CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 50/e (Tàu chiến)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Đội Hộ Tống Trận Chiến Đại Tây Dương

Trận chiến Đại Tây Dương

Cuộc chiến tàu ngầm trong Đại Tây Dương - Kỳ 1: Người đi săn

Cuộc chiến tàu ngầm trong Đại Tây Dương là một trong những cuộc kịch chiến của hải quân trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Sau này, trong hồi ký của mình, Thủ tướng Anh khi đó Winston Churchill cho biết, điều làm ông lo sợ thực sự trong Thế chiến Hai là tàu ngầm của Đức. Cuộc chiến tàu ngầm đã có thể quyết định vận mệnh của nước Anh. Nhiều sách báo đã viết và mới đây, Đài truyền hình Phoenix của Đức đã phát bộ phim tài liệu kỳ công của Andrew William dài 3 tập, trong đó phỏng vấn nhiều người còn sống sót ở cả hai bên, dựng lên một bức tranh toàn cảnh về cuộc chiến dữ dội này với những thiệt hại nặng nề.

Joe Instance, nguyên lính thủy tàu HMS Royal Oak.

Khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai, hải quân Đức Quốc xã có 57 tàu ngầm, được mệnh danh là "Sói biển", nhưng trong đó chỉ có 39 chiếc là có thể đưa vào hoạt động ở Đại Tây Dương. Đây sẽ là chiến trường chính của Đức Quốc xã chống lại nước Anh và nguồn cung ứng cho nước Anh từ Mỹ. Nhưng với ưu thế ban đầu, tàu ngầm Đức được mệnh danh là "Những người đi săn", chuyên đi tìm, diệt những tàu chở hàng cung ứng cho nước Anh, có thời gian đã đẩy nước Anh tới bên lề của cuộc khủng hoảng trầm trọng vì thiếu hàng hóa.

Tư lệnh các đơn vị tàu ngầm Đức là Đại đô đốc Karl Doenitz. Doenitz hy vọng rằng với "Chiến thuật bày sói" (Wolfsrudeltaktik) cùng với những phương pháp thông tin vô tuyến mới sẽ có thể tiến hành một hình thức chiến tranh tàu ngầm mới chống lại những đoàn tàu thương mại có tàu hộ tống để cắt đứt con đường tiếp tế chủ yếu cho nước Anh, buộc nước này phải quỳ gối quy hàng. Theo chiến thuật của Doenitz, nhiều tàu ngầm sẽ cùng nhau quây lại để đi theo và tấn công một đoàn tàu có hộ tống. Để thực hiện chiến thuật này, những tàu ngầm hoạt động trên Đại Tây Dương phải có tầm hoạt động xa. Tàu ngầm Typ VII đáp ứng được những đòi hỏi này nên đã trở thành loại tàu ngầm chủ yếu được Đức sử dụng trong cuộc chiến tranh tàu ngầm.

Một chiếc tàu trong tầm ngắm.

Trên mọi chiến trường trên thế giới, tàu ngầm đã chứng tỏ là một loại vũ khí lợi hại. Hải quân Đức cũng như hải quân Mỹ sau này thường sử dụng tàu ngầm trong các cuộc chiến tranh thương mại nhằm làm tê liệt việc cung ứng hậu cần của đối phương. Sau khi Mỹ nhảy vào tham chiến, bộ chỉ huy tàu ngầm Đức đã sửa đổi mục tiêu chiến tranh từ phong tỏa nước Anh sang chiến lược đánh đắm nhiều tàu của đối phương hơn là họ có thể sản xuất ra. Như vậy, địa điểm tác chiến đã trở thành thứ yếu và tàu ngầm Đức được triển khai tác chiến khắp mọi nơi, chỉ phụ thuộc vào khả năng kỹ thuật và cung ứng hậu cần. Thông qua những tiến bộ kỹ thuật của quân đồng minh như làm ra radar, máy định vị vô tuyến, việc giải được mật mã Enigma của Đức, việc thành lập những đoàn tàu hộ tống cũng như những ưu thế về vật chất, nên từ góc độ lịch sử, cuộc chiến tranh tàu ngầm của Đức đã bị coi là thất bại kể từ tháng 5/1943. Sau khi biết được những phát minh mới của phe đồng minh, các nước trong trục phát xít đã cố gắng thúc đẩy việc nghiên cứu, phát triển, nhưng đã quá muộn nên không đảo ngược được tình thế cuộc chiến, nhưng đã mang lại những thay đổi chiến lược trong hải quân, không quân và lục quân.

Các nước tiến hành chiến tranh là Anh, Pháp và Đức đã bắt đầu cuộc chiến ở nơi họ đã dừng lại trong cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Nhất. Trong thời kỳ đầu, các tàu ngầm Đức nhận được mệnh lệnh tôn trọng Sắc lệnh Prisen trong cuộc chiến tranh thương mại, theo đó chỉ được phép đánh đắm tàu thương mại của những nước tham chiến, hoặc những tàu chở hàng đến và đi từ những nước tham chiến và chỉ sau khi đã lo cho sự an toàn của thủy thủ đoàn của tàu thương mại đó. Những trường hợp ngoại lệ là những tàu thương mại có vũ trang hoặc những tàu thương mại được tàu chiến hộ tống. Với mệnh lệnh này, phía Đức muốn tránh lôi kéo Mỹ tham gia vào cuộc chiến, một điều đã xảy ra trong Chiến tranh Thế giới thứ Nhất thông qua cuộc chiến tranh tàu ngầm không hạn chế. Vì vậy, các nước đồng minh phải trang bị vũ khí cho các tàu thương mại và tổ chức các đoàn tàu hộ tống.

Guenter Prien, Tư lệnh tàu ngầm U47 được đón tiếp linh đình tại Đức.

Nhưng đối với các tàu chiến thì các tàu ngầm không bị hạn chế điều gì. Tháng 10/1939, Guenter Prien, Tư lệnh tàu ngầm U47 đã cùng với con tàu của mình thâm nhập vào căn cứ hải quân Anh Scapa Flow và đánh đắm chiếc tàu chiến HMS Royal Oak. Joe Instance, nguyên lính thủy tàu HMS Royal Oak nhớ lại: "Khi nghe tiếng nổ đầu tiên, ông vùng dậy và gọi mọi người, nhưng thuyền trưởng cũng coi là bình thường nên không ra lệnh báo động. Ông chạy lên boong, đúng lúc tàu ngầm U47 phóng tiếp 2 quả ngư lôi. Quả thứ hai bắn trúng kho đạn nên tàu phát nổ. Chỉ một số ít người có thể nhảy xuống biển bơi thoát, phần lớn bị chết trong lúc còn ngái ngủ".

Vì chiến tích này, Prien được đón chào tại Đức như một người hùng và được mệnh danh là "Mãnh thú của Scapa Flow". Đích thân Adolf Hitler đã đón tiếp trọng thể Prien. Đây là dịp để Đức Quốc xã tuyên truyền về ưu thế của tàu ngầm, khi một chiếc tàu ngầm chỉ với 44 thủy thủ đã đánh đắm được một tàu chiến lớn của hải quân Hoàng gia Anh danh tiếng. Vậy nếu có cả một hạm đội tàu ngầm thì Đức sẽ có ưu thế tới mức nào. Trước đó, chiếc tàu sân bay HMS Courageous của Anh cũng đã bị tàu ngầm U29 đánh đắm tháng 9/1939. Những chiến thắng ngoạn mục của tàu ngầm Đức trước những tàu chiến lớn của Anh trong giai đoạn đầu của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai đã thuyết phục được cả những người hoài nghi trong giới chỉ huy hải quân Đức về giá trị quân sự của tàu ngầm. Ngay sau đó, Đức thúc đẩy nhanh chóng việc chế tạo tàu ngầm với kế hoạch Z, theo đó mỗi tháng đóng mới từ 20 tới 25 chiếc tàu ngầm liên tục trong vòng 21 tháng.

Vũ Long (Tổng hợp theo truyền hình và báo chí Đức)

Cuộc chiến tàu ngầm trong Đại Tây Dương - Kỳ II: Tàu ngầm Đức hoành hành trên đại dương

Đầu năm 1940 đã xảy ra "Sự cố Altmark", trong đó tàu khu trục HMS Cossak của Anh đã tấn công tàu Altmark, một tàu cung ứng cho hải quân Đức ngay trong lãnh hải Na Uy, qua đó bị coi là không tôn trọng sự trung lập của Na Uy. Vì vậy, Bộ chỉ huy hải quân Đức ra lệnh cho Karl Doenitz, Tư lệnh các đơn vị tàu ngầm, điều động toàn bộ tàu ngầm, kể các tàu huấn luyện, triển khai bảo vệ cánh cho các hạm đội Đức tham gia chiến dịch
Weseruebung và bám sát đường đi của các hạm đội Anh giữa Xcốtlen và Na Uy. Trong khi đó, Hải quân Hoàng gia Anh cũng triển khai tàu ngầm tới ngoài khơi bờ biển Na Uy để bắt các đơn vị tàu Đức giữa các căn cứ của họ và Na Uy.

Thông qua chiến dịch

Weseruebung, Đức đã thừa cơ chiếm lấy Na Uy và chiếm đóng cho tới khi hết chiến tranh, tuy nhiên họ cũng chịu nhiều tổn thất. Ngoài việc bị mất chiếc tàu tuần dương hạng nặng Bluecher do các đơn vị pháo của Na Uy và tàu tuần dương hạng nhẹ Koenigsberg do máy bay Anh và 10 tàu khu trục tại Narvik do các hạm đội Anh đánh đắm, hải quân Đức cũng chịu nhiều thiệt hại do tàu ngầm của quân đồng minh. Các tàu tuần dương Luetzow và Karlsruhe đã bị ngư lôi của các tàu ngầm Spearfish và Truant của Anh bắn trúng, làm hư hại nặng; tàu huấn luyện cao xạ Brummer bị tàu ngầm Sterlet đánh đắm.
Boongke cho tàu ngầm Đức tại Brest (Pháp).
Ngoài ra, nhiều tàu tiếp tế bị phá hủy. Trong cùng thời gian này, các tàu ngầm Đức đã có nhiều cơ hội, vị trí rất tốt để phóng ngư lôi vào tàu chiến Anh, nhưng đã không thành công, vì kim hỏa bằng nam châm trong ngư lôi Đức có sự cố nên phát hỏa không chắc chắn, dẫn tới để mất thời cơ.Sau khi hành quân đại thắng về phía tây, chiếm được Pháp, năm 1940, hải quân Đức bắt đầu thiết lập những căn cứ lâm thời cho tàu ngầm ở vịnh Biskaya tại Brest,

Lorient, St Nazaire và La Rochelle. Chúng cưỡng bức công nhân lao động nên công việc tiến triển rất nhanh, tạo thành những boongke cho nhiều tàu ngầm có thể tránh được máy bay oanh kích.

Nhờ những căn cứ mới ở vịnh Biskaya, tàu ngầm Đức có thể được triển khai nhanh hơn nhiều tới khu vực tác chiến trên tuyến đường phía tây để tới quốc đảo Anh. Các đoàn tàu của quân đồng minh thường yếu về công tác bảo vệ do thiếu tàu hộ tống. Nhiều tàu bị hỏng phải đưa đi sửa chữa sau khi tấn công Na Uy thất bại. Thời gian này được hải quân Đức gọi là "thời kỳ hạnh phúc đầu tiên" của tàu ngầm, trong đó họ đã đánh đắm được rất nhiều tàu của quân đồng minh mà chỉ bị thiệt hại không đáng kể. Thành công nhất là các Tư lệnh Otto Kretschmer của tàu ngầm U 99, Guenter Prien của tàu ngầm U 47 và Joachim Schepke của tàu ngầm U 100; họ được tuyên truyền ầm ĩ, coi như những vị anh hùng.

Tàu ngầm U 47 trên đường về căn cứ năm 1939.
Ngày 17/8/1940, Đức đáp trả sự phong tỏa của Anh bằng tuyên bố phong tỏa lại. Khu vực phong tỏa tương đối trùng với khu vực mà Tổng thống Mỹ Roosevelt đã cấm tàu bè Mỹ qua lại từ 4/11/1939. Như vậy, các tàu ngầm Đức được lệnh đánh đắm các tàu ở khu vực này mà không cần cảnh báo trước, ngoại trừ những tàu cứu thương và tàu của những nước trung lập, những tàu phải sử dụng những tuyến đường nhất định được thỏa thuận bằng hiệp ước như "Con đường Thụy Điển".

Trong thời gian này, những con tàu của phe đồng minh với tổng thể tích khoảng 4,5 triệu BRT (mỗi BRT tương đương với 2,83 m3) đã bị đánh đắm.
Mùa đông 1940 - 1941, thời tiết xấu đã gây khó khăn cho việc tấn công các tàu trên mặt nước của tàu ngầm. Người Anh bắt đầu lắp radar và máy định vị sóng ngắn trên những con tàu hộ tống và số lượng tàu hộ tống đã tăng mạnh sau khi được tích cực chế tạo.

Với lợi thế của radar có thể dễ dàng phát hiện tàu địch, nên chỉ trong tháng 3/1941, hải quân Đức đã mất đi ba con "át chủ bài" là các tàu Kretschmer, Prien và Schepke do bị đánh đắm hoặc bắt sống. Từ mùa hè 1941, hải quân Đức tăng cường áp dụng "chiến thuật bầy đàn của chó sói", trong đó những tàu ngầm như "một bầy sói" xác định các đoàn tàu có hộ tống và phối hợp tấn công. Những tàu hộ tống với số lượng kém hơn thường tìm cách xua đuổi con tàu ngầm đầu tiên phát hiện được và như vậy tạo điều kiện cho những tàu ngầm khác trong "bầy đàn" rảnh tay tấn công các tàu thương mại.

Ngày 20/6/1941, tàu ngầm U 203 dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Rolf Muetzelburg thông báo nhìn thấy tàu chiến Mỹ USS Texas trong khu vực phong tỏa. Trong tình huống này, giới lãnh đạo Đức đã ra lệnh cho các tàu ngầm không tấn công các tàu hộ tống nữa. Tháng 7, Tổng thống Mỹ Roosevelt ra lệnh cho hải quân tấn công tàu ngầm Đức và nhắc lại mệnh lệnh này vào tháng 9/1941. Ngày 4/9/1941, tàu ngầm U 652 của Đức, dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Fraatz, đã bị tàu khu trục Mỹ USS Greer tấn công bằng thủy lôi cách Reykjavik 180 hải lý về phía tây nam và đã phóng hai quả ngư lôi để chống trả. Việc chống trả đã được giới lãnh đạo Đức chính thức cho phép. Những cuộc tấn công tương tự đã lặp đi lặp lại ngày càng nhiều. Phía Mỹ đã chuyển sang thế thù địch với tàu ngầm Đức, mặc dù không tuyên chiến.

Trong thời gian này, tàu ngầm Đức đánh đắm tàu của đối phương với tổng thể tích khoảng 3 triệu BRT.

Vũ Long (Tổng hợp từ truyền hình và báo chí Đức)

Cuộc chiến tàu ngầm trong Đại Tây Dương - Kỳ III: Bước ngoặt

Việc hơn 12.000 chuyên gia Anh dưới sự lãnh đạo của nhà toán học Alan Turing giải được mật mã của hải quân Đức năm 1942 đã dẫn tới bước ngoặt trong cuộc chiến tàu ngầm ở Đại Tây Dương. Ngay từ năm 1934, các nhà toán học Ba Lan, thông qua việc kết nối 6 máy mật mã Enigma, đã giải được một phần mật mã và những kết quả bước đầu này được cung cấp cho cơ quan tình báo vô tuyến Anh. Dưới sự lãnh đạo của nhà toán học Anh Alan Turing, một máy giải mã cơ điện có tên là "Bom Turing" đã được chế tạo.

Shaun Wylie, chuyên gia góp phần phá mật mã của hải quân Đức.

Cuối cùng vào tháng 6/1941, người ta đã tìm ra chìa khóa mật mã của hải quân Đức. Đạt được tiến bộ có tính quyết định này là nhờ tàu khu trục HMS Bulldog của Anh đã trục vớt được tàu ngầm U 110 của Đức ngày 9/5/1941 và lấy được "Chìa khóa M" cùng với hai máy mật mã "VI" và "VII" mà chỉ hải quân Đức mới sử dụng và "Sổ tay vô tuyến trong lãnh hải Đức" cũng như "Bảng trao đổi chữ cái kép", chìa khóa đặc biệt cho sĩ quan và bản đồ Đại Tây Dương và Địa Trung Hải sử dụng cho hải quân Đức. Với chìa khóa mật mã có được, Hải quân Hoàng gia Anh có thể theo dõi toàn bộ điện tín giữa Doenitz và các tàu ngầm. Từ tháng 11/1941, người Anh thường xuyên đọc được điện mật để biết được kế hoạch của Đức. Sau đó có một thời gian gián đoạn, khi Bộ chỉ huy hải quân Đức đưa vào sử dụng một chìa khóa mật mã hoàn toàn mới, được gọi là Triton và mở rộng máy mật mã thành máy Enigma-M4. Từ cuối năm 1942, Anh lại tìm ra chìa khóa mới cho loại mật mã này.

Với việc giải được mật mã điện tín của Đức, quân đồng minh đã có thể điều tàu hộ tống và tàu hàng tránh vị trí của tàu ngầm Đức, cũng như chủ động điều tàu khu trục, tàu sân bay hộ tống, trong cái gọi là "Nhóm tìm, diệt" tìm kiếm tàu ngầm Đức để phá hủy.

Thêm vào đó, từ năm 1943, quân đồng minh có thêm máy định vị sóng ngắn được gọi là "HF/DF", lần đầu tiên cho phép định vị những tàu ngầm có phát tín hiệu từ một con tàu duy nhất. Các "Nhóm tìm, diệt" sẽ tìm tới con tàu ngầm đã bị định vị, tìm cách phá hủy chúng bằng thủy lôi, hoặc buộc chúng phải nổi lên mặt nước do thiếu dưỡng khí hoặc ắc quy hết điện, để có thể tiêu diệt chúng trên mặt nước.

Một biện pháp phòng chống tàu ngầm nữa là sử dụng tàu sân bay đi hộ tống cho đoàn tàu buôn, nhất là từ năm 1942, khi Mỹ sản xuất hàng loạt tàu sân bay cỡ nhỏ lớp Bogue chuyên dùng cho việc săn đuổi tàu ngầm. Những máy bay hoạt động từ tàu sân bay hộ tống có nhiệm vụ trinh sát và tấn công những tàu ngầm phát hiện được. Từ năm 1940, máy bay đã được lắp radar và trong thời gian chiến tranh, radar luôn được cải tiến cho có hiệu quả hơn.
Từ giữa năm 1942, máy bay của quân đồng minh được lắp thêm đèn pha mạnh "Leigh Light", tạo điều kiện tấn công tàu ngầm một cách hiệu quả vào ban đêm. Trước đó, tàu ngầm luôn cảm thấy an toàn về đêm trước các cuộc không kích. Khi một chiếc tàu ngầm bị radar phát hiện và bị đèn pha chiếu sáng thì thông thường không còn thời gian lặn xuống sâu để tránh các cuộc tấn công nữa.

Tấn công tàu ngầm U 66 và U 177 năm 1943.
Ngày 11/12/1941, bốn ngày sau khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, Hitler tuyên chiến với Mỹ. Ngay sau đó, Đô đốc Doenitz sửa đổi mục tiêu chiến tranh: Tàu ngầm Đức không tập trung vào việc phong tỏa nước Anh nữa mà chuyển sang tiêu diệt tàu đối phương càng nhiều càng tốt, ưu tiên cho những nơi có cơ hội đánh đắm tàu đối phương nhiều nhất. Những tàu ngầm đường trường Typ IX được điều sang Mỹ để thực hiện chiến dịch Đánh trống (Paukenschlag) và chúng sang tới nơi vào đầu tháng 1/1942. Do tổ chức tồi, lực lượng phòng thủ bờ biển ban đầu đã bất lực trước các đòn tấn công của tàu ngầm Đức vào các tàu thương mại. Trong thời gian này, nhiều tàu bị đạn pháo của tàu ngầm Đức đánh đắm hơn bao giờ hết. Sau đó, khi việc phòng thủ được tăng cường thì tàu ngầm Đức lại mở rộng phạm vi hoạt động ra vùng biển Caribê và Nam Đại Tây Dương. Loại tàu ngầm Typ VII có cự li ngắn hơn cũng đồng thời hoạt động theo chiến thuật "bầy đàn" ở Bắc Đại Tây Dương và như vậy duy trì được áp lực đối với các đoàn tàu chở hàng. Trong năm đó đã xảy ra nhiều trận hải chiến lớn với nhiều đoàn tàu hộ tống.

Thông qua việc sử dụng tàu ngầm tiếp tế dầu và các nhu yếu phẩm khác, chẳng bao lâu sau, loại tàu ngầm Typ VII cũng có khả năng hoạt động ở ngoài khơi nước Mỹ.

Số lượng tàu ngầm Đức có khả năng hoạt động đường dài trong Đại Tây Dương ngày càng gia tăng. Vào thời điểm cuối năm 1942 có khoảng 210 chiếc và năm này đã trở thành năm thành công nhất của tàu ngầm Đức.

Năm 1943 là năm bước ngoặt trong cuộc chiến tàu ngầm. Vào đầu năm, tàu ngầm Đức đã giành được thành công lớn cuối cùng, khi vào giữa tháng 3, ba "đàn sói" gồm tổng cộng 43 chiếc tàu ngầm đã đánh đắm 22 chiếc tàu với tải trọng 142.000 tấn trong đoàn tàu SC-122 và HX-229 ở phía nam đảo Greenland và phóng ngư lôi vào 9 chiếc khác với tải trọng 45.000 tấn. Họ được hưởng lợi là ở khu vực này vẫn còn khoảng trống trong giám sát trên không của quân đồng minh.

Đèn pha Leigh Light.
Sau khi quân đồng minh khép lại khoảng trống ở phía nam đảo Greenland với việc triển khai máy bay ném bom đường đài trên đảo Greenland và Iceland, toàn bộ không phận trên Bắc Đại Tây Dương đã nằm trong sự kiểm soát của quân đồng minh. Thêm vào đó là việc tăng cường bảo vệ các đoàn tàu hàng. Đô đốc người Anh Max Horton, Tư lệnh cái gọi là Western Approaches từ tháng 11/1942, một chỉ huy tàu ngầm thành công trong Thế Chiến I đã đưa vào áp dụng một loạt sửa đổi chiến thuật trong việc bảo vệ an toàn cho các đoàn tàu hàng khiến tàu ngầm Đức từ người đi săn trở thành kẻ bị săn đuổi. Riêng trong tháng 5/1943 đã có 43 tàu ngầm Đức bị đánh đắm. Sau đó, Doenitz đã phải tạm đình chỉ cuộc chiến tàu ngầm chống lại các đoàn tàu hàng và rút về hầu hết các tàu ngầm từ các chiến dịch tấn công này.

Mặc dù nhận thức được rằng tàu ngầm Đức hầu như không còn triển vọng giành thắng lợi trong cuộc chiến ở Đại Tây Dương nữa, nhưng cho tới cuối cuộc chiến tranh, người Đức vẫn tiếp tục đưa tàu ngầm vào hoạt động để bắt buộc một số lượng lớn tàu chiến, máy bay và binh lính của quân đồng minh bị điều động vào hoạt động chống tàu ngầm. Sau khi quân đồng minh đổ bộ lên miền bắc nước Pháp, căn cứ tàu ngầm ở Pháp bị mất, Đức phải chuyển tàu ngầm sang đóng tại Na Uy. Nhằm đáp lại việc cải tiến kỹ thuật của quân đồng minh, Đức cũng nghiên cứu cải tiến một loạt vấn đề kỹ thuật như lắp đặt thêm ống thông hơi, ngư lôi tự tìm kiếm mục tiêu, máy gây nhiễu, máy định vị ngầm dưới nước và trên mặt nước cũng như nhiều loại tàu ngầm khác. Tuy nhiên, nhưng nỗ lực cải tiến này quá muộn, nên cuộc chiến tàu ngầm được coi là đã được quyết định: Riêng năm 1943 phía Đức đã mất đi 287 tàu ngầm, gần gấp đôi tổng số của ba năm trước đó, trong khi số lượng tàu hàng của quân đồng minh bị đánh đắm giảm xuống. Năm 1943, số lượng tàu bị đánh đắm chỉ có thể tích 3,5 triệu BRT, ít hơn số lượng tàu được chế tạo theo tiêu chuẩn hóa và đưa vào sử dụng. Xu hướng này được tiếp tục cho tới khi chiến tranh kết thúc: Trong hai năm 1944 và 1945 chỉ có 1,5 triệu BRT thể tích tàu bị đánh đắm. Trong khi đó, năm 1944, phía Đức bị mất thêm 241 tàu ngầm và năm 1945 thêm 153 tàu ngầm nữa chỉ riêng từ tháng 1 tới tháng 5/1945.

Vũ Long (Tổng hợp từ truyền hình và báo chí Đức)

Cuộc chiến tàu ngầm trong Đại Tây Dương : Kỳ cuối: Những tổn thất nặng nề 

Trái với tàu ngầm của Đức được nghiên cứu, chế tạo để hoạt động trong cuộc chiến tranh thương mại ở đại dương, hầu hết các tàu ngầm của quân đồng minh chỉ có tầm hoạt động ngắn. Chúng chủ yếu được sử dụng để giám sát hải cảng và căn cứ hải quân dưới sự kiểm soát của Đức. Bên cạnh những tàu ngầm Anh, các tàu ngầm Pháp, ví dụ như tàu Doris, tàu Hà Lan như tàu O21 và thậm chí tàu Ba Lan như ORP Wilk đã đảm nhận nhiệm vụ này, là những tàu đã rút về các căn cứ của Anh, sau khi đất nước họ bị phát xít Đức chiếm đóng. Trong giai đoạn sau của cuộc chiến, tàu ngầm Anh cũng được chuyển giao cho hải quân của các nước đồng minh, nên thủy thủ đoàn tàu ngầm của Na Uy cũng được huy động tham chiến.

Peter Eustace, nguyên kỹ thuật viên radar tàu "HMS Starling".
Hoạt động có ý nghĩa nhất về mặt quân sự của tàu ngầm quân đồng minh là những biện pháp trong khuôn khổ Đức đánh chiếm Na Uy. Tàu ngầm quân đồng minh đã gây thiệt hại nặng nề cho các tàu chiến trên mặt nước của hải quân Đức, trong đó đánh đắm tàu tuần dương hạng nhẹ Karlsruhe, tàu huấn luyện cao xạ Brummer cũng như một loạt tàu thương mại và làm hư hại tàu bọc thép Deutschland.

Ngoài ra, tàu ngầm của quân đồng minh cũng được sử dụng làm tàu hộ tống và tàu thả thủy lôi. Tàu ngầm có nhiều chiến tích nhất của quân đồng minh trong Thế chiến II là tàu ngầm thả thủy lôi Rubis của Pháp, chủ yếu hoạt động ngoài khơi Na Uy.

Sau khi Pháp đầu hàng phát xít Đức, cũng có lúc tàu ngầm Anh và tàu ngầm Pháp lại quay sang đánh nhau, nhất là những tàu ngầm còn lại của chính phủ Vichy thân Đức. Trong khi những đơn vị hải quân khác tập hợp nhau lại mang cờ "Nước Pháp Tự do" hoặc liên kết với Hải quân Hoàng gia Anh. Mối quan hệ thù địch giữa chính phủ Vichy và nước Anh được thể hiện rõ nhất trong cuộc hải chiến từ 20 tới 25/9/1940, được biết đến dưới cái tên "Sự cố Đaca" với việc đổ bộ bất thành lên Đaca.

Một tàu bị đánh đắm.

Trong chiến dịch Menace này, tàu chiến Anh đã bắn phá hải cảng Đaca, thủ đô của Xênêgan, sau khi lực lượng vũ trang Pháp tại Tây Phi đứng về phía chính phủ Vichy. Như vậy, những tàu chiến Pháp neo đậu tại cảng Đaca bị coi là mối đe dọa đối với tuyến đường giao thông của quân đồng minh ở Đại Tây Dương, vì vậy quân đồng minh đã quyết định một đòn đánh phủ đầu để phòng trước. Trong cuộc hải chiến, tàu ngầm Beveziers của Pháp đã phóng ngư lôi vào tàu chiến HMS Resolution. Chiếc tàu ngầm Pháp Ajax thì bị tàu khu trục HMS Fortune đánh đắm.

Ngày 4/5/1945, Đại đô đốc Doenitz ra lệnh cho toàn bộ tàu ngầm Đức đang trên biển ngừng chiến đấu. Trong chiến dịch "Cầu vồng" có 216 trong tổng số 376 tàu còn lại đã tự đánh đắm. Quân đồng minh chiếm được 154 tàu ngầm làm chiến lợi phẩm, trong đó họ tiếp quản một số cho mục đích nghiên cứu hoặc thay thế cho những chiếc tàu bị đắm. 115 chiếc đã bị đánh đắm ở Đại Tây Dương trong chiến dịch Deadlight. Một số tàu đang hoạt động ở Đông Á được bàn giao cho người Nhật. Hai tàu ngầm U 530 và U 977 đã quyết định ra đầu hàng ở nước Áchentina trung lập.

Trong cuộc chiến tàu ngầm, tổng cộng 863 trong 1.162 tàu ngầm do Đức chế tạo được đưa vào hoạt động, trong đó 784 chiếc bị đánh đắm. Trên 30.000 trong tổng số trên 40.000 lính thủy trên tàu ngầm Đức đã bỏ mạng. Cũng trên 55.000 người thiệt mạng trên 2.882 tàu thương mại và 175 tàu chiến của quân đồng minh bị tàu ngầm Đức đánh đắm.

Lothar - Guenter Buchheim, phóng viên chiến tranh trên tàu ngầm U 96.
Lothar - Guenter Buchheim, một phóng viên chiến tranh trên tàu ngầm U 96 sau này nhận xét: Các tàu ngầm được gọi là "Quan tài sắt". Nhiều thủy thủ trên tàu vẫn còn là những đứa trẻ. Có đứa mới 16 tuổi. Khi chiến tranh kết thúc có kỹ sư trưởng trên tàu mới 19 tuổi, tư lệnh mới 20 tuổi. Vì thiếu người, nên họ phải đào tạo gấp để đưa ra chiến trường, tới chỗ chết. Ông cho biết vẫn luôn luôn phản đối khi tin tức về những lính thủy bị chết trên tàu ngầm nói là họ "hy sinh". Ông cho rằng không phải vậy, họ chết đuối một cách tang thương trong những con tàu đắm như những con mèo hoang bị nhốt vào túi và ném xuống sông.

Peter Eustace, nguyên kỹ thuật viên radar tàu HMS Starling của Anh kể lại, sau khi đánh đắm tàu ngầm Đức, chỉ những lính thủy Đức chịu khai tên vị tự lệnh chỉ huy con tàu và số hiệu con tàu thì mới được cứu. Có lần, ông đã nắm lấy tay một lính thủy Đức trẻ măng, chắc chưa đầy 16 tuổi, nhưng khi hỏi, y không chịu trả lời nên ông đành tuân lệnh chỉ huy bỏ tay cho hắn rơi xuống biển. Hình ảnh đó còn ám ảnh ông cho tới ngày nay.

Vũ Long (Tổng hợp từ truyền hình và báo chí Đức)


Cuộc chiến tranh tàu ngầm không giới hạn: Con át chủ bài cuối cùng của Đức

Quân sự |
Cuộc chiến tranh tàu ngầm không giới hạn: Con át chủ bài cuối cùng của Đức
Tàu ngầm U-boat Type IA của Đức

"Cuộc chiến tranh tàu ngầm không giới hạn" của Đức cho phép tàu ngầm Đức tùy ý đánh chìm bất cứ tàu buôn nào hướng về hải phận Anh mà không cần phát tín hiệu cảnh báo.

Năm 1914, sau khi Thế chiến thứ nhất nổ ra, Đức bắt đầu thực hiện chiến tranh tàu ngầm đối với các nước Hiệp ước, tấn công vào các tàu buôn và chiến hạm của Anh. Sau này, Mỹ và các nước trung lập phản đối kịch liệt, Đức buộc phải thực hiện "chiến tranh tàu ngầm có giới hạn".
Đến thời kỳ cuối của Thế chiến thứ nhất, trong các chiến dịch đổ bộ tại Verdun, Đức đã bị tổn thất nặng nề, sự phong tỏa trên biển của người Anh lại càng làm cho tình hình kinh tế trong nước Đức khủng hoảng. Giới cầm quyền cấp cao của Đức cho rằng, tất cả vũ khí đều đã tận dụng triệt để, chỉ còn một thứ ngoại lệ, đó chính là tàu ngầm.
Nếu bỏ giới hạn về tàu ngầm thì có thể tấn công triệt để vào hạm đội Anh, buộc Anh đầu hàng. Tổng tham mưu trưởng của Đức nói: "Tàu ngầm là con át chủ bài cuối cùng".
Ngày 4/2/1917, Bộ Hải quân Đức chính thức công bố thực hiện "chiến tranh tàu ngầm không giới hạn". Đây là một kiểu chiến đấu bằng tàu ngầm, ở đó quân Đức có thể tùy ý đánh chìm bất cứ tàu buôn nào hướng về hải phận nước Anh mà không cần phát cảnh báo, mục tiêu là để phong tỏa Anh.
Bước đầu tiên Đức thực hiện phương án này là để tàu ngầm của mình tiến vào eo biển Anh đang bố trí ngư lôi dày đặc. Thủy lôi của người Anh chất lượng không cao, hành động mạo hiểm này của người Đức đã thành công.
Tàu ngầm của Đức ẩn mình dưới đáy biển, bắt đầu tấn công tất cả các tàu của Anh, số lượng tàu bị đánh chìm không ngừng tăng lên, tiềm lực kinh tế và quân sự của Anh nhanh chóng thu hẹp lại do sự tàn sát vô tình này.
Sau khi Đức thực hiện chiến tranh tàu ngầm không giới hạn, tổn thất tàu hàng của các nước Hiệp ước từ 300.000 tấn vào tháng 1 và đến 400.000 tấn vào tháng 2, rồi từ 500.000 tấn vào tháng 3, cho đến tháng 4 đã lên đến 850.000 tấn.
Trong số các tàu hàng của Anh ra biển, bình quân cứ 4 chiếc lại có 1 chiếc bị đánh chìm.
Để đánh bại tàu ngầm Đức, bảo vệ tuyến giao thông trên biển, hải quân Anh tiến hành "hệ thống bảo vệ hạm đội". Có nghĩa là, tập hợp 10 hay mấy chục chiếc tàu buôn lại thành một đội tàu, được hộ tống bởi tàu tuần dương hoặc tàu tuần tra đi lại giữa Anh và Mỹ.
Tàu hộ tống có trang bị máy dò sóng âm và khả năng bắn ở tầng nước sâu, có thể phản công tàu ngầm, do đó đã giảm thiểu đáng kể tổn thất của các tàu buôn. Đồng thời, Anh - Mỹ nhanh chóng phát triển chiến thuật chống tàu ngầm, khiến tổn thất của tàu ngầm Đức ngày một tăng.
Năm 1918, mặc dù tàu ngầm Đức đánh chìm 1.238 tàu hàng của các nước Hiệp ước, nhưng đây chỉ là một nửa số lượng tàu đánh chìm năm 1917. Sự phong tỏa của tàu ngầm Đức dần dần bị phá vỡ.
Trong Thế chiến thứ nhất, để phá vỡ chiến tranh tàu ngầm của Đức, các nước hiệp ước đã huy động 5.000 tàu bè để làm tàu hộ tống, ngoài ra còn có 3.000 máy bay tham gia vào chiến tranh chống lại tàu ngầm.
Các nước Hiệp ước đã đánh chìm tổng cộng 178 tàu ngầm đối phương, đánh bại hoàn toàn kế hoạch "chiến tranh tàu ngầm không giới hạn" của Đức.
(Bài viết sử dụng tư liệu từ cuốn "100 cuộc chiến lẫy lừng trong lịch sử thế giới" - NXB Thời Đại)

Sức mạnh sát thủ của hạm đội tàu ngầm Liên Xô trong Thế chiến 2

VOV.VN - Lúc đầu tàu ngầm của Hồng quân Liên Xô chỉ đông về số lượng. Sau đó chúng đã được điều chỉnh để đối đầu hiệu quả với tàu ngầm phát xít Đức.


Hạm đội tàu ngầm hiện đại của Nga là một trong những hạm đội tàu ngầm mạnh nhất thế giới - điều này đã được phô diễn phần nào trong chiến dịch tiến công IS ở Syria vào năm 2015. Tuy nhiên, thành công đó có được là nhờ hàng thập kỷ lao động cật lực bắt đầu từ cách đây rất lâu, trong tiến trình Thế chiến thứ 2.

Số lượng lớn

Vào đêm trước Thế chiến 2, hạm đội tàu ngầm của Liên Xô có quy mô lớn nhất thế giới. Về mặt số lượng, hạm đội này lớn gấp đôi hạm đội của Mỹ và gấp 4 lớn hạm đội tàu ngầm của Kriegsmarine (hải quân Đức Quốc xã). Tuy vậy, hải quân Liên Xô có không ít thách thức.
suc manh sat thu cua ham doi tau ngam lien xo trong the chien 2 hinh 1
Tàu ngầm M-98 của Liên Xô (ảnh tư liệu).

Do vị trí địa lý của mình mà Liên Xô không thể giành ưu thế trên các đại dương. Liên Xô chỉ có 2 lối ra đại dương mở. Đã vậy 2 lối ra này – Cực Bắc và vùng Viễn Đông lại không có điều kiện để thiết lập các cơ sở hạ tầng đầy đủ cho hải quân.

Những gì còn lại thì chỉ là những vùng biển đóng: Biển Đen và Biển Baltic. Người ta cho rằng sau khi Thế chiến 2 bắt đầu, hải quân Xô viết chỉ có thể tấn công hệ thống liên lạc của địch nằm gần 2 khu vực này. Đã thế các tàu ngầm Liên Xô không cạnh trạnh nổi với các tàu ngầm của Đức trong khi quan điểm của Anh Quốc (nước có hạm đội lớn nhất thế giới khi ấy) trong chiến tranh lại không rõ ràng.

Do đó quyết định của Liên Xô đẩy mạnh phát triển hạm đội tàu ngầm là rất hợp logic: Chi phí sản xuất tương đối thấp có thể giúp tạo ra một lực lượng hùng mạnh, đóng vai trò quan trọng vào các trận hải chiến.

So găng một mất một còn với tàu ngầm Đức

Một sử gia người Nga đương đại cho rằng về khía cạnh đánh đắm tàu ngầm phát xít Đức thì hải quân Xô viết đã vượt qua các đồng minh phương Tây. Trong cuốn sách năm 2004 nhan đề Asy Podvodnoi Voiny (“Các Ace của Chiến tranh ngầm dưới nước”), tác giả Gennady Drozhzhin viết rằng trong tất cả 9 tàu ngầm phát xít Đức bị đắm khi tác chiến, có 4 chiếc là do tàu ngầm Liên Xô tiêu diệt. Và đấy là các cuộc đấu thứ thiệt theo đúng nghĩa – giữa thủy thủ tàu ngầm đôi bên. Chiến trường là vùng biển lạnh giá ở biển Baltic và biển Barents.
suc manh sat thu cua ham doi tau ngam lien xo trong the chien 2 hinh 2
Tàu mặt nước và tàu ngầm của hạm đội Hắc Hải năm 1942. Ảnh: RIA.
Trong cuộc chiến dưới nước này, hải quân Liên Xô giành chiến thắng sát sao – họ tiêu diệt được 4 tàu ngầm của địch còn bản thân thì mất 3 chiếc.

Ngay sau ngày Đức xâm lược Liên Xô, một chiếc tàu ngầm U-144 của Đức với lớp giáp mạnh hơn hẳn đã đánh đắm một chiếc tàu ngầm M-98 của Liên Xô. Nhưng chính chiếc tàu U-144 này gặp phải số phận tương tự vào một tháng rưỡi sau đó. Ở ngoài khơi vùng biển Estonia, một chiếc tàu ngầm Liên Xô lớp Schuka bắn hai quả ngư lôi và xóa sổ chiếc tàu này.

Hai năm sau lại diễn ra một trận “so gươm” nữa, lần này chiến thắng cũng thuộc về Liên Xô: Ba quả ngư lôi Xô viết đánh trúng một tàu ngầm U-639 của Đức đang rải thủy lôi trên bề mặt biển Barents.

Hiệu quả bất ngờ

Mặc dù tàu ngầm Liên Xô rất nhanh và hiệu quả trong các trận hải chiến thời Thế chiến 2, loạt tàu ngầm Malyutka vẫn không thực sự được coi là một vũ khí hiệu quả. Dẫu tàu này gọn và có thể vận chuyển trên xe lửa, Malyutka vẫn không phải là loại tàu tạo thoải mái cho thủy thủ đoàn cho dù các thủy thủ có thể thích ứng được với điều kiện của tàu. Và quan trọng nhất là các tàu này không an toàn. Tàu không đủ mạnh để lặn xuống độ sâu cần thiết khi tham chiến và một cơn bão mạnh có thể xé con tàu làm đôi.
suc manh sat thu cua ham doi tau ngam lien xo trong the chien 2 hinh 3
Tàu ngầm Shchuka trong Thế chiến 2. Ảnh: RIA.
Thế nhưng điều ngạc nhiên là, tàu Malyutka lại trở thành tàu ngầm Liên Xô hiệu quả nhất trong Thế chiến 2. Chúng đã lập công phá hủy hơn 60 tàu chở hàng và 8 chiến hạm của đối phương. Công tác huấn luyện thủy thủ đoàn trên tàu này đã bù lại những yếu kém về kỹ thuật, cho phép tàu có thể đạt được các kết quả ấn tượng.

Tàu ngầm Srednyaya của Liên Xô là một cải tiến thời đó. Tàu không phát huy hết năng lực chiến đấu trong các bãi cạn đầy thủy lôi ở biển Baltic nhưng những gì nó làm được là rất đáng kể.

Điều nghịch lý, nguyên mẫu của các tàu ngầm Srednyaya lại tương đương với tàu Đức, nhưng Liên Xô đã thay đổi đáng kể dự án ban đầu, và điều chỉnh tàu này cho phù hợp với các thiết bị và lớp giáp của Liên Xô.

Kết quả của điều chỉnh trên là sự ra đời một tàu ngầm phổ thông với sự thật khó tin: Một chiếc tàu loại này bị tấn công hàng trăm lần bằng bom chìm nhưng chưa một lần bị hư hại./.

Trung Hiếu/VOV.VN Theo RBTH.com


Chiến lược giúp Mỹ đánh bại tàu ngầm Nhật ở Thế chiến II


Sử dụng tàu ngầm làm lực lượng đột kích mũi nhọn, chiến lược tàu ngầm của Mỹ đã góp phần đánh bại hạm đội tàu ngầm khổng lồ của Đức và Nhật Bản trong Thế chiến II.


Một tàu chiến của Nhật Bản bị đánh chìm trong Thế chiến II. Ảnh: Hải quân Mỹ

Thế chiến II, cuộc chiến đẫm máu nhất lịch sử nhân loại. Ngoài chiến trường trên không, trên bộ, trên mặt nước, Thế chiến II còn chứng kiến một cuộc chiến khác rất khốc liệt, cuộc chiến giữa các tàu ngầm dưới mặt nước.
Tàu ngầm đã được sử dụng trong Thế chiến I, nhưng công nghệ tàu ngầm và chiến thuật tác chiến dưới nước chỉ thực sự bùng nổ trong Thế chiến II. Phe trục và Đồng minh đầu tư rất mạnh vào tàu ngầm nhằm chiếm lĩnh lòng đại dương.
Đức quốc xã là quốc gia xây dựng lực lượng tàu ngầm đông đảo nhất thế giới với hơn 1.158 chiếc. Đế quốc Nhật Bản có hạm đội tàu ngầm hơn 300 chiếc, trong đó có những tàu ngầm lớn nhất thế giới, mang theo cả máy bay bên trong.
Ưu điểm của tàu ngầm là khả năng hoạt động bí mật, khó phát hiện từ xa. Tàu ngầm có thể tung đòn tấn công bất ngờ gây thiệt hại nặng cho đối phương, đặc biệt là lực lượng tàu vận tải. Bên cạnh đó, công nghệ định vị thủy âm ở thời điểm đó chưa phát triển nên rất khó phát hiện tàu ngầm.

Chiến thuật khéo léo của Mỹ

Theo Hiệp hội Lịch sử Tàu chiến Hải quân, tổ chức phi lợi nhuận về lịch sử hàng hải của Mỹ, trong suốt Thế chiến II, Hải quân Mỹ chỉ có tổng cộng 288 tàu ngầm trên khắp các mặt trận, số lượng rất khiêm tốn nếu so với hạm đội tàu ngầm Đức quốc xã. Tuy nhiên, số lượng tàu ngầm nhiều hay ít không quan trọng bằng chiến lược sử dụng.
Tàu ngầm có lợi thế là có thể tung ra đòn tấn công bất ngờ. Tuy nhiên, tàu ngầm có điểm yếu là gần như không có khả năng phòng vệ. Hải quân Mỹ đã vận dụng một chiến thuật hoàn toàn mới, họ sử dụng tàu ngầm như một lực lượng mũi nhọn nhằm tiến hành các hoạt động phá hoại chứ không coi đây là lực lượng tấn công chính.
Chien luoc giup My danh bai tau ngam Nhat o The chien II hinh anh 1
Một tàu ngầm của Mỹ trong Thế chiến II. Ảnh: Submarinebooks
Tàu ngầm Mỹ thường phục sẵn trên các tuyến vận tải chiến lược của Nhật Bản và chờ thời điểm tấn công thích hợp. Hải quân Mỹ khai thác mạnh vào các đoạn mã liên lạc giữa tàu ngầm và tàu chiến mặt nước của Nhật. Lực lượng tàu ngầm Mỹ luôn lựa chọn được thời điểm tung đòn tấn công hợp lý nhất.
Theo Public.navy, chỉ trong năm 1943, lực lượng tàu ngầm Mỹ ở Thái Bình Dương đã đánh chìm 355 tàu thuyền các loại của Nhật, 1,5 triệu tấn hàng hóa bị nhấn chìm.
Bên cạnh đó, Hải quân Mỹ còn vận dụng "học thuyết Mahanian" trong chiến tranh hải quân, tức tăng cường sự phối hợp giữa lực lượng tàu ngầm và tàu tuần dương hạm để bảo vệ những lợi ích chiến lược từ xa.
Trong chiến lược này, lực lượng tàu chiến mặt nước sẽ đóng vai trò chủ đạo trong việc bảo vệ cho tàu ngầm. Các tàu ngầm không ở quá xa so với các tàu chiến mặt nước. Mỗi khi tàu ngầm tấn công luôn có các đòn đánh nghi binh và phối hợp cùng các tàu chiến mặt nước để phân tán lực lượng của đối phương.
Với chiến thuật sử dụng tàu ngầm đột kích vào biên đội tàu chiến Nhật Bản của Mỹ đã phát huy tối đa tác dụng trong khi vừa giảm thiểu được tối đa thiệt hại. Trong số 288 tàu ngầm tham chiến, chỉ có 52 chiếc bị đánh chìm, trong đó có 48 chiếc ở Thái Bình Dương, nơi tham chiến chính với Hải quân Nhật Bản.
Ở mặt trận Thái Bình Dương, lực lượng tàu ngầm Mỹ đã đánh chìm 1.300 tàu thuyền các loại, trong đó có 8 tàu sân bay, 1 thiết giáp hạm, 11 tàu tuần dương của Hải quân Nhật Bản. Chiến lược tàu ngầm của Mỹ góp phần làm tê liệt khả năng chiến đấu của Hải quân Nhật Bản bằng cách cắt đứt tuyến vận tải biển chiến lược của xứ sở mặt trời mọc.

Vẫn còn nguyên giá trị

Richard Pekelney, nhà phân tích lịch sử hải quân kỳ cựu nhận xét, Đức quốc xã sử dụng hạm đội tàu ngầm khổng lồ làm lực lượng tấn công chính trên biển. Các chỉ huy Hải quân Đức tin rằng, sử dụng tàu ngầm tấn công vào đội tàu buôn và tàu chiến mặt nước sẽ chia cô lập Anh khỏi sự trợ giúp của phe Đồng minh. Nhưng chiến lược này là một sai lầm.
Chien luoc giup My danh bai tau ngam Nhat o The chien II hinh anh 2
Một tàu chở dầu bị tàu ngầm đánh chìm trong Thế chiến II. Ảnh: Hải quân Mỹ
Chiến lược tàu ngầm của Đức quốc xã chỉ phát huy tác dụng ở nửa đầu Thế chiến II, phần lớn do yếu tố bất ngờ. Nhưng nửa sau Thế chiến II, phe Đồng minh đã khai thác triệt để điểm yếu trong chiến lược và đánh bại hạm đội tàu ngầm Đức.
Đức điều động các tàu ngầm thực hiện các chiến dịch tấn công rất xa mà không có sự hộ tống của tàu chiến mặt nước, nên tàu ngầm trở nên trơ trọi khi bị phát hiện. Bên cạnh đó, Đức không xây dựng được hạm đội tàu chiến mặt nước đủ mạnh để hỗ trợ cho tàu ngầm trong các chiến dịch.
Chiến lược tàu ngầm của Đức nhanh chóng bị đánh bại do thiếu sự hiệp đồng tác chiến giữa các tàu ngầm, tàu chiến mặt nước và không quân. Hạm đội tàu ngầm đông đảo của Đức quốc xã luôn bị đánh hội đồng như “cá nằm trong lưới”.
Ngày nay, vũ khí trang bị đã thay đổi rất nhiều so với trước. Công nghệ định vị thủy âm phát triển mạnh, nhưng các tàu ngầm hiện đại cũng khó phát hiện hơn, vũ trang mạnh hơn. Tàu ngầm vẫn rất lợi hại khi áp dụng chiến thuật phục kích.
Tàu ngầm hiện đại có thể tấn công từ cự ly hàng trăm kilomet khiến đối phương không kịp trở tay. Chiến thuật sử dụng tàu ngầm làm lực lượng đột kích của Mỹ vẫn còn nguyên giá trị thời sự.

Cuộc đột kích giải cứu tù nhân táo bạo trong Thế chiến II


Trận đánh đẫm máu nhất mặt trận Thái Bình Dương 70 năm trước

Quốc Việt

Những trận hải chiến nổi tiếng thế giới

15:59 | 21/01/2013
|
(Petrotimes) - Nền chính trị thế giới đang chao đảo bởi sóng gió ở các vùng biển như: Biển Đông, biển Hoa Đông, biển Nhật Bản và cả Vịnh Hormuz... “Chủ nghĩa bá quyền trên biển” đang là mối đe dọa thực sự với hòa bình nhân loại. Trong lịch sử các cuộc chiến tranh, hải chiến luôn được xem là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự nhưng cũng là nơi thể hiện rõ nhất sự tàn khốc của chiến tranh. Chuyên mục Biển Đông của Petrotimes mở chuyên đề: "Những trận hải chiến nổi tiếng thế giới" - góp một lời nhắc nhở nhân loại về sự tàn khốc của chiến tranh trên biển - để loài người tỉnh táo hơn với những nguy cơ đến từ đại dương.
Bài 1: Hải chiến Hampton Roads - nơi bắt đầu cho chiến tranh biển hiện đại
Trận Hampton Roads thực sự làm thay đổi bản chất của chiến tranh trên biển, gây nên một ảnh hưởng tức thì đến lực lượng hải quân toàn thế giới. Hai cường quốc vượt trội về hải quân là Anh và Pháp cho ngừng việc sản xuất tàu gỗ, các quốc gia khác sau đó cũng làm theo.
Một loại tàu chiến mới mang tên Monitor ra đời, và trở thành tiêu chuẩn của mọi loại tàu chiến.
Hampton Roads, hay “trận chiến giữa các tàu bọc sắt”, là trận hải chiến nổi tiếng nhất, quan trọng nhất thời Nội chiến Mỹ, diễn ra trong hai ngày 8 và 9/3/1862 tại Hampton Roads, một vũng tàu ở bang Virginia nơi hai con sông Elizabeth và sông Nansemond hợp với sông James trước khi đổ ra vịnh Chesapeake.
Trận chiến giữa Monitor and Merrimac ( Ảnh minh họa: Kurz và Allison)
Trận đánh này là một phần trong nỗ lực của Liên minh miền Nam nhằm phá vỡ cuộc phong tỏa của miền Bắc, vốn đang cô lập hai thành phố lớn nhất thuộc bang Virginia là Norfolk và Richmond ra khỏi nền thương mại quốc tế. Trận đánh mang một ý nghĩa lớn vì đây là lần đầu tiên các chiến hạm bọc sắt giao chiến với nhau.
Hạm đội miền Nam gồm chiếc tàu mũi nhọn CSS Virginia (thực ra vốn là tàu USS Merrimack cũ được bọc sắt lại và thêm vũ khí) cùng nhiều tàu khác trợ chiến. 
Trong ngày đầu tiên, hạm đội này giao chiến với nhiều tàu gỗ thông thường của hải quân miền Bắc, chiếc Virginia tiêu diệt được 2 tàu của hạm đội Liên bang miền Bắc và mục tiêu thứ ba là tàu USS Minnesota đang bị mắc cạn thì phải dừng lại do đêm xuống và thủy triều rút.
Sáng hôm sau là cuộc giao tranh giữa Virginia và Monitor kéo dài 3 giờ đồng hồ nhưng không phân thắng bại.
Quyết tâm tiêu diệt cho được tàu Minnesota, Catesby ap Roger Jones, người giữ chức thuyền trưởng tạm thời khi Buchanan vắng mặt, đã đưa tàu quay lại tham chiến vào sáng hôm sau, ngày 9 tháng 3.
Tuy nhiên, trong đêm, chiếc tàu bọc sắt USS Monitor đã tới nơi và vào vị trí bảo vệ tàu Minnesota. Khi chiếc Virginia tiếp cận thì Monitor tiến ra đánh chặn. Hai con tàu bọc sắt giao chiến với nhau trong khoảng 3 giờ đồng hồ, nhưng không bên nào gây được thiệt hại đáng kể cho đối phương.
Trận đấu kết thúc bất phân thắng bại, tàu Virginia trở về căn cứ tại xưởng đóng tàu Gosport để sửa chữa và gia cố thêm, còn Monitor tiếp tục ở lại bảo vệ tàu Minnesota. Các tàu chiến hai bên không đánh tiếp nữa, và cuộc phong tỏa vẫn được tiếp tục như cũ. Đồng thời, trận này còn khẳng định quân miền Bắc sẽ tiếp tục chiến dịch bán đảo của mình.
Làm thay đổi bản chất của chiến tranh trên biển, trận hải chiến đã thu hút sự quan tâm của quốc tế và đã gây nên một ảnh hưởng ngay tức khắc đến các lực lượng hải quân toàn thế giới. Hai cường quốc vượt trội về hải quân là Anh và Pháp đã cho ngừng việc sản xuất tàu gỗ, các quốc gia khác sau đó cũng làm theo.
Một loại tàu chiến mới mang tên monitor đã ra đời, dựa trên những nguyên lý của chiếc ban đầu. Việc lắp đặt một số nhỏ các khẩu đại bác hạng nặng nhằm bắn được theo mọi hướng, được áp dụng lần đầu tiên trên tàu Monitor, chẳng mấy chốc đã trở thành tiêu chuẩn của mọi loại tàu chiến.
Các nhà máy đóng tàu cũng cho kết hợp thêm phần mũi nhọn vào các bản thiết kế vỏ tàu chiến trong suốt thời gian còn lại của thế kỷ 19.

(Còn nữa)
H. M (tổng hợp theo CADN/wiki)

"Những trận hải chiến nổi tiếng thế giới": Hải quân Anh - Đức và cuộc chạm trán lịch sử ở Jutland

07:00 | 24/01/2013
|
(Petrotimes) - Tiếp theo chuyên đề "Những trận hải chiến nổi tiếng thế giới", Petrotimes xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc trận hải chiến Jutland, hay còn gọi là Skagerrak - được xem là trận hải chiến lớn nhất Thế chiến I...
Nền chính trị thế giới đang chao đảo bởi sóng gió ở các vùng biển như: Biển Đông, biển Hoa Đông, biển Nhật Bản và cả Vịnh Hormuz... “Chủ nghĩa bá quyền trên biển” đang là mối đe dọa thực sự với hòa bình nhân loại.
Trong lịch sử các cuộc chiến tranh, hải chiến luôn được xem là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự nhưng cũng là nơi thể hiện rõ nhất sự tàn khốc của chiến tranh.
Chuyên mục Biển Đông của Petrotimes mở chuyên đề: "Những trận hải chiến nổi tiếng thế giới" - góp một lời nhắc nhở nhân loại về sự tàn khốc của chiến tranh trên biển - để loài người tỉnh táo hơn với những nguy cơ đến từ đại dương.
Bài 2: Hải quân Anh -  Đức và cuộc chạm trán lịch sử ở Jutland
Jutland hay Skagerrak (theo cách gọi của người Đức) là trận hải chiến lớn nhất Thế chiến I, diễn ra giữa Hạm đội Biển khơi của Đế chế Đức và Hạm đội Grand của Anh từ ngày 31/5 đến 1/6/1916 tại vùng biển ngoài khơi Jutland thuộc eo Skagerrak giữa Đan Mạch và Na Uy.
Khi đó, Hạm đội Biển khơi Đức thường xuyên theo dõi các hải đội tàu chiến-tuần dương hạm ở eo Skagerrak, “địa đạo” dẫn đến biển Baltic. Còn hạm đội Grand của Anh cũng biết kế hoạch này nên muốn ngăn chặn kế hoạch của Đức tại Jutland.
Khi màn đêm buông xuống, sau 10 giờ giao tranh quyết liệt giữa 250 con tàu, cả 2 hạm đội Anh và Đức đều chịu những tổn thất nặng nề.  Phía Anh mất 3 tuần dương hạm, 3 thiết giáp hạm và 8 khu trục. Trong khi đó hải quân Đức mất 1 tuần dương hạm, 1 thiết giáp hạm , 4 tuần dương hạm hạng nhẹ và 5 khu trục hạm.
Đây là một trận hải chiến được đánh giá là lớn nhất trong Thế chiến I. Ngày 31/5/1916, Hạm đội Grand - Grand Fleet của Hải quân Hoàng gia Anh đã chạm trán với Hạm đội biển khơi - High Seas Fleet của Đức ngoài khơi bờ biển Đan Mạch trong một cuộc chiến được gọi là “Trận chiến Jutland”.
Trận đánh này đã được tiên đoán trước đó một vài năm, kể từ khi Hoàng đế Kaiser Wilhelm II bắt tay vào xây dựng các tàu chiến mới nhằm nâng cao sức mạnh của Hải quân Đức để đối mặt với sự thống trị của Hải quân Anh khi đó.

Tàu chiến của Anh trong trận Jutland
Trước đó, cuộc chạy đua vũ trang đang bắt đầu từ năm 1905, khi mà Hải quân Anh cho ra đời thiết giáp hạm cỡ lớn trang bị nhiều súng và di chuyển nhanh hơn những thế hệ tàu cũ. Lúc đó, cả Anh lẫn Đức bước vào cuộc đua vũ trang với mục tiêu trang bị siêu vũ khí cho các hạm đội hải quân càng sớm càng tốt.
Đầu Thế chiến I, các hạm đội của Anh được phái đến Biển Bắc (trước đây có tên là Đại dương Đức) để cùng nhau tạo nên một vành đai thép ngoài khơi biển nước Đức nhằm ngăn cản việc cung cấp vật tư từ trên bờ ra biển. Điều này đã khiến những con tàu Đức phải neo đậu ven bờ và rất thèm khát một trận chiến với người Anh. Tuy nhiên, khi đó những lo ngại của Hoàng đế Kaiser Wilhelm II về thiệt hại của các trang bị đắt tiền trong hải quân đã ngăn điều đó không xảy ra.
Đầu năm 1916, chỉ huy hạm đội đế quốc Đức là đô đốc Von Scheer có ý định kiểm soát toàn bộ khu vực Biển Đen để chống lại quân Anh và kiểm soát hành lang Jutland nối Biển Bắc và biển Baltic, ngăn chặn sự thông thương giữa Anh, Pháp với các nước Bắc Âu và Nga.
Bước đầu, đô đốc Scheer cho 1 số tuần dương hạm đến bắn phá những căn cứ của hải quân Anh dọc theo bờ biển miền đông nước Anh. Cuối tháng 5/1916, Von Scheer cử đô đốc Hipper đưa 1 tàu tuần dương hạm tiến vào biển Jutland để phong tỏa đường đi lại của tàu buôn Anh. Bộ Hải quân Anh trước tình hình đó đã ra lệnh cho đô đốc Jellicoe và phó đô đốc Beatty đưa 2 hạm đội dưới quyền từ miền Bắc và miền Nam nước Anh tiến vào biển Jutland.

Bản đồ khu vực diễn ra trận đánh
Trước nhiều sức ép khác nhau cùng với việc chỉ nằm im một chỗ khi bị bao vây gây ra nhiều hạn chế cho toàn quân đội, cuối cùng Hải quân Đức cũng đã nhận được lệnh rời cảng, ra khơi tấn công các hạm đội của Anh vào tháng 5/1916. Thật không may cho người Đức, tình báo Anh phá được các mật mã của quân Đức và hiểu được ý định của kẻ thù.
Ngày 31/5/1916, hai bên dàn trận ở hành lang Jatland. Hải quân Hoàng gia Anh có 150 chiếc tàu tham chiến bao gồm 28 thiết giáp hạm, 17 tuần dương hạm, 22 tuần dương hạm hạng nhẹ, 81 khu trục hạm, 1 tàu phóng lôi, 1 tàu sân bay. Trong khi lực lượng của Đức là 111 tàu tham chiến, trong đó có 22 thiết giáp hạm, 5 tuần dương hạm, 11 tuần dương hạm hạng nhẹ, 73 khu trục hạm, 16 tàu ngầm và 10 máy bay.
Chiều tối ngày 31/5, một cuộc hỗn chiến đã xảy ra giữa 2 bên với 250 tàu, kéo dài đến sáng hôm sau và tất cả hầu như diễn ra dưới bóng tối. Cuối cùng, người Đức cũng đã thoát được khỏi vòng vây của hải quân Anh để quay về cảng với những thiệt hại nặng nề mà không đạt được mục tiêu ban đầu là phá vỡ vành đai thép ngoài khơi nước họ.
Ernest Francis là một pháo thủ trên tuần dương hạm Queen Mary của Hải quân Hoàng gia Anh. Tuần dương hạm Queen Mary đã trúng đạn và bị thổi bay khỏi mặt nước khiến cho gần như thủy thủ đoàn 1.000 người bị hất văng ra ngoài. Francis đã may mắn còn sống sau khi bị văng ra khỏi tháp pháo và vướng vào cột buồm. Ông đã từng kể lại về những gì từng xảy ra trên tàu Queen Mary trong trận đánh vĩ đại này.
Tuần dương hạm Queen Mary phát nổ sau khi trúng 2 phát đạn của Hải quân Đức
Về mặt chiến thuật, đây là một cuộc chiến đầy bế tắc giữa 2 bên. Kết thúc trận đánh, Hải quân Anh mất 14 tàu chiến các loại và 6.094 thủy thủ, trong khi đó phía Đức mất 11 tàu và 2.551 thủy thủ.
Tuy nhiên, về mặt chiến lược đây là một chiến thắng dành cho Hải quân Hoàng gia Anh, Hạm đội biển khơi của Đức đã không bao giờ dám đối mặt với các tàu chiến Anh thêm lần nào nữa. Các tàu chiến của Đức đã bị vô hiệu hóa nên những lần phá vòng vây sau đó người Đức chủ yếu sử dụng các tàu ngầm.
Francis kể lại: "Những khẩu pháo đã được nạp đạn và di chuyển đến vị trí cần thiết, sẵn sàng nhả đạn khi trận đánh bắt đầu. Ngay sau khi loạt súng đầu tiên được khai hỏa, chúng tôi đã bắt đầu trận chiến vĩ đại này.
Đột nhiên, tất cả dường như im lặng tuyệt đối, cảm giác như những con sò dưới biển cũng dừng di chuyển. Ngay sau đó là một phát bắn trời giáng, tất cả bị thổi tung, bụi và những mảnh vỡ bay xung quanh tháp pháo X mà chúng tôi đang làm nhiệm vụ.
Sau đó là những phát đạn liên tục, nhưng không hề ảnh hưởng đến các tháp pháo. Điều này khiến cho chúng tôi tiếp tục làm công việc của mình cho đến khi phát hiện ra chiếc tàu cứu sinh thứ 3 đã được thả xuống biển, Queen Mary đã thực sự đổ máu.
Trong vài loạt pháo tiếp theo, con tàu bị trúng đạn lần 2 và các hầm đạn đã phát nổ, cuối cùng nó bị nghiêng và chìm xuống đáy biển làm hơn 1.200 thủy thủ thiệt mạng và chỉ có 18 người may mắn sống sót được vớt lên bởi các tàu khu trục đi sau".
Sau 10 giờ chiến đấu, cả 2 hạm đội Anh và Đức đều chịu những tổn thất nặng nề. Trận Jutland kết thúc với tổn thất của quân Anh nặng hơn quân Đức nhưng hải quân Hoàng gia Anh vẫn khống chế hoàn toàn mặt biển đến hết Thế chiến I. Ý đồ của Hải quân Đức nhằm phá vỡ sự phong toả mặt biển của hải quân Anh đã hoàn toàn thất bại. Từ đó trở đi, hạm đội Đức tiếp tục bị phong tỏa trong các hải cảng.
(Còn nữa)
Tổng hợp theo Wiki/CADN/NNVN

Những trận hải chiến nổi tiếng thế giới: Hải chiến Đại Tây Dương

08:28 | 28/01/2013
|
(Petrotimes) - Thời kỳ đại chiến thế giới thứ 2, Anh là một đảo đế quốc phụ thuộc nhiều vào tài nguyên từ thuộc địa bên ngoài. Để tiếp tục chiến đấu chống Đức, mỗi tuần Anh cần một triệu tấn nguyên vật liệu. Trận đánh trên Đại Tây Dương thật ra đơn giản chỉ vì Anh cần tiếp vận và Đức ra sức đánh chìm tàu bè để cắt tiếp vận này. Chính từ nguyên nhân này mà các sử gia có thêm những trang mới viết về trận hải chiến được xem là dài nhất trong lịch sử Thế chiến thứ II: Hải chiến Đại Tây Dương...
Nền chính trị thế giới đang chao đảo bởi sóng gió ở các vùng biển như: Biển Đông, biển Hoa Đông, biển Nhật Bản và cả Vịnh Hormuz... “Chủ nghĩa bá quyền trên biển” đang là mối đe dọa thực sự với hòa bình nhân loại.
Trong lịch sử các cuộc chiến tranh, hải chiến luôn được xem là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự nhưng cũng là nơi thể hiện rõ nhất sự tàn khốc của chiến tranh.
Chuyên mục Biển Đông của Petrotimes mở chuyên đề: "Những trận hải chiến nổi tiếng thế giới" - góp một lời nhắc nhở nhân loại về sự tàn khốc của chiến tranh trên biển - để loài người tỉnh táo hơn với những nguy cơ đến từ đại dương.
Bài 3: Đại hải chiến Đại Tây Dương và những chiến hạm nổi tiếng
Trận chiến Đại Tây Dương được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có sử gia cho rằng đây không phải là một trận duy nhất mà là gồm một chuỗi nhiều trận hải chiến hay cuộc hành quân trên biển. Cuộc chiến bắt đầu ngày 3 tháng 9 năm 1939 cho đến khi Đức Quốc Xã đầu hàng năm 1945. Cao điểm của trận chiến là những năm 1940 - 1943 khi tàu ngầm (U-Boat) và các chiến hạm của hải quân Đức (Kriegsmarine) tấn công và đánh chìm nhiều đoàn tàu buôn và chiến hạm của Đồng Minh.
Những đoàn tàu này thường là từ Hoa Kỳ theo phía nam Đại Tây Dương chở tiếp vận và vũ khí đến Anh Quốc và Liên Xô, được hộ tống bởi hải quân và không quân Anh và Canada. Bắt đầu từ ngày 13 tháng 9 năm 1941 có thêm chiến hạm Hoa Kỳ tham gia hộ tống các đoàn tàu này. Hải quân Ý theo phe Đức tham gia trận đánh từ ngày 10 tháng 6 năm 1940.
Trận chiến này (từ tiếng Anh "Battle of the Atlantic" do thủ tướng Anh Winston Churchill nêu lên năm 1941) lan rộng khắp một vùng hải dương rộng lớn, kéo dài 6 năm, với hàng nghìn thuyền bè tham gia, hơn 100 đoàn tàu bị tấn công và đến cả ngàn trận đánh một chọi một giữa hai chiến hạm.
Chiến thuật trên biển thay đổi liên tục, lúc bên này thắng thế, lúc bên kia thắng thế. Đồng Minh dần dần chiếm được thế thượng phong và đánh đuổi được chiến hạm địch ra khỏi chiến trường vào cuối năm 1942, và phá được chiến lược tàu ngầm và tháng 3 - 5 năm 1943. Hải quân Đức cố gắng trang bị thêm tàu ngầm hiện đại hơn vào năm 1945 nhưng đã quá trễ, không phục hồi được cục diện của chiến trường Đại Tây Dương.
Từ tháng 8 năm 1940, hải quân Ý đưa tàu ngầm đến căn cứ Bordeaux tăng cường lực lượng phe Trục tấn công hải quân Anh. Loại tàu ngầm Ý được thiết kế cho hải chiến tại Địa Trung Hải, không thích hợp với chiến trường Đại Tây Dương và yếu kém hơn loại của Đức. Tuy vậy, tàu ngầm Ý cũng đạt đựoc thành tích đáng kể: 37 tàu ngầm Ý bắn chìm 109 chiến thuyền và tàu buôn của Đồng Minh (tổng cộng 593.864 tấn tàu bè và hàng tiếp vận). Hải quân Ý còn sử dụng loại tàu lặn nhỏ (ngư lôi người) làm lung lay lực lượng hải quân Anh tại Gibralta.
Mặc dầu hải quân Ý đạt nhiều chiến tích, Đô đốc Đức vẫn coi thường lực lượng này. Ông cho rằng lính Ý thiếu kỷ luật và dễ nao núng khi chạm địch, không hoạt động theo chiến thuật bầy sói săn mồi, không giữ liên lạc chặt chẽ với hải quân Đức. Chẳng bao lâu, lực lượng tàu ngầm Ý ngừng hoạt động chung với lực lượng của Đức.
Sĩ quan hải quân Anh trên một chiếc khu trục hạm đang canh phòng tìm tàu ngầm địch, tháng 10/1941
Nói đến hải chiến Đại Tây Dương với “quy mô” khổng lồ của nó, không thể nó đến những chiếc tàu chiến nổi tiếng trên chiến trường này.
Về phần mình, các sĩ quan hải quân Đức vẫn cho rằng chỉ có những chiến thuyền lớn mới đem lại chiến thắng thực sự trên mặt biển.
Trong những tháng đầu năm 1940, các tàu chiến lớn của hải quân Đức được tập trung vào chiến trường Bắc Âu và không chiếc nào có mặt tại Đại tây Dương, ngoài chiếc tuần dương nhỏ Admiral Graf Spee lập nhiều thành tích nhưng đã bị bắn hỏng. Sau chiến thắng tại Na Uy, hải quân Đức liên tục đưa các chiến thuyền lớn ra Đại Tây Dương, bắt đầu cuộc công kích tàu buôn của Đồng Minh.
Ngày 5/11/1940, đoàn tàu tiếp vận HX 84 của Anh bị tàu Admiral Scheer chận bắn - 5 chiếc chìm tại chỗ và nhiều chiếc khác bị phá hủy làm tán loạn đội hình. Quân Anh phải thí mạng chiếc HMS Jervis Bay và nhờ màn đêm kéo xuống, số tàu còn lại mới chạy thoát. Sau tổn thất này, tư lệnh hải quân Anh phải tạm ngưng các đoàn tàu tiếp vận và điều động chiến thuyền ra săn đuổi tàu Scheer nhưng không thấy đâu nữa. Tháng sau, chiếc Scheer lại lộ diện tại Ấn Độ Dương.
Ngày 25/12/1940, chiếc tuần dương Admiral Hipper của Đức chận đánh đoàn tiếp vận WS 5A nhưng bị các chiếc hộ tống đẩy lùi. Ngày 12/02/1941, Hipper chận đánh đoàn SLS 64 gồm 19 tàu và bắn chìm được 7 chiếc.
Tháng 1 năm 1941, hai chiến thuyền hạng nặng là Scharnhorst và Gneisenau mở chiến dịch Berlin ra vùng biển phía bắc Đại tây Dương chận đánh các đoàn tàu từ Canada sang Anh. Các đoàn tàu HX 106, HX 111 và SL 67 bị chận đánh nhưng may nhờ có tàu hộ tống đến kịp nên chỉ bị tổn thất nhỏ. Trong hai tháng, hai chiếc Scharnhorst và Gneisenau chạy ngang dọc 18.000 dặm đường biển, bắn chìm 22 tàu của Anh.
Tháng 5, quân Đức táo bạo mở chiến dịch Rheinübung đưa chiếc Bismarck mới xây xong và chiếc tuần dương Prinz Eugen ra tấn công các đoàn tàu tiếp vận. Quân Anh bắt được thông tin này liền đem một lữ đoàn tàu chiến ra ngoài hải phận Iceland chận đánh. Hai bên bắn nhau tại eo biển Đan Mạch. Hải quân Anh thua to. Tàu chiến HMS Hood của Anh bị bắn chìm. Trong số 1.418 thủy thủ chỉ có 3 sống sốt. Bên kia, chiếc Bismark bị ngư lôi của Anh bắn trúng làm hỏng bánh lái không chạy nhanh được. Ba ngày sau, Bismark bị hạm đội trung ương hải quân Anh bắt kịp và bắn chìm. Chỉ 110 trong số 2.300 thủy thủ của tàu Bismark sống sót. Sau mất mát quá lớn này, hải quân Đức ngưng chiến lược chận đánh tàu buôn bằng chiến thuyền trên mặt biển.
Tháng 2 năm 1942, hải quân Anh vô cùng xấu hổ vì không bắt được kịp các chiến thuyền của Đức (Scharnhorst, Gneisenau và Prinz Eugen) trên tuyến đường chạy thoát về Đức. Sau khi mất chiếc Bismark, cộng thêm lo ngại cuộc tấn công của Đồng Minh theo ngã Na Uy, Hitler quyết định rút ra khỏi chiến trường Đại Tây Dương.
Kế hoạch Z của hải quân Đức trong chiến trường Đại Tây Dương gồm thiết bị lực lượng hải quân mạnh đủ để tiêu diệt tàu hộ tống đồng thời phá hủy mọi tiếp vận đến Anh. Kế hoạch không thành công vì Đức chưa kịp xây dựng đủ hỏa lực hải quân thì chiến tranh đã bùng nổ. Kết quả là số tàu Anh bị Đức phá hủy không cao so với hao tổn của U-boot, mìn và máy bay. Tuy vậy cuộc chận đánh các đoàn tàu buôn trên Đại Tây Dương cũng gây nhiều chật vật khó khăn cho Anh, và làm mức nhập cảng vào Anh giảm xuống rất nhiều.
Tóm lại, về mặt chiến thuật, các trận đánh trong chuỗi hải chiến Đại Tây Dương thay đổi liên tục, lúc thì bên này thắng, lúc bên kia được. Song chung quy, phe Đồng minh chiếm ưu thế và vào cuối năm 1942 đánh bại âm mưu dùng  tàu ngầm của Đức và làm thay đổi cục diện chiến trường trên Đại Tây Dương.
H.M (Tổng hợp theo Wiki/CADN)

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH