Thứ Tư, 20 tháng 1, 2016
BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 54
-Và đời ta, ta không thể đánh giá đúng được mà phải để đời sau đánh giá!
-Công và tội là hai giá trị tùy thuộc vào nhận thức nên rất dễ chuyển hóa thành nhau. Tuy nhiên chân lý tuyệt đối chỉ có một!
-----------------------------------------------------
(Trích "THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 39/b")
DANH LỢI
(...)
Ngay
từ thời còn là sinh viên, F. Bôia đã gọi vui K. Gauxơ, người bạn thân
của mình là “Cuốn sách im lặng chưa có tên tuổi”. Và F. Bôia đã không
lầm: K. Gauxơ sau này đã trở thành nhà toán học hàng đầu của Châu Âu và
được vinh danh là “Ông Hoàng toán học” của thời đại mình. Sự vinh danh
ấy không phải là quá đáng nếu nhìn vào những thành tựu toán học mà Gauxơ
đã gặt hái được cho khoa học. Chúng ta có thể tóm lược vài kết quả toán
học tiêu biểu của ông.
Vào
tháng 7-1796, trên một số báo được xuất bản ở Rên, có đăng bài “Phát
minh mới” được ký tên K. Gauxơ, một sinh viên của Trường Đại học tổng
hợp Gottinghen. Đây là một phát minh mới lạ mà lúc ấy ít người để ý đến.
Trong bài báo đó, Gauxơ viết:
“Mọi
nhà hình học đều biết rằng có thể bằng phương pháp hình học (tức bằng
thước kẻ và compa) dựng được các hình đa giác đều, cụ thể là tam giác,
ngũ giác 15 cạnh và các đa giác có số cạnh gấp đôi chúng. Điều đó người
ta có thể biết từ thời Ơclít và hình như từ ấy đến nay, mọi người đều
cho rằng lĩnh vực hình học sơ cấp không thể mở rộng thêm, hoặc ít ra là
tôi chưa biết một sự thành công nào trong việc mở rộng về hướng này. Do
đó tôi cho rằng đáng chú ý đến phát minh: ngoài những đa giác đều trên,
có thể bằng phương pháp hình học dựng nhiều đa giác đều khác, ví dụ như
đa giác đều 17 cạnh. Phát minh đó thực ra chỉ là hệ quả của một lý
thuyết lớn chưa được kết thúc hoàn toàn. Sau khi lý thuyết ấy được hoàn
thành, nó sẽ được giới thiệu với độc giả”.
Carl Friedrich Gauss
Năm
năm sau, lúc chỉ mới 24 tuổi, Gauxơ đã cho xuất bản tác phẩm “Những
nghiên cứu số học” mà chương cuối của nó là một lý thuyết hoàn chỉnh về
chia đều đường tròn (cũng tức là dựng đa giác đều). Bản thân Gauxơ đã
coi lý thuyết này là một thành tựu lớn của mình.
Cả
cuộc đời Gauxơ là một quá trình sáng tạo không ngừng nghỉ. Ông đưa mắt
về đâu là hầu như phát hiện ra ở đấy những điều mà trước đó người khác
không nhìn thấy. Khi chú ý đến vấn đề nào, ông cũng thường biết rút ra
được từ đó những nhận xét quan trọng và mới mẻ. Sự chú ý của ông tập
trung vào hầu hết các vấn đề chưa được giải quyết của tất cả các ngành
khoa học chính xác. Gauxơ rất giỏi trong việc giải quyết những bài toán
đặc biệt có tính ứng dụng, để rồi chúng đều được biến thành những nghiên
cứu sâu sắc và toàn diện.
(...)
Gauxơ
đã hiến dâng cho thiên văn học 20 năm làm việc nhiệt tình của đời mình
và đã giải quyết được nhiều vấn đề thuần túy toán học nảy sinh trong khi
nghiên cứu thiên văn.
Tiếp
theo thiên văn học là địa chất học. Ở lĩnh vực này, Gauxơ cũng mang lại
cho khoa học những thành quả kỳ diệu. Phải thừa nhận rằng Gauxơ đã sáng
tạo ra môn địa chất cao cấp - môn học mà trước đó chưa từng có. Ông xây
dựng lý thuyết mặt sâu sắc đến nỗi vượt trước sự phát triển của ngành
toán học đến hàng trăm năm. Những phương pháp mà ông sáng tạo, về sau
được các nhà toán học khác ứng dụng rộng rãi.
(...)
Những
người đương thời với Gauxơ đã nể phục ông về sự toàn diện và sâu sắc
trong tư duy toán học, có khả năng không những đi sát với thời đại mà
còn vượt lên trước thời đại, đặt ra cho khoa học hết vấn đề này đến vấn
đề khác.
Không
thể kể hết được những công trình sáng tạo kiệt xuất của Gauxơ từ số
học, đại số học, hình học, thiên văn học, đến trắc địa học, vật lý học…
Ngoài một số lượng khổng lồ các công trình đã được công bố lúc Gauxơ còn
sống, người ta còn thu thập được một khối lượng đồ sộ các bản thảo chưa
công bố của Gauxơ, nhiều đến mức để tránh nhầm lẫn và sai sót vô tình,
người ta đã phải thành lập hẳn một tổ chức làm công việc chuyên sưu tầm,
biên tập suốt từ khi ông tạ thế vào năm 1855 cho đến tận trước ngày xảy
ra cuộc chiến tranh thế giới thứ hai mới gọi là hoàn tất để trao cho
Hội khoa học Gottinghen lần lượt xuất bản thành 12 tập sách di cảo của
ông.
Qua
việc sưu tập di cảo chưa được công bố của Gauxơ, người ta phát hiện ra
rằng bản thân “Ông Hoàng toán học” cũng đã từng rất quan tâm tới việc
xây dựng môn hình học mới gọi là phi Ơclít (tên gọi “phi Ơclít” là do
Gauxơ khởi xướng) và cũng đi đến nhiều kết luận giống như Lôbasépxki,
cũng như các kết luận về lĩnh vực hình học này mà nhà toán học trẻ và
bất hạnh người Hungari là J. Bôia đã đạt tới.
Nhưng
thực hư là thế nào? Phải chăng là “Ông Hoàng toán học” Gauxơ cũng đã
xây dựng được một hệ thống hình học phi Ơclít đồng thời với N.
Lôbasépxki và J. Bôia? Hoàn toàn không! Có thể Gauxơ dù là rất sớm đã
suy tư về định đề 5 của Ơclít nhưng vẫn chưa xác định được hướng đi và
chỉ nhờ vào những “tâm sự chân thành” của những nhà toán học trăn trở
trên vấn đề này, gửi gắm cho ông vì tôn sùng “Ông Hoàng toán học” mà ông
đã có những ý niệm ngày càng rõ ràng về một hệ thống hình học được
chính ông đã gọi là “phi Ơclít”. Chúng ta cho rằng, Gauxơ có thể là nhà
toán học thiên tài, xứng đáng là “Ông Hoàng toán học” của thời đại ông,
nhưng không xứng đáng là người có công đứng ngang hàng với N. Lôbasépxki
và J. Bôia trong công cuộc mở đầu có tính cách mạng, định hình nên hệ
thống hình học mới gọi là phi Ơclít.
Con
người ta, khi đã được tung hô là vĩ nhân phi thường, luôn quên rằng
mình cũng chỉ là một kẻ còn khiếm khuyết, vì thế mà luôn cố gắng giữ gìn
cái “vinh quang bất diệt” đó và cũng từ đó mà đã ứng xử một cách “kỳ
lạ” trước những phát kiến khoa học mà mình đã không hoặc chưa kịp phát
hiện ra được. Một tài năng vĩ đại chắc gì đã có một tâm hồn vĩ đại? Câu
hỏi đó thực ra là một câu trả lời, và do đó không nên trách móc làm gì
mà có lẽ nên thương cảm nhiều hơn, bởi vì con người ta, ai cũng vậy,
sống, lao động gian khổ và chấp nhận những hy sinh với mục đích tối hậu
là danh lợi. Dù cố biện minh cỡ nào đi chăng nữa thì nhiều ứng xử của
“Ông Hoàng toán học” Gauxơ đã thiếu vắng hẳn tình người và thậm chí là
tàn nhẫn (chỉ vì đơn giản là bị ám ảnh bởi nỗi lo ánh hào quang của mình
giảm sút đi, hoặc cũng có thể chỉ là biểu hiện của một ẩn ý rất sâu:
không ai qua mặt được “vua” và “vua” thì bao giờ cũng vượt trội trong
bất cứ lĩnh vực toán học nào một khi đã để mắt tới?).
J.
Bôia chính thức bắt tay vào và hoàn thành trong vòng 5 năm công trình
lý thuyết về hình học của mình mà ông gọi là “Học thuyết đúng tuyệt đối
về không gian”, hay gọi tắt là “Appenđixơ”. Công trình này được công bố
vào năm 1832, dưới dạng là phần phụ lục của quyển sách có tựa đề
“Tentamen” mà tác giả là Bôia cha, tức là sau ba năm kể từ khi “Bàn về
các nguyên lý hình học” của N. Lôbasépxki đã được công bố trên tờ “Thông
báo Cadan”.
Sau
khi đắn đo, cha con nhà Bôia quyết định xin ý kiến đánh giá công trình
của người con từ thần tượng toán học của họ ở Gottinghen, ngài Gauxơ.
Mở
đầu bức thư gửi cho Gauxơ, F. Bôia viết: “Gauxơ vô cùng quí mến! Hãy
thứ lỗi cho mình vì mình đã làm sao lãng cuộc hành trình của bạn. Hãy
tạm dừng lại và dành cho tình bạn một đôi chút.”
Sau
khi thông báo ngắn gọn về các công việc của bản thân và của con trai,
F. Bôia viết tiếp: “Theo yêu cầu của Janôs, mình gửi đến cho bạn một bản
luận văn nhỏ của nó. Với cặp mắt sắc bén và tinh tường, bạn hãy làm ơn
xem hộ nó và cho nó một lời kết luận thật khắt khe và không thương tiếc
như là mình đang nóng lòng chờ đợi… Con trai của mình coi sự đánh giá
của bạn còn cao hơn cả sự đánh giá của toàn châu Âu.”
Sau
khi đọc xong “Appenđixơ”, “cặp mắt sắc bén và tinh tường” của vị thần
tượng ở Gottinghen thấy ngay ra tất cả. Ông liền viết thư cho một người
học trò và cũng là bạn, tên là Gơling đang sống ở Menbuốc:
“Hôm
nay tôi nhận được một luận văn không lớn lắm nói về hình học phi Ơclít
gửi từ Hungari đến. Ở đây, tôi nhận thấy tư tưởng và kết quả của tôi
được phát triển một cách tuyệt vời, mặc dù cách trình bày quá vắn tắt đã
làm cho nó trở nên rất khó hiểu đối với ai chưa quen biết lĩnh vực này.
Tác giả của nó là một sĩ quan Áo rất trẻ. Anh ta là con trai người bạn
thời thanh niên của tôi, người mà hồi năm 1798 vẫn thường cùng tôi bàn
luận về vấn đề đó, mặc dù lúc bấy giờ các ý đồ của tôi hãy còn rất xa
mới được hoàn thiện và chín muồi như trong công trình độc lập của người
thanh niên này. Tôi cho rằng nhà hình học trẻ J. Bôia là một người có
tài thiên bẩm bậc nhất.”
Dù
rằng đó là những lời khen ngợi thật nhất, bộc phát ra từ trạng thái
phấn khích của sự khâm phục rõ ràng, thì Gauxơ, cũng kín đáo lồng vào
một ẩn ý là chính ông chứ không phải J. Bôia mới là người có tư tưởng
tiên phong đối với vấn đề mà bản luận văn của J.Bôia đề cập đến.
Nhận xét như thế về Gauxơ không phải là vô lý nếu đọc những dòng sau đây của Gauxơ gửi cho F. Bôia:
“…
Bây giờ có vài lời về cái công trình của con trai bạn. Nếu như mình
xuất phát từ chỗ thấy không cần thiết phải khen ngợi công trình đó, thì
lập tức bạn sẽ thấy ngạc nhiên. Nhưng không thể làm khác được vì nếu
mình khen ngợi nó thì tức là khen ngợi chính bản thân mình. Nội dung của
công trình đó, con đường mà con bạn đi qua và các kết quả mà con bạn đã
nhận được đều hầu như trùng với những cái mà mình đã nhận được từng
phần trong 30 - 35 năm về trước. Và điều đó làm cho mình hết sức ngạc
nhiên.
Mình
dự định trong đời sẽ không bao giờ công bố điều gì về một công trình
riêng của mình mà hiện tại còn đang nằm trên giấy… Nhưng dù sao mình
cũng có ý định ghi lại tất cả vào giấy để cho những ý nghĩ đó ít ra cũng
không bị chết theo cùng với bản thân mình.
Chính
vì vậy mà mình rất đỗi ngạc nhiên về sự trùng lặp đó và nó làm cho mình
thấy cái dự định trên không còn cần thiết nữa. Mình rất vui mừng rằng
chính công trình của con trai bạn đã làm cho mình khâm phục vô cùng”.
Thế
là thế nào? “Không cần thiết phải khen ngợi” thì sao lại “khâm phục vô
cùng” được? Có đúng là Gauxơ đã suy nghĩ về khả năng xây dựng một hệ
thống hình học mới, khác với Ơclít từ nhiều năm trước và cũng đã đặt
được một nền móng cơ bản và đúng đắn cho nó không, hay vẫn chỉ là những ý
tưởng dù có thể có vài ý thực sự xuất sắc nhưng rời rạc, chưa có manh
mối để kết nối chúng lại và vẫn chưa từng được viết ra giấy?
Cần
nhớ lại rằng, khoảng cuối năm 1804, trong bức thư gửi cho F. Bôia,
Gauxơ còn thảo luận về đường lối chứng minh định đề 5 của Ơclít và vẫn
còn tin tưởng rằng có thể chứng minh được:
“Phương
pháp của anh làm tôi không thích lắm. Tôi muốn tưởng tượng một cách rõ
ràng các hòn đá kỳ quái mà tôi tìm được trong phương pháp đó (và nó cũng
thuộc loại hòn đá ngầm đã làm vỡ tan các cố gắng của tôi). Tuy nhiên,
tôi vẫn tiếp tục hy vọng rằng một lúc nào đó trước khi nhắm mắt, tôi có
thể vượt qua được hòn đá đó.”
Thế
rồi sau 2 năm, sau 4 năm, 8 năm, 14 năm (tức khoảng năm 1818), Gauxơ
còn nói: “Trong lý thuyết các đường song song, đến bây giờ vẫn chưa ai
vượt qua được Ơclít”, hay “Chúng ta vẫn chưa nhích khỏi được chỗ đứng
của Ơclít cách đây 2.000 năm”. Rõ ràng là đến tận lúc này, ý tưởng về
một hình học phi Ơclít chưa mảy may xuất hiện trong đầu của Gauxơ.
Trong
những năm 1812 đến hết năm 1816, giáo sư Xvâycát dạy luật ở Trường tổng
hợp Kháccốp, nhưng ông lại đam mê lý thuyết về các đường song song.
Ngay từ năm 1807, ông đã công bố một phương án chứng minh định đề 5,
nhưng chẳng bao lâu sau ông đã thấy ra là mình sai lầm. Cuối cùng ông đã
đi đến khẳng định rằng có thể tồn tại, ngoài hình học Ơclít hay còn gọi
là “hình học với ý nghĩa hẹp” ra, còn có một hình học khác gọi là “hình
học của các vì sao” hay “hình học mở rộng”.
Năm
1817, Xvâycát đến nước Đức. Ở đây ông đã kết bạn với giáo sư Gơling.
Như đã kể, Gơling vừa từng là học trò, vừa là bạn của Gauxơ và thường
xuyên trao đổi thư từ với Gauxơ. Qua Gơling, Xvâycát biết được Gauxơ
cũng rất bận tâm nghiên cứu vấn đề các đường song song. Xvâycát vui mừng
quyết định gửi cho “Ông Hoàng toán học” một thông báo nhỏ của mình về
“hình học mở rộng”.
Gauxơ
thực sự sửng sốt. Ông viết ngay thư cho Gơling: “Thông báo của giáo sư
Xvâycát làm cho tôi vô cùng hài lòng và tôi yêu cầu anh chuyển đến ông
ta mọi ý nghĩ tốt lành của tôi về vấn đề này. Tất cả mọi cái đó hình như
đã in sâu vào tâm khảm tôi”.
Tiếp
theo, Gauxơ với trình độ toán học rất sắc sảo và nhạy bén của mình, đã
dẫn ra một số luận điểm xuất phát của “hình học mở rộng” mà rõ ràng là
Xvâycát đã không thể rút ra được vì không hiểu sâu về toán học. Tuy vậy
Gauxơ lại không những không khuyến khích Xvâycát tiếp tục nghiên cứu vấn
đề đó mà còn không nhắc nhở gì đến việc công bố cái thông báo khoa học
mà Xvâycát đã gửi cho Gauxơ.
Tại
sao Gauxơ đã xử sự với Xvâycát như vậy? Cũng có nhiều người gọi Gauxơ
là “Ông khổng lồ ở Gottinghen”. Nhưng tại sao “Ông khổng lồ” lại không
muốn cho một giáo sư luật là người đầu tiên nói về một “thứ” hình học
được gọi là “mở rộng”, bao trùm cả hình học Ơclít? Phải chăng thông báo
của Xvâycát đã lần đầu tiên gợi ra ý tưởng về một hệ thống hình học phi
Ơclít đối với bộ não mẫn cảm của nhà toán học thiên tài Gauxơ?
Hậu thế có thể không bao giờ trả lời được câu hỏi đó nhưng không thể không biết một chuyện khác đau buồn hơn nhiều.
Tarinuxơ
là cháu gọi Gauxơ bằng chú. Cũng như Xvâycát, Tarinuxơ nguyên là một
luật sư và đến năm 34 tuổi thì đột nhiên nổi hứng say mê toán học, nhất
là hình học với thách đố định đề 5 của Ơclít, và cũng cố gắng tìm cách
chứng minh định đề ấy.
Trong quá trình nghiên cứu, Tarinuxơ đã một lần mạnh dạn đưa ra giả thiết rằng, tổng các góc trong của một tam giác nhỏ hơn 180o, và từ đó đã rút ra hàng loạt những định lý quan trọng. Năm 1824, ông gửi công trình của mình cho Gauxơ nhận xét.
Gauxơ
đã viết thư trả lời. Nội dung bức thư rất hay, tỏ rõ một tư duy lý luận
trác tuyệt nhưng có phần “vơ vào” của “Ông Hoàng toán học”:
“Cái giả thuyết về tổng các góc trong của một tam giác nhỏ hơn 180o,
đã dẫn đến một môn hình học độc đáo, khác hẳn với môn hình học của
chúng ta. Môn hình học đó hoàn toàn nhất quán và với dụng ý của mình,
tôi đã phát triển nó đến mức độ khá đầy đủ. Tôi có thể giải quyết bất kỳ
bài toán nào của môn hình học này, trừ việc xác định một hằng số mà giá
trị của nó càng không thể xác định được. Nếu cho hằng số đó nhận giá
trị càng lớn thì chúng ta càng tiệm cận tới hình học Ơclít, và giá trị
lớn vô cùng của nó sẽ làm cho cả hai hệ hình học trùng với nhau. Các giả
thiết của môn hình học này có phần nghịch lý và thậm chí còn tỏ ra sai
đối với những ai chưa quen, song nếu như suy nghĩ một cách bình tĩnh và
nghiêm túc thì thấy chúng không bao hàm điều gì là không thể. Ví dụ,
bằng cách lấy các cạnh đủ lớn, có thể làm cho cả ba góc trong tam giác
bé tùy ý. Nhưng chính diện tích tam giác lại không thể vì thế mà tăng
lên, thậm chí nó cũng không đạt đến một giới hạn nào, dù cho các cạnh
của nó lớn đến bao nhiêu chăng nữa. Mọi cố gắng của tôi là phát hiện sự
mâu thuẫn và tính chất không nhất quán của môn hình học phi Ơclít. Dù
chưa đạt kết quả thì có một điều duy nhất không phù hợp với lý trí chúng
ta là, nếu như hệ thống hình học đó đúng, thì trong không gian nhất
định phải tồn tại một đại lượng tuyến tính xác định nào đó (mặc dù đại
lượng đó ta chưa biết). Nhưng tôi cảm thấy chúng ta hiểu rất ít, hoặc là
không hiểu tí gì về bản chất của không gian. Chúng ta không thể trộn
lẫn cái mà chúng ta cảm thấy không hiển nhiên với một cái tuyệt đối
không thể xảy ra.
Nếu
như hình học phi Ơclít mà có thật và hằng số nói trên phụ thuộc vào các
đại lượng phù hợp với sự đo đạc của chúng ta ở trên bầu trời hoặc trên
trái đất, thì hằng số đó có thể xác định được bằng thực nghiệm. Chính vì
vậy, với ý bông đùa, đôi khi tôi mong muốn hình học Ơclít đừng có thật
để chúng ta sẽ có một độ đo chiều dài càng tuyệt đối hơn”.
Với
một suy luận như thế (tuy rất sâu sắc) thì trong thời gian thảo bức thư
này, “Ông Hoàng toán học” vẫn còn rất lưỡng lự, hoang mang trước sự tồn
tại hay không tồn tại một hệ thống hình học mà sau này được gọi chính
thức là phi Ơclít.
Cuối thư, Gauxơ viết tiếp:
“Đối
với những người đã có khả năng lĩnh hội toán học một cách sâu sắc, tôi
không sợ họ hiểu sai những điều đã trình bày ở trên, nhưng dù sao, anh
cũng coi đây là một sự thông báo riêng mà hoàn toàn không cần phải công
bố”.
Rất
phấn khởi vì được Gauxơ cho in hai tiểu luận trình bày lời giải của một
số bài toán trong lĩnh vực hình học mới, nhưng Tarinuxơ cũng công nhận
rằng ông chỉ mới có khả năng đề cập được một phần nhỏ nào thôi về một
phát kiến lớn lao đang còn ở phía trước.
Nhớ
lời dặn của Gauxơ ở cuối thư, trong lời nói đầu của một trong các tiểu
luận, Tarinuxơ chỉ bày tỏ một cách thận trọng và kín đáo rằng, thật là
thú vị biết bao giá như được nhìn thấy có một sự công bố nào đó từ nhà
toán học lớn nhất châu Âu (tức Gauxơ) về vấn đề đang đề cập.
Tuy
nhiên, khi đọc được những lời đó, Gauxơ đã cáu giận ghê gớm, cắt đứt
mọi quan hệ với Tarinuxơ. Bị sự ruồng bỏ của người chú và cũng là nhà
toán học mà mình tuyệt đối tin tưởng, Tarinuxơ trở nên điên loạn. Trong
một lần lên cơn, ông đã đốt tất cả các tiểu luận của mình. Thật là bi
kịch!
Cần
nhắc lại rằng Lôbasépxki từng cố gắng chứng minh hình học phi Ơclít của
mình không có mâu thuẫn nội tại, nhưng chưa thực hiện được. J. Boia cố
gắng một cách kiên nhẫn hơn Lôbasépxki nhưng cũng chưa thành công. Còn
Gauxơ thì thậm chí chưa thể bắt tay vào làm việc đó. Mãi đến gần nửa thế
kỷ sau, nhà toán học người Đức tên là Hilbert mới đạt được bước quyết
định trong việc chứng minh sự phi mâu thuẫn của hình học phi Ơclít.
Trong
khi giới toán học ở nước Nga vẫn còn giữ thái độ lạnh nhạt, ruồng rẫy
phát kiến thiên tài về hình học của vị Hiệu trưởng Trường đại học Cadan
thì nó đã vượt biên giới tới nước Đức, được đăng dưới tiêu đề: “Các công
trình nghiên cứu hình học” ở Beclin. Với cặp mắt lão luyện, “Ông khổng
lồ” Gauxơ đã lập tức thấy ngay ra tầm vóc phi thường của nó, cũng như
tài năng toán học kiệt xuất của tác giả sáng tạo ra chúng.
Trước
đó, Gauxơ đã từng học sơ qua tiếng Nga trong một lần có dự định sang
Nga nghiên cứu và làm việc (đơn thuần là vì sinh kế). Nhưng bây giờ thì
sự nỗ lực học tiếng Nga của ông tăng lên gấp bội, vì ông muốn nhanh
chóng tự mình tìm hiểu nguyên bản các công trình nghiên cứu của
Lôbasépxki.
Vào
tháng 2-1841, Gauxơ viết thư cho một học trò của mình, nhà thiên văn
học Ônke: “Tôi bắt đầu học được tiếng Nga ở mức độ tương đối nhanh và
tìm thấy ở đó một sự hài lòng lớn lao. Krôme đã gửi cho tôi một công
trình nhỏ viết bằng tiếng Nga của Lôbasépxki, và qua đó, cũng như qua
một công trình không lớn lắm về các đường song song được viết bằng tiếng
Đức, tôi trở nên có tham vọng được đọc nhiều hơn về các tác phẩm của
nhà toán học thông thái này. Theo lời của Krôme nói với tôi thì trong
tập san “Kỷ yếu khoa học của Trường đại học Cadan” bằng tiếng Nga có
đăng rất nhiều các công trình của ông ta.”
Sau đó, vào năm 1846, ông lại viết cho bạn mình là nhà thiên văn học Sumakhơ:
“Gần
đây, tôi có dịp xem lại quyển sách “Những công trình nghiên cứu hình
học” của Lôbasépxki. Nó chứa đựng những nền tảng của một môn hình học mà
đáng lẽ phải có một chỗ đứng và đồng thời hoàn toàn nhất quán nếu như
môn hình học Ơclít không phải là chân lý. Hình như Xvâycát gọi môn hình
học đó là hình học các vì sao, còn Lôbasépxki gọi nó là hình học trừu
tượng. Anh biết rằng đã 50 năm qua (từ 1792), tôi cũng có những khẳng
định như vậy (về sau tôi có mở rộng thêm một ít, song tôi chưa muốn dừng
ở đấy). Qua các tài liệu, công trình của Lôbasépxki không có gì mới đối
với tôi, nhưng tác giả đã phát triển theo một con đường khác, hoàn toàn
không giống tôi. Lôbasépxki đã hoàn thành công trình đó với một nghệ
thuật tinh xảo, với một nội dung hình học thực sự. Tôi thấy có trách
nhiệm lưu ý cho anh quyển sách đầy thú vị này.”
Lần
này, dù vẫn còn thói quen “tự kỷ ám thị” thì Gauxơ cũng đã bày tỏ sự
khâm phục đối với tài năng của nhà toán học người Nga và trong công
khai, ông còn đề nghị bầu Lôbasépxki “với tư cách là nhà toán học xuất
sắc nhất nước Nga” làm một hội viên thông tấn của Hội khoa học hoàng gia
Gottinghen (tương đương với viện sĩ thông tấn của Viện hàn lâm khoa
học), do chính ông làm giám đốc. Tuy nhiên có điều lạ lùng là dù coi
trọng Lôbasépxki như thế thì chưa một lần nào Gauxơ trao đổi thư từ với
Lôbasépxki và ngay cả trong các lý do bầu Lôbasépxki vào Hội khoa học
hoàng gia Gottinghen cũng không có một dòng nào nhắc đến Công trình sáng
tạo ra “hình học trừu tượng” của ông.
Một
lần, vào mùa hè năm 1844, trên một tờ báo ở Hungari xuất hiện bài viết
của nhà toán học Mentôvich. Ông này đã kể lại về cuộc gặp gỡ và đàm
thoại của ông với Gauxơ. Gauxơ đã hỏi han khá nhiều về người bạn già F.
Bôia và con trai ông ta, rồi sau đó đưa cho Mentôvich quyển “Các công
trình nghiên cứu toán học” của Lôbasépxki đồng thời nói bóng gió, đại ý
rằng:
Sự
trùng hợp đáng ngạc nhiên giữa các tư tưởng, quan điểm của Lôbasépxki
và của J. Bôia là một điều hết sức kỳ lạ; và vì tất cả các công trình
của Lôbasépxki đều được in bằng tiếng Nga nên người Hungari tất phải đọc
được (Gauxơ lầm rằng tiếng Hungari cũng là thứ tiếng có nguồn gốc Slavơ
như tiếng Nga).
Phải
bốn năm sau cha con nhà Bôia mới tình cờ đọc được bài báo này. Nội dung
bài báo đã thúc giục J. Bôia tìm đọc cho được nội dung của quyển sách
mà tác giả là một nhà toán học người Nga nào đó có tư tưởng hình học
trùng lặp với tư tưởng của ông. Cuối cùng thì J. Bôia cũng có quyển sách
đó trong tay.
Đọc xong cuốn sách, tâm trạng J. Bôia trở nên phấn khích pha lẫn bấn loạn:
“Nếu
như trong tác phẩm nổi tiếng này, tác giả đã đi bằng những con đường
hoàn toàn khác thì tinh thần và các kết quả của nó lại trùng với
“Appenđixơ” đã được công bố vào năm 1832 của tôi. Theo lời của Gauxơ thì
ông đã ngạc nhiên vô cùng về sự trùng lặp thú vị giữa công trình của
nhà toán học Hungari và công trình của nhà toán học Nga. Thành thực,
điều đó cũng làm tôi không kém phần ngạc nhiên.
Lẽ
tất nhiên, bản chất của sự thật trăm phần trăm dù ở Hungari, ở Camsátca
(quê của Lôbasépxki) hay thậm chí là ở cả trên mặt trăng, hoặc trên cả
thế giới này chăng nữa thì cũng đều như nhau. Cái gì mà đã được một
người nào đó phát hiện ra thì cái đó tất nhiên một người khác cũng có
thể phát hiện ra. Thêm vào đó, sự ra đời của các công trình trí tuệ,
cũng giống như các sản phẩm của thiên nhiên theo quá trình phát triển
của loài người, đều mang tính thời đại!... Và cuối cùng, ngay cả lý
thuyết về các đường song song cũng không có gì đặc biệt khó và huyền bí
cả. Nếu như thấy rằng, trước đây thậm chí trong số các nhà toán học ưu
tú biết suy nghĩ sâu sắc, có rất ít người nhận thấy được cái lỗ hổng này
trong môn hình học để ra sức bổ sung cho nó; nếu như có thể thấy rằng,
qua một thời gian dài dằng dặc bắt đầu từ Ơclít, mặc dù đã có những công
trình nghiên cứu đặc biệt sâu sắc trong lĩnh vực này mà vẫn chưa thấy
xuất hiện điều gì đáng kể, dù chỉ là trên báo chí thôi; và nếu như lưu ý
tất cả những điều đó, thì thử hỏi vị tất dựa vào điều gì để có thể giả
thiết được rằng, có hai hoặc ba người hoàn toàn không biết gì về nhau
lại hầu như cùng một lúc, và mặc dù bằng những cách khác nhau, có thể
cùng hoàn toàn giải quyết trọn vẹn vấn đề?...”
Cay
đắng và bấn loạn đã làm cho J. Bôia mất sáng suốt, đi đến những suy
diễn hoàn toàn cảm tính để rồi nghi ngờ hết người này đến người khác đã
âm mưu chiếm đoạt thành quả của mình và cuối cùng thì chĩa hẳn mũi dùi
về phía con người đã từng một lần từ chối cưu mang ông, một lần gây cho
ông một vết thương lòng nặng nề: “Nhưng cũng có thể là thần tượng
Gottinghen vì không thể để cho một người khác vượt mình trong lĩnh vực
này, nhưng vì không thể cản được người đó cho nên ông đã ra tay gia cố
lại cái lý thuyết đó dưới cái tên Lôbasépxki…”
Tuy
nhiên, khi đã trở nên bình tĩnh và suy xét lại thì chính bản thân J.
Bôia cũng đã thấy ra sự phi lý của các mối nghi ngờ đó. Vốn dĩ là một
con người trung thực và cao thượng, sau này, J. Bôia có viết trong hồi
ký của mình:
“Tôi
vô cùng vui mừng khi thấy có khá nhiều người quan tâm đến vấn đề này,
thậm chí giả sử họ đi bằng những con đường hơi khác. Với tình cảm anh
em, tôi chìa tay chúc mừng tác giả, con người mà tôi đã cảm thấy gắn bó
về mặt tư tưởng, và vì lẽ đó, tôi xin nhận lỗi về sự nghi ngờ sai lầm và
thiếu cơ sở của mình…
…
Và tôi đặc biệt chúc mừng cho hạnh phúc của đất nước đã sản sinh ra một
thiên tài lỗi lạc như vậy, đất nước mà khắp mọi nơi là thô bạo và khắc
nghiệt, đất nước mà những tư tưởng tự do và tiên tiến đều bị chặt cánh
và bị trói buộc trong gông xiềng hoặc cạm bẫy, làm cho chúng không thể
nào phát triển được…”
Chỉ
qua những trao đổi thư từ có tính cách riêng tư đối với bạn bè và đồng
nghiệp của Gauxơ đã trích dẫn ở trên thôi, chúng ta cũng phần nào đoán
nhận ra được là dù cho sau này Gauxơ đã từ bỏ niềm tin chứng minh được
định đề 5, dù ông rồi cũng nhận thấy khả năng tồn tại một cách có lý của
một hệ thống hình học khác với hình học Ơclít, và có thể cũng âm thầm
nghiên cứu nó, thì cho đến tận khi đã đọc công trình của Lôbaxépxki, ông
vẫn không tài nào giũ bỏ được ý nghĩ cho rằng một hệ thống hình học nào
đó được sáng tạo bởi con người, (dựa trên một giả thiết phù hợp lôgic
nhưng tính trực giác thì lại “yếu hơn” định đề 5 của Ơclít rất nhiều)
khác với hình học Ơclít lại có thể thay thế được hình học Ơclít trong
việc mô tả minh bạch mà trực giác cũng thừa nhận là xác đáng (ít ra là
trong phạm vi nhìn thấy được) đối với không gian thực tại. Phải chăng
Gauxơ đã là đại diện xuất sắc nhất và cuối cùng của các nhà toán học tạm
gọi là có lối “tư duy thực chứng” và vì thế mà Gauxơ chỉ vĩ đại với tư
cách là nhà toán học ứng dụng thiên tài?
(...)
Sự
dị thường trong cách đối xử của “Ông Hoàng toán học” đối với những
người đi những bước đột phá trong vấn đề liên quan đến định đề 5 của
hình học Ơclít, cùng với những lời đánh giá, khen - chê những công trình
của họ, một cách lập lờ nước đôi rõ ràng là có chủ ý nếu không phải đen
tối thì cũng không mã thượng, được nhiều người đời sau giải thích rằng
“Ông Hoàng toán học” làm như vậy là bởi cái bản tính thận trọng, sợ ảnh
hưởng xấu đến cái uy tín đã được dát vàng và đang lừng lẫy của ông.
Chúng ta cho rằng, giải thích như thế là chưa đầy đủ. Có một sự thật
không thể chối cãi được, biểu hiện ra từ những ứng xử của “Ông Hoàng
toán học”, đối với những “thần dân” đi khám phá những bí ẩn của hình học
có nguồn gốc từ sự thiếu hiển nhiên của định đề 5, đó là hầu như không
có sự khích lệ, động viên nào của “ông vua” đối với những người đó, mà
trái lại còn cố ý “bình thường hóa” những phát kiến của họ theo hướng
ngụ ý rằng: những cái mà “các ngươi” đã và đang làm được, có thể là mới
lạ đối với ai thôi chứ “đức vua” thì đã biết tỏng từ lâu. Tài năng toán
học lỗi lạc của Gauxơ cùng với sự nỗ lực không mệt mỏi của ông trong
nghiên cứu khoa học đã đem đến cho ông những thành tựu phi thường để từ
đó mà bản thân ông được đương thời (và cả hậu thế) hết mực tôn vinh,
kính trọng đặt vào vị trí quyền uy và danh vọng cao nhất mà trong thể
chế phong kiến khó lòng mơ ước được: Thiên tử; mà trong việc so sánh tài
năng là “Nhà toán học bậc nhất Châu Âu”, hay: “Ông khổng lồ ở
Gottinghen”, và ông hoàn toàn xứng đáng được hưởng thụ những “danh bất
hư truyền” ấy, cũng như được quyền chìm đắm trong một vầng thái dương
hào nhoáng của “vinh quang đời đời”. Tuy nhiên, phải chăng cũng chính vì
như thế mà trong sâu thẳng tâm hồn của Gauxơ đã âm thầm nảy sinh ra sự
ngạo mạn và khi tâm hồn đã bị sự ngạo mạn chế ngự thì dù có cố khiêm tốn
đến mấy cũng không thể che lấp được biểu hiện tổng hòa của những: đố
kỵ, vị kỷ… và sẽ phải dẫn đến kết quả cuối cùng là sự nhẫn tâm vô tình.
Chúng
ta vẫn còn nhớ được hai trường hợp nói năng, ứng xử của Gauxơ cũng đại
loại như thế mà không liên quan gì đến những phát kiến mới trong hình
học.
Đây
là trường hợp thứ nhất. Trong khi vấn đề chứng minh Định lý cuối cùng
của Fecma nổi lên như một sự kiện có tính thời sự ở Châu Âu thì Gauxơ
chẳng có một biểu hiện công khai nào về nó. Hơn nữa, trong một bức thư,
thậm chí Gauxơ còn bộc lộ sự khinh bỉ đối với bài toán đang được nhiều
người đặc biệt quan tâm và bàn luận sôi nổi đó. Thật là lạ lùng! Có thể
nào trong thầm kín, ông đã từng đối đầu với nó và phải chịu bất lực
tương tự như bài toán chứng minh định đề 5 của Ơclít? Bạn ông, nhà thiên
văn người Đức tên là Heinrich Olbers đã viết thư động viên ông: “Gauxơ
thân mến, mình nghĩ rằng bạn nên để tâm về chuyện đó”. Hai tuần sau,
Gauxơ trả lời: “Tôi rất cảm ơn anh đã cho tôi biết tin về giải thưởng ở
Pari. Nhưng tôi buộc phải thú nhận rằng Định lý cuối cùng của Fecma với
tư cách chỉ là một mệnh đề cô lập ít có sự thu hút đối với tôi, vì bản
thân tôi cũng có thể đặt ra rất nhiều những mệnh đề như vậy mà người ta
không thể chứng minh hoặc bác bỏ được”.
Khi
viết ra những dòng như thế, không biết “Ông Hoàng toán học” có nhớ tới
cái vinh danh cũng thật lẫy lừng của Fecma là “Ông Hoàng nghiệp dư” hay
không? Hơn nữa, định lý lớn Fecma chắc gì đã cô lập hơn định đề 5 Ơclít?
Tiếp
theo là trường hợp thức hai. Aben là nhà toán học trẻ kiệt xuất người
Nauy, tác giả của lý thuyết hàm số eliptic và đồng thời với Galoa nhưng
theo một con đường khác đã chứng minh tính không giải được bằng căn thức
đối với phương trình bậc năm. Trước những phát kiến toán học tuyệt vời
của Aben, Gauxơ đã viết thư sang Pháp rằng:
“Những
công việc khác đã cản trở tôi trong việc sửa chữa lại các nghiên cứu
trước đây. Aben đã lặp lại hầu như đến ba công trình của tôi. Anh ta đã
đi theo con đường mà tôi đã đi từ năm 1798. Vì thế, tôi không ngạc nhiên
khi thấy anh ta đã thu được những kết quả giống như tôi. Tuy nhiên, vì
trong quá trình tính toán, anh ta đã tỏ ra có nhiều tài năng và khéo
léo, đến mức làm tôi thấy không phải sửa chữa lại các kết quả của mình”.
Bức thư đó đã làm cho các nhà toán học Pháp rất bất bình. Đến nỗi nhà toán học Lêgiandrơ nói toạc ra rằng:
“Không
thể tồn tại một phát minh nào mà anh có thể cho là của mình nếu như
phát minh ấy đã được tìm ra từ nhiều năm trước nhưng nếu không chứng
minh được nó đã công bố ở đâu, ở tạp chí nào mà cứ tự nhận thì điều đó
không thể chấp nhận được và chỉ làm cho tác giả thực sự của phát minh bị
uất ức. Trong toán học thường thấy có người tìm được những vấn đề mà
người khác đã tìm ra và mọi người đã biết, điều tương tự cũng đã xảy ra
đối với tôi nhiều lần. Nhưng tôi không bao giờ kể đến chúng và không bao
giờ gọi chúng là “Những nguyên lý của tôi” nếu như chúng đã được công
bố trước các công trình của tôi”.
Có
lẽ chỉ trừ những kẻ mất trí, còn tất cả ai cũng luôn hành động vì mục
đích danh lợi (về vật chất cũng như tinh thần và có thể là cho cá nhân
mình hoặc cho cả cộng đồng). Bản chất của con người là vậy. Và cũng vì
vậy mà có thể lấy đặc tính này làm cơ sở xuất phát để giải thích mọi
biểu hiện về tâm hồn, mọi hành động, ứng xử dù lạ lùng và thậm chí là kỳ
quặc của một con người.
Cuộc
đời của Gauxơ đã thể hiện: ông vĩ đại khi là nhà toán học có công lao
to lớn đối với nhân loại và ông tầm thường khi là con người bị sự ngạo
mạn khuynh đảo.
Cũng
nên kể thêm rằng, phải khá lâu sau khi đọc phần phụ lục trong cuốn sách
của F. Bôia, Gauxơ mới giãi bày cho người bạn thân và luôn tôn trọng
mình thế này:
“Tha
thứ cho tôi nhé, Farkas! Từ mấy năm trước tôi đã thầm mong anh tha thứ
cho tôi vì tôi đã không đáp ứng thư anh. Tôi không biết phải khuyên bảo
con trai anh thế nào khi biết rằng anh đã đau khổ một đời vì bài toán
đường thẳng song song. Tôi cũng như anh và như nhiều nhà toán học lớn
khác đều rút ra kết luận rằng không thể chứng minh được định đề thứ năm
như một định lý. Tôi cũng giống như con trai anh đã sớm hiểu rằng, do nó
là một định đề kém hiển nhiên cho nên hoàn toàn có thể xây dựng một
định đề khác thay cho nó. Song, điều mà con trai anh đã làm cũng như bây
giờ một anh chàng Lôbasépxki nào đó ở nước Nga xa xôi đã làm một cách
công khai, thì tiếc thay tôi lại không thể nào làm được. Cái vinh dự dù
có là hão huyền đem đến cho tôi trên cương vị một người cầm cân nảy mực
trong toán học không thể cho phép tôi hấp tấp đưa ra một lời đánh giá…”
Dù
là muộn màng thì Gauxơ cũng đã có lời xin lỗi chân thành đến người bạn
thâm niên của mình. Không thể không nghĩ rằng chính sự áy náy không thể
giũ bỏ được trong tâm hồn suốt một thời gian dài và “nổi cộm” lên khi
xuất hiện “niềm tự hào toán học của nước Nga” trên đất Đức đã thúc giục
Gauxơ thốt ra những lời trần tình đó. Gauxơ đã nhận lỗi, tuy nhiên, theo
chính ông biện bạch thì nguyên nhân dẫn đến lỗi lầm đó là do tình thế
khách quan đòi hỏi, vì sự trong sáng của toán học. Về vấn đề này, J.
Bôia có đưa ra lời nhận xét:
“Theo
ý tôi và tôi tin tưởng một cách chắc chắn rằng theo ý kiến của bất kỳ
một người hãy còn tỉnh táo nào cũng thế, các nguyên cớ mà Gauxơ đưa ra
để giải thích cho việc suốt đời ông ta không hề muốn công bố một điều gì
thuộc các công trình riêng của ông về vấn đề này (tức về hình học phi
Ơclít - NV) là hoàn toàn không đứng vững và không đáng phải để ý. Vì lẽ,
trong khoa học cũng như trong cuộc sống hàng ngày, mục tiêu chính là
phải làm sao ra sức giải thích và làm rõ nét những điều có tính chất cấp
thiết và hữu ích chung, đặc biệt là những điều còn chưa được rõ ràng
lắm, và đồng thời cố gắng thức tỉnh những nhận thức còn mơ hồ về sự
thật. Chính đó mới là những điều cần làm để khẳng định và phát triển
lên. Rất tiếc rằng, vốn dĩ bẩm sinh không phải ai cũng lĩnh hội được
toán học, nhưng đó đâu phải là cơ sở và lý do làm cho Gauxơ cứ giữ kín
một phần các công trình có giá trị của mình. Đành rằng, đáng tiếc là
trong giới toán học vẫn còn có những người thậm chí nổi tiếng mà lại tỏ
ra nông cạn, song đó không phải là lý do cứ để cho hậu thế lướt qua
trong khi khoa học vẫn giữ nguyên tình trạng mơ màng của nó như là nó đã
tiếp thu được từ quá khứ. Chính vì lẽ đó mà người ta cảm thấy vô cùng
khó chịu khi đáng lẽ ra phải thành thật và thẳng thắn công nhận giá trị
lớn lao của “Appenđixơ” và cả “Tentamen”, đồng thời cần biểu lộ lòng hân
hoan và sự suy nghĩ của mình một cách rộng rãi, thì Gauxơ lại cố lảng
tránh những vấn đề đó, đồng thời vội vàng bộc lộ những ý nguyện cực đoan
và tự trách cứ, vin vào cái lý do là con người còn chưa đủ khả năng
nhận thức. Tất nhiên, cuộc đời hoạt động và công lao… của một nhà khoa
học đâu phải ở chỗ ấy.”
***
(...)
Đây la một trong những bài toán khó nhất trong lịch sử nhân loại và lời giải của nó thuộc loại bất ngờ nhất. Câu chuyện của nó là cách đây hơn 2000 năm (thế kỉ 3 TCN). Euclide đưa ra bộ sách có tên “Nguyên Lý” trong đó phần hình học có tiên đề: qua một điểm ngoài một đường thẳng có một đường thẳng song song với đường thẳng kia và chỉ một mà thôi. Trong các sách giáo khoa hay gọi cái này là tiên đề euclide. Các nhà toán học cảm thấy rằng tiên đề này có vấn đề nó không rõ ràng cho lắm, nó giống một định lý hơn là một tiên đề và đã là định lý thì cần được chứng minh. Tuy nhiên mọi nỗ lực chứng minh tiên đề này đều thành công cốc cho tới thế kỉ 19 cha con nhà Bolyai, Gauss và Lobachevski nhận ra một điều là tiên đề này không thể chứng minh. Nó là một tiên đề độc lập nhưng có thể thay bằng một tiên đề khác để ta xây dựng được một hệ thống hình học khác (hình học phi Euclide- Lobachevkski). Sau này Riemann đã tổng quát hóa và xây dựng thêm 1 thứ hình học phi Euclide khác nữa (hình học Riemann). Hình học Riemann là cơ sở cho lý thuyết tương đối rộng (GR) của Einstein sau này
Lịch sử: tiên đè thứ năm và hình học phi Euclide (ơclit)
Đây la một trong những bài toán khó nhất trong lịch sử nhân loại và lời giải của nó thuộc loại bất ngờ nhất. Câu chuyện của nó là cách đây hơn 2000 năm (thế kỉ 3 TCN). Euclide đưa ra bộ sách có tên “Nguyên Lý” trong đó phần hình học có tiên đề: qua một điểm ngoài một đường thẳng có một đường thẳng song song với đường thẳng kia và chỉ một mà thôi. Trong các sách giáo khoa hay gọi cái này là tiên đề euclide. Các nhà toán học cảm thấy rằng tiên đề này có vấn đề nó không rõ ràng cho lắm, nó giống một định lý hơn là một tiên đề và đã là định lý thì cần được chứng minh. Tuy nhiên mọi nỗ lực chứng minh tiên đề này đều thành công cốc cho tới thế kỉ 19 cha con nhà Bolyai, Gauss và Lobachevski nhận ra một điều là tiên đề này không thể chứng minh. Nó là một tiên đề độc lập nhưng có thể thay bằng một tiên đề khác để ta xây dựng được một hệ thống hình học khác (hình học phi Euclide- Lobachevkski). Sau này Riemann đã tổng quát hóa và xây dựng thêm 1 thứ hình học phi Euclide khác nữa (hình học Riemann). Hình học Riemann là cơ sở cho lý thuyết tương đối rộng (GR) của Einstein sau này
Đôi điều về hình học phi Euclide (Ơclit)
anos Bolyai
Truyện kể rằng, vào năm 1823 Farkas Bolyai (1775-1858) đã viết thư cho người con trai là Janos Bolyai (15.12.1802-27.1.1860) người Hungary rằng: "Con đừng đi vào con đường mà bố đã đi, đừng nhảy vào "hang không đáy" đã nuốt hết trí tuệ, tinh lực và tâm huyết của bố".
Định đề 5 của Euclid được phát biểu trong cuốn "Nguyên lý" như sau:
Nếu một đường thẳng cắt hai đường thẳng khác tạo thành hai góc trong cùng phía có tổng bé hơn hai góc vuông thì khi kéo dài vô hạn hai đường thẳng này, chúng sẽ cắt nhau về phía hai góc đó
Đây là lời khuyên từ đáy lòng, từ trách nhiệm của người bố đã suốt cả cuộc đời nghiên cứu định đề 5 của Euclid mà không thành công. Khi biết con mình yêu thích nghiên cứu "lý thuyết các đường song song", thì F. Bolyai đã rất sợ hãi và đã viết cho con mình (trong một bức thư khác) như sau: "Con sẽ không thể nào chiến thắng được lý thuyết các đường song song bằng con đường ấy. Bố đã đi đến cuối con đường ấy và đã lạc vào một đêm đen dày đặc, một tia sáng của ngọn nến cũng không có và đã chôn vùi ở đó bao niềm hạnh phúc của đời mình. Khi lao vào các học thuyết cô quạnh về các đường song song, con sẽ chẳng còn gì cả. Con hãy lẩn tránh nó như lẩn tránh những dục vọng thấp hèn, nó sẽ làm hao mòn sức lực của con, cướp đi sự an nhàn, quấy đảo sự yên tĩnh và sẽ giết chết những niềm vui của cuộc sống. Bóng tối mịt mùng sẽ nuốt chửng cả những chòi tháp khổng lồ và sẽ chẳng có lóe sáng trên trái đất tối tăm. Chẳng bao giờ con người có thể đạt tới một sự thực hoàn mĩ ngay chính trong hình học. Chúa trời hãy cứu vớt con khỏi những ham mê con ôm ấp..."
Nhưng F. Bolyai không ngờ rằng câu nói của chính ông trước đây đã làm J. Bolyai bị thu hút vào vấn đề này (câu nói đó có nội dung như sau: " Ai chứng minh được tiên đề vaề các đường thẳng song song, người đó sẽ sáng ngời như một viên kim cương to bằng trái đất"). Và chàng J. Bolyai trẻ tuổi đã đã không vì những lời cảnh báo của bố mình mà lùi bước. Tránh những thất bạo của những người đi trước, J. Bolyai đã đi theo con đường của riêng mình. Ông đã không tìm cách chứng minh định đề 5 của Euclid, mà đã xét nó như một tiên đề độc lập. Và khi phủ định định đề 5 của Euclid, J. Bolyai đã xây dựng được một hệ thống hình học mới (mà về sau còn được gọi là hình học phi Ơclit). Các kết quả về hình học này của ông cũng phong phú và những chứng minh của ông rất hoàn thiện.
J. Bolyai là một nhà toán học thiên tài, nhưng bị đố kị, chê bai và bị cả những điều đơm đặt về ông. Cuộc sống của J. Bolyai luôn bị bọn quý tộc chèn ép, bao vây cả về tinh thần lẫn vật chất. Người bố chính là một nhà toán học đầy tâm huyết và rất thương con, nhưng từ bài học sai lầm rút ra từ chính cuộc đời nghiên cứu toán học của mình, F.Bolyai đã vo tình trở thành vật cản của con trên con đường tìm tòi, sáng tạo.
Năm 1831, J. Bolyai đã công bố công trình của mình dưới dạng phụ lục ở mỗi cuốn sách của bố mình. Phụ lục trình bày "Học thuyết tuyệt đối đúng về không gian". F. Bolyai đã viết thư cho Carl Friedrick Gauss ( 30.4.1777-23.2.1855) đề nghị Gauss cho nhận xét về công trình nghiên cứu của J.Bolyai.
Trong thư trả lời, Gauss đã nói rằng ông không thể ngợi khen công trình đó, vì như thế tức là tự khen mình. Ông nói rằng tư tưởng của J. Bolyai trong phụ lục chính là tư tưởng của ông trong nhiều năm trước đây. Sau đó Gauss đã viết thư cho Goling với ý cho rằng nhà toán học trẻ tuổi J. Bolyai là một thiên tài.
Phải nói rằng lời đánh giá trên đây của nhà toán học lỗi lạc Gauss là hoàn toàn chân thực. Thật vậy, từ năm 1824, trong thư gửi cho người bạn là Tolinos, Gauss đã viết " Tổng ba góc trong một tam giác phẳng phải nhỏ hơn 180°, giả định này sẽ dẫn đến những đặc thù khác hoàn toàn với hình học của chúgn ta. Tôi phát triển nó và thu được những kết quả hoàn toàn khiến ta hài lòng". Và bức thư nổi tiếng mà Gauss đã gửi Frants Adonf Taurinus cũng chứng tỏ rằng, Gauss đã nắm được các ý niệm quan trọng của hình học phi Euclid. Nhưng đó mới chỉ là những đoạn rời rạc, những phát kiến mặc dù đã rất sâu sắc. tuy nhiên lúc bấy giờ Gauss đã không công bố những kết quả nghiên cứu này của mình.
Thư trả lời của Gauss đã làm cho J. Bolyai có những hiểu lầm lớn. J. bolyai nghĩ rằng Gauss đã dùng uy danh của mình để cướp đi quyền phát minh về hệ thống hình học mới của ông. Vì thế J. Bolyai rất đau lòng và đã thề rằng sẽ vứt bỏ mọi nghiên cứu toán học. Tháng 10 - 1848, J. Bolyai đã được bố mình gửi cho luận văn "Nghiên cứu về lý thuyết các đường song song" của N.I. Lobachevskii, xuất bản bằng tiếng Đức năm 1840. J. Bolyai đã ngạc nhiên, vì thấy rằng N.I. Lobachevskii ccũng đã đi đến những kết quả giống như mình, và j. Bolyai cũng rất khâm phục tài năng của N.I. Lobachevskii.
Lobachevski
Cùng thời với J.Bolyai, ở Cadan( Thủ đô của nước cộng hòa tự trị Tacta thuộc Liên Bang Nga ), đã xuất hiện một ngôi sao sáng, đó là nhà toán học thiên tài Nicolai Ivanovich Lobachevskii ( 1.12.1792-24.2.1856) . N.I.Lobachevskii đã từng là giáo sư xuất xắc, hiệu trưởng của trường đại học tổng hợp Cadan. Ông đã tìm cách chứng minh rằng, từ các định đề và tiên đề khác của hình học Ơclit cổ điển, không thể suy ra định đề 5.
Để chứng minh điều đó, ông đã giữ nguyên các định đề và tiên đề khác của hình học Ơclit cổ điển và thay thế định đề 5 bằng một tiên đề phủ định của tiên đề Ơclit, và do đó cũng là phủ định của định đề 5. Ngày nay, tiên đề này được gọi là tiên đề Lobachevskii. Tiên đề này có nội dung như sau: "Trong mặt phẳng, qua một điểm không nằm trên một đường thẳng cho trước, có ít nhất hai đường thẳng không cắt đường thẳng đã cho". Rồi từ đó Lobachevski đã xây dựng nên một thứ hình học mới không có mâu thuẫn. Những kết quả của hình học mới này "trái mắt", trái với trực quan hàng ngày của chúng ta, trái với hình học Ơclit quen thuộc.
Ngày 11-2-1826, Lobachevski đã công bố kết quả của mình về hình học phi Ơclit trên diễn đàn vật lý - ssó học của trường đại học tổng hợp Cadan. Sau đó, công trình nghiên cức về hình học phi Ơclit của Lobachevski với tiêu đề "Về các cơ sở hình học", đã được đăng ở tờ báo "Thông báo Cadan" xuất bản năm 1829. Còn công trình của J.Bolyain về hình học phi Ơclit được công bố vào năm 1831 ( độc lập với Lobachevski ). Ngày nay, chúng ta gọi hình học phi Ơclit (do Lobachevski và J.Bolyai đã độc lập với nhau và đồng thời tìm ra ) là hình học Lobachevski hoặc hình học Lobachevski-Bolyai. Ngày 11.2.1826 được thế giới gọi là ngày ra đời của hình học này.
Trong thời đại của Lobachevski, hầu như không ai hiểu được tư tưởng của ông, nhiều người đã chế nhạo ông. Nhưng Lobachevski đã dũng cảm và tin tưởng phát triển hình học mới của mình. Ông đã kiên trì nghiên cứu và công bố công trình nghiên cứu của mình ngày càng chi tiét hơn, đầy đủ hơn. Một năm trước khi qua đời, Lobachevski đã bị mù. Khi đó ông còn đọc cho học trò của mình chép một công trình sáng tạo mới mang tên "Hình học phẳng", trong đó ông đã chỉ rõ hình học Ơclit chỉ là trường hợp giới hạn của hình học phi Ơclit của ông. Lobachevski đã gửi công trình cuôí cùng này cho trường đại học tổng hợp Cadan - nơi cả cuộc đời sáng tạo của ông đã trôi qua ở đó.
Ngày 24-2-1856. Lobachevski đã qua đời, vài chục năm sau người ta mới công nhận toàn bộ những tư tưởng của ông.
Công trình nghiên cứu của Lobachevski và J.Bolyai về hình học phi Ơlit là một thành tựu vĩ đại của khoa học, đã mở ra một kỷ nghiên mới của toán học, của vật lý và của nhiều ngành khoa học khác có liên quan.
Poincare
Vào năm 1882, nhà toán học H.J.Poincare đã xây dựng được một mô hình (gọi là mô hình Poincare) của hình học Lobachevskii phẳng, khi sử dụng các "vật liệu" lấy từ hình học Ơclit phẳng.
Trong mặt phẳng Ơclit, lấy một đường thẳng x nằm ngang, chia mặt phẳng thành hai miền, mà ta gọi là "nửa trên" và "nửa dưới". Ta có các quy ước sau đây về các khái niệm cơ bản của hình học Lobachevski phẳng: "Điểm" là điểm Ơclit thông thường thuộc "nửa trên" và không thuộc x; "Đường thẳng" là nửa đường tròn thông thường thuộc "nửa trên" và có tâm thuộc x, hoặc tà tia thông thường thuộc nửa trên, có gốc thuộc x và vuông góc với x.
Tiếp tục, trong mô hình này, xác định rõ ý nghĩa của các khái niệm cơ bản khác, mà cụ thể là các tương quan cơ bản sau đây: "thuộc", "ở giữa", "bằng nhau" ( còn gọi là "toàn đẳng") , trong đó "thuộc" và "ở giữa" được hiểu như thông thường.
Người ta đã kiểm nghiệm tất cả các tiên đề của hình học Lobachevskii đối với mô hình nêu trên, và thấy rằng mô hình đã thỏa mãn tất cả các tiên đề đó.
Thêm vào những điều ở trên, ta có định lý sau đây của hình học Lobachevskii: "Tổng ba góc trong của một tam giác nhỏ hơn hai góc vuông".
Việc xây dựng thành công mô hình của hình học Lobachevskii đã chứng minh:
a) Hình học Lobachevskii là phi mâu thuẫn.
b. Từ các tiên đề khác của hình học Ơclit không thể suy ra được tiên đề Ơclit.
Hình học Lobachevskii không phải là hình học phi Ơclit duy nhất. Hình học Riemann theo nghĩa hẹp của Georg Friedrich Bernhard Rienmann (1826-1866) người Đức cũng là hình học phi Ơclit. Để có được hệ tiên đề của hình học Riemann nghĩa hẹp, phải thay đổi hệ tiên đề của hình học Ơclit nhiều hơn là những thay đổi mà Lobachevskii đã thực hiện.
Ngoài các hình học vừa nêu, còn nhiều hình học khác, trong đó có hình học fractal. Thuật ngữ fractal do nhà toán học Benoit Mandtelbrot người Pháp, gốc Balan, đề nghị từ những năm 1970. Tuy mới ra đời nhưng hình học này đã phát triển nhanh chóng, gắn kiền với đồ họa vi tính, có nhiều ứng dụng trong phân tích và tổng hợp hình, trong việc xây dựng mô hình của các quá trình địa lý, quá trình sinh học (hoạt động của tim người, phát triển của cây trồng)...
Truyện kể rằng, vào năm 1823 Farkas Bolyai (1775-1858) đã viết thư cho người con trai là Janos Bolyai (15.12.1802-27.1.1860) người Hungary rằng: "Con đừng đi vào con đường mà bố đã đi, đừng nhảy vào "hang không đáy" đã nuốt hết trí tuệ, tinh lực và tâm huyết của bố".
Định đề 5 của Euclid được phát biểu trong cuốn "Nguyên lý" như sau:
Nếu một đường thẳng cắt hai đường thẳng khác tạo thành hai góc trong cùng phía có tổng bé hơn hai góc vuông thì khi kéo dài vô hạn hai đường thẳng này, chúng sẽ cắt nhau về phía hai góc đó
Đây là lời khuyên từ đáy lòng, từ trách nhiệm của người bố đã suốt cả cuộc đời nghiên cứu định đề 5 của Euclid mà không thành công. Khi biết con mình yêu thích nghiên cứu "lý thuyết các đường song song", thì F. Bolyai đã rất sợ hãi và đã viết cho con mình (trong một bức thư khác) như sau: "Con sẽ không thể nào chiến thắng được lý thuyết các đường song song bằng con đường ấy. Bố đã đi đến cuối con đường ấy và đã lạc vào một đêm đen dày đặc, một tia sáng của ngọn nến cũng không có và đã chôn vùi ở đó bao niềm hạnh phúc của đời mình. Khi lao vào các học thuyết cô quạnh về các đường song song, con sẽ chẳng còn gì cả. Con hãy lẩn tránh nó như lẩn tránh những dục vọng thấp hèn, nó sẽ làm hao mòn sức lực của con, cướp đi sự an nhàn, quấy đảo sự yên tĩnh và sẽ giết chết những niềm vui của cuộc sống. Bóng tối mịt mùng sẽ nuốt chửng cả những chòi tháp khổng lồ và sẽ chẳng có lóe sáng trên trái đất tối tăm. Chẳng bao giờ con người có thể đạt tới một sự thực hoàn mĩ ngay chính trong hình học. Chúa trời hãy cứu vớt con khỏi những ham mê con ôm ấp..."
Nhưng F. Bolyai không ngờ rằng câu nói của chính ông trước đây đã làm J. Bolyai bị thu hút vào vấn đề này (câu nói đó có nội dung như sau: " Ai chứng minh được tiên đề vaề các đường thẳng song song, người đó sẽ sáng ngời như một viên kim cương to bằng trái đất"). Và chàng J. Bolyai trẻ tuổi đã đã không vì những lời cảnh báo của bố mình mà lùi bước. Tránh những thất bạo của những người đi trước, J. Bolyai đã đi theo con đường của riêng mình. Ông đã không tìm cách chứng minh định đề 5 của Euclid, mà đã xét nó như một tiên đề độc lập. Và khi phủ định định đề 5 của Euclid, J. Bolyai đã xây dựng được một hệ thống hình học mới (mà về sau còn được gọi là hình học phi Ơclit). Các kết quả về hình học này của ông cũng phong phú và những chứng minh của ông rất hoàn thiện.
J. Bolyai là một nhà toán học thiên tài, nhưng bị đố kị, chê bai và bị cả những điều đơm đặt về ông. Cuộc sống của J. Bolyai luôn bị bọn quý tộc chèn ép, bao vây cả về tinh thần lẫn vật chất. Người bố chính là một nhà toán học đầy tâm huyết và rất thương con, nhưng từ bài học sai lầm rút ra từ chính cuộc đời nghiên cứu toán học của mình, F.Bolyai đã vo tình trở thành vật cản của con trên con đường tìm tòi, sáng tạo.
Năm 1831, J. Bolyai đã công bố công trình của mình dưới dạng phụ lục ở mỗi cuốn sách của bố mình. Phụ lục trình bày "Học thuyết tuyệt đối đúng về không gian". F. Bolyai đã viết thư cho Carl Friedrick Gauss ( 30.4.1777-23.2.1855) đề nghị Gauss cho nhận xét về công trình nghiên cứu của J.Bolyai.
Trong thư trả lời, Gauss đã nói rằng ông không thể ngợi khen công trình đó, vì như thế tức là tự khen mình. Ông nói rằng tư tưởng của J. Bolyai trong phụ lục chính là tư tưởng của ông trong nhiều năm trước đây. Sau đó Gauss đã viết thư cho Goling với ý cho rằng nhà toán học trẻ tuổi J. Bolyai là một thiên tài.
Phải nói rằng lời đánh giá trên đây của nhà toán học lỗi lạc Gauss là hoàn toàn chân thực. Thật vậy, từ năm 1824, trong thư gửi cho người bạn là Tolinos, Gauss đã viết " Tổng ba góc trong một tam giác phẳng phải nhỏ hơn 180°, giả định này sẽ dẫn đến những đặc thù khác hoàn toàn với hình học của chúgn ta. Tôi phát triển nó và thu được những kết quả hoàn toàn khiến ta hài lòng". Và bức thư nổi tiếng mà Gauss đã gửi Frants Adonf Taurinus cũng chứng tỏ rằng, Gauss đã nắm được các ý niệm quan trọng của hình học phi Euclid. Nhưng đó mới chỉ là những đoạn rời rạc, những phát kiến mặc dù đã rất sâu sắc. tuy nhiên lúc bấy giờ Gauss đã không công bố những kết quả nghiên cứu này của mình.
Thư trả lời của Gauss đã làm cho J. Bolyai có những hiểu lầm lớn. J. bolyai nghĩ rằng Gauss đã dùng uy danh của mình để cướp đi quyền phát minh về hệ thống hình học mới của ông. Vì thế J. Bolyai rất đau lòng và đã thề rằng sẽ vứt bỏ mọi nghiên cứu toán học. Tháng 10 - 1848, J. Bolyai đã được bố mình gửi cho luận văn "Nghiên cứu về lý thuyết các đường song song" của N.I. Lobachevskii, xuất bản bằng tiếng Đức năm 1840. J. Bolyai đã ngạc nhiên, vì thấy rằng N.I. Lobachevskii ccũng đã đi đến những kết quả giống như mình, và j. Bolyai cũng rất khâm phục tài năng của N.I. Lobachevskii.
Lobachevski
Cùng thời với J.Bolyai, ở Cadan( Thủ đô của nước cộng hòa tự trị Tacta thuộc Liên Bang Nga ), đã xuất hiện một ngôi sao sáng, đó là nhà toán học thiên tài Nicolai Ivanovich Lobachevskii ( 1.12.1792-24.2.1856) . N.I.Lobachevskii đã từng là giáo sư xuất xắc, hiệu trưởng của trường đại học tổng hợp Cadan. Ông đã tìm cách chứng minh rằng, từ các định đề và tiên đề khác của hình học Ơclit cổ điển, không thể suy ra định đề 5.
Để chứng minh điều đó, ông đã giữ nguyên các định đề và tiên đề khác của hình học Ơclit cổ điển và thay thế định đề 5 bằng một tiên đề phủ định của tiên đề Ơclit, và do đó cũng là phủ định của định đề 5. Ngày nay, tiên đề này được gọi là tiên đề Lobachevskii. Tiên đề này có nội dung như sau: "Trong mặt phẳng, qua một điểm không nằm trên một đường thẳng cho trước, có ít nhất hai đường thẳng không cắt đường thẳng đã cho". Rồi từ đó Lobachevski đã xây dựng nên một thứ hình học mới không có mâu thuẫn. Những kết quả của hình học mới này "trái mắt", trái với trực quan hàng ngày của chúng ta, trái với hình học Ơclit quen thuộc.
Ngày 11-2-1826, Lobachevski đã công bố kết quả của mình về hình học phi Ơclit trên diễn đàn vật lý - ssó học của trường đại học tổng hợp Cadan. Sau đó, công trình nghiên cức về hình học phi Ơclit của Lobachevski với tiêu đề "Về các cơ sở hình học", đã được đăng ở tờ báo "Thông báo Cadan" xuất bản năm 1829. Còn công trình của J.Bolyain về hình học phi Ơclit được công bố vào năm 1831 ( độc lập với Lobachevski ). Ngày nay, chúng ta gọi hình học phi Ơclit (do Lobachevski và J.Bolyai đã độc lập với nhau và đồng thời tìm ra ) là hình học Lobachevski hoặc hình học Lobachevski-Bolyai. Ngày 11.2.1826 được thế giới gọi là ngày ra đời của hình học này.
Trong thời đại của Lobachevski, hầu như không ai hiểu được tư tưởng của ông, nhiều người đã chế nhạo ông. Nhưng Lobachevski đã dũng cảm và tin tưởng phát triển hình học mới của mình. Ông đã kiên trì nghiên cứu và công bố công trình nghiên cứu của mình ngày càng chi tiét hơn, đầy đủ hơn. Một năm trước khi qua đời, Lobachevski đã bị mù. Khi đó ông còn đọc cho học trò của mình chép một công trình sáng tạo mới mang tên "Hình học phẳng", trong đó ông đã chỉ rõ hình học Ơclit chỉ là trường hợp giới hạn của hình học phi Ơclit của ông. Lobachevski đã gửi công trình cuôí cùng này cho trường đại học tổng hợp Cadan - nơi cả cuộc đời sáng tạo của ông đã trôi qua ở đó.
Ngày 24-2-1856. Lobachevski đã qua đời, vài chục năm sau người ta mới công nhận toàn bộ những tư tưởng của ông.
Công trình nghiên cứu của Lobachevski và J.Bolyai về hình học phi Ơlit là một thành tựu vĩ đại của khoa học, đã mở ra một kỷ nghiên mới của toán học, của vật lý và của nhiều ngành khoa học khác có liên quan.
Poincare
Vào năm 1882, nhà toán học H.J.Poincare đã xây dựng được một mô hình (gọi là mô hình Poincare) của hình học Lobachevskii phẳng, khi sử dụng các "vật liệu" lấy từ hình học Ơclit phẳng.
Trong mặt phẳng Ơclit, lấy một đường thẳng x nằm ngang, chia mặt phẳng thành hai miền, mà ta gọi là "nửa trên" và "nửa dưới". Ta có các quy ước sau đây về các khái niệm cơ bản của hình học Lobachevski phẳng: "Điểm" là điểm Ơclit thông thường thuộc "nửa trên" và không thuộc x; "Đường thẳng" là nửa đường tròn thông thường thuộc "nửa trên" và có tâm thuộc x, hoặc tà tia thông thường thuộc nửa trên, có gốc thuộc x và vuông góc với x.
Tiếp tục, trong mô hình này, xác định rõ ý nghĩa của các khái niệm cơ bản khác, mà cụ thể là các tương quan cơ bản sau đây: "thuộc", "ở giữa", "bằng nhau" ( còn gọi là "toàn đẳng") , trong đó "thuộc" và "ở giữa" được hiểu như thông thường.
Người ta đã kiểm nghiệm tất cả các tiên đề của hình học Lobachevskii đối với mô hình nêu trên, và thấy rằng mô hình đã thỏa mãn tất cả các tiên đề đó.
Thêm vào những điều ở trên, ta có định lý sau đây của hình học Lobachevskii: "Tổng ba góc trong của một tam giác nhỏ hơn hai góc vuông".
Việc xây dựng thành công mô hình của hình học Lobachevskii đã chứng minh:
a) Hình học Lobachevskii là phi mâu thuẫn.
b. Từ các tiên đề khác của hình học Ơclit không thể suy ra được tiên đề Ơclit.
Hình học Lobachevskii không phải là hình học phi Ơclit duy nhất. Hình học Riemann theo nghĩa hẹp của Georg Friedrich Bernhard Rienmann (1826-1866) người Đức cũng là hình học phi Ơclit. Để có được hệ tiên đề của hình học Riemann nghĩa hẹp, phải thay đổi hệ tiên đề của hình học Ơclit nhiều hơn là những thay đổi mà Lobachevskii đã thực hiện.
Ngoài các hình học vừa nêu, còn nhiều hình học khác, trong đó có hình học fractal. Thuật ngữ fractal do nhà toán học Benoit Mandtelbrot người Pháp, gốc Balan, đề nghị từ những năm 1970. Tuy mới ra đời nhưng hình học này đã phát triển nhanh chóng, gắn kiền với đồ họa vi tính, có nhiều ứng dụng trong phân tích và tổng hợp hình, trong việc xây dựng mô hình của các quá trình địa lý, quá trình sinh học (hoạt động của tim người, phát triển của cây trồng)...
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét