Trong hơn 60 năm kể từ khi thành lập, bộ phận lãnh đạo cao nhất
của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thay đổi rất nhiều lần. Trong số đó,
những thăng trầm trong cuộc đời và sự nghiệp chính trị của Đặng Tiểu
Bình được người ta chú ý tới nhiều nhất.
Bởi lẽ, trong suốt cuộc đời của mình, Đặng Tiểu Bình có tới 3 lần
“lên lên xuống xuống”. Vào thời Cách mạng Văn hoa và bè lũ 4 tên, Đặng
Tiểu Bình hai lần bị “đánh đổ” nhưng sau đó, Đặng Tiểu Bình cũng đã lập
một kỷ lục hai lần “tái nhậm chức”, ba lần gánh vác trọng trách lãnh
đạo.
Tuy nhiên, có lẽ ít người biết rằng, ngoài tính cách và bản lĩnh, sự
thăng trầm trong sự nghiệp chính trị của Đặng còn liên quan tới những
yếu tố phong thủy của Trung Nam Hải, trụ sở của Đảng cộng sản Trung Quốc
và chính phủ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa…
Đặng Tiểu Bình sinh năm 1904 tại thôn Bài Phường, xã Hiệp Hưng, huyện
Quảng An, phía đông tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Đặng có tên khai sinh là
Đặng Tiên Thánh, khi đi học mới đổi là Đặng Hi Hiền.
Tên gọi Đặng Tiểu Bình được ông dùng từ năm 1927, sau khi Tưởng Giới
Thạch đàn áp phong trào cách mạng Cộng sản tại Thượng Hải. Cha Đặng Tiểu
Bình là Đặng Thiệu Xương (tự Văn Minh) và mẹ là bà Đàm thị, vợ thứ hai
của Đặng Thiệu Xương.
Bà vợ đầu của Đặng Thiệu Xương không có con, bà thứ hai (Đàm Thị)
sinh được một gái đầu và 3 trai gồm: Đặng Tiên Liệt, Đặng Tiểu Bình,
Đặng Khẩn, Đặng Thục Bình. Mẹ đẻ Đặng Tiểu Bình mất sớm, nên sau này ông
đã mời kế mẫu Hạ Bá Căn (vợ thứ tư của Đặng Thiệu Xương) từ quê lên thủ
đô sống chung cùng gia đình ông.
|
Đặng Tiểu Bình sinh năm 1904 tại thôn Bài Phường, xã Hiệp Hưng, huyện Quảng An, phía đông tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. |
Sau khi vào học trung học tại huyện nhà, Đặng Thiệu Xương đã xin cho
Đặng Tiểu Bình theo học Trường dự bị cần công kiệm học Trùng Khánh để
chuẩn bị xuất dương sang Pháp. Ngày 7 tháng 9 năm 1920, sau khi được
Tổng lãnh sự Pháp tại Trùng Khánh trực tiếp sát hạch, Hi Hiền cùng 79
bạn khác lên tàu thủy đi Marseille.
Ông đã học ở Pháp, giống như những nhà cách mạng có tiếng khác của
Trung Quốc là Chu Ân Lai. Tại đây ông đã đi theo học thuyết Marx-Lenin,
gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản năm 1922 và Đảng Cộng sản Trung Quốc
năm 1924.
Tại đây, Đặng Tiểu Bình đã bắt đầu sự nghiệp chính trị của mình, cùng
với những người đồng chí hướng nỗ lực đấu tranh đi tìm chân lý, p hát
triển lực lượng. Tới năm 1925, sau khi bị chính quyền Pháp trục xuất,
Đặng Tiểu Bình đã sang Nga học tại trường Đại học Phương Đông sau đó thì
về nước.
Đặng Tiểu Bình về nước đúng lúc cuộc chiến tranh Bắc phạt diễn ra.
Ban đầu, Đặng Tiểu Bình làm ủy viên chính trị trong quân đoàn của Phùng
Ngọc Tường, tham gia cuộc chiến Bắc phạt do Tưởng Giới Thạch phát động.
Tuy nhiên, sau đó, vì sự phân liệt giữa phe Quốc dân đảng và Đảng
Cộng sản, Đặng Tiểu Bình bị Phùng Ngọc Tường cho giải ngũ. Trong thời
gian sau đó, Đặng Tiểu Bình được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
giao nhiệm vụ hoạt động ngầm tại Thượng Hải.
Tới năm 1929, nhận lệnh của trung ương, Đặng Tiểu Bình tới Quảng Tây
để tổ chức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Bách Sắc và Thu Thâu. Với tài
năng chính trị và năng lực tổ chức, Đặng Tiểu Bình đã nhanh chóng phát
triển lực lượng.
Mùa thu năm 1930, Đặng Tiểu Bình dẫn đầu quân đoàn số 7 của Hồng quân
công nông Trung Quốc, gọi tắt là Hồng thất quân chống lại cuộc vây bắt
các phần tử Đảng Cộng sản của quân đội Tưởng Giới Thạch.
Sau khi nổ ra cuộc chiến tranh Trung – Nhật, Đặng Tiểu Bình cùng với
Lưu Bá Thừa mở rộng các cơ sở chiến tranh du kích. Đến hội nghị toàn
quốc lần thứ 7 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình được bầu làm
ủy viên trung ương.
Đây là dấu mốc xác định vị trí của Đặng Tiểu Bình trong bộ máy lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tới năm 1952, Đặng Tiểu Bình được bổ
nhiệm làm Phó Tổng lý (thủ tướng) của Chính vụ viện (chính phủ) kiêm Phó
chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – kinh tế của nước Trung Quốc mới.
Năm 1955, Đặng Tiểu Bình cùng Lâm Bưu được bầu làm ủy viên Bộ Chính
trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1956, Đặng Tiểu Bình được
bầu vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị, làm Tổng Bí thư nhưng chỉ là nhân
vật đứng cuối cùng trong ban thường vụ, sau Mao Trạch Đông (Chủ tịch
Đảng), Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân (đều là Phó Chủ
tịch Đảng).
Dù vậy, từ đây, Đặng Tiểu Bình chính thức chuyển vào sống ở Trung Nam
Hải cùng với những lãnh đạo cao cấp khác của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Người Trung Quốc từ hàng ngàn năm nay đã rất coi trọng phong thủy của
cả âm trạch (phần mộ) và dương trạch (nhà ở). Tử Cấm Thành của Bắc Kinh
do Minh Thành Tổ xây dựng, phong thủy cực tốt.
Ngay cả các hoàng đế triều Thanh cũng phải thừa nhận nơi đây phong
thủy đẹp, nên quyết định đặt kinh đô tại đây. Vì thế, vương triều nhà
Thanh đã cho sửa đổi Tử Cấm Thành đi một chút với hy vọng có thể duy trì
sự trì vị của vương triều Mãn Thanh tới ngàn vạn đời.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau đó, các vị hoàng đế của triều Thanh đã
quên mất rằng, bố cục phong thủy không phải là vĩnh cửu bất biến. Nên
biết rằng, khi các thầy phong thủy nói rằng, tìm được một vị trí đẹp để
chôn cất hoặc xây nhà để ở thì có thể hưởng phúc tới cả trăm đời thì có
nghĩa đó chỉ là quy luật chung.
Trên thực tế, bố cục phong thủy luôn có thể bị thay đổi và biến hóa
và điều quan trọng là phải nắm bắt được điều này. Vào thời đại nhà
Thanh, trong thành Bắc Kinh người ta đã xây dựng một khu dân cư ở phía
đông thành.
Tại đây, người ta đã xây dựng không ít các khu nhà ở theo kiểu kiến
trúc Tây phương khi đó mới được du nhập vào Trung Quốc. Từ đó trở đi,
triều đại nhà Thanh bắt đầu lụi dần và cho tới năm 1911, triều Thanh bị
thay thế bởi Chính phủ Dân quốc, mở ra một thời đại mới trong lịch sử
Trung Quốc.
Cố Cung của Bắc Kinh cũng được coi là nơi có phong thủy cực tốt, bên
trong có núi, có hồ, lại có Trung Nam Hải và Bắc Hải ở hai phía hướng
về. Trung Nam Hải là nơi các lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Trung
Quốc trú ngụ, cũng là nơi hưởng trọn cái linh khí phong thủy của nơi
đây.
Các nhà phong thủy đã từng tiến hành nghiên cứu khu vực Trung Nam Hải
và phát hiện ra rằng, Trung Nam Hải có bố cục phong thủy rất đẹp, được
gọi là thế “Bạch Hổ chiếu đường”. Trong bố cục phong thủy này, nếu như
xây dựng nhà ở trên núi, không chỉ vượng đinh (con cháu) mà còn vượng
tài (tiền bạc), có thể nói là “phú quý song toàn”, được cả đôi đường.
Chính vì vậy, trong các sách phong thủy mới có câu: “Bạch Hổ chiếu
đường, tam đại đồng đường, việt chiếu việt viễn, bái tước phong vương”
(có nghĩa là, thế cục phong thủy Bạch Hổ chiếu đường thì con cháu sẽ
đông đúc, 3
đời sống cùng nhau trong một nhà.
Càng chiếu càng xa, có thể phú quý tới mức được phong tước, phong
vương). Tuy nhiên, thế “Bạch hổ chiếu đường” cũng có một khuyết điểm rất
lớn, đó là tối kỵ bị ngăn trở. Chẳng hạn như ở phía trước nếu như xây
một tòa nhà hoặc đào hào xây tường một cách tùy tiện thì đều ảnh hưởng
rất lớn tới bố cục phong thủy của nơi đây.
Từ khi Mao Trạch Đông, Chu Đức, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình,… vào sống
tại Trung Nam Hải, nhờ vào địa thế phong thủy nơi đây, vốn sự nghiệp
chính trị của họ chẳng có gì ngăn trở.
Tuy nhiên, trong một hội nghị của bộ đội bảo vệ, người ta phát hiện
ra rằng, xung quanh Trung Nam Hải cả bốn mặt đều trống không, chẳng có
bất cứ vật gì làm bình phong che chắn, rất dễ bị tấn công hoặc do thám.
Vì thế, sau khi bàn bạc, hội nghị quyết định xây dựng một vài đoạn
rào sắt ở đối diện với Bắc Hải để tạo thành hàng rào bao quanh bảo vệ
cho Trung Nam Hải, ngăn cản người ngoài tùy tiện tiến vào khu vực sinh
sống và làm việc của các lãnh đạo.
Mục đích của những người này là rất tốt. Tuy nhiên, họ không hề nghĩ
rằng, hành động tưởng chừng đơn giản của họ đã thay đổi bố cục phong
thủy của cả Trung Nam Hải, khiến người dân Trung Quốc bị đẩy vào cảnh
nước sôi lửa bỏng, gây ra không ít thảm kịch.
Năm 1966, cuộc Đại Cách mạng Văn hóa kinh thiên động địa gây ra không
ít đau khổ cho người dân Trung Quốc nổ ra. Thực chất, cuộc Cách mạng
Văn hóa chỉ là một cuộc đại loạn nhằm đoạt lại quyền bính trong tay Lưu
Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình do Mao Trạch Đông phát động.
Từ bài báo chữ to đầu tiên của Nhiếp Nguyên Tử, thanh thiếu niên trên
toàn quốc rầm rầm hưởng ứng lời hiệu triệu của Mao Trạch Đông, tham gia
vào các đội hồng vệ binh, nắm mọi quyền sinh sát.
Tháng 6 năm đó, Đoàn Hồng vệ binh được thành lập và mục tiêu tấn công
được nhắm đến không phải ai khác mà chính là Đặng Tiểu Bình.
Không bàn tới các nguyên nhân chính trị, ở đây, có thể thấy rằng,
Cách mạng Văn hóa nổ ra sau khi Trung Nam Hải được xây thêm một hàng rào
chắn bằng sắt để bảo vệ. Sau đó, nhằm bảo vệ cho Trung Nam Hải, Uông
Đông Hưng tiếp tục xây những bức tường cao và dày làm vật chắn ở xung
quanh khu vực Trung Nam Hải.
Vì thế, từ thế cục Bạch Hổ chiếu đường, bố cục phong thủy của Trung
Nam Hải trở thành thế “Hổ lạc bình dương”. Nếu như trước là “bạch hổ”
soi bóng xuống hồ thì nay bạch hổ ấy lại bị bao vây, chẳng khác nào bị
cầm tù, rơi vào cảnh khốn cùng.
Đó là lý do không ít quan viên sống trong Trung Nam Hải không thoát
khỏi đại nạn. Trừ những người có tướng mệnh cực tốt mới có thể thoát
được, còn lại không ít thì nhiều, không ai trong Trung Nam Hải là không
bị liên lụy, ảnh hưởng bởi cuộc Cách mạng Văn hóa.
“Hổ về nơi đất bằng thì bị chó coi thường”, kết quả đường đường là
chủ tịch nước như Lưu Thiếu Kỳ cho tới những nhân vật tai to mặt lớn
khác của Đảng Cộng sản Trung Quốc, từ Đào Chú, Trần Nghị,… đều bị bọn
hồng vệ binh “vắt mũi chưa sạch” lôi ra đấu tố, phê bình.
Cuối tháng 4/1967, hồng vệ binh phát động cuộc bao vậy Trung Nam Hải
với 150 ngàn người, bắt đầu gõ trống khua chiêng, hô hào đánh đổ Đặng
Tiểu Bình.
Cuộc bao vây kéo dài suốt 17 ngày. Trong 17 ngày đó đã xảy ra không
ít xung đột. Tới đầu năm 1968, Đặng Tiểu Bình chính thức bị mất vai trò
trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình bị bức phải dời
khỏi Trung Nam Hải.
Điều kỳ quái là, kể từ khi Đặng Tiểu Bình rời khỏi Trung Nam Hải thì
mặc dù hồng vệ binh đã phát động nhiều cuộc chỉ trích nhắm vào Đặng Tiểu
Bình song vẫn không thể động tới một cái lông chân của Đặng. Cùng thời
gian đó, thế lực của “lũ bốn tên” bắt đầu mở rộng và đến lượt họ dọn tới
Trung Nam Hải.
Vào lúc này, “lũ bốn tên” vẫn hy vọng có thể đẩy Đặng Tiểu Bình vào
chỗ chết mới chịu dừng tay. Âm mưu của chúng lúc này vô cùng thâm độc.
Chúng định đợi khi Đặng Tiểu Bình rời khỏi Trung Nam Hải, không còn
quyền lực gì thì chụp cho Đặng chiếc mũ “đào ngũ”.
Giang Thanh thậm chí còn âm mưu biến từ “đào ngũ” thành kẻ “phản
bội”. Tuy nhiên, sau đó do không có chứng cứ chắc chắn nên trong suốt
thời gian của cuộc Cách mạng Văn hóa, âm mưu đánh đổ Đặng Tiểu Bình của
“lũ bốn tên” đã không đạt được mục tiêu như chúng mong muốn. Ngược lại,
tới lúc này, đến lượt “ông chủ” mới của Trung Nam Hải là Lâm Bưu phải
chịu trận.
Chúng ta đều biết rằng, tướng mạo của Đặng Tiểu Bình thuộc loại tướng
ngũ đoản. Tướng “ngũ đoản” tức là 5 bộ phận trên cơ thể ngắn, gồm: đầu
ngắn, mặt ngắn, tay ngắn, thân ngắn và chân ngắn.
Tướng ngũ đoản này nếu như là ngắn tự nhiên, da thịt mịt màng thì
tinh thần luôn phấn chấn, có thể nói là đại phú, đại quý. Chính vì có
tướng ngũ đoản nên sau khi rời khỏi Trung Nam Hải, thoát khỏi thế cục
“Hổ lạc bình dương”, Đặng Tiểu Bình có thể phục chức trở lại.
Sự thực đã diễn ra đúng như vậy. Sau khi Lâm Bưu bị đánh đổ, Mao
Trạch Đông và Chu Ân Lai đều muốn nhanh chóng đưa thế cục vào ổn định
sau rất nhiều năm động loạn.
Mao và Chu đã cùng nhau lên kế hoạch, chuyển toàn bộ trọng điểm của
cách mạng vào việc xây dựng và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa và
tổ chức, đồng thời phục hồi lại các hoạt động ngoại giao với bên ngoài
để phá vỡ thế cô lập.
Tới năm 1973, Đặng Tiểu Bình chính thức được khôi phục lại chức vụ
Phó Tổng lý. Một lần nữa họ Đặng trở lại với chính giới. Tuy nhiên, điểm
sai lầm của Đặng Tiểu Bình trong lần trở lại này chính là họ Đặng tiếp
tục vào Trung Nam Hải sống.
Về hình thức thì sau khi từ nhà lớn chuyển tới nhà nhỏ, nay lại từ
nhà nhỏ trở về nhà lớn, tuy nhiên, thực tế, điều này lại khiến Đặng Tiểu
Bình rời vào thế “hổ về đất bằng bị chó coi thường”.
Không ngoài dự liệu, chẳng bao lâu sau, một cơn sóng gió khác lại
nhắm vào Đặng Tiểu Bình. Bắt đầu từ năm 1975, Mao Trạch Đông và Chu Ân
Lai đưa ra kế hoạch vĩ đại 4 hiện đại hóa trong thế kỷ 20 cho Trung
Quốc, Đặng Tiểu Bình nhanh chóng được trọng dụng.
Ngược lại, “lũ bốn tên” từ sau phong trào “phê Lâm, phê Khổng” (phê
phán Lâm Bưu và Khổng Tử), đều sử dụng các âm mưu chính trị gây ra không
ít phiền nhiễu. Điều này càng khiến Mao Trạch Đông quyết tâm trọng dụng
Đặng Tiểu Bình hơn.
Tháng 9/1967, Đặng Tiểu Bình phát động một hành động “phản kích”. Đợt
phản kích này tuy có đạt được hiệu quả nhất định, song vẫn không thể
thoát khỏi thế “mãnh thú bị giam cầm”.
Lần đó, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tổ chức một hội nghị nông
nghiệp học Đại Trại, Giang Thanh đã “đích thân” tới Đại Trại gây
chuyện. Tại hội nghị này, Giang Thanh đã tố cáo Đặng Tiểu Bình “bức hại”
mình. Trước hành động của Giang Thanh, Đặng Tiểu Bình đã phản đòn nói:
“Có người học cái nhỏ mà không học cái lớn!”
Cùng thời gian đó, nằm cách Trung Nam Hải không xa, người ta bắt đầu
xây dựng các khu nhà cao tầng. Từ những tòa cao ốc này có thể nhìn rất
rõ khu vực Trung Nam Hải. Vì thế, theo các nhà phong thủy, từ thế hổ bị
cầm tù, bị coi thường, nay con hổ ấy bất cứ ai cũng có thể nhìn, có thể
bàn tán và có thể cười đùa được.
Số mệnh là điều không ai có thể chống lại được. Tới năm 1978, trong
tình thế chuẩn bị không đầy đủ, Đặng Tiểu bình lần thứ hai bị “đánh đổ”.
Lúc bấy giờ, trên các đường quốc lộ, người ta dán đầy những khẩu hiệu
kiểu như: “Phản kích phong trào theo hướng tả khuynh”.
Trong khắp cả nước, khẩu hiệu “Đánh đổ Đặng Tiểu Bình” xuất hiện ở
khắp mọi nơi. Trên báo chí chính thống, cũng có không ít bài phê bình
gay gắt. Khoogn lâu sau đó, Đặng Tiểu Bình gần như bị giam lỏng ở căn
phòng số 8 ngõ Đông Giao Dân.
Trong khoảng thời gian này, con cái của Đặng Tiểu Bình không được
phep sống cùng cha của mình. Bên cạnh Đặng Tiểu Bình lúc bấy giờ chỉ có
người vợ già Trác Lâm và hai đứa cháu ngoại.
Lúc bấy giờ, “lũ bốn tên” do Giang Thành đứng đầu còn muốn đẩy Đặng
Tiểu Bình ra xa, vì thế đã sắp xếp để Đặng tới vườn Viên Minh sống, còn
phe cánh của “lũ bốn tên” thì ở Trung Nam Hải.
Vườn Viên Minh vốn là một công trình kiến trúc do thái hậu nhà Thanh
xây dựng theo kiểu cung điện. Lúc bấy giờ, để giúp triều đại nhà Thanh
vững bền tới ngàn đời, đồng thời cũng là để thể hiện sức mạnh của quốc
gia, triều đình nhà Thanh đã tổ chức hẳn một cuộc nghị bàn để nghiên cứu
xem nên xây dựng một công trình thế nào.
Việc Đặng Tiểu Bình bị bè lũ bốn tên đẩy vào Vườn Viên Minh có thể
nói là một sự an bài của số phận. Từ khi chuyển tới Vườn Viên Minh, sức
khỏe Đặng Tiểu Bình ngày một tốt hơn, tinh thần phần chấn, vì thế, tướng
ngũ đoản của Đặng Tiểu Bình càng có cơ hội để phát huy
tác dụng.
Tại một nơi yên tĩnh như Viên Minh, Đặng Tiểu Bình đã có thời gian
để sách hoạch kế hoạch phát triển của quốc gia trong tương lai. Thực tế,
Vườn Viên Minh là do một nhà thiết kế có tiếng xây dựng, nơi tập trung
được không ít điểm tốt về mặt phong thủy.
Vì thế, mặc dù trong chiến tranh nơi đây bị tàn phá rất nhiều, so ng
long khí vẫn rất vượng. Đặng Tiểu Bình vào sống ở nơi đây, vừa thoát
được thế mãnh hổ bị cầm tù ở Trung Nam Hải, lại được thêm sự hun đúc,
trợ giúp của linh khí ở Vườn Viên Minh, nên đã nhanh chóng trở lại chính
đàn lần thứ 2.
Có thể nói, những thăng trầm trong sự nghiệp chính trị của Đặng Tiểu
Bình có liên quan rất lớn tới bố cục phong thủy của Trung Nam Hải. Tuy
nhiên, người ta nói rằng, nhân định thắng thiên, việc Đặng Tiểu Bình hai
lần bị đánh đổ rồi lại hai lần trở lại chính đàn một phần lớn là nhờ
vào bản lĩnh của chính họ Đặng.
Đặng Tiểu Bình, cuộc đời và cải cách kinh tế Trung Quốc.
Đặng Tiểu Bình (Phiên âm: Dèng Xiǎopíng) sinh ngày 22/08/1904 -
Mất ngày 19/02/1997, có tên khai sinh là Đặng Tiên Thánh, khi đi học
đổi là Đặng Hy Hiền.Ông là một lãnh tụ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tên
gọi Đặng Tiểu Bình được ông dùng từ năm 1927, sau khi Tưởng Giới Thạch
đàn áp phong trào cách mạng tại Thượng Hải.
Tuy rằng ông chưa bao giờ có chức vụ nguyên thủ quốc gia hay đứng đầu
chính phủ nhưng ông là người có quyền quyết định trong mọi quyết sách
tại Trung Quốc trong suốt những năm cuối thập niên 1970 đến đầu thập
niên 1990.
Chức vụ cao nhất của ông trong Đảng Cộng sản là Tổng Bí thư (sau Chủ
tịch và các Phó Chủ tịch Đảng) thời kỳ còn Mao Trạch Đông, còn chức vụ
cao nhất trong chính phủ là Phó Thủ tướng, nhưng ông từng nắm giữ chức
vụ quan trọng là Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Ông đã cải cách đất nước
Trung Quốc theo hướng "chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc", có
công thu hồi Hồng Kông và Ma Cao với chính sách "một nước hai chế độ".
Trung Quốc hiện nay phát triển là nhờ theo đường lối của ông.
* Tiểu sử:
Ông sinh tại thôn Bài Phường, xã Hiệp Hưng, huyện Quảng An, phía đông
tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Sau khi vào học trung học tại huyện nhà, cha
Đặng Tiểu Bình đã xin cho Đặng Tiểu Bình theo học Trường dự bị cần công
kiệm học Trùng Khánh để chuẩn bị xuất dương sang Pháp. Ngày 7 tháng 9
năm 1920, sau khi được Tổng lãnh sự Pháp tại Trùng Khánh trực tiếp sát
hạch, Hy Hiền cùng 79 bạn khác lên tàu thủy đi Marseille. Ông đã học ở
Pháp, giống như những nhà cách mạng có tiếng khác của Châu Á như Hồ Chí
Minh và Chu Ân Lai. Tại đây ông đã đi theo học thuyết Mác-Lê nin, gia
nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản năm 1922 và Đảng Cộng sản Trung Quốc năm
1924.
Năm 1926, Đặng Tiểu Bình rời Paris sang Nga học Trường Đại học Phương
Đông mang tên Tôn Trung Sơn. Ông về nước đúng lúc đang diễn ra chiến
tranh Bắc phạt. Ông làm ủy viên chính trị trong quân đoàn của Phùng Ngọc
Tường, tham gia Bắc phạt. Sau khi bị Phùng Ngọc Tường cho giải ngũ, ông
đi Tây An rồi Hán Khẩu, tiếp tục hoạt động cách mạng.
Sau giải phóng, ông làm Bí thư thứ nhất Cục Tây Nam TW Đảng Cộng sản
Trung Quốc, Phó Chủ tịch Quân ủy Tây Nam, Chính ủy Quân khu Tây Nam
(đóng trụ sở tại Trùng Khánh), kiêm thành viên Chính phủ Nhân dân Trung
ương.Tháng 7 năm 1952, ông được cử làm Phó Tổng lý (Phó Thủ tướng) Chính
vụ viện (sau đổi là Quốc vụ viện), kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính
-kinh tế. Năm 1955, ông cùng Lâm Bưu được bầu làm ủy viên Bộ Chính trị
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1956, ông vào Ban Thường vụ Bộ
Chính trị, làm Tổng Bí thư nhưng chỉ là nhân vật đứng cuối cùng (thứ 6)
trong Ban Thường vụ, sau Mao Trạch Đông (Chủ tịch Đảng), Lưu Thiếu Kỳ,
Chu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân (đều là Phó Chủ tịch Đảng).
Năm 1966, trong Cách mạng văn hóa, Đặng Tiểu Bình bị phê phán nặng nề là
"tên số hai trong Đảng đi theo chủ nghĩa tư bản", rồi bị cách tuột hết
mọi chức vụ. Từ năm 1969 đến năm 1972, hai vợ chồng ông bị đưa về Giang
Tây, con cái đều bị đưa đi cải tạo ở các tỉnh khác.
Ngày 20 tháng 3 năm 1973, ông rời Giang Tây, quay trở lại Trung Nam Hải
(Bắc Kinh), sau khi được phục hồi công tác. Ông được bầu vào Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, rồi Phó Chủ tịch Đảng. Về mặt chính quyền, ông trở
lại cương vị Phó Thủ tướng, rồi Phó Thủ tướng thứ nhất. Khi Chu Ân Lai
lâm bệnh nặng, ông chủ trì công việc của Quốc vụ viện.Năm 1976, sau khi
Chu Ân Lai mất, ông lại bị cách hết các chức vụ, chỉ còn danh hiệu đảng
viên và hộ khẩu Bắc Kinh.
Cuối năm 1976,sau khi bè lũ bốn tên bị lật đổ, Đặng Tiểu Bình được khôi
phục tất cả các chức vụ: Phó Chủ tịch Đảng, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung
ương, Phó Thủ tướng, Tổng Tham mưu trưởng Quân giải phóng. Từ đây, ông
bắt đầu đưa Trung Quốc bước vào kỷ nguyên cải cách mở cửa.
* Công cuộc cải cách nền kinh tế Trung Quốc:
Năm 1976, liên minh của Đặng Tiểu Bình, Chu Ân Lai và tướng Diệp Kiếm
Anh thắng thế và đập tan bè lũ bốn tên gồm: Giang Thanh, Trương Xuân
Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn. Kết thúc cuộc đại khủng hoảng
chính trị, xã hội thời cách mạng văn hoá. Và từ đây, Đặng Tiểu Bình cùng
với Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương bắt đầu lãnh đạo nhân dân thực hiện
công cuộc cải cách nền kinh tế Trung Quốc.
* Về kinh tế:
Trung Quốc đã phát triển đất nước theo cách của riêng mình, mang dậm bản
sắc và phù hợp với hoàn cảnh thực tại của đất nước. Xây dựng đất nước
tiến lên XHCN nhưng theo cơ chế thị trường có định hướng của nhà nước.
Nền kinh tế được xây dựng và phát triển dựa trên nền tảng phát triển nông nghiệp.
Và Công nghiệp là mũi nhọn.
Bên cạnh đó Trung Quốc sẵn sàng tiếp thu những tiến bộ khoa học kĩ thuật
tiên tiến và đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển các ngành khoa học công
nghệ mới.
* Về văn hoá:
Dưới thời cách mạng văn hoá, văn hóa truyền thống đã bị tư tưởng phản
động của bè lũ bốn tên hủy hoại. Hàng ngàn ngôi chùa bị đập phá,nghệ
thuật dân tộc bị cấm đoán. Gây ra sự hỗn độn trong xã hội, đến thời kì
cải cách các nét văn hóa dân tộc đã dần được khôi phục.
* Về chính trị:
Tuy phát triển theo nền kinh tế thị trường nhưng Đảng Cộng sản Trung
Quốc vẫn khẳng định, củng cố vai trò đảng cầm quyền và đập tan mọi tư
tưởng đa nguyên đa đảng.
* Thành quả:
Sau hơn 30 năm cải cách, từ một nước khủng hoảng về kinh tế, chính trị,
xã hội hỗn loạn. Nay nền kinh tế của quốc gia đông dân nhất thế giới này
đã có những khởi sắc kì diệu.
Nền công nghiệp của Trung Quốc phát triển rực rỡ, vơi nhiều ngành như
gang, thép, luyện kim,dệt may...trở thành số 1 thế giới về sản lượng và
công nghệ. Đặc biệt ngành công nghiệp ô tô của Trung Quốc đang là nỗi lo
lớn của các cường quốc xe hơi như Mỹ, Đức, Nhật.
Đặc biệt, năm 1997 sau 155 năm dưới sự quản lí của Liên hiệp Anh. Hồng
Kông đã được trao trả về với Trung Quốc, đây là sự kiện lớn mang đậm dấu
ấn của Đặng Tiểu Bình về tài ngoại giao.
Và 2 năm sau đó, năm 1999 nhân dân Trung Quốc lại tiếp tục đón nhận một
tin vui. Khi Ma cao chính thức được phía Bồ Đào Nha trao trả về cho nhà
nước CHDCND Trung Hoa.Đây là sự kiện có ý nghĩa vô cùng quan trọng với
nhân dân và lịch sử Trung Quốc, kể từ nay toàn bộ phần đất liền nằm
trong lãnh thổ Trung Quốc đã thuộc sự quản lý của nước CHDCND Trung Hoa.
Tiếng nói của Trung Quốc hiện nay trên trường quốc tế rất có trọng
lượng. Hiện Trung Quốc đang là Ủy viên thường trực hội đồng bảo an Liên
hiệp quốc và có tầm ảnh rất lớn và sâu trong các tổ chức như WTO,APEC...
Đặc biệt, sự kiện Bắc Kinh đăng cai thế vận hội 2008 là một sự ghi nhận
của thế giới về những thành tựu phát triển kinh tế của Trung Quốc trong
suốt 30 năm qua.
8h sáng ngày 15/10/2003, tại khu căn cứ Jiuquan tỉnh Cam Túc. Nhà du
hành vũ trụ Dương Lợi Vĩ đã cùng tàu vũ trụ Thần Châu 5 đi vào quĩ đạo
trái đất.
Đây có lẽ là thành tựu rực rỡ nhất, ngọt ngào và vinh quang nhất của 30
năm đổi mới, cải cách kinh tế của đất nước Trung Quốc. Người dân Trung
Quốc đã rất hãnh diện với những gì họ đã làm được, sau Nga và Mỹ họ là
đất nước thứ 3 phóng thành công tàu vũ trụ có người lái vào quĩ đạo trái
đất.
Với đà phát triển hiện nay, hứa hẹn sự phát triển vũ bão của đất nước Trung Quốc trong tương lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét