Thứ Năm, 9 tháng 11, 2017

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 129 (Sáu Lèo)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Số Phận “ Sáu Lèo” Nguyễn Ngọc Loan | Tay Giang Hồ Đội Lốt Tướng Lĩnh Sài Gòn Xưa
  
Hé Lộ Danh Tính Nguyễn Văn Lém Người Bị B|ắ.n Giữa Sài Gòn Gây Chấn Động Thế Giới


Số phận của "Sáu Lèo" Nguyễn Ngọc Loan-Đao phủ Tết Mậu Thân

Thể Thao VN

Bức ảnh "Saigon Execution" do phóng viên nhiếp ảnh người Mỹ Eddie Adams, Hãng AP chụp trên đường phố Sài Gòn vào dịp Tết Mậu Thân 1968 đã phô bày tất cả những gì tàn bạo, phi luân nhất, châm ngòi cho ngọn lửa phản đối cuộc chiến tranh bẩn thỉu, đầy tội ác ở Việt Nam cháy bùng khắp nơi trên thế giới, đốt bỏng cả trong lòng nước Mỹ. Đao phủ trong bức ảnh, kẻ sau này suốt đời bị lên án, khinh miệt và ghê tởm là một viên tướng Việt Nam Cộng hòa, nổi tiếng với biệt danh “Sáu Lèo” Nguyễn Ngọc Loan.
Xuất thân thượng lưu, có học, có bằng cấp, nhưng từ hình thức bên ngoài, đến tính cách, lời ăn tiếng nói của Nguyễn Ngọc Loan đều chẳng khác gì một tay du thủ, du thực. Một thời, ông ta từng nắm giữ quyền lực trong tay, nhưng không hề được đồng sự, các chính khách và quần chúng ở miền Nam kính trọng. Thay vào đó là sự khinh miệt và sợ hãi. Người ta đã nhìn Loan như một hung thần với khuôn mặt của kẻ sát nhân.
Nguyễn Ngọc Loan sinh năm 1930 tại Thừa Thiên - Huế. Cha của Loan là ông Nguyễn Ngọc Lợi, kỹ sư công chánh, nguyên Trưởng khu Hỏa xa Huế. Năm 1951, Loan gia nhập quân đội và theo học khóa 1, Trường sĩ quan Thủ Đức, ra trường tình nguyện tham gia lực lượng Xung kích Pháp-Việt. Pháp chủ trương "Việt Nam hóa chiến tranh", Loan là một trong những người được chọn và được gửi sang Pháp thụ huấn tại Trường Không quân Salon-de-Provence, tốt nghiệp bằng kỹ sư hàng không, sau này trở thành phi công lái khu trục cơ đầu tiên của không lực miền Nam.
Năm 1960, Nguyễn Ngọc Loan giữ chức vụ chỉ huy trưởng Phi đoàn 2 Quan sát, trú đóng tại Nha Trang. Đồng ngũ biết đến Loan như một tay ăn nói bỗ bã, rượu như hũ chìm nhưng nổi tiếng keo kiệt, bủn xỉn.
Trong hồi tưởng của cựu Trung tá phi công Nguyễn Văn Cử, (về sau là dân biểu Quốc hội Sài Gòn), người đã ném bom dinh Độc Lập, ám sát hụt Ngô Đình Diệm vào sáng ngày 27/2/1962, thì Nguyễn Ngọc Loan là một kẻ bần tướng, mặt dơi, tai chuột, tướng cách của một kẻ tàn độc, phản phúc và ti tiện. Thuở còn giữ chức vụ phi đoàn trưởng Phi đoàn 2 quan sát, Nguyễn Ngọc Loan thường hay hứa sẽ đề nghị thăng thưởng cho thuộc cấp nhưng chẳng bao giờ thực hiện. Bạn bè mời nhậu nhẹt, Loan nhiệt tình tham gia nhưng chẳng bao giờ mời ai một lần nào cả.
Có người không nhịn được, đã nửa đùa nửa thật: "Tới lượt thằng Loan đi chớ, cứ ăn chực anh em hoài coi sao được!". Nguyễn Ngọc Loan vừa cười, vừa hứa chắc như đinh đóng cột: "Được thôi, "moa" mời các "toa" đúng 10 giờ sáng chủ nhật, tại quán số 5 ngoài bãi biển, ai đến trễ sẽ bị phạt". Đúng hẹn, mọi người có mặt đầy đủ, nhưng chủ xị lại bặt vô âm tín! Ngồi chờ đến trưa chẳng thấy Loan đâu, có người giận quá, buông tiếng chửi thề và bảo: "Đúng là thằng "Sáu Lèo!". Biệt danh khinh thị dính chặt đời Loan từ đó.
Năm 1964, Nguyễn Ngọc Loan lên đại tá, giữ chức vụ Tư lệnh phó Không quân, Nguyễn Cao Kỳ làm Tư lệnh. Ngày 11/2/1965, trong chiến dịch có tên gọi là "Mũi tên lửa" (Flaming Dart), Nguyễn Ngọc Loan đã điên cuồng dẫn đầu các phi đoàn khu trục cơ A1 Skyraider của không quân Sài Gòn, đánh phá Hà Tĩnh, và Quảng Bình. Sau sự kiện này, Loan được Kỳ thăng Chuẩn tướng và được điều về làm Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, kiêm Giám đốc Nha An ninh quân đội, phụ trách luôn Phủ đặc ủy Trung ương tình báo. Ông ta trở thành một hung thần, và là cánh tay mặt của Nguyễn Cao Kỳ.
Nắm một loạt quyền cao, chức trọng nhưng Loan lại trang phục lôi thôi lếch thếch, chân luôn đi đôi dép lẹp xẹp, kể cả khi ông ta chủ trì, hoặc tham dự những phiên họp quan trọng. Đã thế, Loan thường cầm trên tay một chai bia, ngửa cổ tu ừng ực như một bợm nhậu thứ thiệt, chửi thề văng mạng như một kẻ đầu đường xó chợ. Thượng nghị sĩ Thái Lăng Nghiêm, một trong những cố vấn chính trị của nhóm Nguyễn Cao Kỳ đã nhiều lần than phiền về cách ăn mặc và thái độ cư xử vô văn hóa của Nguyễn Ngọc Loan. Ông Kỳ cũng chỉ biết thở dài: "Biết thế, nhưng nó được cái rất trung thành và dám làm những việc mà người khác không dám làm".
Thật vậy! Trong một phiên họp tại trụ sở Quốc hội Sài Gòn, Loan ngồi trên lầu, trang phục như một tên du côn, gác cả hai chân lên một két bia, để cuốn sổ và khẩu súng rulo trước mặt. Trên tay cầm một cây gậy, Loan vừa ngửa cổ tu bia, vừa chĩa gậy thẳng xuống những dân biểu nào phát biểu không có lợi cho phe cầm quyền và lật sổ ghi chép tên tuổi của họ. Nhiều dân biểu đã phản ứng, cho rằng đó là một hành động khủng bố, mang tính chất miệt thị, trấn áp thành phần đối lập trong Quốc hội. Nguyễn Ngọc Loan đáp trả, tuy không chính thức, nhưng cũng đủ vọng đến tai số dân biểu này: "Bọn dân biểu chỉ ăn hại đái nát. Có giỏi thì cầm súng ra trận mà đánh nhau. Dẹp luôn cái quốc hội bù nhìn này đi cũng chẳng hề hấn chi".
Chiến sĩ đặc công Nguyễn Văn Lém bị bắt giải đến cho Nguyễn Ngọc Loan và bị Loan bắn chết. Bức ảnh này đã bị dư luận kịch liệt lên án.
Loan cũng là kẻ thừa mưu mô xảo quyệt. Giữa tháng 3/1965, dân chúng Đà Nẵng-Huế rầm rộ xuống đường biểu tình chống chế độ độc tài quân sự Thiệu - Kỳ với đủ mọi thành phần, cả công chức, quân nhân cũng tham gia. Trung tướng Nguyễn Chánh Thi đã ngã hẳn và trở thành người đứng đầu phe ly khai. Ngày 1/4/1966, Nguyễn Cao Kỳ gửi Trung tướng Phạm Xuân Chiểu ra Đà Nẵng để điều đình. Phe ly khai đã bắt giữ luôn sứ giả để làm con tin. Tình hình trở nên không thể kiểm soát. Nhiều tướng lĩnh, chỉ huy cao cấp đã đưa cả đơn vị mình nhập luôn vào thành phần ly khai, sẵn sàng chống trả nếu chính quyền Sài Gòn đưa quân ra trấn áp
Ngày 14/5/1966, qua cầu không vận của quân đội Mỹ, 5 tiểu đoàn nhảy dù, 2 tiểu đoàn Thủy quân lục chiến và một biệt đoàn Cảnh sát dã chiến do Nguyễn Ngọc Loan chỉ huy đã đến Đà Nẵng để dẹp quân ly khai. Thoạt đầu, Nguyễn Ngọc Loan bàn với Nguyễn Cao Kỳ cho chiến đấu cơ cất cánh uy hiếp các vị trí của Trung đoàn 51 Bộ binh và Tiểu đoàn 11 Biệt động quân đã ly khai. Trung tướng Waltz, Tư lệnh Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tại Đà Nẵng phản ứng gay gắt ý đồ này. Ông ta khuyến cáo, nếu chiến đấu cơ của Việt Nam Cộng hòa cất cánh, ông ta sẽ cho không quân Mỹ ngăn chặn. Nhưng về sau, khi phe ly khai đập phá lãnh sự quán và các cơ quan trực thuộc của Mỹ tại Đà Nẵng và Huế thì chính các cố vấn Mỹ cũng làm ngơ để cho Nguyễn Ngọc Loan bạo hành.
Trong thành phần ly khai cố thủ Đà Nẵng có Tiểu đoàn 11 Biệt động quân của đại úy Nguyễn Thừa Dzu ra khỏi vòng chiến. Có kẻ mách Loan, Nguyễn Thừa Dzu có một người bạn chí thân là Nguyễn Tự Cường, hiện đang ngồi tù tại Cục An ninh quân đội. Cường nguyên là đại úy, là tay chân thân tín của lãnh chúa miền Trung Ngô Đình Cẩn. Sau biến cố ngày 1/11/1963, Ngô Đình Cẩn bị xử bắn, Cường phải chịu kiếp tù đày. Nay có thể dùng Nguyễn Tự Cường làm thuyết khách.
Thế là Cường được dẫn đến, Nguyễn Ngọc Loan hăm dọa: "Mày là bạn chí cốt của thằng Dzu. Nếu mày chiêu hồi được nó, tao sẽ bạch hóa hồ sơ của mày và cho mày lẫn thằng Dzu những chức vụ ngon lành. Còn nếu mày không làm được, thì một là đi theo nó luôn, hai là tiếp tục ngồi tù". Nguyễn Tự Cường hăng hái nhận lời và đã thuyết phục được Dzu.
Tối hôm đó, Nguyễn Ngọc Loan đã cho người đi đón tiểu đoàn của Nguyễn Thừa Dzu rút ra Cầu Đỏ, để lại một lỗ thủng quan trọng cho quân ly khai và còn khiến cho Trung đoàn 51 mất hết tinh thần phản kháng. Hôm sau, 23/5/1966, Nguyễn Ngọc Loan xua quân nhảy dù tiến vào thành phố và nhanh cóng làm chủ tình hình Đà Nẵng. Nguyễn Tự Cường và Nguyễn Thừa Dzu lại theo Nguyễn Ngọc Loan ra Huế...dẹp loạn. Khi tình hình ở miền Trung ổn định, Cường được thăng thiếu tá, làm Trưởng ty An ninh quân đội Đà Nẵng. Còn Nguyễn Thừa Dzu cũng lên thiếu tá, về làm Trưởng ty cảnh sát một quận ở Sài Gòn
Tại Huế, người dân đã đưa bàn thờ Phật xuống đường làm vật cản chân đoàn quân của Nguyễn Ngọc Loan. Nhưng với Loan, thì sá chi Phật thánh! Ông ta ngồi trên xe jeep, chạy quanh khắp mọi ngõ ngách, đích thân đạp đổ không biết bao nhiêu bàn thờ. Người dân Huế nói: "Sáu Lèo" đã đem dùi cui, lựu đạn cay và còng số 8 làm quà tặng nơi ông ta chôn nhau cắt rốn. Biến động miền Trung hạ màn và Loan được Nguyễn Cao Kỳ phong hàm thiếu tướng. Từ đó, bệnh công thần càng khiến cho con người Nguyễn Ngọc Loan trở nên kiêu binh và tàn bạo hơn nữa.
Đỉnh cao tội ác, bộ mặt sát nhân của Nguyễn Ngọc Loan lộ rõ vào Tết Mậu Thân (1968). Cho đến 2 giờ sáng ngày mồng Một tết, khi chiến sự đã bùng nổ dữ dội khắp mọi nơi, ngay giữa lòng thành phố Sài Gòn thì Loan mới bừng tỉnh, và lồng lộn lên bởi sự yếu kém của bộ máy tình báo do ông ta cầm đầu. Tại Thị Nghè (nhiều tài liệu khác cho là tại đường Lý Thái Tổ hoặc tại một con đường trong Chợ Lớn), binh lính của Nguyễn Ngọc Loan đã bắt giữ, trói thúc ké và dẫn giải một người đàn ông mặc thường phục đến trước mặt ông ta và cho rằng đó là một người lính đặc công của Việt Cộng.
Nguyễn Ngọc Loan cầm chiếc khăn lau mặt trên tay, ra hiệu cho đám bộ hạ lùi ra xa, rồi tiến sát bên người đàn ông đó. Mặt lạnh như tiền, không nói một lời, Loan quăng điếu thuốc đang hút dở xuống đất, giơ thẳng cánh tay phải, dí súng sát thái dương của người đàn ông (sau này được xác định là chiến sĩ đặc công Bảy Lốp, tức Nguyễn Văn Lém; có tài liệu xác định là chiến sĩ Nguyễn Văn Nà) và bóp cò. Nạn nhân ngã xuống, máu lênh láng cả mặt đường và chết ngay lập tức.
Nhà báo Mỹ Eddie Adams kịp thời thu vào ống kính, và phóng viên Neil Davis của Đài ABC-Úc quay những thước phim rất rõ ràng, gây sốc cho hàng triệu lương tri trên thế giới. Bức ảnh như một ngọn cuồng phong thổi bùng ngọn lửa phản chiến ở khắp nơi. Năm 1969, nhờ bức ảnh, Eddie Adams đoạt giải Pulitzer danh giá về ảnh báo chí.
Ác giả tất có ác báo. Tháng 5/1968, trong tổng công kích Mậu Thân đợt 2, khi Nguyễn Ngọc Loan đang điều binh khiển tướng tại Chợ Lớn, thì một chiếc trực thăng UH1B, chẳng biết xuất phát từ đâu, thuộc đơn vị nào, xuất hiện trên bầu trời bộ chỉ huy của Loan. Loan ra lệnh thả một trái khói màu tím để báo mục tiêu. Nào ngờ chiếc trực thăng đảo một vòng, nã rocket và xả đại liên xuống bộ chỉ huy của Loan, rồi bay thẳng về phía Biên Hòa.
Dư luận cho rằng, đó là chiếc trực thăng của quân đội Mỹ, được lệnh bí mật giúp Nguyễn Văn Thiệu trừ khử bớt tay chân của Nguyễn Cao Kỳ mà Nguyễn Ngọc Loan là đối tượng số 1. Sự cố này chỉ làm cho Nguyễn Ngọc Loan gãy chân, nhưng 4 viên đại tá thân tín của ông ta là Lê Ngọc Trụ, Đào Bá Phước, Phó Quốc Chụ và Nguyễn Văn Luận cùng với 2 trung tá Nguyễn Ngọc Xinh, Nguyễn Bảo Thụy chết ngay tại chỗ. Nhân cơ hội Nguyễn Ngọc Loan sang Úc trị thương, Nguyễn Văn Thiệu đã loại Loan ra khỏi các chức vụ để thay thế người của mình vào. Về lại Việt Nam, Nguyễn Ngọc Loan bị loại ngũ, và sống bằng chế độ trợ cấp dành cho cấp tướng về hưu.
Sau năm 1975, dư luận xã hội Mỹ không chấp nhận một kẻ sát nhân, một tội phạm chiến tranh như Loan, xua đuổi không muốn cho ông ta định cư. Năm 1976, hai dân biểu của đảng Dân chủ Mỹ là bà Elizabeth Holtzman và ông Harold Sawer, đã thay mặt "người đàn ông bị Loan hạ sát trên đường phố" kiện Loan như một tội phạm chiến tranh và yêu cầu trục xuất Loan ra khỏi nước Mỹ. Sau đó mọi việc đã chìm xuồng, bởi người Mỹ cũng không muốn khơi lại một vết nhơ mà họ từng can dự. Nguyễn Ngọc Loan mở một quán ăn nhỏ tại thành phố Springfield, tiểu bang Virginia, thường xuyên bị người chung quanh phản đối và xa lánh. Có người đã xịt sơn lên cửa quán của ông ta hàng chữ: "Ta đã biết ngươi là ai rồi".
Nguyễn Ngọc Loan chết năm 1998. Ông ta đã phải sống những ngày cuối đời trong sự cô quạnh, túng quẫn và ô nhục như thể phải gồng lưng trả nợ cho những tội ác đã gây ra trong chuỗi ngày nắm quyền lực trong tay.
Theo CAND
 
Tướng Nguyễn Ngọc Loan Sống Trong Ô Nhục Và Nghèo Đói Trên Đất Mỹ

Ai đã bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?s

Sát thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một
hạ sĩ quan TQLC Hoa kỳ làm việc cho CIA Sài Gòn.
Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Nguyễn Du

VTT-ZZJUNE-2-NNLOAN.jpg

Cho đến nay các sử gia đều tin rằng tấm hình nổi tiếng một thời của Eddie Adams đã kết liễu cuộc đời binh nghiệp của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Không sai, nhưng chỉ đúng một nửa. Chính nhiếp ảnh gia đoạt giải Pulitzer của AP này đã viết trong tuần báo TIME (1): “Ông tướng giết thằng Việt Cộng; tôi giết ông tướng bằng máy chụp hình của tôi”. Đó là tấm hình chụp tướng Loan thản nhiên hành quyết một tù binh cộng sản bị còng tay sau lưng, mặt mếu máo. Một hành vi sát nhân ghê tởm gây chấn động toàn thế giới. Mặc dù sau đó Adams đã thú nhận: “Người ta tin vào hình ảnh, nhưng hình ảnh cũng nói dối, cho dù không có sửa đổi gì. Chúng chỉ là những nửa sự thật”. Dẫu vậy nhưng nó cũng đã đánh dấu khúc ngoặt quan trọng của cuộc chiến: Dư luận phản chiến nở rộ tại Hoa kỳ đã khiến Tổng thống Johnson mất niềm tin vào một chiến thắng quân sự tại miền Nam Việt Nam. Và cuộc thương thảo với Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam (MTGPMN) đã diễn ra sau đó dưới triều đại Nixon như giải pháp duy nhất đem lại hòa bình.
Đằng sau tất cả những sự kiện lịch sử ấy là chuyển động âm thầm nhưng có ảnh hưởng quyết định của tình báo chiến lược. Cơ quan CIA (Tình Báo Trung Ương) Hoa kỳ và đối tác VNCH ở cấp cao đã phải đối mặt với những tình huống gây ra mâu thuẫn trầm trọng giữa một bên là MACV (Bộ Tư Lệnh Quân Sự Mỹ), CIA, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và bên kia là Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia khi ấy do Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan nắm giữ. Bối cảnh chung là cuộc tấn công bất ngờ của Việt Cộng – khi ấy vẫn được báo chí Mỹ coi là MTGPMN, tách biệt với Cộng Sản Bắc Việt (CSBV), một huyền tích chỉ được giải ảo sau 1975 – trong dịp hưu chiến Tết Mậu Thân (tháng 1, 1968).
Nguyễn Ngọc Loan: Ông là Ai?
Tướng Nguyễn Ngọc Loan, hỗn danh Sáu Lèo, sinh năm 1930 tại Huế. Chị cả của ông, bà Bích Hồng, là phu nhân Đại tá Bác sĩ Văn Văn Của, nguyên Đô trưởng thành phố Sài Gòn (1965-68) (2). Ông học trường Trung học Albert Sarraut và đậu Tú tài Toán toàn phần rồi bị động viên Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam Định). Thiếu úy Loan theo học Trường Sĩ quan Không quân Pháp Salon de Provence năm 1953 rồi thực tập hoa tiêu khu trục phản lực tại căn cứ Meknes, Maroc, trở thành phi công khu trục phản lực đầu tiên của Không lực VNCH. Về nước, ông được bổ nhiệm Phi đoàn trưởng Phi đoàn 2 Quan sát. Được thuộc cấp nể trọng nhưng ông không được các sĩ quan Cố vấn Hoa kỳ ưa thích vì ông hay đả kích lề lối làm việc máy móc của họ.
Năm 1964, ông Loan thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm “Tư lệnh Phó Không Quân VNCH” dưới quyền Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1965, vinh thăng Chuẩn tướng, ông tham dự chiến dịch không kích Bắc Việt trong khu vực Đồng hới – Vĩ tuyến 17 (Bến Hải).
Những năm kế tiếp, tướng Loan được đề cử đảm nhiệm 3 chức vụ an ninh, tình báo quan yếu của VNCH:
– Đặc ủy trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
– Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và
– Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội.
Lòng tận tụy với trách nhiệm nặng nề và tính “bất cần đời” của tướng Loan, coi cái chết “như pha” tạo cho ông một cá tính gồ ghề, bề ngoài tưởng như ngổ ngáo, hãnh tiến, nhưng thật ra ông là con người đầy cảm tính và “cận nhân tình”, được cấp dưới nể trọng và bạn hữu chí tình thương mến. Thỉnh thoảng gặp ông tại Phủ Thủ Tướng (Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương – UBHPTƯ), ông cười nói xuề xòa, moa moa, toa toa, miệng không ngớt chửi thề: đ.. cụ, đ.. cụ.
Tuy nhiên, Định Mệnh dường như đã an bài cho ông một số phận khắc nghiệt. Chỉ nội trong ngày 31 tháng 1 năm 1968, sự nghiệp của ông được kể như chấm dứt vì một quyết định làm cho người Mỹ coi ông là kẻ phản bội. Mặt khác, có thật là bức hình của Eddie Adams chụp cảnh ông xử bắn tên đặc công Lém ở đường Ấn Quang ngày 4 tháng 2, 1968 mới là nguyên nhân chính? Sự thực không phải như vậy.
Hoa kỳ đi đêm với MTGPMN
Kề từ tháng 2 năm 1967, Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Sài Gòn đã có những tiếp xúc sơ bộ với một số cán bộ cấp thấp thuộc MTGPMN. Sau đó,với sự trợ giúp của Tình báo Hải ngoại Pháp (SDECE, Service de Documentation et de Contre-Espionage), cộng đồng tình báo Mỹ ở Việt Nam đã bắt tay được với những nhân vật trọng yếu của Cục R (Trung Ương Cục miền Nam) và MTGPMN như: Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống, Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng, Cục trưởng Cục R (3).
Sau việc hộ tống êm thắm vợ con Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng ra vùng “giải phóng” an toàn, Sứ quán Hoa kỳ móc nối với Nguyễn Thị Bình (qua trung gian LS Đinh Trịnh Chính, Bộ trưởng Chiêu Hồi, Dân Vận VNCH) toan tính thành lập chính phủ “liên hiệp hòa giải dân tộc” với 2 thành phần: MTGPMN và chính quyền VNCH.
Tất cả những tiếp xúc “đi đêm” nói trên đều không lọt qua con mắt của tướng Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Tướng Loan ra lệnh cho S-6 (Cảnh Sát Đặc Biệt) tống giam một số nhân vật MTGPMN khi ấy đang được Sứ quán Hoa kỳ bảo vệ tại các “nhà an toàn” (safe house) ở ven đô Sài Gòn và Tây Ninh. Sứ quán Hoa kỳ gây áp lực với tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch UBHPTƯ, phải thả lập tức các sứ giả MTGPMN và yêu cầu các cơ quan an ninh VNCH không được phép xâm nhập các nhà an toàn và những khu vực dành riêng cho nhân viên ngoại giao Hoa kỳ trên khắp lãnh thổ VNCH.
Mặt khác, Tổng thống Lyndon B. Johnson được Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker bảo đảm rằng Sài Gòn là thủ đô an toàn và Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Saigon là khu vực an ninh 100% không bao giờ bị tấn công vì đây sẽ là địa điểm mật đàm đã được thỏa thuận giữa Hoa kỳ và MTGPMN.
Tòa Đại sứ Hoa kỳ rơi vào tay Đặc Công CSVN
Trong trận mở màn Chiến dịch Tổng Tấn Công – Tổng Khởi Nghĩa của CSVN, một biến cố ít ai biết đến, kể cả báo chí Mỹ, là Tòa ĐS Hoa kỳ đường Thống Nhất đã rơi vào tay Đặc công CS ngay những phút đầu. Đó là hậu quả của việc tướng Loan đã cho rút 2 trung đội Cảnh Sát Dã Chiến bảo vệ bên ngoài TĐS Mỹ về tăng cường cho Dinh Độc Lập.
Diễn tiến: Tổ C-10 gồm 18 tên đặc công CS thuộc Tiểu đoàn Đặc công 276 của Đặc Khu Ủy Sài gòn – Chợ Lớn đã xuất phát lúc 1 giờ đêm 31 tháng 1, 1968 từ tiệm Phở Bình đường Yên Đổ, góc Hai Bà Trưng, trên 1 xe van mầu trắng. Hai giờ sáng, xe dừng trước cửa sau Tòa ĐS đường Mạc Đĩnh Chi lúc đó chỉ có một tiểu đội Quân Cảnh Mỹ giữ an ninh phía trong. Bọn đặc công CS chia làm 6 mũi khai hỏa tấn công. Chúng dùng bộc pha, B-40 và AK-47 báng xếp triệt hạ vọng gác của Cảnh sát QG đặt giữa Lãnh sự và tòa nhà chính. Nhưng vọng gác này đã bỏ trống từ chiều hôm trước cùng lúc với hai trung đội Cảnh Sát Dã Chiến, theo lệnh của tướng Loan.
Hai tên đặc công tấn công vào cửa chính Tòa ĐS, tức thì bị QC Mỹ hạ sát. Sau đó QC Mỹ rút vào trong và dùng radio cầu cứu. Hai tên đặc công khác dùng bộc pha phá thủng một lỗ lớn tường rào góc đường Thống Nhất – Mạc Đĩnh Chi, giúp cho toàn bọn C-10 tràn vào vườn hoa rồi tiến chiếm Lầu 1 và Lầu 2 trong khi QC Mỹ rút lên Lầu 3 cố thủ. Lầu 2 Đại Sứ quán Mỹ là Tổng Hành Dinh Tình Báo Chiến Lược của Hoa kỳ ở Đông Nam Á. Toàn bộ tài liệu mật mã “Tuyệt Mật” của CS Bắc Việt mà Mỹ thủ đắc được từ 1961, gồm hồ sơ chính sách, cương lĩnh, nghị quyết tấn công quân sự miền Nam, cùng các tài liệu khác liên quan đến cuộc chiến, đều được lưu trữ trong các tủ và két sắt Diebolt nặng trên 1 tấn (4). Bốn tên đặc công CS cố thủ Lầu 2 ra sức cậy phá, tháo gỡ 6 ổ khóa của 12 két sắt nhưng vô hiệu.
Mười hai giờ khuya (12 giờ trưa Washington, D.C.), tại trụ sở CIA, Giám Đốc Richard Helms đang khoản đãi ông William Colby, tân Giám đốc CORDS (5) Việt Nam. Giữa tiệc, một thiếu tá tùy viên hối hả xin gặp để trình một công điện Hỏa Tốc từ MACV: “Trụ sở CIA và Sứ quán Hoa kỳ Saigon đã lọt vào tay đặc công MTGPMN từ 1 giờ sáng 31 tháng 1, 1968”. Cùng lúc, Tòa Bạch Ốc cũng nhận được công điện hỏa tốc: “Saigon đang bị 5 tiểu đoàn địa phương MTGPMN tấn công ồ ạt. Tòa ĐS ở trung tâm thủ đô thất thủ. Bộ Tư Lệnh MACV và Bộ TTM/QLVNCH tràn ngập khói súng, chống trả yếu ớt vì bị bất ngờ”.
Giám đốc CIA Richard Helms đọc công điện 3 lần vẫn cả quyết với quan khách: “Đây là những ‘điều giả tưởng’ không thể nào có thể xẩy ra được với Hoa kỳ”.
Sáu giờ sáng, một đại đội xung kích thuộc Sư đoàn Không kỵ 101 được trực thăng vận đổ xuống từ nóc Tòa ĐS, đột nhập Lầu 3 rồi Lầu 2, cận chiến với 12 đặc công CS, tiêu diệt toàn bọn và giải tỏa Tòa ĐS — biểu tượng của sức mạnh Hoa kỳ tại Đông Nam Á.
Lãnh đạo VNCH, đệ I và II Cộng Hòa, biết gì?
Đầu tháng 2, 1975, tôi đến Washington D.C. nhận nhiệm vụ Tùy Viên Lục Quân tại Tòa Đại sứ VNCH, ưu tiên tìm hiểu và báo cáo về quân viện Mỹ cho VNCH lúc đó đang lửng lơ. Một chị bạn nhà tôi, tên Dung, Đệ Nhị Tham Vụ, mời tôi đi ăn lunch. Tò mò, tôi hỏi chị: “Tòa Đại Sứ mình vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ra sao?” Chị đáp: “Tôi vẫn bỏ tiền túi mời mấy ông dân biểu đi ăn lunch”. Vậy thôi?
Tôi nghĩ, từ Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu, các nhà lãnh đạo VNCH có thể ví như những người đi buôn không vốn, không hiểu rành rọt về tổ chức và vận hành của chính quyền Hoa Kỳ, cho nên không biết đến hiệu quả của “lobby” và không giám hay không biết “chi” cho nỗ lực này vì không vốn (?). Khoảng cuối thập niên 70 bỗng sì căng đan “Koreagate”, bùng nổ. Điệp viên KCIA (Tình Báo Trung Ương Đại Hàn) Tongsun Park đã tung hàng trăm ngàn đô mua chuộc ảnh hưởng của một số nhà lập pháp Hoa kỳ để chống lại nguy cơ Nixon đòi rút quân khỏi Nam Hàn như đã làm ở Nam Việt Nam khiến VNCH rơi vào tay CSBV. Ở đời ai dại, ai khôn? Thành thử, chúng ta luôn luôn cầm dao đằng lưỡi để cho đối phương tuốt dao máu chẩy thành vòi! Lý do: không nắm được những nguyên lý căn bản về Tình Báo Chiến Lược để sử dụng nó hữu hiệu trong chiến tranh.
Có ai ý thức được rằng Hoa kỳ ào ạt đổ quân vào Việt Nam, thật ra, không phải là để bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của VNCH?
Có ai ý thức được rằng, với Hoa kỳ, không có quốc gia nào là bạn lâu dài và cũng chẳng có nước nào là kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi của Hoa kỳ là vĩnh cửu?
Có ai biết rằng: Trong thời gian CSVN làm xiếc đi giây giữa Liên Xô và Trung Cộng, Trung Cộng coi VNCH là bạn và là đối trọng răn đe CS Bắc Việt? Với Trung Cộng, Liên Xô và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) là hai kẻ thù không đội trời chung? Mặc dầu Mao vẫn chi viện cho Hồ để đoạt hai chiến thắng vang dội: Chiến dịch Biên giới 1950 và Điện Biên Phủ, 1954. Nhưng cũng vì vậy mà Trung Cộng phải dè chừng. Cuộc chiến biên giới 1979 đã chứng minh cho điều này khi Đặng Tiểu Bình muốn “dậy” cho Việt Nam một bài học.
images?q=tbn:ANd9GcTYS11fRrgxUKavrO6Q0RJ-_QtltM5l1--v0v6UfY1QKRYVe7YViA
Tướng Nguyễn Ngọc Loan
CIA ra lệnh thủ tiêu Nguyễn Ngọc Loan
Tháng 4 , 1968, Cố vấn trưởng Cảnh sát Quốc gia VNCH, J. Accompura (nguyên đại tá Lục quân Hoa kỳ) được mời đến gặp vị tân Trưởng Trạm CIA (Station Chief) tại VNCH, ông George Weisz đến thay thế ông Jorgensen. Không úp mở, ông Weisz cho Accompura hay: “Chính phủ Hoa kỳ quyết định thủ tiêu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát QGVN, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan”.
Mặc dầu làm cố vấn cho tướng Loan chưa được 2 năm, Accompura lại rất thân tình và cảm mến ông. Accompura dấu kín chuyện CIA sẽ thủ tiêu ông, nhưng yêu cầu tướng Loan không được rời khỏi Dinh Độc Lập và không được tham gia bất cứ trận đánh nào có mục đích tiễu trừ các lực lượng MTGPMN tại trung tâm và ven đô Sài Gòn. Tướng Loan hứa xuông với Accompura cho qua chuyện, nhưng ông không ngồi yên.
Ở đâu có tiếng súng AK-47 là ông nhào tới. Chỉ cần một tấm áo giáp, một khẩu M-16, với 12 băng đạn 5.56 ly vòng quanh bụng, đầu không nón sắt, chân dép cao su, không lon không lá, tướng Sáu Lèo lâm trận… không coi mũi tên hòn đạn của kẻ thù có kí lô nào. Một Don Quixote hay Triệu Tử Long? Có lẽ cả hai gom một. Nhiều người coi ông như “người hùng đơn độc”, một phán xét có phần cảm tính. Tôi quan niệm đơn giản: Ông là người chỉ huy biết lãnh đạo. Lãnh đạo bằng cách làm gương, nghĩa là sát cánh cùng quân sĩ, đồng lao cộng khổ, ngay nơi trận tiền. A true leader. Phải nói như thế. Như người Mỹ thường nói.
Đầu tháng 5, 1968, hay tin VC tràn về khu Tân Cảng, tướng Loan điều động 2 đại đội CS Dã Chiến truy kích Tiểu đoàn Thủ-Biên (6) MTGPMN đang đốt nhà dân để “chém vè” vì bị trực thăng võ trang UH-1B của Sư đoàn 25 BB Mỹ tấn kích từ phía bắc cầu Sài Gòn. Hay tin tướng Loan dẫn CSDC ra Tân Cảng, Accompura vội nhẩy xe Jeep Cảnh sát chặn đoàn xe của ông Sáu Lèo ở ngã tư Dakao – Phan Thanh Giản và yêu cầu ông cùng về Tổng Nha tham dự buổi họp Chương Trình Phượng Hoàng do W. Colby chủ tọa. Tướng Sáu Lèo từ chối.
Ai bắn nát chân tướng Loan?
Tin tức loan tải: 11 giờ 45 ngày 7 tháng 5, 1968, một tên VC núp dưới chân cầu Sài Gòn bắn sẻ viên đạn “dum dum” (7) phá vỡ nát bắp chân trái tướng Nguyễn Ngọc Loan.
Các bác sĩ giải phẫu tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, sau khi khám vết thương, nêu thắc mắc và khẳng định:
– Đầu đạn phá nát bắp chân trái tướng Loan không phải là “dum dum”. Nếu phải thì nó phải để lại những mảnh li ti và dấu vết thuốc nổ khi đầu đạn nổ lần thứ 2.
– Súng xung kích AK-47 của CS Bắc Việt sử dụng ở miển Nam không trang bị loại đạn “dum dum”.
– Súng bắn sẻ CKC của Tiệp Khắc cũng không trang bị đầu đạn “dum dum”.
– Đầu đạn AK-47 và CKC không phải là đạn xuyên phá. Loại đạn này chỉ tạo 1 lỗ nhỏ đường kính không quá 1 cm ở mặt trước vết thương, và mặt sau ít khi có lỗ rộng quá 5 cm.
Có lẽ chỉ có cố vấn Accompura biết rõ viên đạn làm tan nát cuộc đời binh nghiệp của tướng Loan là loại đạn gì. Và sát thủ là ai?
2005: Sau rốt, màn bí mật cũng được vén lên, bởi không ai khác là chính Accompura.
Sát thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một hạ sĩ quan TQLC Hoa kỳ có vợ Việt Nam, làm việc cho CIA Sài Gòn. Khẩu súng bắn lén tướng Loan là M-16 gắn viễn vọng kính. Viên đạn M-16 cỡ 5.56 mm thuộc loại Flechette (8). Chi tiết được biết thêm:
Sát thủ đứng trên sàn trực thăng võ trang UH-1B, qua viễn vọng kính đã lẩy cò khi chiếu môn thập tự [+] nhắm trúng đầu tướng Loan. May thay,“Thiên bất dung gian”, người không thể giết người, chỉ có Trời mới giết được người. Lúc sát thủ lẩy cò cũng vừa là lúc trực thăng gặp “air turbulence” hụt hẫng đưa viên đạn trúng bắp chân trái Sáu Lèo đang gác trên thành cầu thay vì trúng đầu ông. Viên đạn Flechette 5.56mm đã phá nát bấy toàn thể bắp chân trái tướng Loan, cắt đứt gân lòng thòng và động mạch tiếp tế máu cho bàn chân.
Bác sĩ Trưởng Khoa Giải Phẫu Tổng Y Viện Cộng Hòa đề nghị cắt bàn chân bởi vì động mạch đã bị phá nát, nếu không, một thời gian ngắn bàn chân sẽ bị hư thối.
Tướng Loan yêu cầu, bằng mọi cách, giữ lại bàn chân trái cho ông.
Ảnh hưởng tiêu cực của tấm hình hay do lệnh CIA?
Bác sĩ cố vấn trưởng Tổng Y Viện đề nghị đưa tướng Loan đến điều trị tại Bệnh viện Quân Y Mỹ tại Long Bình. Giám đốc Bệnh viện từ chối vì không có khả năng nối động mạch vi ti ở bắp chân.
Tướng Kỳ yêu cầu MACV can thiệp với Hạm Đội 7 có tầu bệnh viện đón nhận tướng Loan để chữa trị. Tầu Bệnh Viện Đệ Thất Hạm Đội từ chối.
Chính phủ VNCH yêu cầu Tòa Đại sứ Hoa kỳ giúp đỡ đưa tướng Loan đến Bệnh viện Jama trên đất Nhật. Tòa Đai sứ Hoa kỳ khước từ.
Không thể trông cậy vào Đồng minh Hoa Kỳ giúp đỡ, tướng Kỳ cuối cùng nhờ đến Tòa Đại sứ Úc chấp thuận cho tướng Loan được điều trị tại Canberra. Chính quyền Canberra khước từ lời yêu cầu của VNCH, viện cớ dư luận dân chúng Úc không đồng tình chứa chấp một kẻ giết tù binh chiến tranh không vũ khí trong tay (9).
Tướng Loan giải ngũ, trở lại đời sống dân sự. Tướng Kỳ mất một người vừa là bạn thân, vừa là quân sư lỗi lạc trong cuộc đời tham chính của mình.
Hoa kỳ không giết chết được Loan nhưng vẫn căm tức “Sáu Lèo” một lúc phá hỏng hai giải pháp chính trị và quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Họ quả quyết: “Nếu Loan không rút 2 trung đội Cảnh sát Dã chiến bảo vệ Sứ quán ở đường Thống Nhất thì không tài nào tổ đặc công C-10 của MTGPMN có thể xâm nhập thành lũy tối cao và kiên cố nhất của Mỹ, làm ô danh siêu cường số 1 thế giới”.
Rất có lý, nhưng Hoa kỳ vẫn khờ khạo khi tin rằng “nắm được Nguyễn Thị Bình, Trần Bạch Đằng và Trần Văn Trà là chế ngự được thế thượng phong quân sự của đối phương”. Sự thực phũ phàng là [như ngày nay ai cũng biết] Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy Tết Mậu Thân 1968 của CSVN là thuộc quyền quyết định và được điều khiển bởi Lê Đức Thọ, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam và Võ Văn Kiệt, Bí thư Đặc ủy Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn.
Lý do tướng Loan rút 2 trung đội CSDC bảo vệ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ trên đường Thống Nhất rất đơn giản và ngay thẳng. Đã là nơi sẽ diễn ra thương thảo giữa MTGPMN và Hoa Kỳ, thì VNCH cần gì phải canh gác? Đó là trách nhiệm của Mỹ.
Dự tính bắt cóc 6,000 người Mỹ làm con tin
Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, TS Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến một tình huống mà ông gọi là “cực kỳ ê chề” (10) khi Tòa Đại sứ Mỹ phải đối diện, nếu và khi QLVNCH hay Cảnh sát “nổi khùng” mà cưỡng chế cuộc di tản 6 ngàn người Mỹ và một số người Việt thân quen hay làm việc cho Mỹ khi thấy những người này cứ kìn kìn ra đi, bỏ mặc họ cho số phận. Nên nhớ là khi ấy, trong nội vi Sài Gòn, lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến hầu như nguyên vẹn cũng như một số đơn vị Nhẩy Dù và TQLC. Nếu có ai xúi dục và thuyết phục được họ đó là biện pháp duy nhất có thể làm để Mỹ phải đem quân tham chiến trở lại thì họ có khả năng quay súng bắn lại người Mỹ. Do đó, Hoa kỳ cũng có kế hoạch phòng hờ (11) đối phó với tình huống này, và Đại sứ Graham Martin cứ phải hành xử “bình chân như vại” cho tới phút chót mới chịu ra đi sáng ngày 30 tháng 4.
Điều này lý giải tại sao Mỹ phải cho ưu tiên di tản những phi công khu trục sang Utapao, Thái Lan, bởi vì QLVNCH chỉ cần vài chiếc F-5 là có thể bắn hạ những trực thăng di tản rơi rụng như sung. Trong tình huống này, TS Hưng lập luận, VNCH sẽ tức khắc trở thành thù địch, và sẽ không thể có Eden Center, Little Saigon hay Cabramatta vì không có người Việt nào được di tản thì làm gì có cộng đồng Người Việt Hải Ngoại như ngày nay?
Ý tưởng “bắt con tin” này có thể đã nhen nhúm trong đầu óc tướng Loan và có thể ông đã bàn bạc với bạn bè hay người thân. Từ ý tưởng sang ý định và đem ra thực hiện thì một người có uy tín và thành tích như ông có thể dễ dàng thuyết phục bạn bè tướng lãnh và thuộc cấp trong Không Quân và Cảnh Sát Quốc Gia. Nhưng ông đã không làm mặc dù Mỹ đã thù hận ông vì làm như thế sẽ có hại cho cả hai bên Việt, Mỹ và CSVN sẽ là kẻ thủ lợi. Ý tưởng này đã được một chuẩn úy KQVN kể lại cho Tòa Đại sứ Mỹ.
Từ cuối 1972, tướng Loan đã được một người bạn chính trị gia làm việc ở Tòa Bạch Ốc gửi thư riêng thông báo đầy đủ về kế hoạch rút quân của Hoa kỳ theo đúng những điều khoản của Hiệp Định Paris ký kết giữa Lê Đức Thọ và H. Kissinger ngày 27 tháng 1, 1973. Cuối thư, người bạn khuyên ông liên lạc với TVQL Anh tại Sài Gòn để thu xếp việc di tản cho chính bản thân ông và gia đình một khi Sài Gòn lọt vào tay các toán tiền tiêu của 6 sư đoàn CSBV. Ông biết là Hoa Kỳ sẽ chẳng bao giờ đem quân trở lại tham chiến tại miền Nam. Trừ phi…
Rốt cuộc, trưa ngày 29 tháng 4, 75, tướng Loan và gia đình đã phải chật vật lắm mới leo lên được một vận tải cơ C-130 và tới Utapao lúc 16:00 giờ chiều.
Trời kia đã bắt làm người có thân – Nguyễn Du
Để kết thúc câu chuyện, tôi xin nhường lời cho Eddie Adams:
“Ông Loan chạy thoát Việt Nam trong thời gian Sài Gòn xụp đổ và đến Mỹ. Sau cùng ông định cư ở vùng Burke, tiểu bang Virginia. Ông gắng mở một tiệm ăn ở miền Bắc Virginia nhưng khi có người biết ông là chủ thì tiệm ăn đóng cửa. Có những người phản đối đi vòng quanh khu đó hò hét để xả hơi nỗi bất bình của họ một cách thời thượng, an toàn.
“Ông ta rất đau yếu vì bị ung thư một thời gian. Và tôi nói chuyện với ông trên điện thoại tôi muốn làm một cái gì đó. Tôi giải thích mọi điều và kể lại chuyện tấm hình đã hủy hoại đời ông như thế nào thì ông ta chỉ muốn quên chuyện đó. Ông nói thôi bỏ đi. Còn tôi thì không muốn ông bỏ đi như vậy.”
“Thiếu tướng Loan từ gĩa cõi đời cách đây một năm và một tháng (12). Ông để lại vợ và năm đứa con. Phần lớn những bản tóm lược tiểu sử người quá cố cũng giống như tấm ảnh đã hủy hoại đời ông, chỉ có một chiều và cố chấp”.
Adams gửi hoa phúng điếu với một tấm thiệp trên viết dòng chữ, “Cho tôi xin lỗi. Lệ đang ứa trong mắt tôi.”
Chu Việt
Tháng 5, 2012
Nguồn:
Tài liệu Ngành Tình Báo Điện Tử (SIGINT, Signal Intelligence) QLVNCH
Tuần báo TIME ngày 27 July, 1968
(1) Tuần báo TIME ra ngày July 27, 1968.
(2) Đại tá Của bị trọng thương do trực thăng Mỹ bắn lầm quân bạn tại đường Khổng Tử, Chợ Lớn trong cuộc Tổng Công Kích đợt II, tháng 5, 1968. Cũng bị sát hại nơi đây là Trung tá Phó Quốc Trụ, Quận trưởng 5 Cảnh sát và Thiếu tá Nguyễn Bảo Sĩ (em trai Trung tướng Nguyễn Bảo Trị) là bạn người viết bài này.
(3) Trong thời gian này, Trần Văn Trà là Tư lệnh CT-5 (CT = Công Trường hay Sư đoàn), Nguyễn Văn Sỹ, Tư lệnh CT-7, và Đồng Văn Cống, Tư lệnh CT-9. Trần Bửu Kiếm là Ủy viên Ngoại Giao của Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R). Nguyễn Thị Bình là Bộ trưởng Ngoại Giao, Dương Quỳnh Hoa, Bộ trưởng Y tế và Nguyễn Hưũ Thọ, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời MTGPMN.
(4) Loại két sắt này chịu được nhiệt hỏa hoạn cao hàng ngàn độ C, phía trong được trang bị chất phóng xạ radium chống chụp hình lén.
(5) CORDS (Civil Operations and Revolutionary Development Support) là nỗ lực bình định nông thôn miền Nam của Hoa Kỳ qua chương trình “Phượng Hoàng”.
(6) Thủ Dầu Một – Biên Hòa
(7) Đầu đạn “dum dum” có sức công phá mạnh vì dãn nở hay nổ lần thứ hai khi xuyên vào mục tiêu. Do đó, công ước The Hague đã cấm chỉ sử dụng.
(8) Đạn Flechette BF3, tốc độ cực nhanh có thể xuyên qua thiết giáp.
(9) Đại úy đặc công Nguyễn văn Lém bị Cảnh Sát Dã Chiến bắt tại trại gia binh Thiết Giáp Phù Đổng Thiên Vương, Gò Vấp, sau khi hắn đã tàn sát dã man tòan thể gia đình Trung tá Tuấn, gồm cha mẹ và vợ con ông (trong đó có đứa 6 tuổi). Tuấn là bạn đồng khóa, rất thân với tướng Loan. Khi bị bắt, trong mình Lém vẫn còn dấu khẩu súng lục K-54 bị áo che khuất. Lém không được coi là tù binh chiến tranh theo Công Ước Geneva.
(10) Xem Chương 15: “Vào để giúp… Ra lại Bắn Nhau?”.
(11) Kế hoạch phòng hờ này được TS Hưng lược trình trong Chương 15, Sách đã dẫn. Đại sứ Martin gọi nó là “crazy” (điên rồ) và cực lực phản đối. Đại khái, nó bao gồm 3 phương sách thay thế nhau để di tản 6,000 người Mỹ và một số người Việt nhất định:
– Mỹ trải 2,000 TQLC dọc theo QL-15 (Sài Gòn – Vũng Tầu) giữ an ninh di tản.
– Mỹ thiết lập cầu không vận bằng C-130 và C-141 giữa Tân Sơn Nhất và Utapao.
– Mỹ thiết lập cầu không vận trực thăng giữa Sài Gòn và các quân vận hạm ngoài khơi Vũng Tầu.
(12) Ông mất ngày 14 tháng 7, 1998 ở tuổi 68

Xung đột với tướng “Sáu Lèo” Nguyễn Ngọc Loan – Cái chết bí ẩn của Đại Cathay

Lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay.
Khi đã thâu tóm được hầu hết các băng du đảng có tiếng tăm ở Sài Gòn, Chợ Lớn, danh tiếng và tiền bạc đều lên như diều gặp gió, Đại Cathay cứ ngỡ mình là nhất thiên hạ, xem thường mọi thứ trên đời. Đến cả 2 tướng chế độ cũ là Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan (Tức Sáu Lèo) mà Đại Cathay cũng chẳng xem ra gì. Đại Cathay ngày càng ngạo mạn, lộng hành.
Không chỉ ngổ ngáo với tướng Sáu Lèo trong công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức viên tướng này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của cái lon chuẩn tướng và trọng trách trong ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan đang nắm giữ.
Vũ trường Olympic là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới, cũng là nơi chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan giải sầu hàng đêm. Trong khi viên tướng có máu giang hồ và đám lính tới vũ trường một cách xô bồ, bụi bặm, thì Đại Cathay thường lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hòa không khí, choáng lộn( ảnh: hình ảnh một gái nhảy trong vũ trường ở Sài Gòn trước năm 1975).
So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại Cathay và các đồ đệ tỏ ra hơn hẳn, rút tiền chẳng bao giờ đếm, được các em cave ở đây săn đón nồng nhiệt hơn nhiều. Đám vệ sĩ của tướng Sáu Lèo tức lắm, nhưng chưa có dịp gây hấn. Một buổi tối, sau một ngày “thu thuế” vượt chỉ tiêu, Đại Cathay và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín ngón và Lành Cầu Muối kéo đến vũ trường Olympic để “đập phá”. Như lệ thường, đám cave ùa tới vây lấy các “đại ca”.
Trong lúc cả đám du đảng đang vui vẻ với các cave, bất ngờ cánh cửa vũ trường mở toang. Đám lính của Sáu Lèo trong những bộ đồ rằn ri xộc vào, kéo ghế ngồi, nhưng không thấy cô cave nào đến phục vụ, trong khi ở bàn bên băng nhóm du đảng giỡn hớt với các cave (ảnh: Maxim’s ở Sài Gòn trước năm 1975).
Một cận vệ của tướng Nguyễn Ngọc Loan là thiếu úy Hải rời khỏi bàn, đến đứng đối diện với Đại Cathay, hất hàm nói: “Vui vẻ quá hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi không, coi sao đặng?”. Vẫn không buông vai cô cave, một cận thần của Đại là Hải Súng hất mặt nói: “Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu chậm phải uống nước đục, trách gì?”. Tay thiếu úy đưa tay vào bụng cố ý làm lộ khẩu súng và nói: “Đừng chơi quê tụi này chớ!”(ảnh: Vũ trường Kiua ở Sài Gòn trước năm 1975).
“Thì đã sao. Thịt người tanh không ăn được, đừng dọa nhau, tụi này không thích!”. Bị khiêu khích, tên thiếu úy Hải xấn tới chụp lấy tay cô cave kéo về phía mình, tuyên bố: “Không thích cũng bắt!”. Hải Súng chụp chai Black and White trên bàn ném mạnh vào mặt đối thủ. Thiếu úy Hải buông cô cave, tránh đòn và móc súng.
Đại Cathay hét lên: “Tụi nó chơi súng, rút, tụi bây” (ảnh: những chai rượu Black and White). Băng của Đại chưa kịp chạy thì các loạt súng đã nổ, một viên đạn trúng vào đầu gối Đại làm y gục xuống. Hải Súng xốc Đại lên bỏ chạy khỏi vũ trường, trong lúc Lâm Chín ngón có giắt súng theo đã đọ súng cầm chân đám lính, hai bên bắn loạn xạ, nhưng vì đèn trong vũ trường vút tắt, nên không gây thương vong gì thêm.
Thoát chết trước họng súng của cảnh sát, nhiều “chiến hữu” lại bị cảnh sát bắt giam, Đại Cathay như biết điều hơn. Một buổi tối, hắn bao nguyên nhà hàng Paramouth mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Đại Cathay mở lời: “Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh…”. Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại ngang tàng không kém gì Đại Cathay, đã từ chối thẳng thừng: “Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu!”
Bình thường thì có lẽ máu côn đồ của Đại Cathay sẽ nổi lên, nhưng do đang yếu thế nên Đại vẫn nhỏ nhẹ: “Ồ không không. Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi. Còn hôm nay mời đại úy đến là để anh em vui vẻ. Mời đại úy cứ tự nhiên, đêm nay toàn bộ nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm gì”.
Sau buổi tiệc đó không lâu, đại úy Trần Kim Chi đã bị một chiếc xe chở gỗ bất ngờ đụng ngang qua chiếc xe hơi CV2 của ông ta khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ, làm ông ta chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất. Cả giới du đảng Sài Gòn và lực lượng cảnh sát ngụy đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại đại úy Trần Kim Chi (ảnh mang tính minh họa).
Cái chết của Trần Kim Chi cũng là dấu chấm hết của cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8/1966, tướng Nguyễn Ngọc Loan đã ra lệnh bắt tống giam Đại Cathay với tội danh “Du đãng đặc biệt” cùng với nhiều trùm du đảng khác ở khắp Sài Gòn.
Ngày 28/11/1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại đảo Phú Quốc. Trước khi bước chân lên máy bay, Đại còn quay lại đấm một cảnh sát dập sống mũi chỉ vì hắn nghe loáng thoáng người này nói một câu gì đó không hay về hắn.
Trại “Cửu Sừng” chẳng những không “hướng nghiệp” được đám du đảng, mà trái lại nơi đây đã làm cho chúng kết tình “huynh đệ” sâu nặng hơn, để sau này khi được thả về đất liền, chúng tiếp tục trở thành những băng nhóm du đảng còn dữ dội hơn trước lúc ra đảo. Toàn bộ đám du đãng bị bắt đưa ra đảo như Hải Súng, Hòa áo thun, Lâm Chín ngón, Bảy Si, Hỏi Phoòng Kin, Thanh tưa, Quẩy Thầu Hao… sau này đều là những tên du đảng cộm cán nhất của Sài Gòn – Chợ Lớn.
Khi Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, vợ Đại Cathay ở lại Sài Gòn biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình khó có ngày trở về cô cùng anh trai treo số tiền 1,5 triệu đồng, là số tiền cực lớn lúc đó, cho ai có cách cứu Đại Cathay đem về đất liền. Món hời này đã được đại tá Long – một sĩ quan thuộc lực lượng Hải quân chỉ huy tàu tuần lưu – nhận giúp đỡ.
Đầu tháng 1/1967, vợ Đại Cathay ra Trại Cửu Sùng thăm chồng. Gặp Đại Cathay, cô báo cho chồng biết đã lo xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Theo kế hoạch, đám lính gác sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ sẵn dưới bãi biển để đưa đám tù ra khơi, rồi có tàu hải quân thuê sẵn rước Đại về đất liền.
Đúng 12 giờ đêm ngày 7/1/1967, Đại Cathay dẫn cả bọn đàn em đào thoát ra ngoài. Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh. Tốp thứ hai, có Đại Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Thế nhưng, khi cả hai tốp vừa vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Tốp thứ nhất, gồm Xì kíp, Hùng Mỏ chuột,.. bị bắt lại ngay.
Đại Cathay và Hải Súng vội đổi kế hoạch, chạy vào khu núi Tượng, nơi có Quân giải phóng hoạt động. Cùng lúc, có tiếng của nhiều chiếc máy bay trực thăng trên đầu, cùng ánh sáng của hỏa châu sáng vằng vặc. Nhiều loạt đạn từ máy bay bắn xuống, người ta còn nghe nhiều tiếng la hét vọng ra từ rừng sâu. Kể từ đó không ai còn gặp đại Cathay nữa, có lẽ hắn đã bỏ mạng vì những loạt đạn lúc nửa đêm trên núi Tượng, rồi rơi xuống vực sâu nào đó mất xác. Lúc đó, dư luận ở Sài Gòn đặt ra nhiều khả năng về sự biến mất của Đại Cathay, như hắn đã trốn thoát rồi vượt biển qua Campuchia, đi luôn ra nước ngoài lánh nạn. Cũng có tin đồn là Đại Cathay đã lần về được Sài Gòn và sống ẩn dật.
Sau ngày giải phóng, hồ sơ về cái chết của Đại Cathay đã làm sáng tỏ: Biết không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên du đảng làm bẽ mặt, nhất là sau khi cái chết của đại úy Trần Kim Chi mà ai cũng cho là do Đại Cathay tạo ra, chuẩn tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại Cathay.
Sau khi bắt đưa Đại ra Phú Quốc, tướng Loan vẫn chưa có cách gì để tiêu diệt Đại mà không làm náo động Sài Gòn. Qua nguồn tin của đám lính thân cận, tướng Sáu Leo biết cô Nhân – vợ Đại – đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám du đảng đàn em, còn Đại và Hải, chúng cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng.
Sau đó, Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại và Hải, bắn hạ chúng. Diệt xong, toán biệt kích dù phải đắp mộ chôn không để lại dấu vết. Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh hoang khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay y đã nổ súng hạ gục Đại Cathay.
Khá nhiều người cũng biết rõ ngọn nguồn sự việc, song trước khi ngụy quyền sụp đổ, không một tờ báo nào dám viết về âm mưu hại địch thủ của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vì vậy, lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền thoại vào cuộc đời và cái chết của một kẻ du đãng như Đại Cathay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét