ) thì đứng
ôm mặt khóc ( ! ) . Làm thơ làm phú thì rất hay , đọc liên
tằng,liên mạch không lầm lỗi, không nghĩ ngợi lâu la.
Tiếp khách,nếu là kẻ phàm tục thì mắt ông ta hiện ra màu
trắng (bạch nhỡn) thể hiện sự nhạt nhẽo, khinh mạn.
Tiếp khách là người hiền tài thì mắt ánh lên một màu xanh
(thanh nhỡn)…
Hai từ “Mắt xanh” mà chàng Từ Hải :
“Râu hùm hàm én mày ngài” kia đã hỏi nàng Kiều ở câu:
“ Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào, có không” ?
khi họ gặp nhau lần đầu ở thanh lâu, chính cụ Nguyễn Du
đã dùng tích ấy để viết ra đấy các bạn ạ ! .
HÊN QUÁ ! CHÚC BẠN VUI TRONG LÀNG RƯỢU.KCẨM mạnhhùng
(Tạp văn)
Mấy vần thơ về Rượu.
nhặt được của Tiền nhân.
Trong sách xưa có câu thơ này nhưng không nhớ của ai :
“Nhân sinh hữu tửu tu đương tuý .
“Nhất chích hà tàng đáo cửu nguyên ?”
(Lúc sống có rượu cứ nên uống bằng say.(Bởi )
một giọt có dấu được xuống mồ ? (- khi đã chết ! )
khiến ta thấy tâm đắc lắm .
Nó phù hợp với bản thân ta khi đó (lần đọc đầu tiên)đang ở cái
tuổi
mà Nho lý nói là “nhi bất hoặc” và cũng đã cơ bản hiểu về ĐỜI ,về
NGƯỜI .
Cứ ngẫm thật nghiêm túc thì thấy cái đúng, cái phải của
câu từ và ý nghĩa của nó ngay . “Có” và “thấy” mà chẳng
được dùng (hoặc chẳng chịu dùng) . --Lại nữa :
“Dùng mà chưa đủ (hoặc không được đủ) thi rõ ràng không
thể gọi là thoả đáng được ! Tất nhiên ta không bàn tới cái
sự chừng mực, chuẩn mực hay công thức của một cái gì
đó hay của một ai đó -- bởi cái đã gọi là qui định haymức độ
nó “xa vời” lắm so với cái sự tự do, tự nhiên trong cuộc
sống hàng ngày.
--RƯỢU ấy mà !Theo khái niệm của ta thì nó là thứ
men mà người đời ưa thích nhất. Chẳng thế mà có bậc
Tiền nhân đã ao ước :
--“An đắc trung sơn "Thiên nhật tửu" .
Mính đinh trực đáo thái bình thời .
(Ước được thứ Rượu Nghìn Ngày trong núi kia mà uống.
Để có một cuộc say thẳng tới buổi thái bình) .
thì đủ biết rằng Rượu cần thiết trong đời sống tinh thần lắm
lắm chứ !
Tương truyền nhà thơ lớn nước Đại Đường tên là
Lý Thái Bạch thường làm thơ trong khi uống rượu hoặc khi
đang say . Cóa một bài thơ của Vương Xương Linh (cũng
là nhà thơ lớn TQ) dẫn dụ sau đây có thể xác định câu
ta vừa nói :
“Cớ chi ? Sao rượu, Sao Văn .
“Đúc nên một Lý tiên sinh ở đời .
“Ba ngàn say--viết nên bài .
“Ngàn năm bạn với trăng trời sáng soi” !
(Theo bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu)
Ông Thi sỹ họ Lý này còn tụng ca cái “Đức”(!?) của Rượu
mới lạ chứ ! Rượu mà cũng có đức như kẻ hiền tài ư ?
xin đừng nhầm với tác phẩm của Lưu Linh ca tụng rượu
(Tửu đức tụng)-Lại còn khuyên người đời lấy Rượu làm vui
nữa . . .tất là phải có lý do .
…“Nhân sinh đắc ý tu tận hoan .
Mạc sử kim bôi không đối nguyệt.”. . .
(Người ta được dịp đắc ý hãy nên tận hưởng sự vui vẻ,
“Chẳng nên để” chén vàng thiếu ánh trăng soi --tức là phải
luôn có rượu trong chén).
( “Ca tụng cái đức của rượu” -- Lý Thái Bạch).
Trời ạ ! còn gì hay và thú vỵ hơn không?
Gặp dịp vui mà không cùng hoà nhập với nhau ! Để đến
nỗi chén vàng không có rượu, cho ánh trăng không có chỗ
lọt vào, thì có đáng buồn đáng trách lắm không?
--Hỡi những ai là “tri âm, tri kỷ” !
Ta tin rằng những người có chữ nghĩa và hiểu nhiều
biết lắm thì chắc chắn ít có sự nhầm lẫn !
Dẫu cứ cho “uống rượu là một tội lỗi” đi nữa thì ông
chẳng đã
là một Thy sỹ làm được nhiều thơ và toàn là thơ hay đó sao?.
Này nhé:
“Ba ngàn say viết nên bài .
“Ngàn năm bạn với trăng trời sáng soi”. . . cơ mà !
Nghĩa là :
Ba ngàn bài thơ hay được làm ra trong lúc say Rượu !
Đúng chưa? Câu thơ quá rõ rồi còn gi ! Không hay,không
có giá trị thì sao lại sánh được với “Trăng sáng”và“Trời cao”
được ! ?. Điều còn lại xin tự độc giả hiểu với nhau .
Có một lần vua nhà Đường cho vời Nhà thơ họ Lý này
đến đàm đạo văn chương , ông không sao bước qua được
mạn thuyên đến đón, bởi vẫn đang còn say (!).Mà mồm thì
không ngớt nói mình là :“Tiên trong làng rượu.”:
“Thiên tử hô lai bất thướng thuyền
“Tự xưng thần thị “Tửu trung Tiên”!
(Vua triệu đến mà không sao bước nổi lên thuyền đến đón.
Miệng cứ lảm nhảm xưng mình là: “Tiên trong làng Rượu” .) !
Uống rượu đã say mà vẫn biết nói tốt về mình , nói hay về
mình thì đó là người mới say thể xác mà chưa say trí tuệ .
Còn nếu ngược lại thế thì cũng là đương nhiên thôi—
Đó là cái say hoàn toàn (Cả thần kinh và cả thể xác !)
Người đời vẫn nói Tiên tửu hay Tục tửu cốt để phân biệt
“thứ bậc” ẩm giả ở đời đấy . Và lẽ đương nhiên :
Tiên tửu vẫn hay hơn tục tửu ! Người Quân tử đã không cho
phép mình khuất phục trước uy lực , không cho tiền bạc ,
chức vị ,lợi danh thao túng thì có lẽ nào chút men cay kia
đánh đổ được dễ dàng !
“Ngươi” có thể hành hạ ta về thể xác, chứ đâu dễ thao túng
được trí lực ta . .(!?)
Uống rượu mà nói năng vui vẻ, mà vẫn giữ được mình thì là
chuyện bình thường thôi nhưng cũng đáng khen rồi .
Thế nhưng uống rượu có thể say,có thể chưa say mà làm
được thơ hay để đời thì quả là hiếm (!.)Thảo nào người đời
tặng danh hiệu TIÊN THI_THÁNH THI_là xứng lắm !
* --Ông Đỉnh Nam--Nguyễn Thượng Hiền(1868—1925) là
môt quan nhân C-M chống Pháp thời nhà Nguyễn cũng có một
câu thơ về Rượu như sau:
“Nhân hướng mộng trung tranh tướng tướng”
“Ngã tòng bôi lý trịch càn khôn . . .”.
(Người đời hướng vào giấc mộng tranh giành ngôi vị .
Ta đây theo lý của chén Rượu mà vứt cả đất trời) .
Câu thơ này được lắm, nó sinh ra trong hoàn cảnh
phong trào Đông Du đã lắng xuống và vị Quan nhân này
đã bất mãn với đời . . . Cuối cùng ông lui về đất Nông Cống-
Thanh Hoá ở ẩn cho đến già . . .
* --Ông Nguyễn Du , tác giả Truyện Kiều cũng có nhiều
bài thơ nói về Rượu . Xin trích dẫn một đôi câu:
“Hữu khuyển thả tu sát .
Hữu tửu thả tu khuynh .
Nhãn tiền đắc táng dỹ nan nhận .
Hà sự mang mang thân hậu danh ?”
Nghĩa là :
“Có chó cứ việc giết thịt .
Có rượu cứ nên nghiêng bầu .
Trước mắt, việc được thua còn chưa nhận biết,
thì mơ màng gì đến tên tuổi khi đã chết rồi !.”.
(Hành lạc từ-- Nguyễn Du).
Ông lại viết :
“Sinh tiền bất tận tôn trung tửu.
Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi”.
(Sống không uống hết rượu trong vò.
Chết rồi ai tưới rượu lên (mộ) cho”?
Lại còn câu này nữa:
“ Tịch thượng hữu kỹ kiều như hoa .
“ Lô trung hữu tửu như kim ba . . .
(Trên chiếu có gái đẹp như hoa .
Trong vò có rượu sánh như sóng vàng . . .)
Và… Nếu có thể thì chèn thêm vài câu sẵn có của ông
ở trên kia vào để thành một bài mới :
“Nhãn tiền đắc táng dỹ nan nhận
“Hà sự mang mang thân hậu danh”.
(Việc trước mắt được thua còn khó nhận biết
cớ sao cứ mơ màng chuyện danh tiếng về sau ?) Thì tuyệt hảo.
* --Ông Cao Bá Quát viết:
“Lắc bầu rượu giốc nghiêng non nước xuống,
Chén “tiếu đàm” mời mọc “Trích Tiên” .
“Hóng túi thơ nong hết gió trăng vào.
Cơn “xướng hoạ” thì thầm “Lão Đỗ” .
(Phú Nôm –“Tài tử đa cùng”-- Cao Bá Quát .)
-----
“Lão Đỗ” tức Đỗ Phủ, tên chữ là Thiếu Khanh—Nhà thơ lớn
thời thịnh Đường, còn “Trích Tiên” chính là Lý Thái Bạch đã
nói trên kia (ông ấy tự ví mình làTiên trên trời bị đày xuống
trần gian).
Vế đối này thật là khẩu khí ,mà cũng rất ngạo ngông ! ?
Vâng ! Mỗi cử chỉ, mỗi hành vi được diễn đạt trong bài
phú “Tài tử đa cùng” đều rất tự nhiên , đều có chủ động.
Thoải mái mà tự tin, phóng khoáng mà chuẩn xác . . .
lại còn pha cả “lộng ngôn--ngoa ngữ” nữa chứ-để thể hiện
được cái “phong độ ung dung, vừa hào hoa phong nhã mà
lại vừa mạnh mẽ quật cường” của Thi sỹ họ Cao .
Lạ thay cho văn chương và câu chữ, sức cuốn hút của
chúng thật quyến rũ và mạnh mẽ phi phàm !.
Nhiều nhà phê bình đã nói đến “Cái tôi bản ngã” của
họ Cao . Phải chăng ở đây cũng có bộc lộ chút ít rồi chăng !?.
“Lắc bầu rượu” mà rót như là rót cả Non cả Nước xuống.
Chuyện bàn luận nói cười lại dính dáng đến cả bậc Tiên thi !?
(Tức TRích tiên-tức Lý Bạch Tiên sinh--Ông đã tự ví mình như một vị
Tiên bị đầy đọa (do có lỗi) xuống hạ giới)
Một túi thơ liệu rộng lớn bao nhiêu, mà“nong” hết Gió-Trăng
và Mây-Nước? Lại còn dám rủ rê Thi hào Đỗ Phủ của đất nước
Trung Hoa với cái đại từ nhân xưng “sếch mé” : “Lão” để
cùng xướng hoạ khi nổi hứng thi ca , thì quả là không tưởng,
quả là lộng ngôn tới bất ngờ . . (Bất ngờ ở cái sự táo bạo
từ hành vi đến ngôn ngữ)--này . . .
Thêm một chút gia vị cho đoạn văn này, ta hãy đọc
tham khảo vài ba câu thơ khác của chàng họ Cao đa đoan
đa sự và cả đa tình nữa, để thấy cái chất phóng khoáng và
mộng mơ của một con người lãng mạn , đầy phiêu lãng này. :
“Ai hãy đến nhà họ Tôn học lấy nét bút điêu luyện?
(Để )Trên đầu ngọn sóng kia vẽ thêm một kẻ ngâm thơ.
(Thuỳ hướng Tôn gia truyền diệu bút .
Đào đầu thiêm tá lãng ngâm nhân)
Hồ Tây đối với họ Cao là cả một kho đồ sộ những cảm
xúc để từ đó mà tha hồ múa bút, tha hồ miên man trong
suy tưởng . . .
Trong “ 8 bài tứ tuyệt chơi Tây Hồ” (Du Tây Hồ bát
tuyệt) Cao Bá Quát có những câu đầy trữ tình và nhân cách
hoá :
“Lòng xuân nghiêng ngả không thể cầm giữ nổi.
“Hồ Tây quả là một nàng Tây Thi. . . .
“Vẻ mặt nở nang là khi lớp sóng mới lặng
‘Dây lưng uốn éo là lúc ngọn cỏ nương xanh”(dịch)
Cũng ở Hồ Tây ông đã viết :
“Xin mời bác Sóng hãy sơi một chén rượu.
“Tuổi thiếu niên tôi rất thích làm người ta buồn cười.
(giá như) bác lôi những ngọn núi phía Tây lại thì tốt.
Và san bằng bức thành phía Đông đi thì lại càng hay”.
Nguyên âm
(Khuyến nhĩ trùng ba tửu nhất chi .
Thiếu niên dư tối giải nhân di .
Khiển lai Tây bạn sơn vưu hảo .
San khước Đông biên quách cánh nghi .)
Lại nữa:
Cái sắc thái cuộc sống và tệ nạn xã hôi đương thời
đã góp thêm tư liệu cho những bài phóng sự bằng thơ
của Cao thi sỹ:
“Xưa nay những kẻ hám lợi danh,
Thường tất tả ngoài đường xá. . .
Quán rượu đầu gió,có rượu ngon,
Thì người tỉnh ít, kẻ say vô số .
(Cổ lai danh lợi nhân,
(Bôn tẩu lộ đồ trung.
(Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu .
(Tỉnh giả thường thiếu , tuý giả đồng-- (Cao-Bá-Quát)
Rượu ngon mà làm cho người đời quên cả lợi danh thì
cũng nên say lắm chứ !Bởi ham hố lợi danh còn nguy hiểm
hơn nhiều nếu so với uống rượu ! . . Có đáng chê trách gì
ông Đỉnh Nam-Nguyễn Thượng Hiền vì thoái trào của cách
mạng Đông Du mà đã chán nản thốt lên :”Ta theo cái lí của
chén rượu mà vứt cả đất trời”, mặc xác cho : “Người đời cứ
nhắm nhăm theo cái mộng tranh giành ngôi vị”?!
Xét cho công bằng thì rượu cũng có công trạng trong việc
giải cái sầu, cái mộng mị háo danh đấy chứ !?
Bỗng dưng người viết lại nhớ tới câu thơ chữ Hán:
“Dục phá thành sâu tu dụng tửu”.
(Muốn phá được bức thành sầu nên dùng đến rượu !)
Hình như câu này cũng là của ông Đỉnh Nam --vị ẩm giả
nói trên !
Thôi nào !
Hãy quay về vị trí cũ để nghe Chàng họ Cao của chúng ta
uống rượu và nói với Trăng những gì ?
“Cử bôi thí yêu nguyệt.
Nguyệt nhập bôi trung hành.
Hàm bôi đục yến ,cánh phi khứ.
Chỉ hữu nhân ảnh tương tung hoành.
Đình bôi thả phục trí .
Hựu kiến cô quang sinh .
Vấn quân hà sự luyến luyến bất phục xả
Ngã thị Trúc Lâm cùng đồ chi Bộ Binh! “
(Trà Giang thu Nguyệt ca—Cao Bá Quát )
Nghĩa là: “ Cất chén lên thử mời trăng-
Trăng đi vào trong chén.
Ngậm chén định uống ,Trăng lại biến đâu mất rồi.
Chỉ còn thấy bóng người ngang dọc .
Ngưng chén còn đang định thần, thì lại thấy trăng le lói
soi . . .
Bực mình mới hỏi vì sao mà cứ lưu luyến không nỡ rời
xa nhau vậy ?
Ta chẳng qua cũng như anh chàng Bộ Binh cùng đường
trong bọn Trúc lâm mà thôi !.
( “Bài ca trăng thu sông Trà”—C B Q)
Cứ xét cái hành trạng cũng đã ngờ ngợ là “dở hơi” rồi
còn gì ?! Ai đời lại đi mời trăng uống rượu bao giờ ?.
Tiếp đến vài câu sau lại càng thấy “dở hơi” hơn !
Ấy thế nhưng khi thấy Thi sỹ tự ví mình là anh chàng
Bộ Binh --Nguyễn Tịch ở rừng Trúc thì độc giả mới té ngửa
nhận ra ông là kẻ “đọc sách”, kẻ có học, có chữ nghĩa
Kẻ mà ai đó trong cổ thư đã khẳng định:
“Vạn ban giai hạ phẩm,
Duy hữu độc thư cao”.
(Vạn thứ đều là thấp kém.
Mỗi kẻ đọc sách (hoặc “Chỉ có đọc sách) là cao cả”
mà thôi !
Khoan đã ! Ta đang nói kẻ “đọc sách” ngày xưa cơ !
Ngày xưa đã nói người “đọc sách” là nói tới kẻ có “học hành
chữ nghĩa” rồi ,là “tú tài” ,là “văn chương”, là “thông kim
bác cổ” rồi . Còn bây giờ thì thiếu gì người đọc sách (!?)
Có khác chăng là đọc (và cả học nhiều lớp, nhiều trường nữa
nhiều, nhiều lắm lắm) mà liệu có tiếp thu, có để lại trong đầu
được gì hay không ?. Và nữa : có “chuẩn mực” có “hiệu quả
hay kết quả hay không",ấy lại là chuyện chưa bàn đến (!?
Chưa kể có kẻ mua sách nhiều (để “hoá trang”, hoặc để
“trang sức” cho mình) Họ sẵn tiền mua sách rồi xếp vào tủ
cho oai, cho oách . Sách thì lúc nào cũng mới toanh, hoặc
ngược lại “mốc meo và bụi bặm” vì “quên”… không đọc .
Xin lưu ý sách ngày xưa ít thôi và là của quý hiếm lắm,
bởi ít người viết sách hoặc “dám” viết sách. Người đứng đắn
chuẩn mực và thận trọng họ không dám “làm càn” , bởi họ
biết lựợng sức mình . . . Người đã quá trình “đọc sách” rồi
tức là đã được học hành thì đều phải "tự biết mình, biết ta",
chứ đâu dám ba hoa, khoác lác và cứ ngạo mạn làm bừa,
viết ẩu. Giỏi giang như cụ Tố Như kia, rất thấu đáo về
NGƯỜI và ĐỜI , về NHÂN TÌNH và THẾ THÁI ,đúc kết
nên bao nguyên lý sống ở đời , khi viết Truyện Kiều tuyệt tác
đã có những câu mở đầu đầy trải nghiệm:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” . . .
Vậy mà vẫn còn phải kết một câu rất khiêm tốn ở cuối truyện
rằng (đây chỉ là):
“Lời quê góp nhặt rông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh”
Lại tiếp mạch cho chuyện về họ Cao:
-- Thử hỏi không đọc sách thì sao Cao Thi sĩ lại biết được
tích truyện này mà ví mình như Nguyễn Tịch-- Cái anh chàng
“giỏi Chữ hay Thơ” kia - Một trong 7 người tài ở ẩn trong rừng
Trúc (Thất hiền ẩn sỹ) đời nhà Tấn TQ . Ông Nguyễn Tịch này
có biệt hiệu là Bộ binh , cả đời dẫu có cũng không dùng Ngựa
đi La hoặc cưỡi Bò, cưỡi Trâu gì cả ! Có bao nhiêu tiền ông ta
đều dùng uống rượu cho đến say tuý luý , rồi đi “lang thang”
mà quên cả đường về nhà . Hết đường (cùng đồ) thì đứng
ôm mặt khóc ( ! ) . Làm thơ làm phú thì rất hay , đọc liên
tằng,liên mạch không lầm lỗi, không nghĩ ngợi lâu la.
Tiếp khách,nếu là kẻ phàm tục thì mắt ông ta hiện ra màu
trắng (bạch nhỡn) thể hiện sự nhạt nhẽo, khinh mạn.
Tiếp khách là người hiền tài thì mắt ánh lên một màu xanh
(thanh nhỡn)…
Hai từ “Mắt xanh” mà chàng Từ Hải :
“Râu hùm hàm én mày ngài” kia đã hỏi nàng Kiều ở câu:
“ Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào, có không” ?
khi họ gặp nhau lần đầu ở thanh lâu, chính cụ Nguyễn Du
đã dùng tích ấy để viết ra đấy các bạn ạ ! .
HÊN QUÁ ! CHÚC BẠN VUI TRONG LÀNG RƯỢU.KCẨM mạnhhùng
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)