Đến năm 2005, số lượng UAV của các nước khối quân sự NATO là 75 310
chiếc, trong đó 60 nghìn UAV đến năm 2006 đã có trong biên chế của Lực
lượng quân sự liên minh NATO. Việt Nam cũng đang chú trọng phát triển
UAV.
Trong giai đoạn từ năm 2000—2010 số lượng UAV trong
biên chế của lực lượng vũ trang Mỹ tăng vọt 136 lần, từ 50 đến 6800
chiếc. Dự báo, khoảng 30 năm tới số lượng các UAV quân sự của Mỹ sẽ tăng
thêm 4 lần. Đến năm 2005, số lượng UAV của các nước khối quân sự NATO
là 75 310 chiếc, trong đó 60 nghìn UAV đến năm 2006 đã có trong biên chế
của Lực lượng quân sự liên minh NATO. Đến năm 2008 Mỹ và NATO đã tích
cực triển khai khoảng 300 chương trình nghiên cứu, chế tạo các UAV.
UAV Aerostar của Israel
Những
mẫu UAV nổi tiếng trên thị trường quân sự thế giới do có những tính
năng kỹ chiến thuật nổi bật như khối lượng hữu ích lớn, tầm bay xa và
thời gian bay dài là: Euro Hawk (chấu Âu/Mỹ), RQ-4 Global Hawk (Mỹ),
RQ-7A Shadow 200/400/600 (Mỹ), Chacal-2 (Pháp), Dassault nEUROn (Pháp),
Eagle Eye (США), RQ-8A/MQ-8 Fire Scout (Mỹ), A160 Hummingbird (Mỹ),
Elbit Hermes 180/450/900/1500 (Mỹ), MQ-1 Predator (Mỹ), IAI Searcher II
(Israel), MQ-9 Reaper (Mỹ), Sperwer Mk.II (Pháp), Patroller (Pháp),
Barracuda-2 (Liên bang Đức), X-47B Pegasus (Mỹ), Aerostar (Israel),
Zephyr (Anh), Avenger (Mỹ) và Falco (Ý).
Theo
chương trình Long-Range Strike triển khai năm 2012. Mỹ đang nỗ lực phát
triển UAV tốc độ siêu thanh, tương lai sẽ trở thành máy bay ném bom
chiến lược không người lái thế hệ mới. Song song cùng với chương trình
nay, các nhà khoa học Mỹ đang nghiên cứu thiết kế nguyên mẫu UAV cơ bản,
từ đó phát triển các UAV có những tính năng kỹ chiến thuật khác nhau
như tiêm kích đánh chặn, cường kích, trinh sát, AWACS, vận tải, tác
chiến điện tử, thông tin liên lạc và tiếp dầu trên không.
Sự
phát triển UAV của Nga có phần chậm hơn so với Trung Quốc và Mỹ, năm
2007 Bộ quốc phòng Nga đã chi 5 tỷ rúp phát triển UAV, những đến tháng
4.2009 các dự án phát triển UAV vẫn đang nằm ở dạng model và văn bản
thiết kế. Bộ quốc phòng Nga ký hợp đồng mua và lắp ráp bản địa 12 chiếc
UAV Israel BirdEye-400, I-View Mk150 và Searcher II với tổng chi phí 53
triệu đô la. Năm 2010 Hợp đồng với Israel Aerospace Industries được mở
rộng đến 400 triệu đô la. Các UAV Israel sẽ lắp đặt tại nhà máy trực
thăng Kazal. Cùng thời gian này, Nga cũng đưa vào biên chế UAV trinh sát
và chỉ thị mục tiêu, điều khiển hỏa lực pháo binh "Tipchak", phát triển
bởi Trung tâm Thiết kế “Luch”.
Máy bay trinh sát pháo binh "Tipchak" Nga
Tại
Việt Nam, sáng ngày 03.05, nhóm nghiên cứu chế tạo UAV phục vụ nghiên
cứu khoa học Viện Công nghệ không gian – HTI đã chính thức bay thử
nghiệm 5 mẫu máy bay không người lái tại bãi thử Viện Công nghệ với sự
có mặt của lãnh đạo Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. 5 loại máy bay đều được
thiết kế chế độ điều khiển bay tự động theo chương trình lập sẵn trên
nền bản đồ số. UAV được trang bị camera máy ảnh tác nghiệp trong cả ban
ngày và ban đêm cùng các trang bị nghiên cứu khoa học chuyên dụng khác.
Các AV.UAV.S3; AV.UAV.S4 có thể mở rộng tầm bay xa hơn khi sử dụng GPS
hoặc các trạm chuyển tiếp mặt đất.
UAV Việt Nam, sản phẩm của HTI.
Viện Nghiên cứu và Phát triển Viettel, Trung tâm khí cụ bay đã phát triển mẫu VT-Patrol sải cánh 3,3m, trọng lượng cất cánh 26kg,
UAV VT-Patrol bay với vận tốc từ 100 đến 150km/giờ, cự ly hoạt động
50km, trinh sát bằng camera quang hồng ngoại full HD nhận dạng và phân
biệt mục tiêu binh lính trên cự ly 600m.Định hướng sản phẩm của Viettel
là chế tạo những máy bay không người lái tầm trung có thời gian bay
15-24 giờ phục vụ cho trinh sát cấp chiến dịch, chiến lược... Hơn nữa là
các thiết bị bay tối tân khác có trần bay cao để tăng cường khả năng
phòng vệ cho đất nước.
Các UAV trong quân sự
theo yêu cầu nhiệm vụ được phân theo cấp chiến lược, chiến dịch và chiến
thuật, chế tạo theo nhu cầu của Lục quân, Không quân, hải quân, bộ đội
biên phòng, cảnh sát vũ trang…..
Theo tính năng
kỹ chiến thuật, các UAV được phân loại theo khối lượng: UAV thu nhỏ,
siêu nhỏ, nhỏ, hạng trung và hạng nặng. Các UAV thường có hình dáng
tương tự như máy bay, máy bay trực thăng hoặc lai ghép hai loại như
tiltrotor (động cơ quay theo yêu cầu hoạt động). Ngoại trừ các UAV trinh
sát tấn công phản lực theo mô hình máy bay tiêm kích, các UAV thông
thường sử dụng động cơ đốt trong, động cơ điện hoặc kết hợp. Các UAV có
nhiều phương pháp cất hạ cánh khác nhau, bao gồm cất cánh chay đà hoặc
thẳng đứng, đẩy hoặc phóng, hạ cánh thông thường, hạ cánh bằng dù hoặc
được thu lại bằng lưới. Có nhiều phương pháp điều khiển UAV, các trắc
thủ có thể điều khiển thông qua bàn điều khiển, khí tài điều khiển hoặc
điện thoại di động smart phone, UAV có thể tự bay theo chương trình hoặc
kết hợp cả hai phương pháp điều khiển.
Các UAV
nhỏ đơn giản thường được lắp các thiết bị quan sát, trinh sát quang điện
tử như máy chụp ảnh, máy quay video thông thường, radar trinh sát,
thiết bị quang ảnh nhiệt, đầu thu hồng ngoại hoặc âm thanh, thiết bị
trinh sát vật chất vũ khí hủy diệt lớn, các thiết bị cảm biến âm thanh,
siêu âm, cảm biến thông tin thời tiết, khi hậu, thủy văn, nhiệt độ và
các trường vật lý khác. Các UAV có tải trọng lớn mang theo vũ khí tấn
công các loại thường là các UAV trinh sát - tấn công. Các UAV có các cự
ly bay khác nhau (siêu gần, tầm gần, tầm trung và tầm xa), thời gian
hoạt động trên không có thể là: rất ngắn, ít thời gian, thời gian trung
bình và thời gian dài. Các UAV sử dụng trong mục đích chiến thuật bao
gồm các loại như:
Nano UAV — cự ly hoạt động nhỏ
hơn 1 km, khối lượng nhỏ hơn 0,025 dùng trong các mục đích đặc biệt như
tình báo, trinh sát đặc công; Micro μ UAV — cự ly hoạt động 10 km, tải
trọng đến 5 kg; Mini UAV — cự ly hoạt động 10 km, khối lượng 20—150; UAV
cự ly cận gần (CR, Close Range) — bán kính hoạt động 10—30 km, tải
trọng 25—150 kg; UAV tầm gần (SR, Short Range) — cự ly hoạt động 30—70
km, tải trọng 50—250; UAV tầm trung (MR, Medium Range) — cự ly hoạt động
70—200 km, tài trọng 150—500 kg; UAV tầm trung, thời gian hoạt động dài
(MRE, Medium Range Endurance) — cự ly đến 500 km, tải trọng 500—1500
kg;
Các drones cấp chiến thuật cũng được phân
loại theo độ cao hoạt động: UAV độ cao thấp tiềm nhập sâu (LADP, Low
Altitude Deep Penetration) — có cự ly hoạt động 250 km, tải trọng
250—2500 kg; UAV độ cao thấp, thời gian dài (LALE, Low Altitude Long
Endurance) — cự ly hoạt động 500 km, khối lượng 15—25 kg; UAV độ cao
trung bình, thời gian dài (MALE, Medium Altitude Long Endurance) — cự ly
hoạt động 500 km, khối lượng 1000—1500 kg.
Các
drones cấp chiến dịch - chiến lược là các UAV hạng nặng có cấu hình
tương tự như các máy bay chiến đấu có tầm bay rất cao, hoạt động trên
không gian rộng (HALE, High Altitude Long Endurance) — cự ly hoạt động
đến 2000 km, tải trọng 2500—5000 kg.
Tiến trình
phát triển UAV quân sự bao hàm ba giai đoạn: Giai đoạn đầu là sự hình
thành và phát triển các tập hợp UAV với những ứng dụng và nhiệm vụ khác
nhau. Giai đoạn hai sẽ là tiến trình phát triển các hệ thống vũ khí trên
UAV hiện đại và giai đoạn thứ ba là xây dựng các siêu hệ thống vũ khí
UAV bằng các hệ thống hàng không điều khiển từ xa (các phương tiện mang
đường không và các UAV – vũ khí tấn công đường không). Chuyên gia hàng
không John Warden dự kiến đến năm 2025 90% máy bay chiến đấu sẽ là không
người lái do tính hiệu quả rất cao của các phương thức tác chiến tầm
xa, giá thành chế tạo vũ khí thấp và không tổn thất phi công. Các UAV
tấn công có thể mang theo một khối lượng vũ khí không hạn chế, khả năng
chịu tải lớn hơn 9g (mức chịu đựng của phi công) và khả năng siêu cơ
động, cũng như có thể phát triển không giới hạn về thời gian và tốc độ
bay, môi trường hoạt động và không gian tác chiến.
UAV "Talarion" của liên doanh Đức, Pháp và Tây Ban Nha như máy bay trinh sát - tấn công
Nhận
định được xu hướng phát triển các máy bay không người lái quân sự, từ
năm 1978, Viện Kỹ thuật Không quân đã có chương trình TL-1 định hướng
nghiên cứu thiết kế và chế tạo các UAV thông tin quân sự theo mô hình
máy bayRaely 220 của Pháp, phát triển thành UAV HL- 1, do khó khăn tài
chính HL-1 chỉ hoàn thành được 1 phần chương trình. Hiện nay, các chương
trình phát triển UAV dưới nhiều hình thức đang được phát triển mạnh ở
Việt Nam. Từ năm 2010 Viện Công nghệ không gian HTI đã hợp tác với tập
đoàn Irkut Nga nghiên cứu phát triển công nghệ thiết kế chế tạo các UAV
đa dụng, Trung tâm khí cụ bay Tập đoàn Viettel cũng đang có những nghiên
cứu phát triển các UAV quân sự.
Đất nước ta có
đường biên giới rất dài và không gian biển rộng lớn, công tác quản lý,
cảnh giới bảo vệ biên cương và vùng biển, hải đảo và sẵn sàng đánh bại
mọi âm mưu xâm hại chủ quyền, lợi ích của quốc gia đòi hỏi phải có một
lực lượng UAV rất lớn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
QĐNDVN
với các loại vũ khí, trang bị hiện nay cần có các UAV kiểm soát, trinh
sát và cảnh báo sớm, quản lý chặt chẽ vùng biển, vùng trời, hải đảo và
các khu vực kinh tế biển trọng yếu. Trong tình hình hiện nay, UAV cho
lực lượng thường trực chiến đấu, Bộ đội Biên phòng sẽ là các máy bay
trinh sát, thông tin đa dụng công nghệ “stealth” lắp đặt các trang thiết
bị hiện đại như radar thụ động và chủ động, hệ thống quang điện tử,
camera kỹ thuật số ngày /đêm, camera quang ảnh nhiệt, thiết bị quét
laser và truyền thông vệ tinh. Các UAV này sẽ hoạt động liên tục trên
biển và khu vực vùng biên giới, hải đảo, trong điều kiện xảy ra khiêu
khích, xung đột vũ trang hoặc tai nạn, các UAV sẽ là các phương tiện chỉ
thị mục tiêu, dẫn đường và thực hiện nhiệm vụ thông tin liên lạc.
Một
lựa chọn tương đối khả quan là chiếc UAV Irkut -200 của Tập đoàn hàng
không Irkur. UAV có tải trọng cất cánh 200 kg, tải trọng hữu ích 50 kg,
trần bay hoạt động hiệu quả, 500 m, trần bay cao nhất trên mặt biển 5000
m, thời gian bay liên tục 12 giờ, bán kính hoạt động đến 200 m, tốc độ
cực đại 210 km/h, kíp trắc thủ và đội kỹ thuật 4-5 người.
UAV Irkut -200 Nga
Một
lựa chọn thứ 2 là UAV Searcher của tập đoàn Israel Aerospace
Industries, đây cũng là một UAV có khả năng bay biển. UAV có khối lượng
500 kg, tốc độ cực đại 200 km/h, thời gian bay liên tục lên đến 18 giờ,
trần bay hiệu quả là 6100 m. Kíp điều khiển 2 người.
UAV IAI Searcher. Israel
Các
tập đoàn phát triển Irkur 200 và IAI Searcher đều có quan điểm chung là
sẵn sàng phát triển thị trường dựa trên cơ sở cung cấp các bộ phận và
lắp ráp tại nước sử dụng, điều này sẽ giúp cho các nước có điều kiện
nghiên cứu phát triển hạ tầng công nghệ chế tạo và sản xuất các UAV phục
vụ cho quốc phòng và các ứng dụng khác. Việt Nam có lợi thế về lực
lượng cán bộ khoa học tự động hóa từ các trường trong và ngoài quân đội,
đây cũng là giải pháp khởi đầu nền công nghiệp mũi nhọn mới, công
nghiệp chế tạo UAV quốc phòng trong tiến trình hiện đại hóa Quân đội
Nhân dân Việt Nam.
Theo Trịnh Thái Bằng (quocphonganninh.edu.vn)
Những Dự Án Máy Bay Khổng Lồ, Độc Đáo Và Tốn Kém Nhất Thế Giới
Không quân Mỹ tập trung phát triển vũ khí dạng mô-đun và kết cấu mở
Ngày
1-8, Bộ Quốc phòng Mỹ công bố chiến lược phát triển lực
lượng không quân trong 30 năm tới. Theo Tạp chí quân sự Janes, xu
hướng phát triển chính của Không quân Mỹ trong tương lai sẽ là
áp dụng sâu công nghệ vũ khí dạng mô-đun và kết cấu mở. Điều
này cho phép đơn giản hóa và giảm giá thành nâng cấp trang bị
vũ khí trong tương lai.
Lãnh đạo Không quân Mỹ tuyên bố, việc phát triển vũ khí
dạng mô-đun cho phép nâng cấp hoặc sửa chữa trang bị cũ không
cần phải can thiệp sâu vào kết cấu phương tiện bay (yếu tố liên
quan tới vòng đời sử dụng). Trong khi đó, kết cấu mở cho phép
nhiều công ty cùng tham gia phát triển trang bị mới để kết hợp
trong một kết cấu vũ khí, trang bị hoàn chỉnh (đơn giản hóa
quá trình phát triển mới).
Ảnh minh họa.
Hiện tại, Mỹ đang áp dụng quy trình phát triển vũ khí dạng
mô-đun và kết cấu mở trong dự án phát triển máy bay chỉ huy
và chỉ thị mục tiêu trên không mới thay thế loại E-8 JSTARS.
Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong chương trình phát triển
máy bay huấn luyện thế hệ mới TX thay thế T-38 Talon.
Đánh giá về chiến lược trên, Tư lệnh Không quân Mỹ, Mark Welsh
III nhấn mạnh, các công ty tham gia phát triển công nghệ hàng
không mới nên cân nhắc ứng dụng cộng nghệ mới vào các phương
tiện hàng không sẵn có để giảm chi phí vận hành. Ông M. Welsh
III lấy chương trình phát triển động cơ phản lực AETD có khả
năng thay đổi chu kỳ hoạt động làm ví dụ minh họa. Cụ thể,
AETD thuộc dòng động cơ phản lực thế hệ thứ 6 của Mỹ. Khi
được ứng dụng trên các máy bay quân sự hiện có của Không quân,
nó giúp giảm 30-40% chi phí nhiên liệu khi máy bay ở tốc độ
cận âm và siêu âm toàn phần. AETD đã minh chứng cho khả năng
giảm chi phí hoạt động khi áp dụng công nghệ mô-đun và kết cấu
mở.
Cùng với chiến lược phát triển
không quân mới, Mỹ trong tương lai sẽ tiếp tục tăng cường vai trò
và số lượng máy bay không người lái. Năm 2010, giới chức Lầu
Năm góc từng tuyên bố sẽ tăng gấp 4 lần số lượng máy bay không
người lái hiện có. "Nó (máy bay không người lái) sẽ không hoàn
toàn thay thế vai trò của máy bay có người điều khiển. Nó
chỉ đơn thuần giúp nhiệm vụ chiến đấu trở nên an toàn và hiệu
quả hơn", ông M. Welsh III tuyên bố.
Theo Tuấn Sơn (QĐND / Lenta)
Nga phác “kịch bản” không quân Việt Nam tiến thẳng lên hiện đại
VietTimes -- Trong giai đoạn mới,
lực lượng không quân Việt Nam có định hướng trên một tầm cao mới và là
một trong các quân binh chủng được ưu tiên 'tiến thẳng lên hiện đại',
trở thành lực lượng hùng mạnh trong khu vực.
Trịnh Thái Bằng - /
Chiến đấu cơ Su-30MK2 của không quân Việt Nam
Ngày
24.3.1967, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra quyết định thành lập sư đoàn không
quân 371 bao gồm các trung đoàn 921, 923 và 919. Tiếp theo sư đoàn
không quân đầu tiên này là sư đoàn không quân 372, thành lập ngày
15.9.1975 trong biên chế là các trung đoàn không quân 937, 918 và 917,
tiếp theo là sư đoàn không quân 370 ngày 30.10.1975 với trung đoàn không
quân tiêm kích 925, trung đoàn không quân hỗn hợp 917 và trung đoàn
không quân các máy bay K2 (máy bay của Mỹ trước đây).
Ngày
31.3.1977, lực lượng Phòng không – Không quân được phân tách thành hai
quân chủng riêng biệt. Nhưng đến ngày 3.4. 999, hai quân chủng đã hợp
nhất trở thành Quân chủng Phòng không-Không quân (PK-KQ)như ngày nay.
Tuyển chọn phi công và đào tạo
Việt
Nam duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự, mỗi năm có khoảng 3.000 tân binh
được nhận phục vụ trong lực lượng không quân, trong đó chỉ có 150 người
được tham gia dự tuyển vào Trường sĩ quan không quân bậc đại học và chỉ
1/3 trong số này vượt qua những kỳ thi gắt gao về trình độ và thể chất
để trở thành một phi công phản lực trong tương lai.
Phi công tiêm kích Việt Nam.
Quá trình huấn luyện và đào tạo phi công tiêm kích kéo dài 5 năm. Hai
năm đầu tiên, các học viên được học về các môn học đại cương, các môn
học ngành và chuyên ngành. Ba năm tiếp theo các phi công học bay thực tế
và rèn luyện các kỹ thuật, kỹ năng của người phi công trên các loại máy
bay có trong biên chế. Trong cơ sở vật chất huấn luyện của trung đoàn
bay huấn luyện 920 mang tên Cam Ranh có 18 máy bay huấn luyện Yak-52 và
10 máy bay Yak – 52 được chế tạo từ hãng máy bay Aerostar S.A Rumani,
được tặng vào năm 2009. Trên các máy bay này, các học viên phi công bắt
đầu học những bài bay cơ bản đầu tiên.
Sau khi tốt nghiệp khóa học bay thứ nhất, các phi công tương lai được
chuyển đến căn cứ không quân Đông Tác, nơi có trường bay và trung đoàn
không quân huấn luyện 910 “Julius Fucik”, trong biên chế học tập của
trung đoàn có 23 máy bay huấn luyện chiến đấu L-39, trên các máy bay
này, các học viên phi công học chuyên sâu về máy bay chiến đấu. Các máy
bay huấn luyện được nhập về thành ba đợt. Đợt 1 vào năm 1984, không quân
Việt Nam nhận 24 chiếc L-39C, vào năm 2002-2003, tiếp nhận thêm 10
chiếc máy bay huấn luyện chiến đấu, đến năm 2008, không đoàn lại tiếp
nhân thêm 4 chiếc L-39C đã sẵn sàng cất cánh.
Như vậy, số lượng máy bay huấn luyện bay chiến đấu ở Việt Nam là 38
chiếc. Vào năm 2011 theo các phương tiện thông tin đại chúng, công ty
Aero Vodochody nhân được hợp đồng sửa chữa lớn và phục hồi hai chiếc
L-39C đồng thời cung cấp trang thiết bị, phụ tùng thay thế cho toàn bộ
số máy bay còn lại.
Máy bay huấn luyện L- 39 của không quân nhân dân Việt Nam.
Khi các học viên phi công đã trải qua giai đoạn huấn luyện ban đầu
(vượt rào) các nhóm phi công sẽ được chia theo chuyên ngành chiến đấu.
Các phi công lái máy bay chiến đấu sẽ tiếp tục theo chương trình bay tại
căn cứ. Các phi công chuyển loại sang lái máy bay trực thăng hoặc máy
bay vận tải sẽ được huấn luyện lái Bell UH-1H Iroquois 917 thuộc trung
đoàn huấn luyện không quân “Đồng Tháp”, hiện đang đóng quân ở sân bay
quốc tế Tân Sơn Nhất, hay trên máy bay vận tải An – 2, nằm trong biên
chế của trung đoàn không vận số 918 “Hồng Hà” căn cứ tại sân bay Gia
Lâm.
Trung đoàn có 8 máy bay vận tải An – 2 thiết kế mới, được nhập về từ
năm 2004, nhà sản xuất là tập đoàn chế tạo máy bay PZL Mielec. Cũng trên
căn cứ này có 15 chiếc máy bay Аn-26 (số còn lại của 50 chiếc máy bay
đã nhập khẩu vào những năm 1981-1984) và một máy bay không quân hải quân
PZL Mielec M-28B Bryza 1R. Hai máy bay loại này đã được nhập khẩu vào
năm 2005, nhưng một chiếc bị mất do tai nạn hàng không. Ngoài ra căn cứ
còn được bổ sung thêm 3 máy bay CASA C212-400 của cảnh sát biển Việt
Nam, được nhập về từ tháng 8.2011 đến 2012.
Máy bay tuần biển PZL Mielec M-28B Bryza 1R.
Tác chiến không-biển kiểu Việt Nam
Lực lượng Không quân Việt Nam có vị trí vai trò và nhiệm vụ bảo vệ
vùng trời vùng biển thuộc chủ quyền đất nước. Trên thực tế biên chế tổ
chức trang bị, quân đội nhân dân Việt Nam và quân chủng hải quân không
có lực lượng tấn công chủ lực bảo vệ biển đảo, đất liền và bờ biển.
Những nhiệm vụ tấn công chủ lực cho đến thời điểm này hoàn toàn thuộc về
lực lượng Không quân tiêm kích ném bom. Ngoài ra, theo yêu cầu nhiệm vụ
và biên chế tổ chức của quân chủng PK-KQ, nhiệm vụ tác chiến đường
không tầm xa bảo vệ bầu trời cũng như các nhiệm vụ quản lý bầu trời cũng
nằm trong chức năng nhiệm vụ của lực lượng không quân.
Yêu cầu nhiệm vụ của lực lượng không quân Việt Nam trong giai đoạn
mới rất nặng nề. Và đặc biệt quan trọng trong điều kiện phát triển kinh
tế hải dương và bảo về chủ quyền trong khi tranh chấp đang nóng trên
Biển Đông, những dấu hiệu về nguy cơ mất an ninh quốc tế và an ninh khu
vực Đông Nam Á vẫn còn hiện hữu dưới nhiều hình thức khác nhau, mà nổi
bật lên ở Khu vực Đông Nam Á là nguy cơ cướp biển và nguy cơ khủng bố
quốc tế.
Điều này đòi hỏi các lĩnh vực như Không quân tiêm kích và cường kích,
không quân vận tải - đổ bộ đường không, không quân trực thăng – đặc
biệt là trực thăng hải quân đều cần có sự phát triển cả về phương tiện
hoạt động cũng như số lượng phi công. Đi kèm theo đó là các cơ sở hậu
cần kỹ thuật và nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ ứng dụng.
Phi đội Su-30MK2 của Việt Nam bay tuần biển tại quần đảo Trường Sa.
Do điều kiện tài chính còn hạn chế, nên nguồn lực cho Không quân Việt
Nam phải được phân chia khá ngặt nghèo và thận trọng. Đồng thời công
tác quản lý phương tiện bay cũng vẫn duy trì ở chế độ bảo mật và luân
chuyển. Những số liệu chính xác về số lượng các máy bay của lực lượng và
vị trí đóng quân hoàn toàn không được công bố, các máy bay không được
mang ký hiệu của đơn vị trên thân, do đó để biết rõ được tình hình biên
chế các phương tiện đường không và cơ cấu tổ chức của không quân Việt
Nam thực sự rất khó. Các đối thủ tiềm năng chỉ có thể dựa trên những
thông tin tình báo và không ảnh để ước đoán được số lượng sẵn sàng chiến
đấu tại thời điểm nhất định.
Đây là phương hướng quản lý của lực lượng Không quân dựa trên cơ sở
các kinh nghiệm tác chiến đường không có được từ chiến tranh chống Mỹ,
bằng giải pháp này. Không quân Việt Nam dù số lượng rất ít nếu so với
lực lượng không quân và KQHQ Mỹ, nhưng do cách điều chuyển lực lượng
linh hoạt, nêu ở những khu vực chiến trường cần tập trung lực lượng, vẫn
có thể tạo ra sức ép mà đối phương không lợi dụng thời điểm để công
kích các khu vực đã giảm thiểu binh lực.
Hiện nay, Việt Nam xác định nguy cơ an ninh quốc gia và chủ quyền
lãnh thổ nằm từ hướng Biển Đông, đặc biệt trong các khu vực đảo và quần
đảo đang có tranh chấp chủ quyền. Bằng các biện pháp khác nhau, không
quân Việt Nam đang nỗ lực vô hiệu hóa những nguy cơ đến từ phía biển.
Trong đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu vẫn là kiểm soát chặt chẽ không
gian biển và trên biển, xác định những khả năng tiềm ẩn có thể xảy ra
xung đột, phát hiện nguy cơ xung đột và có giải pháp ngăn chặn, phản ứng
kịp thời. Nhưng trong tương lai không xa, Không quân Việt Nam phải đáp
ứng những yêu cầu thực tế của tác chiến không biển hiện đại theo những
đặc điểm đặc thù của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam và nghệ thuật
quân sự truyền thống của Việt Nam.
Trên không gian biển hiện nay, lực lượng công kích chủ lực đường
không là các máy bay tiêm kích ném bom Su-22, được biên chế và lắp đặt
các tên lửa chống hạm và các mục tiêu mặt đất khác nhau Kh – 25, thời
gian có mặt trong biên chế đã hơn 30 năm và có nhiều hạn chế về tầm bắn
cũng như tính năng kỹ thuật của đầu đạn tự dẫn laser bán chủ động. Để
tăng cường khả năng tác chiến tầm xa, Không quân Việt Nam có xu hướng
nhập khẩu các máy bay chiến đấu hiện đại đa nhiệm tiêm kích – tên lửa
như Su –27 và Su–30 MK, có thể mang tên lửa Kh–29 và Kh-31, Kh–35.
Thực tế tác chiến không-biển trong giới hạn học thuyết quân sự cấp
chiến dịch – chiến thuật là phòng thủ đất nước, Không quân Việt Nam
không có xu hướng nhập khẩu các loại phương tiện bay hiện đại hơn
Su-30MK do không cần phải tác chiến trên tầm đại dương. Khoảng cách đến
các mục tiêu cần bảo vệ của Không quân được giới hạn dưới 1.000 km, do
điều kiện số lượng máy bay thường ít hơn đối phương, sân bay ở đất liền
và cũng gần hơn, có thể có nhiều sân bay dã chiến trên một vòng cung bờ
biển, phương thức tác chiến thông thường là tấn công bất ngờ, thoát ly
chiến trường nhanh và liên tục thay đổi hướng tấn công và cất cánh,
không quân Việt Nam cần những phương tiện bay có giá thành rẻ hơn như
Su–27, Su–30MK2 nhằm tạo ưu thế chủ động trên không bằng các sân bay mặt
đất.
MiG 21 của Việt Nam.
Cho đến hiện nay, lực lượng không quân tiêm kích vẫn sử dụng các loại
máy bay tiêm kích MiG 21F đã có từ thời chiến tranh chống Mỹ ở Việt
Nam, có một số dự án nâng cấp và cải tiến nhằm duy trì và nâng cao khả
năng sử dụng của loại máy bay này. Nhưng do những tính năng kỹ chiến
thuật của MiG- 21F đã thua sút các loại tiêm kích hiện đại ngày nay,
phương án khai thác sử dụng khả năng sẽ chuyển hướng sang tấn công các
mục tiêu bay thấp, máy bay không người lái và mang tên lửa chống hạm Kh-
31 theo mô hình nâng cấp của Ấn Độ MiG -21-93.
Su-22UМ3/М4 của Không quân Việt Nam.
Tích hợp và cảnh báo sớm
Nhằm phối hợp tốt với các lực lượng phòng không và bảo vệ bờ biển,
Không quân Việt Nam cũng tăng cường các loại máy bay tuần biển và chống
ngầm, các phương tiện thông tin đại chúng về xuất nhập khẩu vũ khí cũng
thông báo nhiều định hướng mua sắm các loại máy bay khác nhau của Việt
Nam.
Hệ thống kiểm soát, tình báo và cảnh báo sớm trên không của Việt Nam
là một hệ thống các đài radar kiểm soát không phận. Bộ tham mưu lực
lượng Không quân Việt Nam kiểm soát một hệ thống quản lý tích hợp phòng
không, được chia thành nhiều tuyến phòng ngự, các thê đội và các quân
khu, cơ sở hạ tầng căn bản của hệ thống này là hơn 80 đài radars các
chủng loại khác nhau, 24 đài radar là loại P-18, lắp đặt trên thân xe
Ural, có tính năng cơ động và khả năng chia xẻ thông tin thông qua hệ
thống quản lý, điều khiển thông tin trung tâm của bộ tham mưu không
quân, có nhiều nguồn thông tin cho biết, Việt Nam sẽ tăng cường thêm
khoảng 20 đài radar cơ động cao Vostoc – E.
Trong điều kiện thời bình các đài radar hoạt động ở chế độ hạn chế,
phân bổ theo từng khu vực và trong khu vực căn cứ không quân hoặc ở chế
độ niêm cất, nhưng các đài radar đều được kết nối thông tin với các lực
lượng phòng không mặt đất, đó là các sư đoàn tên lửa – pháo phòng không
các cỡ nòng, hiện nay theo các thông tin không chính xác, Việt Nam có
khoảng 3200 tên lửa các loại từ Strela – 2, S-75 Dvina, S-125 Pechora
đến S-300PMU-1 với hàng ngàn súng pháo phòng không các cỡ nòng.
Để tích hợp với hệ thống phòng không trên đất liền và bờ biển, đồng
thời quản lý tốt vùng trời. Năm 2008 Việt Nam đã thành lập Lực lượng
phòng thủ bờ biển và lực lượng cảnh sát biển Việt Nam, trong biên chế
đường không của Cảnh sát biển có các máy bay tuần biển loại CASA
C212-400. Ngoài ra, còn được trang bị phối thuộc các máy bay trực thăng
trên biển nhằm mục đích cứu hộ, yểm trợ và trinh sát chống ngầm EC-225S
và Ka – 27, 31.
Máy bay C212-400.
'Tiến thẳng lên hiện đại'
Trong giai đoạn mới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hải dương
trên Biển Đông, lực lượng không quân Việt Nam có định hướng trên một
tầm cao mới và là một trong các quân binh chủng được ưu tiên 'tiến thẳng
lên hiện đại'. Bộ tư lệnh Không quân mong muốn có được khả năng quản lý
toàn bộ không phận. hải phận và đường biên giới trên bộ với các nước
láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia.
Sự thay đổi tình hình kinh tế, chính trị trên trường thế giới, sự
phát triển các lực lượng chiến đấu hiện đại như Hải quân, hải quân đánh
bộ, đặc nhiệm đổ bộ đường không đòi hỏi Không quân phải có bước phát
triển tích cực. Các binh chủng như Không quân tiêm kích ném bom, không
quân tiêm kích, không quân vận tải và đổ bộ đường không, chỉ huy trên
không, tình báo, trinh sát và cảnh báo sớm, trực thăng chiến đấu ….đều
đang có những nhu cầu cấp thiết phải tăng cường phương tiện,vũ khí trang
bị và hiện đại hóa lực lượng.
Tiêm kích đa nhiệm Su-30 của không quân Việt Nam.
Một phần lớn phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế đất nước, hiện nay lực
lượng Không quân đang có 4 trung đoàn được trang bị máy bay tiêm kích
ném bom chủng loại Su bao gồm 45 chiếc Su-27/30MK2 nhập khẩu từ Nga, các
máy bay hiện đại này đóng vai trò chủ chốt trong lực lượng không quân
tấn công chủ lực của không quân Việt Nam. Tương lai gần, để đảm bảo
phòng thủ bờ biển, các vùng kinh tế biển và hải đảo, nếu đúng theo kế
hoạch, Không quân Việt Nam sẽ tiếp nhận máy bay cường kích Su–34 với mục
đích từng bước thay thế các máy bay Su–22 đã lỗi thời, khi Su–34 có
được quy chế xuất khẩu.
Máy bay cường kích ném bom Su-34.
JAS-39 Gripen,.
Để
thực hiện nhiệm vụ phòng không và bảo vệ không phận biển, lực lượng
Không quân Việt Nam có nhiều định hướng phát triển máy bay tiêm kích tầm
cao, trong đó MiG –29 hiện đại hóa sâu cũng là một trong những loại máy
bay tiêm kích tiềm năng do giá thành hạ và rất phù hợp với nghệ thuật
tác chiến không quân Việt Nam. Ngoài ra, cũng có nhiều thông tin cho
rằng Việt Nam có thể lựa chọn các loại máy bay khác có tính năng tương
đương như JAS-39 Gripen của Thụy Điển, Rafale của Pháp, MiG-35 và Su-35
của Nga.
Trong không quân Việt Nam, có nhiều ý kiến về việc lựa chọn các mẫu
máy bay tiêm kích có khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ chiến thuật và nghệ
thuật tác chiến đường không của Việt Nam với xu hướng thiên về phòng thủ
linh hoạt. Có một điểm đáng chú ý là các cán bộ lãnh đạo quân chủng
PK-KQ Việt Nam hầu hết đều được đào tạo ở Nga. Vũ khí trang bị tác chiến
trên không và trên biển, nếu không muốn có một kho vũ khí đa chủng
loại, cũng phần lớn có từ Liên xô cũ, quá trình tích hợp hệ thống điều
khiển vũ khí đơn giản hơn rất nhiều lần. Nhưng cũng không loại trừ khả
năng các nhà cung cấp sản phẩm quốc phòng như Thụy Điển có thể cung cấp
thêm các cải tiến mới nhằm tương thích hóa các loại vũ khí hiện có của
Việt Nam.
Bộ tư lệnh PK-KQ Việt Nam có mong muốn thay đổi loại máy bay huấn
luyện mới, có khả năng đa nhiệm hơn nhằm tăng cường năng lực tác chiến
đường không và huấn luyện chiến đấu. Nhà nước Việt Nam có xu hướng lựa
chọn máy bay Yak 130 để thay thế dần các L-39 đã tương đối lỗi thời. Đã
có kể hoạch nhập khẩu 12 chiếc Yak – 130 trong giai đoạn từ năm 2015 đến
2025. Nhưng các giảng viên – sĩ quan huấn luyện thì không thích loại
Yak 130 lắm do đã thử nghiệm nó tại Nga vào năm 2011, do đó hiện nay
đang có một cuộc cạnh tranh nhỏ giữa Yak và các máy bay huấn luyện cải
tiển sâu của L-39 là máy bay huấn luyện chiến đấu L-159 ALCA, theo các
chuyên gia phỏng đoán thì L-159 có nhiều cơ hội hơn.
Việt Nam cũng đang hình thành lữ đoàn tàu ngầm và phòng tác chiến tàu
ngầm thúc đẩy sự xuất hiện lực lượng chống ngầm và quản lý biển. Đó là
các máy bay trinh sát chống ngầm và tác chiến chống ngầm thế hệ mới, có
khả năng liên kết với lực lượng hải quân chống ngầm và bảo vệ tài nguyên
khoáng sản thềm lục địa. Có nhiều thông tin cho rằng Việt Nam đang tăng
cường năng lực chống ngầm của không quân bằng các máy bay chống ngầm
P-3 Orion của Mỹ. Nhưng cũng có những ý kiến khác cho rằng, Việt Nam nên
nhập máy bay chống ngầm P-1 của Nhật Bản do Nhật đã có kinh nghiệm sử
dụng P-3 lâu năm và máy bay chống ngầm của Nhật Bản chắc chắn sẽ hoạt
động tốt hơn nhiều so với P-3 Orion đã lỗi thời.
Hiện nay đang có một cuộc cạnh tranh giữa Lockheed và Kawasaki trong
cuộc chiến dành ưu thế về máy bay chống ngầm ở Đông Nam Á, Lockheed có
ưu thế dựa trên cơ sở P-3 Orion đã được khai thác sử dụng lâu năm và đã
chứng minh được ưu thế của mình trên biển về sử dụng, Kawasaki đang cố
gắng tận dụng ưu thế công nghệ và khả năng thích ứng của mình đối với
mọi loại vũ khí, trang bị mà Việt Nam đang có trong biên chế, cũng như
khả năng đáp ứng các yêu cầu về hậu cần kỹ thuật, vốn đã rất hạn chế ở
một công ty nổi tiếng của P-3.
AN-26 không quân Việt Nam.
Trong giai đoạn gần đây, sự hình thành lực lượng KQHQ và lực lượng
hải quân đánh bộ, lực lượng đặc nhiệm chống khủng bố được tăng cường
thêm khả năng đổ bộ đường không (nhẩy dù) đã xuất hiện thêm yêu cầu mới
của phương tiện vận tải đường không tấn công tầm xa, có khả năng trong
tương lai gần, Việt Nam sẽ tiếp tục nhập khẩu các máy bay An-26 hoặc các
máy bay vận tải quân sự khác nhằm tăng cường khả năng độ bộ của các lực
lượng nhảy dù đang từng bước hình thành và phát triển.
Máy bay không người lái do Việt Nam tự sản xuất tiến hành bay thử nghiệm.
Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của lực lượng Không quân Việt Nam,
trong đó có KQHQ và lực lượng tác chiến trên biển đòi hỏi Việt Nam phải
có các máy bay tác chiến điện tử, trinh sát đường không và chỉ huy trên
không. Theo những thông tin được cập nhật gần đây. Việt Nam đã từng sử
dụng An-26 như máy bay chỉ huy trên không trong các chuyến bay tuần tiễu
biển và trong tương lai gần, sẽ cần đến ít nhất là 2 máy bay trinh sát
điện tử, dẫn đường và điều hành tác chiến trên không AWACS. Xu hướng sẽ
đặt hàng máy bay CASA EC-295 được coi là khả thi hơn tất cả các loại máy
bay AWACS khác đang có trên thị trường thế giới.
Ngoài ra, Việt Nam đang tích cực nghiên cứu phát triển cũng như hợp
tác với các nước khác, trong đó có Berarus nhằm mua sắm, nghiên cứu và
phát triển các máy bay không người lái tuần biển. Đã có những máy bay
không người lái Việt Nam được thử nghiệm bay và tiến hành các hoạt động
không ảnh trên vùng biển chủ quyền. Trong tương lai gần, có thể sẽ xuất
hiện những đơn vị máy bay tuần tiễu, trinh sát, chống ngầm và cảnh báo
sớm Không người lái.
Một điểm khá thú vị, cùng với quyết định nghỉ hưu của lão tướng MiG
21, ông Sergey Korotkov Tổng Giám đốc tập đoàn chế tạo máy bay "MiG"
thông báo trong cuộc phỏng vấn của RIA Novosti.
"Theo đánh giá của chúng tôi, có những triển vọng nhất định dành cho
các máy bay MiG-35 tại Việt Nam, nơi sắp kết thúc thời hạn phục vụ của
MiG-21", — ông Korotkov cho biết. Ông nhận xét thêm rằng Việt Nam là
"khu vực thú vị đáng quan tâm" đối với tập đoàn "MiG".
Theo lời vị đại diện tập đoàn chế tạo máy bay, MiG-35 là chiến đấu
cơ mới, trong cấu trúc có thành phần thiết bị điện tử khoang tích hợp
thông tin - hệ thống ngắm mục tiêu của các máy bay thuộc thế hệ thứ V.
"Khác với mẫu MiG-29 "kinh điển" mà MiG-35 thừa hưởng khái niệm khí
động học, chiếc máy bay mới có đa chức năng. MiG-35 có khả năng sử dụng
vũ khí chính xác cao với bất kỳ loại mục tiêu nào — trên không, mặt đất,
mặt biển — và thậm chí thực hiện một số chức năng mà trước đây chỉ có ở
máy bay trinh sát", — nhà lãnh đạo tập đoàn "MiG" thông báo khái quát.
Vấn đề là liệu MiG 35 có "tiếp bước cha ông" làm lại vinh quang của MiG
21 hay không, tương lai sẽ trả lời.
Nhìn chung toàn cảnh phát triển của lực lượng Không quân Việt Nam, có
thể nhận thấy, lực lượng Không quân Việt Nam đang nỗ lực phát triển để
trở thành một lực lượng Không quân hùng mạnh trong khu vực, có trang
thiết bị và công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ của đất nước.
Phát Hiện "Chiếc Máy Bay Kỳ Quái" Chưa Từng Được Biết Đến
Không quân Nhật hoàn thiện khả năng theo hướng tấn công
Tuệ Lâm |
0
Sau khi thay đổi chiến lược quân sự, lực lượng Không quân Nhật Bản
sẽ tiếp tục dựa vào Mỹ để hoàn thiện khả năng tác chiến theo hướng tấn
công.
Chuyển đổi mô hình lực lượng mang tính chất tấn công
Ngày 26-10, lực lượng phòng vệ Nhật Bản
đã tổ chức “Lễ hội hàng không” (Aviation Festival) tại sân bay Ibaraki.
Tại đây có trưng bày nhiều loại máy bay chiến đấu tiên tiến, trong số
đó, có một mô hình máy bay chiến đấu F-35 của Mỹ được sơn màu của lực
lượng phòng vệ Nhật Bản đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo mọi
người.
Theo giới phân tích, căn cứ vào “Đại
cương kế hoạch phòng vệ” và “Kế hoạch xây dựng lực lượng phòng vệ trung
hạn giai đoạn 2014 - 2019” do chính phủ Nhật Bản ban hành, trong vòng 5
năm tới, lực lượng tự vệ trên không Nhật Bản (JASDF) nhanh chóng chuyển đổi và mở rộng, phát triển thành một lực lượng tấn công không thể xem nhẹ.
Theo những văn kiện có liên quan đến xây
dựng lực lượng quân sự mà chính phủ Nhật đã công bố, trước năm 2020,
lực lượng phòng vệ trên không Nhật Bản sẽ lần lượt trang bị hàng loạt
phương tiện tác chiến mới.
Đầu tiên, Tokyo đã xác định đặt mua 42
chiếc F-35 của Mỹ thay thế cho 75 chiếc F-4EJ và RF-4E/EJ đã lão hóa, đã
phục vụ trong lực lượng không quân nước này từ vài chục năm nay.
Theo kế hoạch, Mỹ sẽ bàn giao chiếc F-35
đầu tiên cho lực lượng tự vệ trên không Nhật Bản vào năm 2016, sau đó
các phi công nước này sẽ sang Mỹ để huấn luyện 2 năm. Do vậy, F-35 sẽ
chính thức được triển khai trong biên chế của JASDF vào khoảng năm 2018.
Nhật đang chuyển đổi mô hình một lực lượng không quân mang tính tiến công
Theo giới phân tích, do khả năng tàng
hình và khả năng tấn công mặt đất của F-35 tương đối mạnh, sau khi Nhật
Bản đưa F-35 vào biên chế sẽ hình thành “ưu thế xuyên phá phi đối xứng”
với các quốc gia xung quanh.
Do đó, “tàng hình” và “tấn công” sẽ trở thành từ khóa quan trọng mới trong chiến lược tác chiến của JASDF.
Cũng trong 5 năm tới, JASDF sẽ tiếp nhận
4 chiếc máy bay cảnh báo sớm kiểu mới, 3 chiếc máy bay không người lái
tầm xa, và các loại máy bay bảo đảm hỗ trợ, bao gồm 3 chiếc máy bay tiếp
dầu trên không, 10 chiếc máy bay vận tại C-2…
Tất cả những trang bị phục vụ, bảo đảm
mới này sẽ nâng cao khả năng của lực lượng trên không Nhật Bản khi triển
khai các hoạt động ở ngoài biên giới.
Về việc thay thế máy bay chiến đấu, tạp
chí “Người yêu thích hàng không” (Aviation Enthusiasts) của Nhật đã tiết
lộ, nhập khẩu máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5 F-35 của Mỹ
không phải là trọng tâm duy nhất trong quá trình điều chỉnh lực lượng
không quân Nhật Bản.
Để tránh tình trạng đơn điệu về chủng
loại, lực lượng phòng vệ Nhật Bản đã thúc đẩy kế hoạch phát triển “Máy
bay chiến đấu quốc nội tương lai”. Đến năm 2020, Nhật Bản có khả năng bố
trí đồng thời 4 loại máy bay chủ lực, bao gồm: Máy bay chiến đấu F-2,
phiên bản nâng cấp của F-15, F-35 và 1 loại chiến đấu cơ nội địa.
Máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 ATD-X Shinshin của Nhật Bản
Sau đó, F-2 sẽ dần bị loại bỏ tùy vào số
lượng sản xuất chiến đấu cơ nội địa hiện nước này đang nỗ lực phát
triển là máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5 ATD-X Shinshin. Từ đó,
mô hình 4 loại máy bay chiến đấu hiện diện trong biên chế không quân sẽ
quá độ chuyển sang cơ cấu trang bị 3 loại máy bay.
Về biên chế, hiện nay Nhật Bản có 2 phi
đội F-4EJ, 7 phi đội F-15, 3 phi đội F-2. Nếu tiến trình nghiên cứu máy
bay chiến đấu sản xuất trong nước thực hiện đúng kế hoạch, thì đến năm
2022, 2 phi đội F-4EJ sẽ chuyển thành F-35, 7 phi đội F-15 sẽ rút xuống
còn 4 phi đội và được biên chế phiên bản F-15 cải tiến, 3 phi đội F-2 sẽ
chuyển sang sử dụng máy bay chiến đấu nội địa.
Tiếp tục dựa dẫm vào Mỹ để hoàn thiện khả năng tác chiến
Về bố trí quân lực, các chuyên gia quân
sự Nhật Bản phân tích, dựa vào “Đại cương kế hoạch phòng vệ” mới của
Nhật Bản, lấy “bảo vệ tây nam” làm trọng điểm, trong tương lai, sức mạnh
không quân Nhật Bản sẽ có sự dịch chuyển theo hướng tập trung binh lực
đến Okinawa.
Được biết, Nhật Bản đang cân nhắc tăng
cường cho căn cứ Naha ở Okinawa thêm 1 phi đội máy bay chiến đấu, 1 phi
đội máy bay cảnh báo sớm và 1 phi đội máy bay tiếp dầu. Căn cứ này có vị
trí chiến lược trọng yếu bởi nó chỉ cách đảo Điếu Ngư/Senkaku vẻn vẹn
400km.
Mặc dù Nhật Bản nỗ lực đẩy mạnh hiện đại
hóa quân sự, tăng cường khả năng nghiên cứu, phát triển các loại vũ
khí, trang bị quốc nội, xây dựng chiến lược xuất khẩu quốc phòng của
mình, nhưng quan sát tỉ mỉ có thể thấy, từ nay về sau, Nhật Bản sẽ càng
phải dựa dẫm vào Mỹ nhiều hơn.
Máy bay chỉ huy - cảnh báo sớm trên không Boeing E-767, máy bay cảnh báo sớm E-2C và máy bay chiến đấu F-35 phiên bản Nhật
Về cấu thành và điều động binh lực, Bộ
tư lệnh không quân Nhật Bản và Bộ tư lệnh Liên đội không quân số 5 của
Mỹ thực hiện “hợp nhất chỉ huy” ở căn cứ không quân Yokota. Một khi phát
sinh tình huống, sẽ trở thành Bộ tư lệnh tác chiến chung, xem như là sự
“hợp tác bình đẳng” giữa lực lượng vũ trang hai nước.
Tuy nhiên,
Mỹ sẽ dựa vào ưu thế của những vũ khí quân sự tiên tiến như F-22 hay
những tin tức do hơn 300 vệ tinh quân sự mang lại hay việc kiểm soát
cung ứng các linh kiện máy bay chiến đấu do Mỹ chế tạo, hiện đang biên
chế trong lực lượng tự vệ trên không của Nhật Bản để nghiễm nhiên chiếm
vị trí chủ đạo trong “liên quân Mỹ-Nhật”.
Lúc này, Nhật Bản chỉ có thể mang hệ
thống quân sự của mình gia nhập vào hệ thống tác chiến quân đội Mỹ, trở
thành một yếu tố cấu thành của nó mới có khả năng phát huy tác dụng tối
đa.
Điều này có tính chất hai mặt khi nó
phản ảnh sự lệ thuộc JASDF vào lực lượng không quân Mỹ đồn trú ở đây
nhưng mặt khác nó cũng cho thấy là Nhật Bản vẫn có được sự hậu thuẫn
vững chắc của Mỹ trong cuộc chiến chống lại sức mạnh quân sự ngày càng
trở lên mạnh mẽ của Trung Quốc.
Cùng với việc đẩy mạnh chiến lược “Tái
cân bằng châu Á - Thái Bình Dương”, ngoài việc điều chuyển 60% lực lượng
hải quân và không quân về châu Á, Mỹ cũng đòi hỏi nâng cao yêu cầu điều
chỉnh và liên hợp lực lượng quân sự của các nước đồng minh ở khu vực,
trong đó có cả Nhật Bản.
Máy bay tuần tiễu chống ngầm P-1 và thủy phi cơ US-2 của JASDF
Vì vậy, trong bối cảnh Nhật chưa kịp xây
dựng lực lượng không quân tấn công đủ mạnh để đương đầu với Trung Quốc,
Lực lượng phòng vệ Nhật Bản nói chung và lực lượng tự vệ trên không nói
riêng sẽ rơi vào tình trạng luẩn quẩn “càng xây dựng, càng dựa dẫm” vào
lực lượng đồn trú của Hoa Kỳ tại nước này.
Tuy nhiên, đó không hẳn là điều đáng lo
ngại bởi từ trước đến nay, chiến lược quân sự thiên về phòng vệ đã hạn
chế quy mô lực lượng và tính chất trang bị của lực lượng không quân
Nhật, quá trình chuyển đổi mô hình sang một lực lượng tác chiến có xu
hướng tấn công là một điều mới mẻ nên việc tiếp tục dựa dẫm vào Mỹ là
điều tất yếu.
Trên thực tế, khả năng chỉ huy - điều
phối, năng lực trinh sát, thu thập và xử lý số liệu tình báo, khả năng
tác chiến điện tử và cảnh báo sớm của không quân Mỹ là rất ưu việt, tiếp
tục dựa dẫm của Nhật vào Mỹ sẽ khiến quân đội nước này sẽ có khả năng
phản ứng nhanh hơn, khả năng chỉ huy, điều phối lực lượng toàn diện hơn.
Tình trạng “phụ thuộc” này sẽ chỉ kết
thúc khi quân đội Nhật Bản đạt đến trình độ cao hơn, thay đổi toàn diện
tư tưởng quân sự phòng thủ, xây dựng hoàn thiện lực lượng, trang bị,
chiến thuật và tích lũy được những kinh nghiệm trong quá trình phối hợp
chỉ huy - hiệp đồng và triển khai tác chiến liên hợp với quân đội Mỹ.
theo Báo Đất Việt
Giải mã vũ khí - Trực thăng Nga: Mãnh thú biết bay
Sức mạnh máy bay tầm xa của Lực lượng Không quân Nga
29/1/2015 14:49 UTC+7
(Công lý) - Vừa qua, lực lượng Không quân Nga đã tổ chức kỷ
niệm thành lập phi đội máy bay tầm xa, đánh dấu 100 năm Sa hoàng
Nicholas II, ký sắc lệnh thành lập phi đội máy bay Ilya Muromets.
Gần đây, Lực lượng Không quân Nga
đã nối lại các chuyến bay tầm xa như một sự răn đe chiến lược. Máy bay
ném bom Tu-160 đã hạ cánh xuống các nước vùng Caribbean (Venezuela,
Nicaragua), và với mục đích chở dầu tiếp liệu trên không ở phía bắc châu
Phi (Ai Cập) và Đông Nam Á (Việt Nam). Bên cạnh đó, máy bay quân sự tầm
xa của Lực lượng Không quân Nga đã tới vùng biển Địa Trung Hải và Biển
Đông.
Phi đội tầm xa của Nga bao gồm máy
bay ném bom siêu thanh hạng nặng Tu-160 và Tu-95MS được trang bị hệ
thống phóng tên lửa chiến lược, máy bay ném bom tầm xa Tu-22M3, máy bay
tiếp Il-78, máy bay trinh sát An-30B, máy bay vận tải hạng nhẹ An-12,
An-26, và máy bay trực thăng Mi-8, Mi-26.
Máy bay Tu-22M (Tên hiệu NATO:
Backfire) là máy bay ném bom chiến lược tầm xa của Nga do Cục Thiết kế
Tupolev phát triển. Tu-22M được sử dụng trong chiến đấu tại Afghanistan
từ 1987 - 1989 và tại Chechnya năm 1995. Trong ảnh là chiếc máy bay ném
bom chiến lược Tupolev Tu-22-M3 Backfire.
Năm 2014, phi đội Tu-95MS đã tiến
hành các chuyến bay răn đe chiến lược dọc bờ biển Nauy, Anh, Tây Ban Nha
và Ba Lan. Tất cả đều được tiếp liệu trên không. Trong ảnh: một chiếc
báy bay tiếp dầu Il-78 (phải) và một chiếc máy bay ném bom hạng nặng
Tu-95 bay trên Quảng trường Đỏ (Moscow) trong lễ diễu binh kỷ niệm 64
năm Ngày Chiến thắng (09/5/2009).
Ilya Muromets, chiếc máy bay ném bom đầu tiên trên thế giới, do kỹ sư Igor Sikorsky chế tạo ra năm 1913. Chiếc máy bay này đã lập kỷ lục về hành trình bay, thời gian bay và công suất.
Tupolev TB-3 là một chiếc máy bay
ném bom hạng nặng Lực lượng Không quân Xô Viết phát triển trong thập
niên 1930 và Thế chiến II. Mặc dù đã chính thức ngừng phục vụ từ năm
1939, nhưng Tupolev TB-3 vẫn thực hiện các nhiệm vụ ném bom và vận tải
trong nhiều cuộc chiến.
Phi đội máy bay tầm xa của nga ra đời ngày 05/3/1942 để đáp ứng những mục tiêu chiến lược trên quy mô lớn.
Tu-4 là chiếc máy bay bém bom chiến
lược vận hành bằng pít tông. Tu-4 phục vụ trong Lực lượng Không quân Xô
Viết từ cuối những năm 1940 đến giữa thập niên 1960. Tu-4 được xem như
bản sao ngược của Pháo đài bay Boeing B-29 của Không quân Mỹ.
Tu-16 (Tên hiệu NATO: Badger) là
một máy bay ném bom phản lực hai động cơ của Liên Xô. Tu-16 có một số
phiên bản như máy bay trang bị hệ thống bệ phóng tên lửa, máy bay tiếp
dầu trên không và máy bay điện tử chiến lược. Tu-16 đã phục vụ hơn 50
năm trong Lực lượng Không quân Liên Xô.
Sự phát triển tên lửa chiến lược thế hệ mới của Mỹ
Cập nhật: 11h5 | 23/12/2016
Tên
lửa chiến lược của Mỹ đã trải qua một thời kỳ phát triển lâu dài, hiện
nay Quân đội Mỹ đang được biên chế tên lửa đạn đạo xuyên lục địa thế hệ
thứ 5 LGM-30 Minuteman và tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm thế hệ thứ 3
UGM-133A Trident II.
Một vụ phóng thử tên lửa của Không quân Mỹ. (Nguồn: vietnamplus.vn).
Bên cạnh đó, Mỹ còn đang sở hữu tên lửa hành trình phóng từ trên
không mang đầu đạn hạt nhân AGM-86B và tên lửa hành trình AGM-129A.
Trải quan nhiều năm nghiên cứu phát triển, các biến thể nâng cấp của các
loại tên lửa này ngày càng có nhiều tính năng kỹ chiến thuật ưu việt,
qua đó là cơ sở bảo đảm năng lực uy hiếp quân sự cho Quân đội Mỹ. Bên
cạnh đó, hiện nay Mỹ cũng đang bắt đầu nghiên cứu phát triển tên lửa đạn
đạo chiến lược thế hệ tiếp theo.
Theo
giới chuyên gia phân tích quân sự, các loại tên lửa đạn đạo chiến lược
thế hệ mới của Mỹ hiện nay mới đang trong giai đoạn nghiên cứu, phát
triển, dự kiến đến năm 2030 sẽ chính thức đưa vào biên chế. Trong đó,
tên lửa đạn đạo chiến lược thế hệ mới bao gồm: Hệ thống uy hiếp chiến
lược trên bộ, tên lửa đạn đạo chiến lược thế hệ mới D5LE được phát triển
trên cơ sở tên lửa đạn đạo chiến lược UGM-133A Trident II, tên lửa hành
trình LRSO (chuyên thực hiện nhiệm vụ phòng ngự từ xa) và tên lửa đạn
đạo siêu thanh (dự án này mới được bắt đầu triển khai nghiên cứu).
Bối cảnh phát triển
Duy trì vị trí bá chủ thế giới và ưu thế sức mạnh quân sự
Hiện
nay, tư duy chiến lược của giới lãnh đạo Mỹ vẫn là tiếp tục thực hiện
và điều chỉnh chiến lược quân sự “đánh đòn phủ đầu”. Theo đó, Mỹ luôn
coi các loại tên lửa đạn đạo, đặc biệt là các tên lửa đạn đạo chiến lược
là công cụ quan trọng nhất để duy trì vị trí bá chủ thế giới và ưu thế
vượt trội về quân sự. Tháng 6/2013, Mỹ công bố “Chiến lược sử dụng vũ
khí hạt nhân”, chiến lược này chỉ ra rằng, “hiện nay nước Mỹ đang phải
đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng. Trong đó, thách thức đặc biệt
nghiêm trọng và tác động tới an ninh của Mỹ là chủ nghĩa khủng bố hạt
nhân. Ngoài ra, các uy hiếp khác còn bao gồm cả việc phát triển vũ khí
hạt nhân của Iran và Triều Tiên. Bên cạnh đó, thực tiễn cũng chỉ ra
rằng, Mỹ phát triển vũ khí hạt nhân còn là biện pháp chiến lược để cân
bằng quân sự với Nga. Chính vì vậy, Mỹ nhất định phải duy trì năng lực
hạt nhân vượt trội của mình để có thể sẵn sàng đối phó với các thách
thức đến từ bên ngoài lãnh thổ”. Năm 2014, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ
Carter khi mới lên nhận chức đã tuyên bố, “nước Mỹ luôn theo đuổi mục
tiêu là cường quốc hạt nhân; các loại đầu đạn hạt nhân và thiết bị mang
vũ khí hạt nhân như: tàu ngầm hạt nhân, máy bay ném bom chiến lược, tên
lửa là công cụ tuyệt vời để Mỹ duy trì vị trí số một thế giới và làm chủ
các quyết sách quốc tế chiến lược”.
Nâng cao năng lực phòng thủ quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc quá nhiều vào khả năng phòng thủ khu vực tiền duyên
Hiện
nay, nhiệm vụ tấn công chính xác mục tiêu tầm xa của Mỹ chủ yếu do các
loại tên lửa hành trình tầm xa bố trí tại các căn cứ không quân và hải
quân đảm nhiệm. Tuy nhiên, do tầm bắn lớn nhất của các loại tên lửa hành
trình hiện nay của Mỹ chỉ vào khoảng 3.000km nên rất khó có thể thực
hiện năng lực tấn công chiến lược trên phạm vi toàn cầu. Chính vì vậy,
để bảo đảm năng lực và hành động tác chiến hiệu quả và mở rộng hơn, Quân
đội Mỹ cần phải bố trí nhiều hơn nữa các loại vũ khí tấn công chính xác
cả trên lãnh thổ Mỹ và căn cứ tại nước ngoài. Tuy nhiên, việc bố trí và
triển khai các hệ thống vũ khí này tại nước ngoài luôn gặp phải thách
thức về mặt chính trị và ngoại giao từ nước sở tại. Do đó, nếu không
triển khai một cách kịp thời và hiệu quả thì có thể sẽ ảnh hưởng tới khả
năng phòng thủ, bảo vệ lợi ích quốc gia của Mỹ. Bên cạnh đó, việc bố
trí, triển khai nhiều hệ thống phòng thủ tại nước ngoài sẽ gây ra nhiều
tốn kém và chi phí quốc phòng, đồng thời yêu cầu bảo đảm hậu cần cũng
cần được nâng cao. Do đó, phát triển các loại vũ khí, đặc biệt là tên
lửa đạn đạo chiến lược thế hệ mới có khả năng tấn công chính xác mọi mục
tiêu trên toàn cầu là cơ sở để Mỹ tránh bị phụ thuộc quá nhiều vào năng
lực phòng thủ của các hệ thống bên ngoài lãnh thổ, qua đó nâng cao năng
lực tấn công chính xác mục tiêu tầm xa từ các hệ thống bố trí ngay trên
lãnh thổ Mỹ, tạo ra áp lực uy hiếp hạt nhân mới đối với các quốc gia sở
hữu vũ khí hạt nhân khác. Hệ thống tấn công nhanh chính xác trên phạm
vi toàn cầu của Mỹ bao gồm: Tên lửa hành trình vượt siêu thanh và tên
lửa đạn đạo chiến lược thế hệ mới. Đây chính là hai mục tiêu nghiên cứu
trọng tâm của Quân đội Mỹ trong thời gian qua.
Ứng
dụng thành tựu khoa học công nghệ mới để đột phá trong nghiên cứu, phát
triển các loại tên lửa đạn đạo chiến lược hiện có trong biên chế
Quân
đội Mỹ yêu cầu tên lửa đạn đạo chiến lược thế hệ mới phải có tính năng
kỹ chiến thuật mới, bố trí linh hoạt, bệ phóng được tối ưu hóa, có thể
phù hợp với mọi loại xe chuyên trở. Hiện nay, Mỹ chỉ bố trí tên lửa đạn
đạo xuyên lục địa LGM-30 Minuteman, sau nhiều lần cải tiến nâng cấp, dự
kiến đến năm 2030 sẽ hết niên hạn phục vụ. Tuy nhiên, do tên lửa xuyên
lục địa LGM-30 Minuteman tồn tại nhiều hạn chế nên việc kéo dài niên hạn
sử dụng đến năm 2030 là điều khó có thể xảy ra. Do đó hiện nay, Mỹ rất
cần nghiên cứu chế tạo một loại tên lửa đạn đạo thế hệ mới khác thay
thế. Hiện tại, Mỹ cơ bản đã xác định được phương án sơ bộ thay thế các
loại tên lửa mang đầu đạn hạt nhân chiến lược của lục quân. Theo đó, các
loại tên lửa này sẽ được trang bị hệ thống bay và hệ thống điều khiển
chỉ huy mới.
Bên
cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh chương trình nghiên cứu chế tạo các loại
tên lửa đạn đạo chiến lược thế hệ mới, Mỹ còn nỗ lực phát triển vũ khí
chiến lược thế hệ mới, ví dụ như tên lửa hành trình vượt siêu thanh và
thiết bị hỗ trợ bay siêu thanh. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, hiện nay
tính năng kỹ chiến thuật của các loại tên lửa hiện tại đã tiệm cận giới
hạn cực đại về nguyên lý phát triển vật lý, nên rất khó có khả năng tạo
được đột phá lớn trong các chương trình nghiên cứu chế tạo. Chính vì
vậy, xu hướng tất yếu hiện nay đó là tạo ra một hệ thống gồm nhiều loại
tên lửa, nhiều giá phóng và hệ thống kết hợp với nhau, qua đó nâng cao
năng lực tác chiến. Ví dụ đối với tên lửa hành trình, nếu như kết hợp
được giữa động cơ đẩy phản lực với kỹ thuật bay siêu thanh thì có thể sẽ
nâng cao được tầm bắn, năng lực đột phá tuyến phòng thủ đối phương đồng
thời nâng cao tốc độ bay tới mục tiêu tầm xa và nâng cao năng lực tấn
công trên phạm vi toàn cầu.
Hiện trạng phát triển
Hệ thống uy hiếp chiến lược trên bộ
Tháng
1/2015, Chính phủ Mỹ công bố Kế hoạch phát triển hệ thống uy hiếp chiến
lược trên bộ tương lai, theo đó kế hoạch này xác định phương án sơ bộ
phát triển tên lửa đạn đạo xuyên lục địa thế hệ mới cho lực lượng lục
quân, đồng thời đưa ra các yêu cầu kỹ thuật cụ thể cho từng giai đoạn và
từng hệ thống nghiên cứu phát triển. Hệ thống tên lửa đạn đạo xuyên lục
địa mới vẫn sử dụng ở dạng giếng phóng đồng thời được trang bị thêm đầu
đạn hạt nhân. Tuy nhiên, Lục quân Mỹ cũng yêu cầu loại tên lửa mới phải
được trang bị hệ thống bay và hệ thống điều khiển kiểm soát thế hệ mới,
đồng thời có khả năng tự động quay lại trung tâm điều khiển hoặc căn cứ
phóng. Dự kiến, trong năm tài khóa 2027, loại tên lửa xuyên lục địa thế
hệ mới của Lục quân Mỹ sẽ chính thức đưa vào biên chế, năm 2034 sẽ
chính thức hoàn thành xong việc bố trí.
Hải quân tiến hành cải tiến, nâng cấp D5LE dựa trên nguyên mẫu tên lửa đạn đạo chiến lược UGM-133A Trident II
Hải
quân Mỹ đang lên kế hoạch đóng mới 12 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa
đạn đạo thế hệ mới. Theo đó, mỗi tàu sẽ có khả năng mang được 16 quả tên
lửa D5LE - đây là loại tên lửa đạn đạo thế hệ mới được phát triển trên
nguyên mẫu tên lửa UGM-133A Trident II. Chiếc đầu tiên sẽ bắt đầu được
đóng vào năm 2012, năm 2031 sẽ bắt đầu được bàn giao và đưa vào biên
chế. Hiện nay, hệ thống điều khiển tên lửa và các giá đỡ đã được nâng
cấp xong và đang tiếp tục nâng cấp đối với các thành phần bên trong tên
lửa. Hải quân Mỹ đã đệ trình kế hoạch đưa vào bên trong tên lửa này một
số thành phần mới như hệ thống dẫn đường vệ tinh, hệ thống dẫn đường
quán tính tầm xa để nâng cao năng lực tấn công chính xác. Thậm chí, Hải
quân Mỹ còn đưa cả hệ thống dẫn đường Mk4 vào trong tên lửa này để nâng
cao năng lực nhận tín hiệu GPS. Thân của D5LE được làm bằng sợ cacbon
gia cố thêm polymer nên có thể giảm tối đa trọng lượng, nâng cao năng
lực cơ động và khả năng chuyển góc tấn công mục tiêu một cách linh hoạt
hơn.
Không quân nâng cao năng lực phòng thủ từ xa cho tên lửa hành trình
Tên
lửa LRSO là một bộ phận của hệ thống đánh chặn tầm xa của Không quân
Mỹ. Hạt nhân của hệ thống này là máy bay ném bom tầm xa có khả năng mang
các loại đầu đạn hạt nhân và các loại tên lửa thế hệ mới (chính là máy
bay ném bom tấn công tầm xa LRS-B). Tên lửa LRSO có khả năng sẽ được Mỹ
dùng để thay thế cho tên lửa hành trình không đối đất AGM-86, dự kiến
đến năm 2030 sẽ chính thức đi vào sử dụng. Tháng 2/2015, người phát ngôn
Không quân Mỹ cho biết, hiện tại đang có 3 phương án để phát triển hệ
thống động lực cho tên lửa LRSO. Trong đó, 2 phương án đề xuất sử dụng
động cơ đẩy thế hệ cũ, với một phương án bảo đảm cải thiện 5% hiệu suất
đốt nhiên liệu và phương án còn lại cải thiện 20% hiệu suất đốt nhiên
liệu. Hiện nay, Bộ Quốc phòng Mỹ đang xem xét cả 3 phương án và sẽ đưa
ra quyết định cuối cùng trong thời gian sớm nhất có thể. Cả 3 phương án
nghiên cứu, thiết kế tên lửa LRSO cũng đưa ra 3 phương án sử dụng đầu
đạn hạt nhân gồm đầu đạn W80 như đang sử dụng trên tên lửa hành trình
AGM-86 hoặc là sử dụng đầu đạn hạt nhân B61 như trên tên lửa hành trình
BGM-109G hoặc là sử dụng đầu đạn W84.
Đặc điểm của tên lửa LRSO
Tên
lửa LRSO có khả năng tàng hình mạnh như tên lửa AGM-86B. Là những loại
tên lửa hành trình có tiết diện phản xạ sóng rada nhỏ nhất trên thế
giới hiện nay;
Có khả năng mang được cả đầu đạn thông thường và đầu đạn hạt nhân;
Tầm
bắn được sử dụng ở cấp chiến thuật, tức là vào khoảng từ 2.500 -
3.000km; nếu như trong thời gian tới được trang bị loại động cơ khác thì
tầm bắn có thể lên tới 5.000km;
Năng lực đột phá hệ thống phòng không của đối phương mạnh;
Độ chính xác cao, do được áp dụng cả dẫn đường bằng vệ tinh và dẫn đường vô tuyến nên độ sai số trúng đích chỉ là 3,5m
Phát triển tên lửa thế hệ mới có tốc độ cao hơn
Hệ
thống tấn công nhanh trên phạm vi toàn cầu (CPGS) là hệ thống vũ khí
chiến lược mới mà Quân đội Mỹ đang được nghiên cứu phát triển. Hệ thống
này được cấu thành bởi các loại tên lửa đạn đạo chiến lược thông thường,
tên lửa hành trình siêu âm, vũ khí laze, vũ khí động năng vũ trụ và các
phương tiện bay không gian. Theo kế hoạch, hệ thống CPGS sẽ chính thức
đi vào hoạt động từ năm 2030. Hiện nay, Quân đội Mỹ đang triển khai 3
chương trình phát triển tên lửa dẫn đường vượt siêu thanh, gồm chương
trình phát triển X-51A của không quân, hệ thống vũ khí tấn công tốc độ
cao (HSSW) của hải quân và chương trình hợp tác HIFiRE giữa Autraylia và
Không quân Mỹ. Tất cả các chương trình này đều đã trải qua nhiều cuộc
thử nghiệm khác nhau tuy nhiên kết quả không mấy thành công và cần nhiều
thời gian nữa để nghiên cứu, hoàn thiện.
Tư duy phát triển
Củng cố vị trí ưu thế chiến lược về năng lực hạt nhân
Hiện
nay, Mỹ đã bắt đầu coi các loại tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm hạt
nhân là lực lượng chiến lược chủ yếu nhất và an toàn nhất, do đó không
cần thiết phải đầu tư quá nhiều nguồn lực để tiến hành nâng cấp kho vũ
khí hạt nhân của họ. Có thể nói, hiện nay các tàu ngầm hạt nhân của Mỹ
đứng đầu thế giới về năng lực sống còn, phòng thủ và mang được nhiều
loại tên lửa. Trong quá trình đàm phán để cắt giảm vũ khí hạt nhân giữa
Nga và Mỹ, Mỹ đặc biệt coi trọng và yêu cầu hai bên phải cắt giảm các
loại vũ khí hạt nhân chiến lược trên bộ, thậm chí là cải tiến chúng
thành các loại tên lửa thông thường. Trong khi đó, Mỹ lại bảo lưu quyền
phát triển trên lửa đạn đạo trang bị cho hải quân và lực lượng tàu ngầm.
Điều này có nghĩa là, do Nga chiếm ưu thế hạt nhân trên bộ mạnh hơn Mỹ,
nên Mỹ muốn làm suy yếu tương đối năng lực hạt nhân trên bộ của Nga
bằng cách yêu cầu cắt giảm số lượng đầu đạn hạt nhân trên bộ, thay vào
đó Mỹ tập trung phát triển vũ khí hạt nhân trên biển để chiếm ưu thế
vượt trội về năng lực hạt nhân với Nga.
Trên cơ sở thiết kế vũ khí hiện tại, điều chỉnh, nâng cấp, cải tiến và ứng dụng kỹ thuật mới nhất trong phát triển vũ khí
Trên
cơ sở các kỹ thuật tên lửa đã nắm được, thông qua cuộc cách mạng khoa
học công nghệ để phát triển các loại vũ khí thế hệ mới có tính năng kỹ
chiến thuật cao hơn - đây là tư duy phát triển vũ khí chính xác chiến
lược thế hệ mới được giới lãnh đạo Mỹ đặc biệt quan tâm. Với cách làm
này, sẽ giúp Mỹ giảm chi phí giá thành sản phẩm, rút ngắn thời gian
nghiên cứu chế tạo những vẫn bảo đảm năng lực và tính năng kỹ chiến
thuật của các loại vũ khí hết sức hiện đại.
Coi trọng phát triển các kỹ thuật đột phá và dự trữ chiến lược
Bên
cạnh hoạt động đi tắt đón đầu, tận dụng các kỹ thuật cơ bản đã được
nghiên cứu, Mỹ còn tập trung phát triển các loại kỹ thuật mới mang tính
đột phá. Những kỹ thuật đột phá trong nghiên cứu, thiết kế chế tạo các
loại tên lửa thế hệ mới kiểu này sẽ giúp Mỹ nâng cao độ chính xác, tầm
bắn, khả năng cơ động, điều khiển… đối với tên lửa, qua đó bảo đảm năng
lực uy hiếp chiến lược, răn đe cao.
Xu hướng phát triển
Trong
tương lai, Mỹ sẽ cắt giảm một số loại vũ khí tên lửa hạt nhân, đặc biệt
là quy mô của các loại vũ khí hạt nhân chiến lược, trong khi đó sẽ
chuyển hướng tập trung phát triển lực lượng hạt nhân trên biển. Tuy
nhiên, trong bối cải buộc phải cắt giảm quy mô số lượng vũ khí hạt nhân
như vậy, để bảo đảm sức mạnh răn đe chiến lược, Mỹ sẽ tập trung phát
triển lực lượng hạt nhân theo các xu hướng chính sau:
Tăng cường khả năng chiến lược cho hệ thống C4ISR
Mỹ
đã nhiều lần tiến hành nâng cấp, cải tiến đối với hệ thống C4ISR và
đang từng bước đưa vào trang bị hệ thống thông tin GIG. Dự kiến hệ thống
GIG sẽ chính thức biên chế rộng rãi trong Quân đội Mỹ vào năm 2020. Như
vậy, đến thời điểm đó, hệ thống chiến lược C4ISR sẽ có thể được giải
phóng áp lực về dung lượng đường truyền và qua đó nâng cao năng lực phản
ứng trong toàn bộ hệ thống. Với hệ thống C4ISR Mỹ sẽ nâng cao năng lực
chỉ huy điều khiển đối với các loại vũ khí, đồng nghĩa với việc nâng cao
năng lực tấn công vũ khí hạt nhân trên phạm vi toàn cầu.
Phát triển các loại thiết bị phóng tên lửa hành trình chiến lược cho Không quân
Do
nhiều nguyên nhân và khả năng đáp ứng nguồn ngân sách, giai đoạn từ năm
1991 - 2010, Mỹ đã cắt giảm nhiều căn cứ phóng tên lửa hành trình trên
bộ và trên biển, chỉ duy trì các căn cứ, bệ phóng tên lửa của lực lượng
không quân. Do đó, trong tiến trình phát triển lực lượng vũ khí hạt nhân
của mình thời gian tới, Mỹ sẽ chỉ bố trí tên lửa hành trình AGM-86B và
tên lửa LRSO cho các căn cứ phóng từ trên không; các loại tên lửa đạn
đạo sẽ được bố trí cho các căn cứ phóng trên bộ và trên biển. Hiện tại,
tên lửa LRSO và máy bay ném bom chiến lược thế hệ mới LRS-B đang được
nghiên cứu và sẽ lần lượt thay thế tên lửa AGM-86B, máy bay ném bom
chiến lược tầm xa B-52H.
Đột phá trong nghiên cứu phát triển kỹ thuật tên lửa vượt siêu thanh
Hiện
nay, Mỹ đang tập trung phát triển các thiết bị bay vượt siêu thanh như
HTV-2, AHW, HyFly, X-51A và đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng. Thời
gian tới, các loại thiết bị bay vượt siêu thanh sẽ trở thành xu hướng
phát triển chính trong Quân đội Mỹ, và sẽ là loại vũ khí thay thế các vũ
khí thông thường trong thời gian tới để bảo đảm năng lực, ưu thế và sức
mạnh răn đe vượt trội cho Quân đội Mỹ. Mặc dù lĩnh vực phát triển này
đang gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên Mỹ vẫn luôn theo đuổi và liên tục
tăng ngân sách cho hoạt động nghiên cứu này.
(Nguồn: Trung tâm Thông tin khoa học quân sự/Bộ Quốc phòng)
Không quân
là một trong những thước đo tiềm lực quân sự của mỗi nước. Trong cuộc
chạy đua trang bị quốc phòng trên thế giới hiện nay, tạp chí The
National Interest đã lựa chọn ra 5 quốc gia có lực lượng không quân với
tiềm lực vượt trội.
Trong bối cảnh thế giới còn nhiều nguy
cơ xung đột, bất ổn tiềm tàng, các cường quốc trên thế giới luôn phải
chuẩn bị cho riêng mình một số kịch bản phòng vệ, từ việc tiến hành
chiến dịch không kích chống một loại mục tiêu nào đó cho đến việc triển
khai kế hoạch tác chiến quy mô lớn. Và tất nhiên, việc làm chủ bầu trời
luôn là một trong những lợi thế hàng đầu trong bất cứ cuộc xung đột quân
sự nào.
Trong danh sách top 5 lực lượng không
quân mạnh nhất thế giới cho đến năm 2030 do tạp chí The National
Interest bình chọn dựa trên tiềm năng và chiến lược phát triển không
quân đã được công bố, ngoài những “gương mặt quen thuộc” như Mỹ, Nga và
Anh thì Trung Quốc và Israel nổi lên như những đối thủ đáng gờm.
Đặc biệt, quốc gia đang mua sắm mạnh mẽ
máy bay như Ấn Độ hay quốc gia sở hữu lực lượng không quân mạnh nhất
châu Âu hiện nay như Pháp lại “mất hút” trong bảng xếp hạng này.
Không quân Mỹ
Đứng đầu danh sách không ai khác vẫn sẽ
là Không quân Mỹ với hàng nghìn máy bay chiến đấu thế hệ 4-5, lực lượng
máy bay vận tải tầm xa, vượt đại châu hùng hậu.
Hiện tại, Quân đội Mỹ có 3 lực lượng
không quân riêng biệt, gồm: Không quân, Không quân Hải quân và Không
quân thuộc Thủy quân lục chiến quy mô bậc nhất thế giới.
Máy bay chiến đấu của Mỹ Lockheed Martin F-35 Lightning II.
Khi đó, Không quân Mỹ sẽ sở hữu 187 máy
bay chiến đấu tàng hình F-22 Raptor. Hơn thế nữa, lực lượng này sẽ còn
sở hữu 178 máy bay chiến đấu F-15C được nâng cấp lớn về radar và bộ cảm
biến hồng ngoại. Ngoài ra, cường quốc số 1 thế giới cũng sẽ mạnh tay mua
thêm 1.763 tiêm kích đa nhiệm F-35A để thay thế tiêm kích F-16C và
cường kích A-10.
Đồng thời, Không quân Mỹ cũng sẽ trẻ hóa
đội tàu bay của mình với 100 máy bay tiếp liệu trên không KC-46 Pegasus
mới, trong khi oanh tạc cơ tàng hình thế hệ 5 B-21 sẽ bắt đầu được sản
xuất với số lượng khoảng 100 chiếc theo đơn đặt hàng.
Trong khi đó, Không quân Hải quân Mỹ
được chuẩn hóa bằng máy bay F-35C và F/A-18E/F Super Hornet. Các đơn vị
máy bay không người lái MQ-25 sẽ tăng cường năng lực thu thập tình báo,
trinh sát, thực hiện nhiệm vụ cho máy bay F-35C có người điều khiển, còn
máy bay lưỡng thể V-22 Osprey sẽ đảm bảo khả năng tiếp tế và liên lạc
cho các tàu sân bay trên biển.
Cuối cùng, Không quân thuộc Thủy quân
lục chiến Mỹ sẽ được trang bị phiên bản F-35B với khả năng cất cánh
đường băng ngắn và hạ cánh thẳng đứng.
Không quân Trung Quốc
Điều bất ngờ nhất trong danh sách này là
Trung Quốc được xếp ở vị trí thứ hai, chỉ sau Mỹ. Theo đó, sau hơn một
thập kỷ tới, lực lượng Không quân (PLAAF) và Không quân Hải quân
(PLANAF) Trung Quốc sẽ vươn đến thời kỳ đỉnh cao sức mạnh.
Điều này hoàn toàn dễ hiểu, đặc biệt kể
từ khi Chủ tịch Tập Cận Bình lên kế hoạch cải tổ quân đội nhằm tăng
cường khả năng tác chiến ở những khu vực xa xôi, không quân Trung Quốc
đã được đầu tư mạnh mẽ và có những bước phát triển lớn.
Máy bay chiến đấu J-10.
Nhìn chung, số lượng máy bay của không
quân Trung Quốc đang suy giảm nhưng thay vào đó, chất lượng chiến đấu cơ
thế hệ 4+ như Su-30, J-11, J-15 và J-10 lại đang được tăng cường. Tuy
nhiên, để bắt kịp Mỹ và các cường quốc khác, Trung Quốc sẽ phải tính
toán đầu tư hơn nữa để phát triển thành công các tiêm kích thế hệ 5 như
J-20 và J-31.
Không chỉ dừng lại ở đó, lực lượng không
quân chiến đấu mới chỉ là một phần sức mạnh của Không quân Trung Quốc.
Đến năm 2030, quốc gia châu Á này tham vọng phát triển máy bay vận tải
Y-20 cho phép không vận tới bất kỳ nơi nào trên thế giới. Bên cạnh đó,
Trung Quốc cũng đang tăng cường số lượng và chất lượng các máy bay hỗ
trợ như máy bay cảnh báo sớm và máy bay tiếp liệu trên không.
Với những căng thẳng gia tăng liên tiếp
trên biển phía Đông và Đông Nam Trung Quốc, dự báo quốc gia này sẽ tiếp
tục theo xu hướng tăng cường cả về số lượng và chất lượng các máy bay
thu thập tình báo, trinh sát và giám sát, đặc biệt là máy bay không
người lái như Thần Điêu.
Không quân Nga
Hiện tại, triển vọng của Không quân Nga
khó có thể xác định. Kịch bản tốt nhất là đến năm 2030, nếu nền kinh tế
của Nga được phục hồi, giá dầu và hàng hóa xuất khẩu tăng cao và hàng
rào cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây được dỡ bỏ, thì Không quân Nga
sẽ giữ vững vị trí thứ hai thế giới.
Máy bay tiêm kích thế hệ 5 PAK-FA của Nga.
Hiện Không quân Nga có hai chương trình
kỹ thuật hàng không quân sự quan trọng nhất là phát triển máy bay tiêm
kích thế hệ 5 PAK-FA và oanh tạc cơ chiến lược thế hệ 5 PAK-DA. Tiêm
kích PAK-FA hay T-50, được đánh giá có uy lực sánh ngang tiêm kích F-22
Raptor của Mỹ, sẽ là nòng cốt giúp Nga giảm bớt sự phụ thuộc vào các
tiêm kích thế hệ cũ như Mig-29, Su-27/30/34. Trong khi đó, PAK-DA là
dòng máy bay ném bom tàng hình chiến lược có khả năng thay thế các đơn
vị máy bay ném bom siêu âm Tu-22 và Tu-160 đã tương đối lạc hậu.
Tuy nhiên, nếu rơi vào kịch bản xấu, với
tình trạng bị ảnh hưởng bởi các biện pháp cấm vận, ngân sách quốc phòng
eo hẹp, nạn quan liêu và tham nhũng, tới năm 2030, Không quân Nga có lẽ
sẽ chỉ dừng chân ở top 10.
Không quân Israel
Hiện nay, Không quân Israel đang sở hữu
58 máy bay chiến đấu F-15A và F-15C, 25 máy bay ném bom chiến đấu F-15I
và 312 máy bay chiến đấu đa dụng F-16. Đến năm 2030, khả năng cao Không
quân Israel vẫn là lực lượng không quân hùng mạnh nhất của toàn bộ khu
vực Trung Đông.
Máy bay chiến đấu chiến thuật F-15 Eagle.
Mặc dù vậy, để đạt được vị trí này,
Israel cần phải tiến hành công cuộc “thay máu” quyết liệt đội ngũ máy
bay với nhiều khung máy đã có tuổi đời trên 40 năm của mình. Tuy nhiên,
đáng tiếc là họ chưa tìm được giải pháp thích hợp, trong khi sản phẩm
Tel Aviv mong muốn là F-22 thì Mỹ đã dừng sản xuất từ năm 2011.
Chính vì vấn đề trên, Không quân Israel
có thể phải chuyển nhiệm vụ giành ưu thế trên không từ máy bay F-15 sang
máy bay F-35 vốn không phải được thiết kế cho nhiệm vụ không chiến
chuyên nghiệp cho tới khi “người thay thế F-22” là máy bay thế hệ thứ 6
được Mỹ đưa vào sản xuất.
Israel hiện đang có kế hoạch thiết lập
hai phi đội F-35 (32 chiếc) vào năm 2021, tiến tới mục tiêu mua thêm phi
đội F-35 thứ ba vào năm 2030, với tổng số hơn 200 chiếc. Nhiều khả năng
phi đội chiến đấu cơ của nước này sẽ được bổ sung thêm các máy bay
không người lái tối tân có thể thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ như tình
báo, trinh sát, giám sát, chế áp phòng không và tiếp liệu trên không.
Không quân Anh
Tới năm 2030, Không quân Anh được dự báo
sẽ đạt tới “điểm rơi phong độ” sau hàng thập kỷ phát triển. Trong số
này, phải kể đến khoảng 160 tiêm kích chiếm ưu thế trên không
Eurofighter Typhoon, được trang bị thêm các loại bom dẫn đường bằng
laser và tên lửa Brimstone. Thêm vào đó, máy bay không người lái tàng
hình tối mật trong chương trình Taranis sẽ được triển khai vào năm 2030
để sát cánh cùng các chiến đấu cơ có người lái của nước này.
Máy bay chiến đấu Eurofighter Typhoon.
Trong khi đó, các tiêm kích Panavia
Tornado GR4 sẽ được “cho về vườn” và thay thế bằng 138 tiêm kích đa
nhiệm phiên bản cất hạ cánh thẳng đứng F-35B. Các chiến đấu cơ này sẽ
được biên chế cho Không quân Hoàng gia và Hải quân Hoàng gia Anh cũng
như được trang bị cho các tàu sân bay thế hệ mới HMS Queen Elizabeth và
HMS Prince of Wales.
Không loại trừ khả năng cho đến năm
2030, Không quân Hoàng gia và lực lượng đường không Hải quân Hoàng gia
Anh sẽ sở hữu khoảng 300 máy bay chiến đấu và trở thành lực lượng không
quân có quy mô lớn nhất, thực lực mạnh nhất Tây Âu.
Lịch sử Khí công Khởi nguồn và lịch sử phát triển YOGA - Ấn Độ PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ “Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?” Lepnit . CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI -"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." Bleiste -"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước" Napoleon. -"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo: nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một...
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 14/3: Bắt phó giám đốc dùng tài liệu giả tham gia đấu thầu | ANTV TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 15/3 | Nga lập thế trận siết vòng vây 3000 quân Kiev, Ukraine run rẩy Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 14-3-2024 Các quan chức cộng sản cấp cao biến mất | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt THIÊN TRANG - Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé || Nhạc Vàng Xưa Bất Hủ Thêm 162 người nhập viện sau khi ăn cơm gà ở Nha Trang 8 giờ trước Việt Nam đề nghị Trung Quốc tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ 9 giờ trước Khoảnh khắc một căn nhà bị sông Cầu 'nuốt chửng' ở Bắc Ninh 5 giờ trước Hà Nội: Cô bán trứng bất ngờ "được" ném nhầm bọc tiền hơn 1 tỷ vào xe 17 giờ trước Vũ khí đặc biệt trong gói viện trợ của Mỹ dành cho Ukraine 12 giờ trước Video quân đội Nga bắn nổ 2 trực thăng của Ukraine ở Donetsk 18 giờ trước Ông Trump vượt Tổng thống Biden về tỉ lệ ủng hộ trong thăm dò dư luận 11 giờ trước Làm...
Mùa Chim Én Bay - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung MỌC CÁNH Em ơi em, mọc cánh bao giờ thế Định bay đi đâu mà nhìn ra đại dương? Tìm nguồn hạnh phúc bên kia thế giới Ở đó đang chờ một tình yêu thương? Thôi bay đi em, đừng áy náy, vấn vương Đừng lưu luyến kẻ dưng, người cũ Bay đi em, về phương trời quyến rũ Ở đó có tình sâu nặng đợi chờ! Bay đi em, đến xứ sở ước mơ Về chao liệng trên bến bờ hi vọng Thỏa khao khát những nỗi niềm vui sống Của một hồn thơ dào dạt yêu thương! Trần Hạnh Thu Câu Đợi Câu Chờ - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung Dương Hiểu Ngọc bay cao với đôi cánh "Thiên thần tình yêu 09:26 05/04/2014 Chắp "đôi cánh thiên thần", người đẹp Dương Hiểu Ngọc sẽ bay cao, bay xa trong nghệ thuật với những nỗ lực không ngừng. Xuất hiện liên tục trên ...
Nhận xét
Đăng nhận xét