Đội quân chó săn thiện chiến và đáng sợ nhất lịch sử Việt Nam
Gabe |
Đó chính là đội quân "chó săn" đầy thiện chiến của Nguyễn Xí, một danh tướng dưới trướng Bình Định Vương Lê Lợi.
Nguyễn Xí (1396-1465) là 1 vị đại tướng tài năng, đức độ dưới trướng Bình Định Vương Lê Lợi. Ông được coi như "Khai quốc công thần" của nhà Hậu Lê và từng phò tá đến 4 đời vua, 1 kỷ lục trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Xí cùng anh trai đi theo Lê Lợi từ nhỏ do có mối quan hệ thân tình từ đời cha ông. Chưa đầy 10 tuổi, ông đã tỏ ra thông minh xuất chúng, vũ dũng hơn người nên Lê Lợi hết mực yêu quý và tin tưởng. Nguyễn Xí cũng là 1 trong số những những người từng trải qua hoạn nạn sóng gió với Bình Định Vương từ những ngày đầu khởi nghĩa!
Cảm
thấy tin dùng được, Lê Lợi giao cho Nguyễn Xí nuôi đàn chó săn lớn tới
hơn 100 con. Khi đó, ông dùng tiếng nhạc làm hiệu lệnh, đàn chó nghe
theo, lúc đến lúc đi đều nhau như một. Lê Lợi có ý khen ngợi, và cho là
có tài năng làm tướng.
Đội khuyển quân đáng sợ của Nguyễn Xí
Ngoài tài cầm quân đánh trận, Nguyễn Xí vô cùng thông minh, linh hoạt, biến chính đàn chó săn kia trở thành 1 đoàn khuyển quân đầy uy lực, đáng sợ.
Vào đầu xuân Canh Thân năm 1418, Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương, phát động khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược, lúc này Nguyễn Xí cũng đi theo và có cơ hội phát lộ tài năng của mình. Ông đại phá Vương Thông, cùng các tướng tiêu diệt 5 vạn quân địch, bắt sống hơn 1 vạn, ép quân Minh phải lui về Đông Quan (Thăng Long) cố thủ.
Nói về đoàn khuyển quân, chúng được Nguyễn Xí huấn luyện bài bản, chu đáo, tất cả đều điều khiển bằng hiệu lệnh, tiếng nhạc nên từ ăn, ngủ hay tấn công phá địch đều thực hiện răm rắp theo ý chủ nhân, trở thành 1 đội quân đặc biệt mà vô cùng hiệu quả.
Khi tấn công, chúng nghe theo hiệu lệnh mà sẵn sàng lao vào cắn xé kẻ địch không thương tiếc, từ đó khiến cho đội hình của kẻ thù rối loạn, giúp quân ta giành được khí thế cũng như lợi thế khi tấn công. Đoàn khuyển quân này đáng sợ đến nỗi, Mã Kỳ, 1 viên tướng nhà Minh mỗi lần nghe tới là đã kinh sợ.
Có những lúc quân ta rơi vào thế yếu, bị bao vây, cắt nguồn lương thực, đàn chó săn thiện chiến này lại được Nguyễn Xí biến thành những thợ săn điệu nghệ đi săn thú, bắt chim làm lương thực cho quân đội!
Kinh điển hơn, Nguyễn Xí làm giống theo kế "Người rơm mượn tên" của Gia Cát Lượng. Ông buộc những chiếc đạc ngựa vào cổ đàn chó, nên khi chúng chạy sẽ có tiếng giống như có đoàn kị mã đang tiến đến. Sau đó, cứ tới đêm, Nguyễn Xí dẫn quân vây trại địch, trống chiêng ầm mĩ rồi cho đàn khuyển quân chạy xung quanh.
Quân địch nghe thấy tưởng bị đánh úp nên sợ hãi, bắn tên ra như mưa. Nguyễn Xí cứ làm vậy vài lần là có thể thu về cho nghĩa quân hàng ngàn, hàng vạn mũi tên địch mà không tốn 1 binh 1 tốt nào.
Trong suốt hơn 10 năm chiến tranh, Nguyễn Xí cùng đoàn quân đặc biệt của mình đã tham gia vào vô số trận đánh, đóng góp 1 phần nhất định vào chiến thắng của nghĩa quân. Trong đó có nhiều trận quan trọng như vây hãm Đông Quan, công thành Xương Giang, tiêu diệt và bắt sống hơn 10 vạn quân địch (1427)
Trong
lịch sử thế giới, việc sử dụng những đoàn khuyển quân không phải là
mới. Từng có ghi nhận, vào thế kỷ thứ 7 TCN, thành bang Magnesia của Hy
Lạp cổ đại cũng đã sử dụng những chú chó lớn trong đội quân của mình, có
những con nặng tới hơn 100kg.
Nhiệm vụ chính của chúng là làm tiên phong, tấn công gây rối loại đội hình địch. Những chú chó này khi đó được đối đãi công bằng như những người lính khác, thậm chí còn được trang bị áo giáp gai để bảo vệ cơ thể.
Lời bình
Những con chó tưởng như vô hại vì vốn chỉ được dùng làm con vật giữ nhà lại bỗng chốc trở thành một đội quân tinh nhuệ; không những thế đội quân ấy lại được dùng để thi triển kế "mượn tên" như Gia Cát Lượng Khổng Minh, Nguyễn Xí quả thực là một dũng tướng đại tài, hiếm có của nước Việt.
Với những con người như thế cứ lần lượt xuất hiện qua hàng ngàn năm lịch sử, giặc xâm lược phương Bắc không liên tiếp thật bại, rước nhục ê chề, nể sợ nước Nam mới là lạ!
Mỗi con voi chiến có giá trị tương đương với cả một đội quân tinh nhuệ!
Trận huyết chiến giữa voi chiến binh và hổ dữ trên đấu trường Huế
Nguyễn Xí cùng anh trai đi theo Lê Lợi từ nhỏ do có mối quan hệ thân tình từ đời cha ông. Chưa đầy 10 tuổi, ông đã tỏ ra thông minh xuất chúng, vũ dũng hơn người nên Lê Lợi hết mực yêu quý và tin tưởng. Nguyễn Xí cũng là 1 trong số những những người từng trải qua hoạn nạn sóng gió với Bình Định Vương từ những ngày đầu khởi nghĩa!
Hình ảnh Nguyễn Xí cưỡi voi đánh trận. Ảnh: Viettoon
Đội khuyển quân đáng sợ của Nguyễn Xí
Ngoài tài cầm quân đánh trận, Nguyễn Xí vô cùng thông minh, linh hoạt, biến chính đàn chó săn kia trở thành 1 đoàn khuyển quân đầy uy lực, đáng sợ.
Vào đầu xuân Canh Thân năm 1418, Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương, phát động khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược, lúc này Nguyễn Xí cũng đi theo và có cơ hội phát lộ tài năng của mình. Ông đại phá Vương Thông, cùng các tướng tiêu diệt 5 vạn quân địch, bắt sống hơn 1 vạn, ép quân Minh phải lui về Đông Quan (Thăng Long) cố thủ.
Nói về đoàn khuyển quân, chúng được Nguyễn Xí huấn luyện bài bản, chu đáo, tất cả đều điều khiển bằng hiệu lệnh, tiếng nhạc nên từ ăn, ngủ hay tấn công phá địch đều thực hiện răm rắp theo ý chủ nhân, trở thành 1 đội quân đặc biệt mà vô cùng hiệu quả.
Khi tấn công, chúng nghe theo hiệu lệnh mà sẵn sàng lao vào cắn xé kẻ địch không thương tiếc, từ đó khiến cho đội hình của kẻ thù rối loạn, giúp quân ta giành được khí thế cũng như lợi thế khi tấn công. Đoàn khuyển quân này đáng sợ đến nỗi, Mã Kỳ, 1 viên tướng nhà Minh mỗi lần nghe tới là đã kinh sợ.
Có những lúc quân ta rơi vào thế yếu, bị bao vây, cắt nguồn lương thực, đàn chó săn thiện chiến này lại được Nguyễn Xí biến thành những thợ săn điệu nghệ đi săn thú, bắt chim làm lương thực cho quân đội!
Kinh điển hơn, Nguyễn Xí làm giống theo kế "Người rơm mượn tên" của Gia Cát Lượng. Ông buộc những chiếc đạc ngựa vào cổ đàn chó, nên khi chúng chạy sẽ có tiếng giống như có đoàn kị mã đang tiến đến. Sau đó, cứ tới đêm, Nguyễn Xí dẫn quân vây trại địch, trống chiêng ầm mĩ rồi cho đàn khuyển quân chạy xung quanh.
Quân địch nghe thấy tưởng bị đánh úp nên sợ hãi, bắn tên ra như mưa. Nguyễn Xí cứ làm vậy vài lần là có thể thu về cho nghĩa quân hàng ngàn, hàng vạn mũi tên địch mà không tốn 1 binh 1 tốt nào.
Trong suốt hơn 10 năm chiến tranh, Nguyễn Xí cùng đoàn quân đặc biệt của mình đã tham gia vào vô số trận đánh, đóng góp 1 phần nhất định vào chiến thắng của nghĩa quân. Trong đó có nhiều trận quan trọng như vây hãm Đông Quan, công thành Xương Giang, tiêu diệt và bắt sống hơn 10 vạn quân địch (1427)
Đội quân chó to lớn trong lịch sử thế giới. Ảnh minh họa
Nhiệm vụ chính của chúng là làm tiên phong, tấn công gây rối loại đội hình địch. Những chú chó này khi đó được đối đãi công bằng như những người lính khác, thậm chí còn được trang bị áo giáp gai để bảo vệ cơ thể.
Lời bình
Những con chó tưởng như vô hại vì vốn chỉ được dùng làm con vật giữ nhà lại bỗng chốc trở thành một đội quân tinh nhuệ; không những thế đội quân ấy lại được dùng để thi triển kế "mượn tên" như Gia Cát Lượng Khổng Minh, Nguyễn Xí quả thực là một dũng tướng đại tài, hiếm có của nước Việt.
Với những con người như thế cứ lần lượt xuất hiện qua hàng ngàn năm lịch sử, giặc xâm lược phương Bắc không liên tiếp thật bại, rước nhục ê chề, nể sợ nước Nam mới là lạ!
Tượng binh: Nỗi khiếp đảm kinh hoàng của đế chế Ba Tư thời cổ đại
Hoa Hướng Dương |
Thời cổ đại, tượng binh (voi chiến) được đánh giá rất cao, chúng được ví rằng: Quân đội mà không có tượng binh thật đáng coi thường, khác gì rừng không có sư tử, nước không có vua!
Ở
thời cổ đại, khi mà các vũ khí còn thô sơ và kém hiệu quả thì những con
vật như ngựa, voi, lạc đà... lại trở thành yếu tố quyết định đến sự
thành bại của cuộc chiến.
Chúng đóng góp không nhỏ tới cục diện trận chiến và đôi khi trở thành thế mạnh của một đội quân.
Nếu như đế chế
Mông Cổ hùng mạnh được phát triển trên lưng ngựa làm kẻ thù khiếp sợ
thì quân đội Ba tư lại làm kẻ thù ám ảnh với hình ảnh quân đoàn voi hùng
hậu.
Điều gì khiến đội quân Ba tư trở nên hùng mạnh nhất thời cổ đại?
Tượng binh là đội quân vô cùng hùng mạnh.
Voi chiến hay tượng binh là một lực lượng chiến đấu tiên phong được huấn luyện nhằm công phá, phá vỡ hàng ngũ, dày xéo kẻ địch.
Hình
thức chiến đấu này rất độc đáo vì không phải ở đất nước, quân đội nào
cũng có thể vì nó còn tùy thuộc vào vị trí địa lý của từng đất nước.
Mặc
dù có nguồn gốc từ Ấn Độ sau đó lan truyền sang Đông Nam Á và Trung
Đông tới tận Địa Trung Hải, nhưng voi chiến chỉ thực sự phát triển mạnh
mẽ ở đế chế Ba Tư.
Phương Tây phát triển voi chiến ít hơn phương Đông.
Có
thể thấy ở phương Tây, tượng binh không thực sự phát triển mấy so với
ngựa chiến, phần nhiều vì lượng voi ở bản địa khan hiếm.
Trái lại, ở phương Đông vì môi trường lý tưởng cho loài voi sinh sản, nên hình thức voi chiến trở nên phổ biến hơn.
Đội quân voi khiến mọi đội quân đều kiêng dè.
Mãi
tới sau này, khi súng đại bác được phát minh thì voi chiến mới bị vô
hiệu hóa. Khiến hình thức này trở nên ít hơn và nếu có cũng chỉ vì mục
đích chuyên chở, kéo gỗ…
Vậy
trong số nhiều nước sử dụng voi chiến, tại sao Ba Tư lại là nước khai
thác tối đa thế mạnh để trở thành quân lực hùng mạnh nhất lúc bấy giờ?
1. Voi có hiệu quả cao trong đánh trận
Quân Ba tư có sức mạnh nhờ vào quân đoàn voi lớn mạnh.
Theo đánh giá của những nhà quân sự tài ba, mỗi con voi chiến có giá trị tương đương với cả một đội quân tinh nhuệ!
Thời cổ đại, văn minh Ấn Độ đề cao giá trị của loài voi trong chiến tranh. Họ ví rằng "Quân
đội mà không có tượng binh thật đáng coi thường, khác gì rừng không có
sư tử, nước không có vua, hay có lòng can đảm mà đánh bằng tay không".
Ba tư khiến các đội quân khác cũng phải khiếp sợ.
Đây
cũng là điều dễ hiểu vì voi là sinh vật lớn nhất trên cạn, có sức mạnh
và sức tấn công ghê gớm hơn bất cứ sinh vật nào, kể cả thú dữ.
Trong
lịch sử, thậm chí nữ hoàng Semiramis của Đế chế Assyria khi tấn công Ấn
độ, do biết Ấn độ có lực lượng tượng binh hùng hậu nên cũng làm giả
quân đội voi bằng hình nộm, nhưng vẫn thua trận trước đàn voi “xịn”.
Do
đó có thể thấy, những người cầm quân rất xem trọng và dè chừng lực
lượng voi chiến và đánh giá cao khả năng tấn công của chúng.
2. Đế chế Ba Tư phát triển tượng binh tới đỉnh cao
Người Ba tư sử dụng voi chiến rất thuần thục.
Voi
được quan tâm, nuôi dưỡng và sử dụng như một nguồn tài nguyên “sống”
của đế chế Ba Tư. Chính nhờ nó, quân đội Ba Tư đã cản trở bước tiến của
Alexandros đại đế.
Trong
trận Gaugamela (331 TCN) người Ba Tư triển khai binh đoàn voi chiến đặt
tại trung tâm hàng ngũ và trở thành nòng cốt chủ lực cho quân đội khiến
cho quân Macdonia thiện chiến dũng mãnh cũng phải khiếp sợ.
Sức mạnh của một con voi bằng hàng trăm người.
Alexandros Đại đế thậm chí còn phải làm lễ Hiến tế cho vị thần sợ hãi đêm trước trận chiến.
Sau
đó, dù thắng trận nhưng ấn tượng sâu sắc với những con voi của kẻ thù,
ông đã chiếm lấy đàn voi này vào quân đội của mình, tiếp tục bổ sung
thêm một số nữa khi đánh chiếm phần còn lại của Ba tư.
theo Trí Thức Trẻ
Tượng binh Đại Việt huyết chiến kỵ binh Nguyên Mông: Long tranh hổ đấu
Một trận tượng binh đấu với kỵ binh thời trung cổ
Binh lính Đại Việt ở trên lưng voi dùng cung tên bắn và dùng kích,
câu liêm để đánh giết kỵ binh Mông Cổ, hỗ trợ đắc lực cho bộ binh Đại
Việt tấn công trực diện vào chân và bụng ngựa các vũ khí như gươm, đao,
rìu, giáo, kích…
1. Bối cảnh, kế hoạch, chuẩn bị của hai bên :
Bấy giờ là ngày 17.1.1258 (12 tháng
Chạp năm Đinh Tỵ 1257 Âm lịch), vua Trần Thái Tông ngự giá thân chinh,
bày trận ở Bình Lệ Nguyên (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc), tại khu vực
làng Hương Canh và phụ cận, bờ nam sông Phan (phụ lưu sông Cà Lồ). Đội
hình quân Đại Việt có tượng binh dàn hàng ngang tại tiền quân che chắn
cho hàng hàng lớp lớp bộ binh, kỵ binh phía sau. Vua Trần Thái Tông được
sự hộ vệ của các hiệu Cấm quân, chọn một điểm cao thoáng để quan sát và
chỉ huy. Tháp tùng theo vua có nhiều quan lại và tướng lĩnh trong triều
đình. Bất luận quan văn hay võ, ai ai cũng mặc giáp cầm gươm, sẵn sàng
xông pha tên đạn.
Ngột Lương Hợp Thai dẫn quân Mông Cổ
tiến sang Đại Việt với ý định sẽ nhanh chóng tiêu diệt đất nước ta. Tốc
chiến tốc thắng là sở trường của viên tướng này cũng như những binh
lính dưới tay y. Quân Mông Cổ kéo đến vùng Bình Lệ Nguyên thì đụng độ
quân Đại Việt bày trận chờ sẵn. Kỳ thực, việc đụng độ quân Đại Việt ở
bên ngoài thành trì và chiến lũy chính là điều mà binh tướng Mông Cổ
mong muốn. Quân Mông Cổ có khả năng đánh dàn trận quy ước cực kỳ tốt, đã
đánh bại nhiều đạo quân đông đảo và tinh nhuệ, trang bị tối tân trên
thế giới. Những cuộc công phá các thành trì đòi hỏi nhiều công sức và
thời gian hơn là đánh bại đối phương bên ngoài thành. Nhận được tin mà
du binh báo về, Ngột Lương Hợp Thai lập tức lên kế hoạch “đánh nhanh,
diệt gọn” quan quân nhà Trần. Y chia quân làm ba thê đội để vượt sông
tấn công.
Đội thứ nhất do tướng Triệt Triệt Đô
chỉ huy lĩnh nhiệm vụ tiên phong, dẫn một đạo kỵ binh nhanh nhẹn nhất
tiến về hướng hạ lưu sông Phan để vượt sông, rồi vòng ra phía sau trận
tuyến của quân Đại Việt tìm cướp thuyền. Ngột Lương Hợp Thai lệnh cho
Triệt Triệt Đô: “Quân ngươi khi đã qua sông, đừng đánh chúng vội,
chúng tất đến chống lại ta. Phò mã theo sau cắt hậu quân của chúng.
Ngươi rình cướp lấy thuyền. Quân Man nếu tan vỡ chạy ra sông, không có
thuyền tất bị ta bắt” (theo Nguyên sử). Cánh quân này ước chừng có khoảng 5000 quân.
Đội thứ hai do chính Ngột Lương Hợp
Thai chỉ huy ước chừng 3 vạn quân, theo kế hoạch vượt sông tấn công mở
màn vào chính diện quân Đại Việt. Đội quân này lấy những hàng binh Đại
Lý dàn ở các hàng phía trước để hứng chịu nhiều thương vong, kỵ binh
Mông Cổ đi sau để hỗ trợ và tung đòn quyết định.
Đội thứ ba do phò mã Mông Cổ là Hoài
Đô cùng tướng A Truật con trai của Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy, cầm đầu
những kỵ binh Mông Cổ giỏi nghề cung tên nhận nhiệm vụ đánh tạc sườn
quân Đại Việt, rồi vòng đánh sâu vào hậu tuyến quân Đại Việt để cắt đứt
sự liên lạc giữa tiền quân và hậu quân Đại Việt, làm cho quân Đại Việt
trước sau không thể tiếp ứng lẫn nhau. Ước chừng đội quân này có hơn
5000 quân.
Kế hoạch của quân Mông Cổ có vẻ khá
chu đáo, với mưu toan diệt gọn quân chủ lực Đại Việt, giết hoặc bắt sống
vua Trần chỉ trong một trận. Thế trận của quân Đại Việt là thế trận
tĩnh của một đạo quân đặc trưng vùng đồng bằng, thế trận của quân Mông
Cổ là thế trận năng động của những sắc dân sống bằng nghề du mục và săn
bắn.
2. Diễn biến trận chiến
Bàn định xong xuôi, các cánh quân
Mông Cổ theo kế hoạch mà di chuyển. Nhưng thực tế tình hình đã không
diễn ra như tướng Ngột Lương Hợp Thai tiên liệu. Tướng Triệt Triệt Đô
vượt sông ở hướng hạ lưu, tưởng rằng có thể vượt khỏi tầm quan sát của
cụm quân chính phía Đại Việt để tiến đến bến thuyền. Tuy nhiên, quân của
Triệt Triệt Đô đã bị phát hiện và đụng độ với một toán hậu quân Đại
Việt. Triệt Triệt Đô cùng toàn đội tiên phong Mông Cổ buộc lòng phải
quay ngựa lại giao chiến. Mặc dù quân ta bị thiệt hại nhiều hơn khi đánh
với quân của Triệt Triệt Đô, nhưng quân tiếp ứng kéo tới ngày một đông.
Triệt Triệt Đô mãi đánh với hậu quân Đại Việt, không thể tiếp tục nhiệm
vụ cướp thuyền nữa.
Bấy giờ Ngột Lương Hợp Thai từ bên
kia sông thấy bên Đại Việt biến trận, lại thấy cát bụi tung mù từ một
góc trận tuyến Đại Việt, biết là đã có giao chiến. Y liền lập tức cho
trung quân vượt sông tiếp ứng. Chờ cho cánh quân Mông Cổ vừa lên được bờ
nam sông Phan, vua Trần Thái Tông hạ lệnh cho đội tượng binh nhất loạt
xông lên, theo sau là các hàng quân kỵ và bộ. Quân Mông Cổ cố gắng tiến
lên không lùi, toàn đội rốt cuộc cũng qua được sông, làm thành thế tựa
lưng vào sông mà đánh. Các hàng quân phía trước của quân Mông Cổ với
nhiều binh lính người Đại Lý chịu tổn thất nặng nề trước sức mạnh càng
lướt của tượng binh Đại Việt. Kỵ binh Mông Cổ xông lên giáp chiến cũng
không chống nổi voi. Binh lính Đại Việt ở trên lưng voi dùng cung tên
bắn và dùng kích, câu liêm để đánh giết kỵ binh Mông Cổ, hỗ trợ đắc lực
cho bộ binh Đại Việt tấn công trực diện vào chân và bụng ngựa các vũ khí
như gươm, đao, rìu, giáo, kích … Không giáp chiến được với tượng binh,
kỵ binh Mông Cổ chọn các cụm bộ binh và kỵ binh Đại Việt mà xông vào,
rồi di chuyển xung quanh tượng binh mà bắn tên. Với chiến thuật này thì
kỵ binh Mông Cổ mới chứng tỏ được sự vượt trội của mình. Thế trận dằn co
bất phân thắng bại.
Cánh trung quân Mông Cổ giao chiến
với tiền quân Đại Việt không lâu thì hậu quân Mông Cổ vượt sông vừa sang
tới. Cánh quân này có nhiều tay kỵ cung thiện xạ. A Truật cho quân nhắm
vào vòi và mắt voi mà bắn tên tới tấp, lại nhắm bắn vào quản tượng.
Cung tên Mông Cổ bắn nhanh, xa và rất chính xác dù người bắn cung cùng
ngựa chiến di chuyển liên tục. Dẫu cho tượng binh Đại Việt đều có chở
lính bắn tên trên lưng voi, có lợi thế bắn tên từ trên cao nhưng số
lượng rất hạn chế. Vài trăm thớt voi thì cũng chỉ có khoảng ngàn tay
cung, không đấu cung tên nổi với kỵ cung Mông Cổ. Nhiều voi chiến bị
trúng tên vào chỗ yếu huyệt như mắt, vòi. Voi đau đớn, hoảng sợ quay đầu
chạy loạn, giẫm cả vào người ngựa quân Đại Việt. Trận thế của ta do vậy
mà lộ ra sơ hở, quân Mông Cổ chớp lấy cơ hội, theo đường voi chạy mà
đánh thọc sâu vào trận tuyến Đại Việt. Quân ta kiên cường chống trả, gây
cho địch khá nhiều thiệt hại.
Tuy vậy, kỵ binh Mông Cổ dần chiếm
thế chủ động nhờ giáp tốt, ngựa khỏe và di chuyển nhanh. Địa hình Bình
Lệ Nguyên lại khá bằng phẳng, nền đất cứng, thuận lợi cho kỵ binh thảo
nguyên thi thố hết sở trường. Quân Mông Cổ dùng chiến thuật chia cắt và
diệt từng cụm một, khiến cho quân Đại Việt thiệt hại nhiều mà không thể
chặn được đà tiến của địch. Chẳng mấy chốc, những tên lính Mông Cổ đã
tràn tới giao chiến với quân hộ vệ của vua Trần Thái Tông. Vua lúc này
đang quan chiến và điều tiết trận đánh, thấy vậy bèn tuốt gươm xông lên,
cùng quân sĩ lăn xả giết địch, khí thế quân Đại Việt do đó mà tăng lên
bừng bừng. Các hiệu quân tinh anh của Đại Việt cùng cả những quan chức
trong triều đều hăng hái chiến đấu cạnh nhà vua, đánh bật nhiều quân
Mông Cổ trở lại. Trận tuyến hai bên nhiều chỗ đan xen vào nhau, cuộc hỗn
chiến dữ dội vẫn tiếp diễn…
Quốc Huy
Vua chiến trường - kỵ binh và tượng binh
Kỵ binh là những gì tinh túy và ngoạn mục nhất của nghệ thuật chiến đấu thời trung cổ. Từ những bộ phim dã sử dù là bối cảnh Âu hay Á thì cảnh những chàng hiệp sĩ trên lưng ngựa khiên giáp sáng ngời, gươm tuốt trần càn lướt đội hình địch luôn thật hào hùng và hoành tráng. Vậy còn thực tế thì như thế nào ?
Kỵ Binh
Kỵ
binh (Cavaleria) ban đầu là những người lính cưỡi ngựa và chiến đấu
dưới đất khi đã tới chiến trường, sau này mới hình thành nên nghệ thuật
chiến đấu trên lưng ngựa và trở thành những kỵ binh đúng nghĩa.Có thể
nói điều này đã xuất hiện rất sớm và được mô tả trên những bức phù điêu
trong cung điện các vị vua xứ Babylon, của người Celtic hay từ nền văn
minh Tây Á cổ. Chứng tỏ một điều, con người sử dụng ngựa trong việc
chiến đấu đã xuất hiện cách đây ít nhất đầu thiên niên kỉ thứ 1 trước
công nguyên. Người Hy Lạp và Trung Hoa là những người đã xây dựng nên
đội quân kỵ binh chính quy đầu tiên trên thế giới.
Không
chỉ dùng ngựa, các kị binh còn sử dụng hầu hết những con vật có thể
thuần hóa được và sử dụng nó như ngựa chiến. Điển hình là lạc đà và voi.
Trường hợp sử dụng chiến xa ngựa kéo như người Hy lạp và Ai cập cũng có
thể tính là kỵ binh ( Chariot ).
Trong
những bức tranh Trung Cận Đông mô tả cảnh những chú lạc đà sánh bước
cùng ngựa chiến trong những binh đoàn đa sắc tộc. Thậm chí cho đến hiện
tại vẫn còn những binh đoàn lạc đà vẫn còn tồn tại ở vùng Saudia Arabia.
Luận về tốc độ lạc đà không bằng ngựa nhưng chúng lại được huấn luyện
tốt để thích ứng với điều kiện chiến đấu trên sa mạc khô cằn. Sức chiu
đựng của lạc đà cũng tốt hơn ngựa khá nhiều.
Về
loài ngựa thì sự tồn tại của nó có lẽ quyết định cho sự phát triển của
cả một đế chế, thậm chí là thay đổi lại toàn bộ lịch sử thế giới. Người
Mông Cổ là một ví dụ điển hình.
Ban
đầu người Mông Cổ chỉ là nhóm những bộ tộc đơn lẻ sinh sống trên vùng
thảo nguyên bán sa mạc. Những cư dân thảo nguyên này còn khá hoang dã và
thiểu số, họ sinh sống bằng cách chăn thả súc vật trên đồng cỏ và hoàn
toàn không biết gì về nông nghiệp. Vào đầu thế kỉ XI, vùng đất bán sa
mạc Trung Á khí hậu bỗng trở nên tốt hơn. Mưa nhiều khiến cỏ trở nên
cao và dày hơn, điều này thúc đẩy sự phát triển của 5 loài gia súc :
ngựa, cừu, dê, lạc đà và bò của người Mông Cổ. Thức ăn cũng phong phú
hơn theo đó cư dân thảo nguyên cũng tăng dần.
Và
rồi điều gì cần đến cũng phải đến, cuối thế kỷ XII nơi đó đã hình thành
một đạo quân khổng lồ mà Thành Cát Tư Hãn đã dẫn đầu vào các chiến dịch
chinh phạt. Đạo quân đó gồm các đội kỵ binh với hàng chục ngàn kỵ sĩ.
Ngựa Mông Cổ thấp bé, song rất khỏe, đặc biệt dai sức và dễ nuôi. Hơn
thế nữa, trong những cuộc chinh phạt dài ngày, những chiến binh Mông Cổ
mệt mỏi vì đói và khát có thể dùng dao khoét lỗ nhỏ trên cổ con ngựa và
uống máu nóng của nó. Những trận chiến của họ chủ yếu là để cướp bóc và
đốt phá một cách tàn bạo, rất ít có sự chống trả.
Những trận đánh theo phong cách lấy thịt đè người của người Mông Cổ
Nói
một cách đơn giản chính những trận mưa trên vùng Trung Á đã tạo ra một
đạo quân khát máu bậc nhất thế giới khiến cả Châu Âu và Châu Á phải run
sợ. Tuy nhiên đạo kỵ binh tàn bạo này lại bị chặn đứng tại Việt Nam
không chỉ bởi chiến thuật quân sự điêu luyện của các danh tướng nước ta
mà còn gặp phải những điều kiện chiến đấu khác lạ của đất nước nhiệt đới
xa xôi này. Đó chính là tượng binh.
Tượng binh
Tượng
binh ( voi chiến ) là một lực lượng đặc biệt hiếm khi sử dụng trong các
trận chiến nhưng khi đã sử dụng thường rất hiệu quả. Trong suốt thời kì
cổ đại cho đến trung cổ, tượng binh không được phát triển ở Châu Âu
nhưng ở vùng Trung Á và Châu Á thì lực lượng tượng binh khá phát triển.
Có lẽ một phần là do phương Đông có mối trường thích hợp cho loài voi
sinh trưởng . Tượng binh thực sự rất mạnh mẽ, có thể coi là những cỗ xe
tăng càn quét chiến trường dù với số lượng ít ỏi.
Tuy
nhiên không phải trận chiến nào cũng thích hợp sử dụng tượng binh.
Tượng binh chỉ thích hợp khi đối mặt với một lực lượng đông đảo quân
địch ở vị trí thoáng rộng hơn là đuổi theo những tên lính lẻ tẻ ở nơi có
địa hình phức tạp. Voi rất khỏe và hung dữ, ngay cả những lực lượng
hùng mạnh như đội hình Phalanx cũng khó mà đối đầu nổi. Vì loài voi có
hình thể khổng lồ nên chỉ cần dẫm đạp càn qua là có thể phá vỡ bất kì
đội hình hay thế trận tác chiến nào. Da voi cũng đủ dày để chống lại các
loại cung tên, giáo mác nếu lực đâm không quá mạnh. Người Ấn Độ trước
mỗi trận chiến thường cho voi uống rượu khiến nó trở nên hung bạo và
đáng sợ hơn rất nhiều. Đối mặt với tượng binh thì hầu hết các đạo quân
đều mất hết sĩ khí, tinh thần và nhanh chóng rơi vào tình trạng hoảng
sợ.
Từ
thời cổ xưa ở Bắc Phi và Ấn Độ đã có tượng binh. Mọi người đều biết
rằng vào thế kỷ III trước công nguyên, vị tướng kiệt xuất Hannibal (
được mệnh danh là cha đẻ của chiến thuật đánh trận) chỉ huy quân đội
Carthage (một quốc gia ở Bắc Phi) đã đập tan những đạo quân La Mã nhờ sự
trợ giúp của những con voi chiến. Ngoài ra, theo như truyền thuyết kể
lại, Hannibal không cần cử quân trinh sát địch, bởi những chú voi cách
xa hàng chục cây số đã ngửi được mùi của quân lính La Mã. Ấy là do người
La Mã thường bỏ vào thức ăn của mình rất nhiều hành. Voi bắt mùi hành
rất nhạy. Thế nhưng khi ở trên núi cao có tuyết rơi và thời tiết giá
lạnh, những chú voi chiến của Hannibal đã chết.
Ở
Việt Nam, voi chiến đã thể hiện ưu thế khi đối đầu với kỵ binh Mông Cổ
và những đạo quân khác. Vào thế kỉ 17, riêng chuồng voi ở kinh đô Thăng
Long có trên 200 con, nếu tổng huy động có thể lên đến 2000 thớt voi
trận cho một trận chiến. Đây là một lực lượng hùng mạnh và ghê gớm, có
khả năng phá vỡ trận địa quân địch trên phạm vi rộng, gây kinh hoàng
trong hàng ngũ địch. Trong những trận chiến của vị tướng vĩ đại Quang
Trung, đại pháo đã được đặt trên lưng voi chiến và biến nó thành một
chiếc xe tăng đúng nghĩa, điển hình là trận đánh thành Ngọc Hồi làm quân
Mãn Thanh phải kinh hoàng khiếp đảm.Tượng binh không phải cánh quân chủ
lực của Đại Việt nhưng thực tế cho thấy voi đã được huấn luyện và sử
dụng chiến đấu ở nước ta ít nhất là từ thời Hai Bà Trưng ( khoảng năm 40
sau công nguyên).
Hai Bà Trưng trên lưng chiến tượng
Ý nghĩa và chiến thuật của Kỵ binh
Kỵ binh có thể chia làm 2 loại chính : Trọng kỵ ( thiết kỵ binh – Heavy Cavalry ) và Khinh kỵ ( Light Cavalry )
-
Trọng kỵ binh là lực lượng binh chủng được trang bị giáp nặng cho cả
người và ngựa. Những bộ giáp này cực kì chắc chắn và có khả năng bảo vệ
kị sĩ rất tốt cho dù là đối mặt với bộ binh hay cung thủ. Về sau các kị
sĩ còn được trang bị thêm khiên để chống lại trường thương (pikemen –
sinh ra để counter kỵ binh ) . Kỵ binh nặng đóng vai trò là tiền quân,
tiên phong thường xung phong chọc thẳng vào trung quân địch với một đội
hình rất quy củ. Với bộ giáp dày và nặng cộng thêm quán tính từ tốc độ
chạy của ngựa, những cú húc kiểu này làm tan vỡ đội hình đối phương một
cách mau chóng.
Những hiệp sĩ thập tự chinh với cú Charge tê giác húc
Thời
kỳ của các hiệp sĩ Thập tự chinh có chiến thuật dành cho các kỵ binh
rất nổi tiếng: họ sử dụng giáo dài lao thẳng ( Charge ) vào đội hình
quân địch, bẻ gẫy xương sống của các cánh quân một cách nhanh chóng.
Những con ngựa có tốc độ cực nhanh hỗ trợ cho giáo dài có khi lên đến 5
mét xọc thẳng vào trung quân của địch rồi mau chóng tản ra 2 cánh chuẩn
bị cho cuộc Charge tiếp theo. Trong khi đó đội hình kỵ binh phía sau
tiếp tục tấn công vào đúng vị trí đó dần dần xé lẻ thế trận quân địch .
Các tài liệu xưa ghi lại rằng những cuộc xung phong của những hiệp sĩ
Thập tự chinh kiểu này là không thể ngăn chặn được.
Thiết kỵ binh Mông Cổ và tư trang
Chiến
thuật dành cho trọng kỵ binh cũng rất phong phú dựa trên đặc điểm là sự
linh hoạt và mạnh mẽ . Ở phương Đông lại thịnh hành loại thiết kỵ khải
mã ( Cataphract ) , họ sử dụng loại giáp xích ( Chainmail armour ) cho
cả kị sĩ lẫn ngựa. Loại giáp này nhẹ hơn loại trọng giáp mà các kỵ sĩ
Châu Âu mặc nên họ có thể sử dụng nhiều loại vũ khí một cách linh hoạt
hơn, từ rìu chiến, đơn thủ kiếm, chùy và đặc biệt là cung nỏ. Từ đó hình
thành nên lối những lối đánh cực kì đa dạng của kị binh Catapharact
khiến cho người La Mã bó tay và khiếp sợ suốt một thời gian dài.
Một Catapharact với giáp trụ chắc chắn cho cả ngựa
-
Khinh kỵ binh: khinh kỵ là đội quân cưỡi ngựa nhỏ, chạy nhanh và dẻo
dai. Kỵ sĩ được trang bị nhẹ với vũ khí chủ yếu là kiếm, gươm và khiên.
Khinh kỵ đặc biệt thích hợp cho những chiến thuật mang tính lưu động,
đánh chặn sườn, quấy rối, đánh úp,do thám, truy đuổi và rút lui trong
khoảng khắc.
Đạo khinh kỵ có cánh bất bại Winged Hussar của Balan
Quân
đội Mông Cổ là một ví dụ điển hình cho lối đánh của khinh kỵ ( mặc dù
họ cũng có rất nhiều trọng kỵ ). Sử sách ghi lại rằng: “ trăm quân kỵ
tản ra có thể vây bọc vạn người, nghìn quân kỵ tản ra có thể dài đến
trăm dặm. Khi thắng quân đến nhanh như từ trên trời rơi xuống, khi thua
quân rút nhanh như chớp vậy “ . Tất cả đều nói lên sự linh hoạt đến đáng
sợ của khinh kỵ Mông Cổ.
Thế hồi mã cung ưa thích của kỵ binh Mông Cổ
Trong
trận chiến ở Wahlstadt quân Mông Cổ đã làm cho người Châu Âu bối rối vì
kẻ địch bỗng nhiên xuất hiện ở khắp nơi và chẳng có đội hình nào cụ
thể. Họ di chuyển lung tung không có kèn trận hay reo hò như các trận
chiến ở Châu Âu mà các mệnh lệnh được truyền đạt bằng quân kì. Thậm chí
ngay cả khi trận chiến đã bắt đầu người Châu Âu cũng không thể nắm rõ
quân số chính xác của đội quân Mông Cổ mình đang đối đầu.
Hiệp sĩ Giéc manh vs kỵ binh Mông Cổ
Người
Mông Cổ rất thành thạo trong nghệ thuật bao vây nhưng một sự thật là họ
rất ngại đối đầu trực tiếp mà thường sử dụng cung tên khi đang trên
lưng ngựa. Việc vừa phi ngựa với tốc độ cao vừa bắn tên hay xoay người
bắn ngược chính xác vào kẻ thù đang truy đuổi là việc bất kì kỵ binh
Mông Cổ nào cũng có thể làm được.
Vũ khí của các kỵ binh cũng rất đa dạng. Từ kiếm, cung, chùy chiến, rìu chiến, thương dài, đao dài đến các loại chùy xích …
Phần tiếp theo sẽ nói về top
10 đạo kỵ binh mạnh nhất trong lịch sử thế giới. Vậy chiến thuật, phong cách
hay lý tưởng chiến đấu là thứ đem lại sức mạnh vô địch cho họ. Hãy tìm lời giả
ở phần sau.
Thứ Hai, 02/12/2013 13:26 | |
Trải qua hàng trăm năm với bao biến thiên lịch sử, đến nay, cố đô Huế vẫn còn lưu giữ được những vết tích của một đấu trường độc nhất vô nhị trên thế giới - đấu trường Hổ quyền, đây không chỉ là nơi từng diễn ra những trận quyết chiến đẫm máu giữa hai loài voi - hổ, mà còn là cuộc thị uy quyền lực tuyệt đối của triều đại nhà Nguyễn. |
Tượng
binh (voi chiến) là một lực lượng đặc biệt, hiếm khi sử dụng trong các
trận chiến nhưng một khi đã sử dụng thường rất hiệu quả. Những đội Tượng
binh thực sự rất mạnh mẽ, được xem là những "cỗ xe tăng" càn quét mọi
chiến trường... Để xây dựng được một đội tượng binh hùng mạnh có nhiều
phương pháp, nhưng cái cách mà nhà Nguyễn sử dụng để huấn luyện voi
chiến đã khiến cho cả thế giới phải ngả mũ kính phục.
Chiến thần hay những “cỗ xe tăng” cổ đại Tượng binh là một lực lượng đặc biệt, có sức công phá vô cùng khủng khiếp trên chiến trường, tuy nhiên không phải trận chiến nào cũng thích hợp sử dụng tượng binh. Tượng binh chỉ thích hợp khi đối mặt với một lực lượng đông đảo quân địch ở vị trí thoáng rộng hơn là đuổi theo những tên lính lẻ tẻ ở nơi có địa hình phức tạp. Voi chiến rất khỏe và hung dữ, chỉ cần dùng thân hình khổng lồ của mình càn qua giẫm đạp là có thể phá vỡ bất kỳ đội hình hay thế trận tác chiến nào. Da voi cũng đủ dày để chống lại các loại cung tên, giáo mác nếu lực đâm không quá mạnh. Đối mặt với tượng binh thì hầu hết các đạo quân đều mất hết sỹ khí, tinh thần và nhanh chóng rơi vào tình trạng hoảng sợ. Ở Việt Nam, Tượng binh không phải cánh quân chủ lực của Đại Việt nhưng thực tế cho thấy voi đã được huấn luyện và sử dụng chiến đấu ở nước ta ít nhất là từ thời Hai Bà Trưng (khoảng năm 40 sau công nguyên). Những năm sau đó, voi chiến đã thể hiện ưu thế khi đối đầu với kỵ binh Mông Cổ và những đạo quân khác. Đặc biệt, vào thế kỷ 17, riêng chuồng voi ở kinh đô Thăng Long có trên 200 con. Nếu tổng huy động voi chiến trên toàn quốc có thể lên đến 2.000 con voi trận cho một trận chiến. Đây là một lực lượng hùng mạnh và ghê gớm, có khả năng phá vỡ trận địa quân địch trên phạm vi rộng, gây kinh hoàng trong hàng ngũ địch. Trong những trận chiến của vị tướng vĩ đại Quang Trung, đại pháo đã được đặt trên lưng voi chiến và biến nó thành một chiếc xe tăng đúng nghĩa, điển hình là trận đánh thành Ngọc Hồi làm quân Mãn Thanh phải kinh hoàng khiếp đảm. Khi hình thái chiến tranh hiện đại bắt đầu, voi chiến trở nên lỗi thời trước sức mạnh của đại bác. Tuy nhiên, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục huấn luyện voi chiến trong đội cấm binh của quân đội. Các vua Triều Nguyễn cũng được xem là những tín đồ "sùng" voi chiến bậc nhất. Bằng chứng là không chỉ dành nhiều "ưu ái" cho voi trên chiến trường mà ngay sau khi thống nhất giang sơn, lên ngôi hoàng đế, vua Gia Long đã cho xây dựng Long Châu Miếu (hay còn gọi là Điện Voi Ré) để thờ bốn con voi dũng cảm nhất trong đội tượng binh nhà Nguyễn. Đây là những con voi đã từng "vào sinh, ra tử" lập nhiều công lớn giúp vua Gia Long thống nhất đất nước. Hiện nay, vẫn còn có bốn bài vị đề tên và tước hiệu được vua Gia Long phong cho bốn con voi lập nhiều công trạng gồm: Đô Đốc Hùng Tượng Ré; Đô Đốc Hùng Tượng Bích; Đô Đốc Hùng Tượng Nhĩ và Đô Đốc Hùng Tượng Bôn được đặt trong miếu Long Châu. Những cuộc săn lùng “chúa tể rừng xanh” Các triều đại nhà Nguyễn đã tốn không ít công sức và tiền của, thậm chí đổi cả bằng máu để xây dựng nên một đội tượng binh hùng mạnh, thiện chiến bậc nhất trong lịch sử. Một trong những chính sách mà triều Nguyễn áp dụng thành công nhất, đó chính là dùng tiền làm "hoa mắt" các phường thợ săn, khiến họ bất chấp hiểm nguy quyết chí "bán mạng" vào rừng săn hổ dữ về dâng lên vua lĩnh tiền thưởng. Để hợp thức hoá kế hoạch này, nhà Nguyễn đã khéo léo lồng ghép việc này vào chính sách ban thưởng cho quân, dân diệt trừ được nạn thú dữ. Chuyện ban thưởng cho những quân dân diệt trừ được thú dữ có từ thời vua Gia Long. Năm 1804, năm Gia Long thứ ba, trước nạn thú dữ hoành hành ở nhiều địa phương, vua ban lệ cho các thành, doanh, trấn, đạo, đặc biệt lưu ý đến phàm dân ở chân núi có ác thú ra sức đặt bẫy bắt hổ dữ mỗi con được thưởng 30 quan tiền. Đến triều Minh Mạng, mức thưởng cho những ai diệt được hổ được triều đình gia tăng, chỉ riêng số tiền thưởng cho mỗi đuôi hổ đã là 10 quan. Tuy nhiên, thấy việc kêu gọi nhân dân săn bắt hổ không mấy hiệu quả nên vua Minh Mạng đưa ra quyết sách thứ hai: "Vì dân trừ hại là trách nhiệm của quan binh". Trên cơ sở đó, vua ban dụ cho khắp Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính, Án sát các trực tỉnh nếu nghe hạt mình có tin báo về hổ làm hại phải đem binh săn bắt hoặc phái một viên quản vệ quản cơ đến hiệp đồng với viên phủ huyện sở tại đặt cách săn hổ. Trước nghiêm lệnh ấy của đấng chí tôn, phong trào diệt thú dữ diễn ra rộng khắp địa phương nên từ năm Minh Mạng thứ 9 đến năm thứ 19 (1838), nạn thú dữ càn quấy tạm lắng, thiên tử chẳng phải nhọc tâm ban chỉ dụ kêu gọi, đốc thúc quan binh phải nỗ lực tiêu diệt thú hoang hung dữ như mọi năm. Thế nhưng đến năm Minh Mạng thứ 20 (1839), tình hình nghiêm trọng trở lại và vua Minh Mạng lại ban dụ lệnh cho Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính, Án sát ở các hạt từ Quảng Bình trở vào Nam nơi nào có nhiều vết qua lại của hổ dữ thì quan tỉnh ấy phải thân hành đem quân, hoặc phái lãnh binh, hoặc phái một viên quản vệ tới hiệp đồng với viên phủ huyện ra sức bắt giết. Bỏ mạng giữa đại ngàn Năm Minh Mạng thứ 21, khi hay tin hạt Thừa Thiên (gần kinh thành) lâu nay thú dữ mất tích bỗng dưng xuất hiện vết hổ ra vào, vua Minh Mạng liền phái phó vệ úy Võng Thành đem đến 300 biền binh đi truy lùng hổ dữ với tiền thưởng cao ngất ngưởng, mỗi đuôi hổ được thưởng 30 quan, cao gấp 3 lần phần thưởng năm Minh Mạng thứ 18. Và để tránh việc đang yên lành nay thú dữ xuất hiện, theo lệnh vua, các tỉnh nổi tiếng về nạn thú dữ hoành hành gồm Phú Yên, Bình Thuận, Khánh Hòa mỗi tháng một lần hoặc vài tháng một lần thường thay phiên nhau đem biền binh tới các rừng rú thuộc hạt săn bắn rộng rãi nhằm xua hết thú dữ để trừ hại cho dân. Như những lần ban dụ khác, lần này thiên tử cũng lưu ý: "Nếu coi thường không quan tâm để săn thú rừng, làm cho dân phải lo, trở ngại cho đường ngựa trạm hoặc đến chậm trễ thì chỉ hỏi tội quan tỉnh ấy". Vào thời vua Thành Thái, lệ thưởng cho người bắt được cọp rất cao: "Lệ trước bắt được một con cọp chỉ thưởng 30 - 40 quan, nay chuẩn trở đi phàm xã dân bắt được cọp bất kể đường sá xa gần đều cho đem móng, đuôi và bộ da trình nạp, ai bắt được một con cọp thưởng 100 quan". Trong suốt thời gian này, những cuộc săn lùng mãnh hổ đã diễn ra vô cùng khốc liệt, vô số thợ săn và binh lính đã phải bỏ mạng giữa đại ngàn. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều mãnh hổ bị giết và bắt sống. Những con hổ bị bắt sống được bí mật đưa về kinh thành, cắt hết móng vuốt, nhốt trong chuồng sắt, chờ ngày hội lớn sẽ đem ra hiến tế, làm "địch thủ" cho đội tượng binh hoàng gia giày xéo... Vùng đất thiêng của voi chiến Ông Phan Thanh Hải (Giám đốc Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế) cho biết, Điện Voi Ré nằm trong quần thể di tích Cố đô được công nhận là Di sản Văn hóa thế giới năm 1993 và được Nhà nước công nhận là Di tích văn hóa cấp quốc gia năm 1998. Nguyên tại vị trí xây dựng Miếu Long Châu, trước đây đã có mộ một con voi thời các chúa Nguyễn gọi là mộ Voi Ré. Truyền thuyết về mộ Voi Ré được lưu truyền trong dân gian xứ Huế như sau: Trong cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh, có một dũng tướng nhà Nguyễn cưỡi voi chiến đấu với quân Trịnh bị tử trận, con voi thương tiếc chủ đã chạy về phía nam Đồi Thọ Cương rống lên thảm thiết và chết. Người dân trong vùng đắp mộ cho con voi trung liệt ấy và gọi là mộ Voi Ré. Vì thế, sau khi thống nhất được đất nước, vua Gia Long quyết định xây Long Châu Miếu ngay tại vị trí mộ Voi Ré như là đất đắc địa mà loài voi đã chọn, nên dân gian gọi là Điện Voi Ré. |
|
nguoiduatin.vn |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét