Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2014

NGUYỄN BÍNH 7/5 - GIAI THOẠI

(ĐC chép từ http://quehuongonline.vn)


Nguyễn Bính hành phương Nam - Bài 1: Ta và nhà ngươi

Nguyen Binh hanh phuong Nam - Bai 1: Ta va nha nguoi

Bài thơ Hành phương Nam của thi sĩ chân quê Nguyễn Bính không chỉ có một phong cách rất lạ so với những bài thơ khác của ông, mà còn ghi dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời nhà thơ.

“Nhà ngươi” là ai ?
Nói bài thơ có phong cách lạ bởi người ta vốn quen với cái chất mộc mạc, mang phong vị ca dao trong thơ Nguyễn Bính, chẳng hạn: “Nắng mưa là bệnh của trời/Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” hoặc “Hồn anh như hoa cỏ may/Một hôm cả gió bám đầy áo em”... Cho nên khi gặp cái chất hào sảng, khí phách trong Hành phương Nam thì người đọc cảm thấy bất ngờ, thú vị: “Đôi ta lưu lạc phương Nam này/Đã mấy mùa qua én nhạn bay/Xuân đến ngập trời hoa rượu nở/Riêng ta nhà ngươi buồn vậy thay... Tôi thích nhất là những câu xưng hô “ta với nhà ngươi”: “Thế nhân mắt trắng như ngân nhủ/Ta với nhà ngươi cả tiếng cười... Ngươi ơi, ngươi ơi hề ngươi ơi/Ngươi về bên ấy sao mà lạnh/Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi... “Ta” thì đã hẳn là Nguyễn Bính, nhưng còn “nhà ngươi”?
Cách đây 15 năm, tôi có hỏi chị Hồng Cầu (con gái nhà thơ Nguyễn Bính): “Nhân vật được Nguyễn Bính gọi là “nhà ngươi” trong bài thơ Hành phương Nam là ai?”. Chị trả lời: “Là ông Hoàng Tấn đấy!”.
Vài bữa sau, nhà thơ Kiên Giang dẫn tôi đến thăm nhà văn Hoàng Tấn. Ông sống đơn chiếc cùng với cô con gái ruột trong một căn hộ nhỏ nằm trên lầu hai cư xá Thanh Đa (Bình Thạnh, TP.HCM). Nhà ông chật hẹp nhưng trông hệt như một... bảo tàng văn học. Những bài thơ của các thi hữu thân thiết, hoặc những bài báo (tranh ảnh) viết về họ, đều được ông cắt dán trang trọng kín những bức vách. Dạo đó, nhà thơ Kiên Giang đã qua ngưỡng “cổ lai hy”, Hoàng Tấn lớn tuổi hơn, độ ngoài tám mươi. Ấy vậy mà trí nhớ của cả hai lão thi nhân thật tuyệt vời. Gặp nhau họ chuyện vãn như... lân gặp pháo.

Hơn cả vợ và người tình
Nhà văn Hoàng Tấn và Nguyễn Bính thân nhau đến nỗi ông Hoàng Tấn “tự hào” rằng còn thân thiết hơn cả những người tình, những bà vợ của Nguyễn Bính. “Ồ, thế ra Nguyễn Bính đã xa tôi đúng 20 năm rồi ư? Một tia chớp thời gian. Hai thập niên vèo bay! Không, Nguyễn Bính vẫn còn đây, vẫn ở bên tôi ngày đêm tâm sự, cùng nhau xướng họa, ngâm vịnh, cùng nhau xẻ ngọt chia sầu. Trong phòng tôi, trên tường, di bút Nguyễn Bính còn đó. Những thư từ Nguyễn Bính viết cho tôi vẫn còn đây. Những bài thơ trong bản thảo của Nguyễn Bính tôi trân trọng giữ gìn cũng như gìn giữ những tấm ảnh của Bính chụp trong nhiều giai đoạn khác nhau. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mất Nguyễn Bính... Nếu tính đến nay (1986), tình bạn của chúng tôi kéo dài còn hai năm nữa là tròn nửa thế kỷ...” (trích Nguyễn Bính - một vì sao sáng - Hoàng Tấn, NXB Đồng Nai, 1999).
Nhà văn Hoàng Tấn kể, khoảng năm 1939 ông vào Sài Gòn thử thời vận bằng cách dấn thân vào “trường văn, trận bút”. Khi đã có công việc ổn định, tháng 8.1943 ông gửi thư về Bắc rủ Nguyễn Bính, Trúc Đường (anh ruột Nguyễn Bính) và Thâm Tâm vào Nam để chuẩn bị cho “bộ khung” tờ Hạnh phúc (bộ mới) do Võ Tuấn Khanh làm chủ nhiệm sắp ra đời. Khoảng một tháng sau thì Nguyễn Bính xuất hiện ở Sài Gòn lần thứ hai (lần đầu Nguyễn Bính vô Nam vào những năm cuối thập niên 30, thế kỷ trước), cùng đi với ông không phải là Trúc Đường, Thâm Tâm mà là Tô Hoài và Vũ Trọng Can.
Ở Sài Gòn, Hoàng Tấn cùng với hai người bạn thuê một căn nhà lợp ngói, nằm trong một vườn cây ăn trái ở khu vực chợ Nancy (Nguyễn Văn Cừ hiện nay). Họ đón Nguyễn Bính về ở chung. Nguyễn Bính rất thích ngôi nhà này và đặt tên là “Lan Chi Viên”. Từ đó, Lan Chi Viên trở thành câu lạc bộ Tao đàn, thường xuyên là nơi họp mặt của một bộ phận thuộc giới trí thức, văn nghệ sĩ Sài Gòn thời bấy giờ với những cái tên: Thiếu Sơn, Lê Tràng Kiều, Khổng Dương, Nam Châu, Thiện Minh, Xuân Miễn, Ngân Hà, Nguyễn Đức Hinh... Ngoài ra còn có một số thân hữu, sinh viên học sinh yêu mến thi tài của Nguyễn Bính vẫn thường lui tới. Hồi đó, hầu như dân Sài Gòn đều ăn cơm tiệm cho tiện, khỏi phải củi lửa nồi niêu, đỡ tốn thời gian để còn làm việc. Cho nên, mỗi chủ nhật ở Lan Chi Viên đều tổ chức nấu cơm gia đình, họp mặt bạn bè trong không khí thơ văn ấm cúng. Những buổi như thế, việc bếp núc đều do Nguyễn Bính đảm trách. Không chỉ sành sõi trong việc nấu nướng (chính xác là làm “mồi” nhậu), Nguyễn Bính còn rất am hiểu về cách pha trà, chọn rượu... Những bữa cơm gia đình như thế thường kéo dài bất kể thời gian, miễn sao tửu lượng vẫn còn, thi hứng vẫn dào dạt và... tiền trong túi chưa cạn!
Riêng với Hoàng Tấn, Nguyễn Bính “phóng bút” (chữ của Hoàng Tấn) một bài thơ tặng bạn: “Trải bao nhiêu núi sông rồi/Đến đây lại vẫn hai người chúng ta/Con đò thì nhớ sông xa/Con người hỏi nhớ quê nhà bao nhiêu?/Cùng thơ và lại cùng nghèo/Thương nhau được mãi nên chiều được nhau/Rối lên, ôi những mái đầu/Sáng lên vô hạn, ôi màu mắt xanh/Ở đây cát bụi kinh thành/Giàu sang một bước, công danh một giờ/Anh em mình, một dòng thơ/Lấy chi ngoi được lên bờ vinh quang/Giữ cho trọn tấm lòng vàng/Võng đào tán tía nghênh ngang mặc người” (bài Trải bao nhiêu núi sông rồi).
“Hai ta lưu lạc phương Nam này”, dù nổi tiếng như cồn song giữa chốn phồn hoa đô hội “giàu sang một bước, công danh một giờ”, Nguyễn Bính vẫn ân cần dặn dò bạn “giữ cho trọn tấm lòng vàng”...

Hà Đình Nguyên

http://nhacso.net/nghe-nhac/mat-nhung.X1pWUURfbQ==.html

Nguyễn Bính hành phương Nam - Bài 2: Giai thoại ở Sài Gòn

Nguyen Binh hanh phuong Nam - Bai 2: Giai thoai o Sai Gon

Phiêu bạt giữa chốn phồn hoa đô hội Sài Gòn mà cái nghèo luôn là bạn đồng hành, thế nên Nguyễn Bính lúc nào cũng cần tiền.

Tuy nhiên, không phải vì cần tiền mà đánh mất lòng tự trọng - Nguyễn Bính đã để lại trong lòng bạn bè nhiều giai thoại lý thú...
Chơi khăm trọc phú
Một lần chủ nhiệm tờ Dân Báo thông qua Tế Xuyên (Léon Sanh) nhờ Nguyễn Bính làm một bài thơ để đăng trên số báo đặc biệt Xuân Giáp Thân. Bài thơ viết về một xóm nhỏ bên kia Cầu Kinh, nơi có khu nhà nghỉ nằm ven sông Sài Gòn của một “đại gia” họ Nguyễn (khu vực Thanh Đa ngày nay). Bài thơ của Nguyễn Bính mang tên Xóm Dừa: “Lối đỏ như son tới Xóm Dừa/Ngang cầu điểm điểm giọt mưa thưa/Xuân sang xao xuyến lòng tôi quá/Tôi đã xây tròn sự nghiệp chưa?”. Còn đây là khổ thơ cuối: “Ở lại kinh thành với bút nghiên/Đêm đêm quán trọ thức thi đèn/Làm thơ bán lẻ cho thiên hạ/Thiên hạ đem thơ đọ với tiền”.
Ông chủ nhiệm tờ Dân Báo không thích hai câu cuối, nên nói với Tế Xuyên nhờ thi sĩ sửa lại. Nể bạn, Nguyễn Bính thay bằng: “Xót xa một sớm soi gương cũ/Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền!”. Hai câu này cũng chưa làm ông chủ báo hài lòng, đề nghị sửa thêm lần nữa. Nguyễn Bính khước từ. Báo sắp lên khuôn, bài thơ đã được “rao” (quảng cáo) trước, thành thử Tế Xuyên phải năm lần bảy lượt làm thuyết khách. Cuối cùng thì bài thơ cũng được đăng báo, nằm ở vị trí trang trọng với hai câu cuối như sau: “Xót xa một sớm xòe năm ngón/Thấy chết lòng tay vệt trái tim”.
Hai ngày sau khi báo phát hành, Nguyễn Bính đến tòa soạn đòi nhuận bút (các báo hồi đó chưa có chế độ nhuận bút, chỉ có những cây bút nổi tiếng thì chủ báo mới bất đắc dĩ chi cho một khoản tiền khiêm tốn - NV). Ông chủ tờ Dân Báo bảo thủ quỹ trao cho Nguyễn Bính 10 đồng. Nguyễn Bính chê ít, không nhận.
Ông chủ giải thích: “Với các văn sĩ nổi tiếng, bài nào tôi trả cao nhất cũng chỉ tới 5 đồng. Riêng với ông, tôi có cảm tình đặc biệt...”. Ông chủ báo chưa dứt lời thì Nguyễn Bính đã ném xấp tiền tung tóe dưới đất rồi ung dung ra về trước sự kinh ngạc của nhiều người có mặt... Chiều hôm đó, Tế Xuyên tìm đến Lan Chi Viên, ân cần xin lỗi và trao cho Nguyễn Bính 50 đồng. Một trường hợp hy hữu trong làng báo Sài Gòn thời bấy giờ.
Sau khi báo đăng bài thơ Xóm Dừa thì Nguyễn Bính rất được “đại gia” họ Nguyễn biệt đãi và thường mời thi sĩ đến khu nhà nghỉ ở Thanh Đa chơi. Trong một lần đến chơi như thế, Nguyễn Bính được chủ nhân biếu 500 đồng (giá vàng thời điểm này khoảng 60 đồng/lượng - NV).
Sau đó ít lâu, cô em họ của “đại gia” này phát biểu sao đó làm xôn xao làng báo và thương tổn đến danh dự nhà thơ. Nguyễn Bính nổi sung, tương ngay lên mặt báo: “Trọc phú ti toe bàn sách vở/Điếm già tấp tểnh nói văn chương/Chúng coi đồng bạc to hơn núi/Lại học đòi theo thói Mạnh Thường”. Anh em “Nguyễn đại gia” cay hơn ăn ớt.
Chưa hết, Nguyễn Bính còn thuê một lúc 3 chiếc xích lô: chiếc thứ nhất chở cái vali, chiếc thứ hai chở chồng sách báo và... đôi giày, còn Nguyễn Bính thì chễm chệ “ngự” trên chiếc thứ ba - cứ vòng qua, vòng lại hàng chục lần trước tư dinh của “Nguyễn đại gia” nằm trên đường Lagrandìere (nay là đường Lý Tự Trọng). Dân Sài Gòn đứng coi chật đường và cho đó là “một... kỳ quan!” (chữ của nhà văn Hoàng Tấn).
Tập thơ trị giá 5 lượng vàng
Nhà văn Hoàng Tấn kể: “Một hôm Nguyễn Bính hỏi tôi: Làm thế nào có tiền mà không... bẩn. Tôi bày kế cho Bính, Bính khen hay và bắt tay vào thực hiện. Vậy là Nguyễn Bính mua mực tàu, giấy hồng đào suốt ngày “rị mọ” nắn nót (chữ Nguyễn Bính rất đẹp). Năm hôm sau, người ta đọc được mẩu quảng cáo trên báo: “LỠ BƯỚC SANG NGANG - Tập thơ viết tay của thi sĩ Nguyễn Bính, để trong tủ kính lớn của hiệu sách Nguyễn Khánh Đàm ở đường Sabourain. Tập sách vô giá này, chúng tôi sẽ dành tặng cho người nào trả giá cao nhất. Bạn yêu thơ nào đoạt được cuốn sách này sẽ được tác giả viết lời đề tặng ở đầu cuốn sách với chữ ký và triện son”...
Cuối cùng, cuốn thơ viết tay thuộc về một nhà thầu khoán mê thơ tên Trần Sỹ Nghi với giá... 300 đồng (tương đương 5 lượng vàng thời bấy giờ). Trần Sỹ Nghi còn đặt tiệc chiêu đãi tại tư gia trên đường Duranton (Sương Nguyệt Anh bây giờ) với hơn 50 tân khách chỉ để thi sĩ ghi lời tặng và ký tên vào sách (triện son đã đóng sẵn). Bữa tiệc kéo dài đến quá nửa đêm, giúp vui còn có các nữ nghệ sĩ lần lượt ngâm ba bài trong tập Lỡ bước sang ngang... Sau này, gia đình Trần Sỹ Nghi sang Pháp sinh sống, tài sản khánh kiệt nhưng vẫn giữ cuốn thơ chép tay ấy như vật gia bảo”.
Trong tác phẩm Giọt mật cho đời (NXB Văn hóa thông tin, 1994), tác giả Phạm Tường Hạnh kể rằng dạo đó trừ những tờ báo thân Pháp, được Pháp chi tiền thì tồn tại khá lâu, còn những tờ báo tư nhân đứng đắn “thọ” lắm cũng chỉ được dăm ba năm là đình bản.
Nổi tiếng như tờ Phụ nữ tân văn mà cũng chỉ sống được hơn 4 năm. “Vậy mà có hôm Lê Tràng Kiều hỏi tôi (Phạm Tường Hạnh - NV): “Cậu nghĩ thế nào khi có bạn đọc yêu thơ Nguyễn Bính đến nỗi đặt mua một lúc 20 năm báo?”. Tôi cười nghĩ đất Sài Gòn này cũng không thiếu những kẻ lập dị, chơi ngông. Nhưng Lê Tràng Kiều nói tiếp: “Bọn mình nghĩ bà ta nhầm nên hỏi lại: Thưa bà, bà muốn mua 2 năm báo của chúng tôi? Người phụ nữ đó trả lời: Không, tôi đặt mua 20 năm để ủng hộ tờ báo tôi yêu thích. Mọi người trong tòa soạn đều biết rằng đây là một độc giả đặc biệt yêu thích thơ Nguyễn Bính, cho nên ông chủ chỉ cho phép thu vào quỹ một năm báo, còn số tiền 19 năm báo kia bỏ vào phong bì cho người đưa tới nhà Nguyễn Bính”.
Khi Lê Tràng Kiều tiết lộ tên người phụ nữ “chịu chơi” ấy, Phạm Tường Hạnh mới biết đó chính là Loan - cô em bà con của mình, người đẹp phố Cầu Gỗ (Hà Nội), vợ của họa sĩ Nhan Chí. Chàng họa sĩ vốn quê vùng Xóm Thuốc (nay thuộc Gò Vấp, TP.HCM) ra Hà Nội học trường Mỹ thuật và ở trọ trong nhà cô Loan, một cô gái rất mê thơ Nguyễn Bính. Cô thuộc gần như tất cả những bài thơ của Nguyễn Bính và đọc chúng gần như suốt ngày. Rồi gia đình của Nhan Chí từ Sài Gòn ra Hà Nội xin cưới vợ cho con trai. Ngày Loan từ giã Hà Nội theo chồng vào Nam, cô đã làm cả nhà bật khóc khi vừa bước ra cửa bỗng quay lại, ôm chầm lấy mẹ nức nở: “Lần này con bước chân đi/Là con không hẹn lần về nữa đâu...” (Lỡ bước sang ngang). 

Hà Đình Nguyên


Nguyễn Bính - Người đồng hành cô độc

Đúng là ông luôn hiện lên trong chúng ta, bên chúng ta, cùng tỉ tê chia sẻ nỗi niềm trong một đêm mưa, một ánh lửa chài, trong dáng sông bóng núi. Có ông bên những người tha phương. Có ông bên những người Việt đang yêu từ những năm 1939 cho đến tận hôm nay.

Thơ Nguyễn Bính hay như thế, nhưng một thời được cho là "lãng mạn tiêu cực", "tiểu tư sản" không được in và phổ biến. Mãi đến khi đất nước thống nhất, thơ Nguyễn Bính được xuất bản, nhiều bạn trẻ mới được đọc. Nhưng trong sổ tay anh Ngô Tấn Ninh, người anh trai yêu thơ của tôi ở làng biển Thượng Luật những năm 60 của thế kỷ trước vẫn chép đầy thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính... Anh tôi giấu cuốn sổ thơ ấy kỹ lắm. Tôi lớn lên, sổ tay thơ cũng chép đầy thơ Nguyễn Bính - những "Lỡ bước sang ngang", "Cô lái đò", "Cô hái mơ", "Tương tư", "Chân quê", "Người hàng xóm", "Giời mưa ở Huế", "Hành phương Nam" v.v... Không hiểu mình thành chàng trai trước hay thuộc thơ tình Nguyễn Bính trước! Thật biết ơn ông anh trai si thơ!
Con gái Hà Nội, con gái tỉnh Nam xưa thuộc Kiều và thuộc cả tập thơ "Lỡ bước sang ngang".  Nhà thơ của chúng ta đồng hành với ông thợ cắt tóc, với cô lái đò, các cô gái ngoại ô bơi thúng hái rau bên sông Tô Lịch cho đến các bà các cô trong phòng khuê nhung lụa. Nhà văn Chu Văn kể câu chuyện về Nguyễn Bính và cô lái đò bên bến sông Châu tên Thoa thật cảm động. Nguyễn Bính hàng ngày đi chợ vẫn nhờ đò cô đưa sang. Cô lái không lấy tiền. Và hình như thi sĩ cũng có tặng cô thơ, nên cô rất quí ông. Khi nghe tin Nguyễn Bính mất, cô Thoa đã nấc lên nghẹn ngào, gục mặt lên mái chèo". Ước chết thay cho thi sĩ!". Thế mới biết thơ thật diệu kỳ. Qua thơ, nhà thơ đến với mọi người như một người cật ruột, tin tưởng, gửi gắm.
Có lẽ vì có nhiều người đọc, nhiều người thuộc nên Nguyễn Bính là trường hợp nhà thơ hiện đại duy nhất thơ có nhiều dị bản. Khi Nguyễn còn sống, đã có nhiều bài thơ bị in nối dài thêm khổ, thêm câu. Trong Tuyển tập Nguyễn Bính (NXB Văn học, 1986), chỉ riêng 60 bài thơ tuyển từ các tập thơ trước 1945, đã có 24 trường hợp có các đoạn thơ, câu thơ, chữ thơ có các bản in khác nhau, ấy là thơ đã tự nối dài cuộc đời, tự hóa thân để đồng hành được với nhiều tâm trạng. Có một Nguyễn Bính si tình - lại có một Nguyễn Bính thi sĩ của cuộc kháng chiến. Bài hát "Tiểu đoàn 307" phổ thơ Nguyễn Bính từ Nam Bộ chống Pháp đã cùng hành quân với các binh đoàn trong cả nước cho tới những ngày chống Mỹ thắng lợi với giọng hát liêu trai của ca sĩ Quốc Hương.
Đồng hành thân thiết với nhiều thế hệ, nhưng Nguyễn Bính lại là một người cô đơn, cô độc. Ông cô độc cả về cảnh ngộ và tâm trạng thi sĩ, là một lữ khách giang hồ lên Bắc vào Nam. Chỉ trong vòng 15 năm, từ 1939 đến 1954, theo địa danh ghi dưới các bài thơ Nguyễn Bính đã "lăn lóc có dư mười mấy tỉnh" Bắc Giang, Hải Phòng, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Vinh, Huế, Sài Gòn, lục tỉnh miền Đông. Ông đi và sống được nhờ lưng vốn thơ với tâm tình độc giả mến mộ. Rồi ở trọ một mình, xê dịch một mình. Hồi vô Sài Gòn năm 1939, ông có lúc phải, mà cả ngã giá bán từng câu thơ đăng báo để kiếm sống.
Tiền thì ít nhưng "Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết / Ngày mai ra sao rồi hãy hay..." (Hành phương Nam). Tiền không có những vẫn trọng thơ hơn tiền, coi khinh bọn định giá văn chương. Theo lời kể của ông Hoàng Tấn (dẫn theo Hà Đình Nguyên - Báo Thanh Niên), ông chủ bút tờ Dân Báo đặt Nguyễn Bính một bài thơ để đăng trên số đặc biêt Tết Giáp Thân (1944). Ông chủ bắt Nguyễn Bính phải sửa đi sửa lại hai câu cuối đến ba lần. Khi báo in ra, Nguyễn Bính đến đòi nhuận bút. Ông chủ báo đưa 10 đồng, Nguyễn Bính chê ít, không nhận.
Ông chủ báo nói :"Với các văn sĩ nổi tiếng khác, tôi trả cao lắm cũng chỉ 5 đồng..." Nguyễn Bính lập tức ném xấp tiền  xuống đất rồi ra về. Ngay chiều hôm đó, tòa soạn phải cử người đến xin lỗi và đưa cho Nguyễn Bính 50 đồng! Túng tiền, Nguyễn Bính còn bò ra  năm ngày chép tay tập thơ Lỡ bước sang ngang  với chữ ký của mình để "bán đấu giá"... Kiếp giang hồ, nhiều khi nhà thơ  bơ vơ nơi sông khách :
    Quê người đứng ngắm mây lưu lạc
    Bến cũ nằm nghe sóng lỡ làng

Có lúc đơn chiếc đến tê dại trên sân ga:
    Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
    Một mình làm cả cuộc phân ly

Nguyễn Bính yêu nhiều, yêu si mê, đã hiến cho tình yêu nhiều bài thơ đặc sắc, nhưng ông mãi mãi là người cô đơn trong tình yêu. Nhà văn Tô Hoài kể rằng, ngày trước, Nguyễn Bính đi đâu cũng kè kè cái hộp sắt tây. Loại hộp bánh bích quy, nhưng không đựng bánh mà đựng toàn thư tình, thơ tình. Nguyễn Bính thỉnh thoảng lại mở ra đọc, ngắm rồi lại vuốt lại, xếp lại, đêm ngủ thì gối cái hộp trên đầu. Thì ra những bức thư, là thư tình cũ của các cô nương luôn thề non hẹn biển, có lúc dọa cắt tóc đi tu hay uống thuốc phiện, dấm thanh cho chết (!), nhưng chẳng ai chịu "ăn đời ở kiếp" với nhà thơ nghèo khó!
Nguyễn Bính cắp cái hộp đựng tình yêu cũ ấy đi từ Bắc vào Nam  như là một bảo vật! Ông đi cô độc giữa cái mê hồn trận cay đắng ấy, để rồi chạm đến là ngân thành thơ. Một thứ thơ nồng nàn mà se xiết phận người! Ông như người sinh ra cho những duyên kiếp lỡ làng, ông là sự dấn thân cho thơ, cho cái đạo thơ!
Trong hồi ký " Cát bụi chân ai", Tô Hoài kể rằng, thời kỳ Nguyễn Bính làm báo Trăm Hoa ở Hà Nội (1956 ) có một người con gái đã đến với ông. Họ có với nhau một mụn con đặt tên là Hiền. Rồi hai người xa nhau. Cô gái mang cậu con trai đến trả cho Nguyễn Bính! Ngày ngày nhà thơ ẵm vác cậu bé một bên vai, như mèo tha con. Một tối kia, Nguyễn Bính say rượu bế con thẫn thờ ra phố.
Rồi không hiểu sao, trong vô thức nhà thơ lại trao con cho một người đàn ông xa lạ đang đi tới. Trở về, cơn say vật Nguyễn Bính thiếp đi. Quá nửa đêm quờ tay không thấy con, lật đật chạy đi kêu cứu bạn bè, mặt mày tái nhợt. Mọi người đổ đi tìm khắp thành phố, đi báo nhờ Công an tìm... Nhưng, đứa con ấy ba chục năm ròng vẫn không tìm thấy... Ôi, cuộc đời nhà thơ sao mà đau khổ, thương tâm thế !
Nguyễn Bính - Người đồng hành cô độc tuyệt vời của chúng ta sinh năm 1918, nếu còn sống, năm nay vào tuổi 90. Ông mất sáng 30 Tết Bính Ngọ, tức ngày cuối cùng của năm Ất Tỵ (20/1/1966). Con người tài tử, từng giang hồ mưa gió bốn phương ấy lại thổ huyết chết vì một luồng gió độc trong vườn tại quê nhà. Lạ thật! Cuối năm 2007, trong đợt về thăm thành phố Nam Định, tôi đã cùng người bạn thân nhạc sĩ Huy Tập về làng Thiện Vịnh, xã Cộng Hoà, Vụ Bản cách  Nam Định gần chục cây số viếng mộ Nguyễn Bính. Nguyễn Bính là  nhà thơ số một Việt Nam về thơ làng quê đồng bằng sông Hồng. Thắp nhang vái ông, tôi lại nhẩm những câu thơ ông viết về Huế  trong đợt hành phương Nam của nhà thơ đầu những năm 40 của thế kỷ trước.  
    Giời mưa ở Huế sao buồn thế
    Cứ kéo dài ra suốt mấy ngày
    Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói
    Trời mờ ngao ngán một loài mây
    Trường Tiền vắng ngắt người qua lại
    Đập Đá mênh mang bến nước đầy
    Đò vắng khách chơi nằm bát úp
    Thu về lại giở gió heo may…

    (Giời mưa ở Huế)

 Bởi thế về Nam Định đến thắp nhang lạy ông là ý nghĩ đầu tiên của tôi. Một sự trùng hợp rất ý vị là hai hôm trước ở Hà Nội, tại Hội chợ sách quốc tế Vân Hồ, lần đầu tiên tôi gặp và bắt tay nhà văn Nguyễn Bính Hồng Cầu, người con gái miền Nam của thi sĩ. Bây giờ tôi lại đứng bên mộ ông.  Mộ nhà thơ được xây ngoài vườn nhà rất khang trang. Trong nhà là bàn thờ, những kỷ vật của Nguyễn Bính. Tôi và Huy Tập thắp nhang lạy Nguyễn Bính rồi ghi vào sổ lưu niệm. Theo Huy Tập kể thì trước đây là ngôi nhà cũ của gia đình, lúc Nguyễn Bính đi xa, người em trai ở.
Để có được ngôi nhà lưu niệm nhà thơ tài hoa,  gia đình đã bàn với ông em đi làm nhà ở chỗ khác, để anh em góp tiền sửa sang xây lại ngôi nhà cũ thành nhà  lưu niệm nhà thơ Nguyễn Bính. Ở xứ ta mộ nằm giữa làng quê đầm ấm thân thuộc châu thổ Sông Hồng này cũng hạnh phúc lắm lắm. Tiếc là bây giờ những hình ảnh thôn quê trong thơ Nguyễn Bính như đậu mùng tơi, khăn mỏ quạ, quần nái đen v.v... đã thành quá vãng. Các cô gái quê nhà "đi tỉnh", đi Hà Nội, đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc, Đài Loan… áo phông hở lưng, hở rốn, quần jin lửng, và  không bao giờ về làng nữa…
Nguyễn Bính đã sống và viết nhiều thơ về Huế. Trong hai tập "Người con gái lầu hoa" và "Mười hai bến nước" của ông có nhiều bài thơ đặc sắc về Huế, đã trở thành tài sản tâm hồn của mọi người. Người Huế không ai không thuộc đôi đoạn, đôi câu trong các bài "Giời mưa ở Huế", "Vài nét Huế", "Người con gái lầu hoa", "Lửa đò", "Xóm Ngự Viên" v.v... Nhiều hình ảnh, hình tượng thơ về Huế Nguyễn Bính dùng đã trở thành cổ điển, khó vượt qua. Như các hình ảnh "Giời mưa ở Huế" hay "Cầu cong như chiếc lược ngà...", "Con đò không chở những người chính chuyên" v.v... và đây là tiếng đàn kỹ nữ xưa:
    Đàn ai chừng đứt dây tình
    Vẳng lên một tiếng buồn tênh rồi chìm

Từ sau khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nhiều tập thơ và tuyển thơ Nguyễn Bính lại được in đi in lại, đến với độc giả yêu thơ cả nước. Mới hay cái trường tồn của một thi sĩ là những bài thơ "rút ruột đẻ ra", những bài thơ "chân quê" nói về cái "tôi trữ tình" của tác giả, "cái tôi" muôn thuở kiếm tìm, khao khát của con người! Thơ Nguyễn Bính nói với tôi nhiều điều tâm đắc về sự được mất trong thơ.
Trong một bức thư gửi bạn Trọng Miên năm 1939, Hàn Mặc Tử đã viết rằng: "Bởi muốn cho Loài thi sĩ làm tròn nhiệm vụ ở Thế gian này - nghĩa là tạo ra những tác phẩm tuyệt diệu, lưu danh lại muôn đời - Chúa Trời bắt chúng phải mua bằng giá máu, luôn có một định mệnh tàn khốc theo riết bên mình: " Không rên xiết là thơ vô nghĩa lý". Thi sĩ rơi xuống cõi đời bơ vơ, bỡ ngỡ và lạ lùng. Không có lấy một người hiểu mình...".
Điều đó đúng với Hàn Mặc Tử và đúng cả với Nguyễn Bính!
Nguyễn Bính lại đồng hành với tuổi trẻ hôm nay và sẽ còn đồng hành với nhiều thế hệ lứa đôi mai sau. Thi sĩ ơi, thi sĩ là người cô độc, nhưng thơ mãi mãi là bạn đồng hành cùng trái tim con người!
  Ngô Minh (Theo CAND)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét