Thứ Ba, 21 tháng 2, 2017

CÂU CHUYỆN VỤ ÁN 98

(ĐC sưu tầm trên NET)

                                                        Nghịch tử bất nhân giết hại bố mẹ ruột

Siêu lừa trong giới tài chính Mỹ (Kỳ 1)

SoInHideNida
08-18-2014, 05:43 PM
Những chiêu trò lừa đảo của Frankel bắt đầu từ một thị trấn nhỏ ở Toledo, Ohio cho đến Vatican lộng lẫy, nơi có những mái vòm mạ vàng.

[Only registered and activated users can see links]
Martin Frankel

Một kẻ lập dị, tiêu tiền như những triệu phú, luôn được vây quanh bởi những người phụ nữ xinh đẹp chính là kẻ chủ mưu trong vụ lừa đảo nổi tiếng với số tiền lên đến 200 nghìn đô la Mỹ. Những gian lận tài chính của hắn là một trong những vụ biển thủ lớn nhất trong lịch sử, làm “rung chuyển” ngành bảo hiểm và đầu từ tài chính nước Mỹ. Những chiêu trò lừa đảo của hắn bắt đầu từ một thị trấn “khiêm tốn” ở Toledo, Ohio cho đến Vatican lộng lẫy, nơi có những mái vòm mạ vàng.

Tại căn phòng lớn nhất, sang trọng nhất của khách sạn Prem ở Humburg, nhân viên tư vấn tài chính Martin Frankel và nữ đồng nghiệp của mình, Cindy Allison ngồi trò chuyện với nhau. Họ vừa kết thúc bữa tối xa xỉ tại nhà hàng La Mer, nhà hàng nổi tiếng bên trong khách sạn Prem.

Trong tay nắm giữ những viên kim cương đáng giá hàng triệu đô và gần 200 nghìn đô tiền mặt của khách hàng, Frankel sẵn sàng chi trả cho những khách sạn sang trọng để có thể thoái mái suy nghĩ tìm cách chiếm đoạt chúng.

Khoảng 23h, có tiếng động nhẹ ở cửa, ai đó đang cồ gắng xoay tay cửa.

Frankel quay sag hỏi Cindy, “Cô có nghĩ là có người đang đến bắt tôi không?”, Cindy đáp lại với thái độ bình thản, “Làm gì có chuyện đó.”

Cindy vừa dứt lời thì cánh cửa mở tung, hai cảnh sát người Đức ập vào với súng trên tay. Họ nhanh chóng khống chế Frankel và Cindy. Frankel, kẻ làm rung chuyển ngành bảo hiểm và đầu tư tài chính Mỹ đã bị bắt sau một thời gian bị truy nã.

[Only registered and activated users can see links]
Khách sạn Prem

“Marty” Frankel sinh ngày 21/11/1954, là con thứ hai của thẩm phán nổi tiếng ở Lucas, Leon Frankel.

Marty là một học sinh xuất sắc trong suốt những năm bắt đầu đi học. Marty nghĩ rằng, việc học giỏi hơn tất cả các bạn trong lớp là cách tốt nhất để mọi người yêu mến và tin tưởng mình. Tuy nhiên, suy nghĩ đó của Marty không duy trì được lâu. Marty dần lơ là việc học, thay vì hoàn thành bài tập về nhà được giao, Marty chỉ quan tâm đến việc bịa một lý do hợp lý để tránh bị phạt. Việc phải làm những bài kiểm tra là nỗi ám ảnh của Marty.

Khi theo học tại Đại học Toledo, Marty bắt đầu có những dấu hiện của chứng rối loạn thần kinh. Hết năm thứ hai, Marty thôi học tại đây. Cha của Marty cho rằng việc học của Marty là thất bại thảm hại của ông.

Sau khi bỏ Toledo, Marty bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực buôn bán bất động sản và có tham gia một vài vụ nhưng không thành công. Marty chuyển sang thị trường chứng khoán. Marty nghĩ chỉ có thị trường tài chính, chứng khoáng mới có thể khiến mình giàu lên nhanh chóng. Marty bị ám ảnh về việc kiếm thật nhiều tiền.

Mặc dù đang sống dựa vào gia đình, nhưng Marty bắt đầu làm quen với những thú tiêu tiền của người giàu. Theo Marty, đó là cách tốt nhất để bước vào thế giới của họ. Marty thần tượng những tên tuổi nổi tiếng của chứng khoán phố Wall như Michael Miliken, Ivan Boesky và thích thú với những câu chuyện về huyền thoại Robert Vesco, chuyên gia lừa đảo với những phi vụ lừa đảo lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ với số tiền lên đế hàng trăm triệu đô la.

Giữa những năm 1980, Frankel quyết định đưa những kiến thức mình có được vào thực tế.

Frankel bắt đầu tiếp cận một công ty chứng khoán nhỏ ở Toledo, công ty này có quan hệ mật thiết với công ty Dominick & Dominick ở New York, do John Schulte và vợ ông, Sonia làm chủ. John Schulte và Sonia là những chuyên gia bất động sản có tiếng.

Dưới chiêu bài là khách hàng của Sonia, Marty tìm cách tiếp cận và tìm hiểu những kế hoạch của công ty. Marty dành nhiều thời gian nói chuyện với Sonia về các chiến lược kinh doanh, môi giới và cả những căng thẳng trong cuộc hôn nhân giữa Sonia và John.

Marty thực sự gây ấn tượng với Sonia và John về kiến thức thị trường của mình. Marty khẳng định mình luôn thành công khi tư vấn đầu tư cổ phiếu cho bất kì khách hàng nào. Tháng 1/1986, John thuê Marty là làm chuyên viên tư vấn cho công ty của mình.

Chỉ sau một thời gian ngắn, John bắt đầu nhận ra sai lầm trong việc thuê Marty. Cảm thấy mình tài giỏi hơn mọi người, Marty luôn tự quyết mọi chuyện và không tuân thủ theo những quy định của công ty. Tệ hơn, John chưa thấy được hiệu quả Marty mang lại cho mình. Theo John, “Marty không biết cách làm thực tế, chỉ giỏi lý thuyết.”

Ted Bitter, một người bạn của John sau khi nghe Marty tư vấn và vạch định các chiến lược đầu tư của công ty, đã tin tưởng giao cho Marty toàn bộ số tiền tiết kiệm được. John đã kịp thời phát hiện Marty có âm mưu chiếm đoạt số tiền đó và ngay lập tức sa thải Marty. John nghĩ rằng mình đã kịp thời ngăn chặn được những ý đồ của Marty, nhưng ông không biết Marty đã nhiều lần bí mật giao dịch với Dominick & Dominick ở New York. Những thiệt hại Marty thực sự gây ra cho công ty của John còn lớn hơn thế.
Siêu lừa trong giới tài chính Mỹ (Kỳ 2)

SoInHideNida
08-18-2014, 05:44 PM
Bên cạnh việc mở rộng kinh doanh, Frankel tạo cho mình một lối sống xa hoa. Một số tiền lớn đã bị lạm dụng cho những nhu cầu cá nhân của hắn.

[Only registered and activated users can see links]
Marty Frankel hồi học trung học

John Schulte đã sai lầm khi coi Marty là nhân viên chủ chốt cho công ty mình. Marty vượt quyền hạn, tự ý quyết định nhiều chuyện và có ý đồ lừa đảo. John đã quyết định sa thải Marty.

Thời gian làm việc cho John, Marty đã có được một số khách hàng riêng, hắn bắt đầu những kế hoạch mới và chuyển ra ở riêng.

Với tài ăn nói của mình, Marty đã thành công trong việc thuyết phục được người đứng đầu La Salle, một công ty chứng khoán có tiếng ở Chicago bổ nhiệm mình là đại diện cho họ tại văn phòng ở Toledo.

Marty thành lập công ty Winthrop Capital, hoạt động như một chi nhánh của La Salle. Không lâu sau khi mở công ty riêng, Marty đã bí mật ký nhiều hợp đồng riêng với khách hàng với âm mưu chiếm dụng số tiền đầu tư.

Là một phần của La Sabelle, Marty công khai quảng cáo cho công ty mình trên các trang quảng cáo có tiếng, tự nhận công ty mình là công ty môi giới bảo hiểm có quy mô lớn hoạt động độc lập.

Năm 1986, cơ hội lớn đến với Marty từ một khách hàng mà Marty quen được khi làm việc với John. Sau khi nghe Marty tư vấn và hứa hẹn, Douglas Maxwell, một doanh nhân có tiếng đã đồng ý hợp tác với Marty để thành lập Quỹ Frankel, một quỹ hợp tác đầu tư. Các thành viên góp vốn phải đầu tư ít nhất 50 nghìn đô la. Với mối quan hệ rộng của mình, Maxwell sẽ cung cấp cho Marty một danh sách dài những khách hàng tiềm năng, đó là bạn bè giàu có và thậm chí cả những người thân của Maxwell.

Marty chuyển đến Palm Beach, Florida để dễ dàng tiếp cận với những nhà đầu tiềm năng.

Quỹ Frankel hoạt động không hiệu quả dưới sự lãnh đạo của Marty. Điều này khiến Maxwell rất thất vọng. Những khoản đầu tư vào quỹ chỉ nhằm mục đích xoay vòng những khoản chiếm dụng của Marty đối với khách hàng.

Trên tạp chí Phố Wall, John Creamer, một trong những luật sư đại diện cho Frankel cho biết, “Frankel không phải là một thiên tài, cũng không phải là một chuyên viên tư vấn tài chính.”

Năm 1991, sau những thất bại của Quỹ Frankel, Ủy ban Chứng khoáng và Hối đoái (SEC) đã ra quyết định cấm Frankel hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán.

SEC đã không có nhiều thời gian điều tra về những sai phạm của Frankel nhưng họ biết Frankel sẽ là một trong những mối đe dọa lớn đối với lĩnh vực đầu tư tài chính trong tương lai.

Người hỗ trợ Frankel quản lý Quỹ Frankel chính là Sonia. Thời gian này, Sonia đã đệ đơn ly dị với John Schulte.

Sau những khó khăn ban đầu, Frankel bắt đầu tự nghiên cứu, tìm hiểu về việc tạo ra những công ty nhỏ, các tài khoản ở nước ngoài, và cả hoạt động rửa tiền.

Cũng trong năm 1991, Frankel hợp tác với John Hackney, một doanh nhân ở Tennessee nổi tiếng trong lĩnh vực ngân hàng. Frankel thành lập công ty Thunor Trust, John Hackney trở thành người đại diện duy nhất của Thunor Trust.

Mục tiêu của Thunor Trust là mua lại những công ty bảo hiểm đang gặp khó khăn về tài chính với giá rất thấp. Frankel tập trung vào những công ty này bởi các công ty bảo hiểm này thường có số trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp được đánh giá cao.

Frankel đã lên kế hoạch cho hàng triệu đô la dự trữ và hắn tin rằng có thể sử dụng chúng hiệu quả mà mà không gây sự chú ý của cơ quan quản lý nhà nước.

Đồng nghĩa với việc mở rộng kinh doanh, Frankel đã tạo cho mình một lối sống xa hoa. Một số tiền lớn đã bị lạm dụng cho những nhu cầu cá nhân của hắn.

Công ty bảo hiểm đầu tiên được mua lại là công ty bảo hiểm Mỹ Franklin. Điều này gúp cho Thunor Trust có quyền sở hữu gần 20 triệu đô la cổ phiếu của công ty này. Frankel có được nhiều tiền để sử dụng cho mục đích cá nhân mà vẫn qua mặt được các nhà quản lý.

Liên tiếp nhiều năm sau đó, Thunor Trust đã mua được một số công ty bảo hiểm nhỏ ở các tiểu bang miền Nam và Oklahoma với giá rất thấp. Đến cuối năm 1998, Thunor Trust tuyên bố tài sản của họ lên đến 434 triệu đô la Mỹ.

Frankel đã thành công trong kế hoạch của mình nhưng hắn vẫn chưa hài lòng. Trong đầu hắn đang có một kế hoạch đặc biệt liên quan đến tôn giáo khi quyết định thành lập một tổ chức từ thiện.
Siêu lừa trong giới tài chính Mỹ (Kỳ 3)

SoInHideNida
08-18-2014, 05:45 PM
Marty nghĩ rằng sẽ dàng hơn cho Thunor Trust hoạt động nếu nó liên quan đến nhà thờ.

[Only registered and activated users can see links]
Sonia Shulte, trợ lý đắc lực của Marty

Sau khi thành công trong việc “mua bán” những công ty bảo hiểm với giá rẻ để chiếm số cổ phiếu của họ, Marty bắt đầu nghĩ đến những kế hoạch mới, trong đó có một kế hoạch đặc biệt liên quan đến nhà thờ.

Marty nghĩ rằng bằng mọi cách phải liên kết với nhà thờ để thành lập một quỹ từ thiện. Mục đích của Marty là lấy danh nghĩa nhà thờ để che đậy cho những hành vi gian lận, rửa tiền và lạm dụng nguồn vốn của các nhà đầu tư.

Marty dành nhiều thời gian để tìm kiếm người có thể giúp mình thực hiện kế hoạch này, những người đó phải liên quan và có vị trí nhất định cũng như tiếng nói trong nhà thờ. Sau hơn một tháng “lựa chọn”, Marty đã tìm được ba có thể giúp được mình là luật sư Thomas Bolan, Cha Peters Jacobs và Đức cha Emilio Colagiovanni.

Thomas Bolan là luật sư có tiếng, theo điều tra của Marty, trong danh sách bạn bè của Bolan có cả Tổng thống Ronald Reagan. Tạp chí Fortune có viết nhiều về Bolan, “Bolan là người sáng lập Đảng Bảo thủ của New York, công tố viên nổi tiếng chuyên về các vụ gian lận…”

Cha Peter Jacobs cũng là một linh mục nổi tiếng ở New York. Cha là hiện thân của tinh thần thánh Phanxico, dành cuộc sống của mình để lo cho những người nghèo và người bị áp bức trong thành phố.

Đức cha Emilio Colagiovanni là chủ tịch của một tổ chức từ thiện.

Mục đích cuối cùng của Marty là lợi dụng cả ba người này để mang lại tiền bạc cho mình. Marty mạo nhân danh tính của bạn mình là David Rosse để thuyết phục Bolan và những người khác tin rằng hắn là một người Do Thái giàu có muốn tài trợ khoảng 50 triệu đô la và có thể nhiều hơn thế vào các tổ chức từ thiện.

Để chuẩn bị tốt hơn cho kế hoạch của mình, Marty tỏ ra là người rất đạo đức. Marty tìm kiếm những cuốn sách về thánh Phanxico và xem lại nhiều lần bộ phim Franco Zefferelli về thánh Phanxico. Một thời gian sau đó, Marty đã có thể tự tin nói chuyện và cung cấp những thông tin đầy đủ về cuộc sống của vị thánh này.

Bolan, Cha Jacobs và Đức cha đều ấn tượng với kiến thức tôn giáo của Marty và việc thành lập quỹ từ thiện. Cả ba hứa sẽ giúp đỡ Marty và giới thiệu hắn với các nhà tài trợ.

Trụ sở của Tổ chức được thống nhất đặt tại Liechtenstein. 55 triệu đô la theo thỏa thuận ban đầu được “chia chác”, 50 triệu đô được chuyển vào một tài khoản môi giới của Mỹ do “David Rosse” độc quyền kiếm soát, 5 triệu đô còn lại được chuyển vào tài khoản được kiểm soát bởi các nhà từ thiện.

Người phụ nữ gắn với cuộc sống của Marty những năm đầu trưởng thành là mẹ hắn và cô em gái. Mãi cho đến năm 1986, khi làm việc cho John Schulte, Marty mới bắt đầu có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, Sonia Shulte. Mối quan hệ của hai người kéo dài cho tới tận thời điểm Marty bị bắt.

Sonia thuyết phục Marty tin rằng chính John Shulte đã lạm dụng tình dục hai cô con gái. Marty giúp Sonia đưa John ra tòa. Và cách duy nhất để hai người thoát khỏi John là chuyển khỏi Toledo càng xa càng tốt.

Mùa xuân năm 1993, Marty thuê một dinh thự lớn ở Greenwich, Connecticut để sống cùng với Sonia và hai cô con gái của cô. Hai nhân viên làm việc cho Marty là Beng Tan và Tee Sow cũng sống ở đấy.

Những chiêu trò lừa đảo của Marty sẽ đi đến đâu? Mời các bạn đón đọc Siêu lừa trong giới tài chính Mỹ (Kỳ cuối) vào SÁNG SỚM ngày 19/8/2014.
Siêu lừa trong giới tài chính Mỹ (Kỳ cuối)

SoInHideNida
08-19-2014, 06:45 AM
Marty cho rằng những nỗ lực của mình trong suốt thời gian qua là nhằm cứu thể giới đang trong những "cơn đói".

[Only registered and activated users can see links]
Martin Frankel bị cảnh sát bắt giữ

Sonia là người phụ nữ đầu tiên quan tâm đến Marty sau mẹ và em gái hắn. Marty đã không tiếc tiền thuê một dinh thự lớn đế sống cùng Sonia và hai cô con cái riêng của cô.

Khi đã thành công trong sự nghiệp lừa đảo của mình với số tiền lạm dụng lên đến nhiều triệu đô, Marty được bao quanh bởi những người phụ nữ trẻ đẹp khác. Trong mắt nhiều người, Marty là một nhà tư vấn tài chính thành công, sở hữu những căn hộ sang trọng ở New York, dinh thự ở ngoại ô Westchester và những chiếc xe hơi sang trọng.

Vera Mironova, quản gia nhà Marty cho biết: “Mọi người đều quan tâm đến Marty. Chăm sóc ông ấy là việc của rất nhiều người.” Marty đã dùng tiền để mua được sự quan tâm của mọi người.

Mối quan hệ giữa Marty và Sonia trở nên căng thẳng hơn sau khi Marty có những phụ nữ khác. Sonia quyết định chuyển ra ở riêng để nuôi dạy con cái. Ngôi nhà của Marty trở thành nơi qua lại thường xuyên của nhiều cô gái “quan tâm” đến Marty, họ đến và đi chỉ sau vài giờ.

Năm 1996, một người phụ nữ tên là Frances Burge đã công khai lên tiếng với báo chí về mối quan hệ của cô với Marty. Hai người rất gắn bó với nhau cho đến khi Marty quyết định chia tay cô vì cô bắt đầu béo lên. Đó là lý do khiến Frances Burge trở nên trầm cảm. Mùa hè năm 1997, Burge được phát hiện chết trong căn biệt thự của Marty. Cái chết được xác định là một vụ tự tử.

Sau một thời gian hoạt động bất hợp pháp với chiêu trò mua lại các công ty bảo hiểm nhỏ và lợi dụng danh nghĩa nhà thờ để chiếm dụng các khoản đầu tư, công ty của Marty bắt đầu gây sự chú ý của các chuyên gia kinh tế. Ba công ty bảo hiểm của Marty bị giam sát bởi các cơ quan chức năng.

[Only registered and activated users can see links]
Hộ chiếu giả của Martin Frankel

Dấu hiệu cho sự sụp đổ bắt đầu từ tháng 5/1999. Marty nhanh chóng lên những kế hoạch đặc biệt cho riêng mình để tẩu thoát. Hắn bắt đầu ủy quyền nhiều công việc quan trọng cho cấp dưới trong khi lo hộ chiếu giả với ý định rời khỏi Mỹ.

Một vài ngày sau khi các cơ quan quản lý nhà nước “tới thăm” công ty của mình, Marty đã thuể một chiếc trực thăng chốn đến châu Âu với hai cô bạn gái của mình. Mặc dù không phải lo ngại về vấn đề tài chính, nhưng hai người này nhanh chóng rời bỏ Marty khi cảm thấy mệt mỏi sau những cuộc trốn chạy. Cynthia Allison là người phụ nữ cuối cùng ở bên Marty khi hắn bị bắt ở Đức.

Một đoàn bồi thẩm liên bang ở Connecticut được thành lập sau khi Marty bị bắt và bị truy tố vào tháng 10/1999 với tội danh gian lận, lừa đảo chiểm đoạt 200 triệu đô la của các công ty bảo hiểm. Khi cảnh sát Mỹ lo điều tra những gian lận tài chính của Marty thì cảnh sat Đức cũng có ý định truy tố Marty về tội là giả hộ chiếu nhập cư bất hợp pháp, buôn lậu hàng triệu đô la kim cương.

Tháng 6/2000, Marty 45 tuổi, hắn bị kết án ba năm tù giam và bị phạt lên đến 1,6 triệu đô la cho việc buôn lậu kim cương. Nếu bị dẫn độ về Mỹ, Marty có khả năng đối diện với án tử hình. Marty tin rằng việc dẫn độ về Mỹ sẽ không bao giờ xảy ra. “Tôi hi vọng chính phủ Đức sẽ tôn trọng những cam kết của họ về nhân quyền”, Marty cho biết.

Các công ty bảo hiểm ở bốn tiểu bang của Mỹ Mississippi, Missouri, Oklahoma và Tennessee đã đệ đơn kiện Marty chiếm đoạt 600 triệu đô la.

Tháng 5/2000, lần đầu tiến Marty bị thẩm vấn sau 8 tháng bị bắt. Marty huyên hoang cho rằng những nỗ lực của mình trong suốt thời gian qua chỉ với mục đích cứu thể giới đang trong những cơn đói.

Tháng 3/2001, khi biết tin mình sẽ bị dẫn độ về Mỹ, Marty đã cố gắng thoát khỏi nhà tù những không thành công.

Chưa đầy hai tuần sau đó, Marty đã khẳng định mình không liên quan đến việc chiếm đoạt 215 triệu đô la Mỹ từ các công ty bảo hiểm. Hắn phủ nhận tội danh gian lận và rửa tiền.

Ngày 16/5/2002, Marty đã nhận tội liên quan đến 24 cáo buộc tham nhũng. Bản án tối đa Marty sẽ phải chịu lên đến 150 năm tù giam, bồi thường 6,5 trệu đô la. Con số nợ của Marty lên đến 208 triệu đô la. Sonia cũng bị nhắc đến trong cáo trạng của tòa án.

Ngày 28/10/2002, một tạp chí uy tín của Mỹ đưa tin tại tòa án liên bang ở New Haven, Conn., Sonia Howe đã nhận tội tham gia các vụ lừa đảo các công ty bảo hiểm ở phía Nam cùng với Marty. Trước đó, Sonia cũng đã nhận tội gian lận và rửa tiền.
Án mạng trong công viên trung tâm (kì 1)

Hannibal
12-31-2014, 06:22 PM
Một người đang đạp xe trong công viên trung tâm thì phát hiện một dáng người nằm trên bãi cỏ khá khuất, cách khá xa nơi Pat đứng. Đó là một cô gái trẻ. Cảnh này không lạ lẫm trong khu công viên nhưng lại khiến Pat quan tâm bởi cô để ý người đó không hề cử động sau thời điểm khá lâu.
Cái chết của cô gái trẻ xinh đẹp Jennifer Levin trong Công viên trung tâm thành phố New York thu hút sự quan tâm của người dân thành phố.
Được thổi phồng và thêm thắt bởi những tờ báo lá cải, câu chuyện về Jennifer Levin luôn xuất hiện trên trang nhất của nhiều tờ báo trong suốt thời gian dài.
Hung thủ được xác định là Robert Chambers, một thanh niên hư hỏng nhưng khá đẹp trai. Trong suốt quá trình đợi điều tra xét xử, có nhiều bàn tàn nhận định Robert Chambers mới chính là nạn nhân. Robert đã hành động để tự vệ.
Một buổi sáng đẹp trời tháng 8/1986, Pat Reilly, 34 tuổi, đạp xe trong khu công viên Trung tâm thành phố New York, gần phía sau của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan.
Lối đi quen thuộc của Pat Reilly là qua những con đường um tùm cây sau bóng của bảo tàng. Hôm nào Pat cũng đạp xe trong khu này.
Lúc đó là 6h sáng, trời đã hửng nắng. Pat đang đạp xe trong công viên trung tâm thì phát hiện một dáng người nằm trên bãi cỏ khá khuất, cách khá xa nơi Pat đứng. Đó là một cô gái trẻ. Cảnh này không lạ lẫm trong khu công viên nhưng lại khiến Pat quan tâm bởi cô để ý người đó không hề cử động sau thời điểm khá lâu.


[Only registered and activated users can see links]

Công viên trung tâm ở New York


Pat đạp xe lại gần, tháo giày của mình và tiên sát cô gái. Pat cảm thấy lo lắng, có điều gì đó không ổn với cô gái này. Pat hoảng hốt khi nhìn rõ cô gái đang nằm bất động đó. Không cần kiểm tra, Pat cũng khẳng định nạn nhân đã chết. Có vết thâm lớn trên cổ nạn nhân, có thể do bị đánh.
Pat nhanh chóng leo lên xe, phóng xe thật nhanh rời khỏi hiện trường, cô có ý định đến bốt điện thoại gần nhất và gọi cho cảnh sát. Gần đó, tất cả những bốt điện thoại công đều bị phá hoại, không còn hoạt động. Pat phóng xe đến số 90 đại lộ Avenue để thông báo trực tiếp cho cảnh sát những gì mình nhìn thấy. Hôm đó là 28/6/1986.
Đó là vụ giết người “giật gân” tại thành phố trong New York vài năm gần đấy.
Khi cảnh sát có mặt tại hiện trường, vẫn chưa có ai phát hiện ra cái xác. Nạn nhân là một cô gái trẻ tuổi từ 18 đến 21. Dễ dàng để nhận thấy nạn nhân đã bị tấn công tình dục rồi mới bị giết. Vết thương ở cổ rất rõ ràng.
Vài phút sau đó, các chuyên viên điều tra, giám định pháp y cùng các nhà báo đã có mặt. Phóng viên các báo cũng tiếp cận rất nhanh.
Nạn nhân là Jennifer Levin 18 tuổi. Ngoài vết thâm trên cổ, trên người nạn nhân có nhiều vết trầy xước. Trước khi chết, nạn nhân đã chống cự lại hung thủ. Theo nhận định ban đầu, nạn nhân đã bị hung thủ sát hại khi đang đi thể dục trong công viên.
Cách hiện trường vài trăm mét, Susan Bird, một nhân viên môi giới bất động sản đang ngồi đợi cùng với một thanh niên khoảng chừng trên 20. Cả hai cùng đi dạo trong công viên sáng hôm đó.
Susan quay sang hỏi cậu thanh niên có biết chuyện gì đang xảy ra không và nhận được câu trả lời rất thờ ơ rằng cậu không quan tâm. 15 phút sau, khi cảnh sát vẫn còn ở hiện trường, cậu thanh niên này đã bỏ đi.
Thời gian sau đó, ảnh cậu thanh niên này xuất hiện trên các báo có liên quan đến vụ án. Tên cậu ta là Robert Chambers.
Trong người nạn nhân có tìm thấy giấy tờ và thẻ tín dụng đứng tên Jennifer Dawn Levin.
Ví cầm tay, nhẫn và vòng đeo tay nạn nhân mang theo vẫn còn tại hiện trường. Thám tử Michael McEntee được giao nhiệm vụ giám sát điều tra. Đây là vụ án đầu tiên Michael McEntee nhận.
9h45, Maria Luz Alandy, trợ lý giám định pháp y có mặt. Lúc đó, cả công viên trung tâm đã rất đông người. Báo chí và hàng trăm người dân quan tâm đang theo dõi vụ án.
Tiến sĩ Alandy xác định nạn nhân đã bị giết hại 4 tiếng trước đó.
Hannibal
12-31-2014, 06:26 PM
Với những giấy tờ tìm thấy ngay tại hiện trường, cảnh sát nhanh chóng xác định được danh tính nạn nhân. Cha của Jennifer, Steven Levin ngay khi nhận được thông tin của cảnh sát đã gọi điện cho những người bạn của Jennifer với hi vọng có thêm thông tin cung cấp cho quá trình điều tra. Buổi tối hôm trước, Jennifer đã đến Dorrian Red Hand, một quán bar ở Upper East Side.
Upper East Side của Manhattan là nơi tập trung rất nhiều các quán bar, nhà hàng, và các câu lạc bộ dành cho thanh niên. Thanh niên tụ tập rất đông ở những quán bar này mỗi đêm, chúng uống rượu, sử dụng ma túy, hát hò…trong khung cảnh hết sức hỗn loạn.
Dorrians Red Hand là quán bar mà Jennifer và nhóm bạn của cô hay lui tới. Nó nằm ở góc, giao giữa hai con đường đông đúc. Là quán quen nên mọi người đến đây dường như biết mặt nhau. Jennifer gặp Robert Chambers lần đầu tiên tại quán bar này.
Sinh ra ở vùng nông thôn nghèo Leitrim, Bắc Ireland, Phyllis Chambers luôn mong muốn thay đổi cuộc sống của mình. Cô cố gắng để cậu con trai Robert Chambers có được những điều kiện tốt nhất.
Đối với Phyllis, Robert là hi vọng thay đổi cuộc sống của cô. Khi Robert đi học, Phyllis cố gắng gửi Robert ở những trường tốt nhất mặc dù điều đó sẽ khó khăn đối với đồng lương y tá ít ỏi của cô.


[Only registered and activated users can see links]

Bên ngoài Dorrian Red Hand

Robert Chambers khá điển trai, ngoại hình ưa nhìn, đôi mắt xanh cuốn hút, điều đó khiến cậu luôn nổi bật trước đám bạn.
Trái với những kì vọng của mẹ mình, Robert không chịu học hành và rất ham chơi. Có tin đồn cậu ta dính vào vài vụ trộm cắp, sử dụng ma túy. Hình ảnh thanh niên ăn chơi đã gắn với Robert.
Theo học đại học Boston năm 1984, trước khi bắt đầu kì học thứ 2, Robert đã bị buộc thôi học. Bạn bè nhận xét Robert là người không đáng tin cậy và khẳng định cậu có sử dụng ma túy, có hành vi trộm cắp. Robert đã gặp rắc rối nhiều lần với cảnh sát.
Mùa hè năm 1986, Robert gặp Jennifer tại Dorrians Red Hand. Robert tán tỉnh Jennifer. Hai người trở thành một đôi ngay lần đầu gặp mặt.
Jennifer khá xinh đẹp và có nhiều bạn bè. Mặc dù mới 17 tuổi nhưng trông cô khá già dặn. Với mái tóc ngắn màu nâu cá tính, nụ cười tươi, và những bộ trang phục gợi cảm. Jennifer rất thu hút bạn khác giới
Sau khi khoanh vùng và xác định được đối tượng khả nghi, thám tử Al Genova và Frank Connelly của phòng điều tra New York đã tìm đến nhà Robert. Cả hai không quá ngạc nhiên khi Robert xuất hiện với những vết trầy xước trên mặt và cánh tay. Vết trầy xước còn rất mới. Lúc đó là 3h chiều ngày 29/6.
Thám tử Genova thông báo với Robert vụ việc liên quan đến Jennifer và yêu cầu cậu ta theo mình đến trụ sở cảnh sát. Robert ngay lập tức đồng ý. Cậu ta không có thái độ lúng túng hay mất bình tĩnh.
Trên ngực Robert cũng có vết xước. Khi được hỏi về những vết xước đó, Robert trả lời đó là vết xước do con mèo của cậu gây ra.


[Only registered and activated users can see links]

Robert Chambers

Cuộc thẩm vấn kéo dài tới tận buổi tối. Robert tỏ ra khá bình tĩnh trước những câu hỏi của những nhân viên điều tra. Buổi tối trước hôm khi xảy ra sự việc, Robert có khai nhận đã gặp Jennifer tại quán bar. Lúc rời khỏi quán, Jennifer có chạy sang của hàng đối diện để mua thuốc lá, hai người chia tay nhau. Đó là lần cuối Robert nhìn thấy Jennifer.
Tuy nhiên, theo thông tin cảnh sát có được, Jennifer không hút thuốc. Lời khai của Robet không đáng tin cậy, cậu ta liên tục thay đổi các chi tiết khi cảnh sát tỏ vẻ nghi ngờ.
Sau nhiêu giờ quanh co, Robert tỏ ra mất bình tĩnh và đã cúi đầu nhận tội. Cậu ta đã khóc khi kể lại chuyện đã xảy ra. Câu chuyện và lời thú tội của Robert khiến các thám tử không nói nên lời, họ chỉ biết lắc đầu về lối sống hư hỏng của thanh niên bây giờ.
Robert cho biết, đêm hôm trước, anh có đến quán bar cùng với Alex, bạn gái mới của mình. Hai người có tranh luận và to tiếng với nhau khiến Robert xấu hổ. Jennifer cũng có mặt ở đó. Sau khi Alex bỏ đi, Jennifer tới gặp Robert và yêu cầu ra ngoài nói chuyện. Robert nói với Jennifer rằng không muốn gặp cô nữa. Cả hai tới công viên trung tâm.
Những lời kể tiếp theo của Robert chứng tỏ cậu ta mới chính là nạn nhân bị lạm dụng bởi Jennifer. Robert đã đẩy Jennifer ra sau khi bị cô ta cào nhiều phát trên người, thậm chí vào mặt.
Jennifer ngã mạnh, đầu đập xuống hòn đá ngay gần đó. Đây chính là nguyên nhân gây nên cái chết của cô. Robert chỉ hành động để tự vệ.
Hannibal
12-31-2014, 06:31 PM
Khi các thám tử tỏ ra nghi ngờ, Robert không giải thích gì nhiều về những lời khai trước của mình.
Nêu theo lời Robert, sự xuất hiện của những vết thương trên cổ và trên cơ thể Jennifer là hoàn toàn vô lý, những vết thương đó phải xuất hiện trước khi vụ việc xảy ra.
“Sau khi thấy cô ấy không còn thở. Tôi lùi ra phía xa cách đó hơn trăm mét và định gọi cho cảnh sát thì thấy một người phụ nữ đi xe đạp dừng lại gần đó. Cô ấy đã gọi cảnh sát và xe cứu thương”, Robert cho biết thêm.
Biết đã có người “lo” mọi chuyện, Robert đi bộ dọc công viên trước khi về nhà, thay quần áo và đi ngủ.
Lời khai của Robert còn nhiều nghi vấn. Hắn bị giam giữ ngay sau tiến hành lấy lời khai và bị buộc tội giết người. Trước khi bị giải đi, nhân viên điều tra có nghe Robert nói rất bé: “Chết tiệt, tại sao cô không để tôi yên.”
Liên tiếp sau đó, những bài viết liên quan đến hai cái tên Robert Chambers và Jennifer Lenvin được đăng tải trên nhiều báo. Roberts được nhắc đến là một thanh niên điển trai, tương lai đầy hứa hẹn. Còn Jennier là một cô gái trẻ hư hỏng. Robert nhận được nhiều sự đồng cảm qua báo chí. Họ tin vào lời khai của Robert và nhiều người nghĩ về hắn như một nạn nhân.
Vụ án của Robert được nhắc đến nhiều, nó trở thành cuộc chiến của vị luật sư nổi tiếng tốt nghiệp đại học Havard và một công tố viên nhân quyền, luôn đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ.
Ngay sau khi tốt nghiệp ngành Luật ở đại học Harvard, Litman làm việc tại văn phòng luật Manhattan. Vài năm sau đó, Litman rời khỏi Manhattan và bắt đầu xây dựng tên tuổi của mình với những vụ án khó trong vai trò luật sư bào chữa.


[Only registered and activated users can see links]

Robert Chambers và Jennifer Levin

Linda Fairstein, 39 tuổi, tốt nghiệp đại học danh tiếng Vassar ở Poughkeepsie, New York và đại học Luật Virginia. Linda làm việc tại phòng công tố Manhattan. Những vụ án chính của Linda là những vụ liên quan đến tấn công tình dục, bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ.
Theo Linda, trong hơn 8.000 trường hợp được thông kê hơn 10 năm qua về các vụ tấn công tình dục, đây là lần đầu tiên một người đàn ông tố cáo bị tấn công bởi một phụ nữ.
Khi nghe tin Jack Litman là luật sư bào chữa cho Robert, Linda biết mình sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Trả lời phỏng vấn trước phiên tòa, Linda cho biết: ‘’Litman là một luật sư giỏi. Công việc chúng tôi theo đuổi có mục đích khác nhau. Tôi không làm những gì Litman làm nhưng tôi tôn trọng công việc của Litman.’’
Để hỗ trợ cho công việc của mình, Litman đã có cho mình danh sách hàng chục người có thể làm nhân chứng bảo vệ Robert. vầ rất nhiều các chi tiết chứng mình Robert là một thanh niên tốt.
Thẩm phán Howard E. Bell đã bị thuyết phục bởi những gì luật sư Litman đưa ra. Ông quyết định cho Robert được tại ngoại với số tiền bão lãnh là 150.000 đô la.
Khi thẩm phán Howard E. Bell thông báo quyết định của mình, ông tỏ ra lo ngại về cả hai bên gia đình. Ellen Levin, mẹ Jennifer bật khóc nức nở và rời khỏi ghế ngồi, còn phía gia đình Robert, họ cũng không phản úng gì, số tiền 150.000 đô la là quá lớn so với đồng lương ít ỏi của Phyllips.
Tháng 11/1986, luật sư Litman bất ngờ tiết lộ thông tin về cuốn nhật ký được cho là của Jennifer. Theo thông tin, trong cuốn nhật ký là những câu chuyện liên quan đến hoạt động tình dục và những mối quan hê tình cảm của Jennifer với những thanh niên khác. Gia đình Jennifer từ chối công bố nó.
Báo chí ngay lập tức có nhiều tin bài về chi tiết này. Cuốn nhật ký đã nhanh chóng làm xấu đi hình ảnh của Jennifer.
Cuốn nhật ký đầy tranh cãi này được chuyển cho Thẩm phán Bell. Sau khi ông đọc nó, yêu cầu công bố nó của Litman bị từ chối. Theo thẩm phán Bell, nội dung cuốn nhật ký không có bằng chứng liên quan đến vụ án này.
Một nhóm có tên gọi ‘’Công lý cho Jennifer’’ được thành lập bởi bạn bè và người thân của Jennifer để bảo vệ danh tiếng của cô trước dư luận xấu. Họ thường xuyên xuất hiện trước các đám đông, nói chuyện với các phóng viên, tố cáo những bịa đặt về nạn nhân do phía Robert cung cấp. Theo họ, báo chí đang làm méo mó đi hình ảnh của Jennifer.
Hannibal
12-31-2014, 06:33 PM
Ngày 4/1/1988, nhiều tháng sau khi vụ án xảy ra, phiên tòa xét xử được mong đợi nhất ở New York được mở.
Các công tố viên bắt đầu phiên tòa với những bằng chứng thu được tại hiện trường chứng minh Robert là kẻ gây án. Tuy nhiên, những bằng chứng đó chưa thực sự hoàn hảo, đủ để buộc tội Robert. Phía thẩm phán cũng khó chấp nhận những bằng chứng đó trước những lời biện hộ sắc bén của luật sư Litman.
Ngày 2/3, Jack Litman đưa ra danh sách năm nhân chứng có thể chứng minh Robert chỉ là nạn nhân, bao gồm tiến sĩ Tiến sĩ Ronald Kornblum, giám đốc phòng y tế của Los Angeles.
Chín ngày trôi qua sau đó, đoàn bồi thẩm căng thẳng trong việc đưa ra quyết kết luận Robert có tội hay vô tội. 8/12 thành viên trong đoàn bồi thẩm đã bỏ phiếu đồng ý với kết luận Robert vô tội. Dưới sức ép của dư luận, cuộc bỏ phiếu lần hai lại cho kết quả khác, 9/12 thành viên cho rằng Robert phạm tội ngộ sát.
Với tội danh ngộ sát, bản án dành cho Robet là 15 năm tù giam, hắn phả thi hành án ít nhất 5 năm mới đủ điều kiện xét ân xá. Ngoài ra, Robert còn phải chịu án do tội danh trộm cắp vào năm 1986.
Năm 1989, một bộ phim truyền hình với tên gọi Preppie Murder được dựng dựa trên câu chuyện của Robert. Bộ phim bị phía gia đình Jennifer và công tố viên Linda Fairstein phản đối mạnh mẽ.


[Only registered and activated users can see links]

Ellen Levin đau khổ bên ảnh con gái

Trong thời gian bị giam giữ, Robert đã vi phạm nhiều quy định của nhà tù, bảo gồm cả việc giấu ma túy trong người. Điều đó ảnh hưởng lớn đến điều kiện tạm tha của Robert. Tính cho đến tháng 9/2001, Robert vẫn còn bị giam tại nhà tù Auburn. Dự kiến Robert sẽ có mặt vào buổi điều trận xét tạm tha trong tháng 12/2002.
Ngày Valentin là ngày đặc biệt dành cho những người thân yêu của mình. Nhưng đối với gia đình Jennifer, ngày valentine năm 2003 là một ngày tồi tệ. Kẻ giết hại con gái họ sẽ rời khỏi nhà tù Auburn, New York với tư cách một người tự do. Khi đó, Robert mới 36 tuổi. Hắn đã thi hành đủ bản án 15 năm tù giam cho tội danh ngộ sát.
Việc Jennifer bị giết hại năm 1986 đã trở thành vụ án được quan tâm nhất ở thành phố New York. Nó phản ánh lối sống tình dục phóng khoáng của một bộ phận thanh niên hư hỏng. Vụ án là đề tài được nhắc đến nhiều của các tờ báo lá cải.
Ellen Levin, mẹ của Jennifer gần như sụp đổ khi con gái mình bị giết và bị coi là kẻ chủ động tấn công tình dục bạn trai mình. “Điều đó thật sự kinh khủng đối với gia đình tôi.” Ellen nói trong nước mắt.


[Only registered and activated users can see links]

Robert Chambers bị bắt vào năm 2007

Nhiều năm sau cái chết của Jennifer, Ellen đã thu thập được rất nhiều những chữ ký và mang chúng đến buổi điều trần tạm tha Robert, theo cô Robert chưa bao giờ thể hiện sự hối hận về những gì mình đã làm với Jennifer.
Phyliss Chambers, mẹ của Robert, là một người nhập cư Ireland. Trước khi Robert pham tội giết người, cô luôn hi vọng hắn sẽ trở thành một doanh nhân thành đạt hay một chính trị gia nổi tiếng. Cô cũng nổ lực hết mình để có dược sử ủng hộ của dư luận với mong muốn Robert sớm được tự do.
Thời gian sau đó, vụ án giết hại Jennifer đã tạm lắng xuống, không còn nhiều người quan tâm đến cuộc sống của Robert cho đến ngày hắn bị bắt tại căn hộ của mình.
Gần như tất cả mọi người sống trong khu nhà cao cấp tại đường E.57 giữa thị trấn Manhattan đều nghi ngờ nhũng gì đang diễn ra trong căn hộ tầng thứ 17. Trong nhiều tháng qua, căn hộ này thường xuyên có người lạ lui tới, họ ở lại qua đêm hay thậm chí đến trong vài phút. Hàng xóm đã phàn nàn nhiều về việc này, cảnh sát quyết định điều tra.
Tối ngày 22/10/2007, khi cảnh sát đột nhập vào bên trong căn hộ, họ đã phát hiện một lượng ma túy lớn. Chủ căn hộ là Robert Chambers, 41 tuổi và bạn gái hắn, Shawn Kovell, 39 tuổi. Cả hai đã sống với nhau từ năm 2003. Với số ma túy quá lớn như vậy, tương lai được kỳ vọng của mẹ Robert hoàn toàn bị sụp đổ. Robert sẽ phải sống trong nhà giam suốt đời với bản án chung thân của mình.
Cái chết bất ngờ của tên sát thủ (Kỳ 1)

Hannibal
12-31-2014, 06:36 PM
Sáng mùa đông lạnh lẽo, một người đàn ông gọi điện thoại cho cảnh sát để thông báo về việc chiếc xe Cadillac màu nâu sẫm bị bỏ lại hơn một tuần nay trong bãi đỗ xe Boat Club Varnas ở Sheepshead Bay, Brooklyn, New York. Hôm đó là ngày 18/1/1983.
Đây là lần thứ hai người này gọi cho cảnh sát. Lần đầu tiên khi nhận thông tin, phía cảnh sát xác định nó không phải chiếc xe bị đánh cắp và hung thủ vứt lại tại đấy. Họ nói với những người ở bãi đỗ xe rằng chủ nhân của nó sẽ đến nhận sớm, tuy nhiên, chiếc xe vẫn để ở đó gần một tuần nay.
Sau cuộc gọi thứ hai, cảnh sát tiến hành xác minh rõ hơn nguồn gốc chiếc xe đó. Thời điểm đó, trong khu vực có một người đàn ông được thông báo mất tích. Chiếc xe để lại trong bãi chính là của người đàn ông này.
Nhìn vào bên trong qua cửa kính đen, không có bất cứ dấu hiệu nào bất thường. Cảnh sát sát tìm cách mở cửa xe. Không có gì trong xe. Trên ghế có nhiều vết đen. Chiếc xe được đưa về khu để xe của cảnh sát. Không ai nghĩ rằng bên trong chiếc xe chứa một bí mật lớn.
Chiếc xe được làm ấm lên hai giờ trước khi cảnh sát bắt đầu kiểm tra. Khi cốp xe được mở, cảnh sát phát hiện bên trong cốp xe có một chiếc đèn trùm cũ. Nó đặt lên trên xác một người đàn ông dáng người mập, tóc đen. Có vẻ như người này đã bị bắn nhiều lần.


[Only registered and activated users can see links]

Roy DeMeo

Cái xác dường như bị đóng băng và trở nên cứng nhắc do thời tiết quá lạnh. Một tay nạn nhân giơ lên che mặt. Chiếc áo khóac da màu đen vứt ngay trên đầu nạn nhân.
Theo giám định pháp y, người đàn ông này chết do vết đạn bắn sau tai. Tổng cộng có 7 vết đạn. Máu chảy rất nhiều. Nạn nhân nằm trên vũng máu đã đông,
Theo thông tin từ phía người thân, người đàn ông này rời khỏi nhà vào ngày 10/1, lúc đó khoảng 9h30p sáng. Người này nói vợi vợ rằng mình có một cuộc hẹn với đối tác vào buổi chiều để trao đổi về một số giấy tờ pháp lý. Tối hôm đó, con gái họ sẽ tổ chức sinh nhật, người này hứa với vợ và con gái sẽ có mặt ở nhà tham dự bữa tiệc đó. Nhưng hôm đó, ông ta đã không quay về. Đó là lần đầu tiên ông vắng mặt trong tiếc sinh nhật con gái mình.
Chứng kiến cảnh chiếc xe được cảnh sát mở ra điều tra và thấy cha mình bị giết, cậu con trai 17 tuổi của nạn nhân đã khóc, nhưng vợ ông ta thì không. Nạn nhân được chôn cất tại nghĩa trang St. John ở đảo Long.
Cậu con trai cho biết, một năm trước đó, cậu có nghe được câu chuyện cha mình đã gặp rắc rối với một nhóm người nào đó và họ có thể sẽ giết cha mình.
Không ai nghĩ người đàn ông bị giết ngay trên chiếc xe này lại là tên sát thủ máu lạnh nhất trong giới Mafia, Roy DeMeo, kẻ được cho là có liên quan đến khoảng 100 vụ giết người.
Roy DeMeo Albert sinh năm 1942 trong một gia đình thuộc tầng lớp lao động nhập cư từ Ý. Hiểu rõ hoàn cảnh nghèo khó của gia đình mình, Roy DeMeo đã cố gắng kiếm tiền từ rất sớm. Roy DeMeo chơi thân với cậu hàng xóm, con trai của tên trùm maphia Joseph Profaci.
Tốt nghiệp trường trung học James Madison năm 1959. Roy kết hôn ngay và sớm trở thành cha của ba đứa trẻ.
17 tuổi, Roy đã bắt đầu với công việc của mình như một tên chuyên môi giới cho vay và may mắn có một công việc trong một công ty bé, hoạt động hợp pháp. Thời gian này, Roy đã có ý định riêng về con đường mình sẽ theo đuổi.
Roy rất ấn tượng với những chiếc xe Cadillacs sáng bóng mà các băng đảng xã hội đen thường đi. Không lâu sau đó, Roy gặp các thành viên trong băng nhóm maphia khét tiếng Gambino và sớm trở thành thành viên của băng nhóm.
Carlo Gambino là tên trùm xã hội đen khét tiếng, hắn có trong tay hơn 250 tay chân, kiếm soát một vùng thế giới ngầm New York. Roy muốn tiếp cận và gia nhập băng nhóm của Gambino từ lâu.
Bằng sự khôn khéo của mình, 32 tuổi, Roy đã có được nhiều thứ trong tay. Roy sống cùng vợ và hai đứa con trong một ngôi nhà khá đẹp. Thời điểm này, Roy bắt đầu dính tay vào những vụ giết người.
Hannibal
12-31-2014, 06:38 PM
Thành công và có được nhiều thứ khi mới chỉ 32 tuổi, Roy bắt đầu dính vào những vụ giết người và sớm trở thành tên sát thủ máu lạnh.
Để giúp mình giải quyết những kẻ không chịu nghe lời và mở rộng địa bàn hoạt động, Roy bắt đầu kết nạp cho mình những tay chân riêng, đào tạo chúng trở thành những cỗ máy giết người chuyên nghiệp nhất.
Một trong số những tay chân đầu tiên của Roy là Chris Rosenberg, một cậu thanh niên 16 tuổi người Do Thái. Bản thân Chris không thích khi mình là một người Do Thái, cậu luôn hi vọng một ngày nào đó được những người Ý chào đón vfa coi như một công dân Ý.
Roy gặp Chris trong khu phố Brooklyn qua một người bạn. Chris lúc đó đang là một tên nhóc lang thang. Roy đã giúp Chris mở rộng địa bàn hoạt động và hoạt động “chuyên nghiệp” hơn.
Chris bắt đầu đi đánh cắp những chiếc xe hơi và linh kiện của chúng theo chỉ dẫn của Roy để bán cho khách hàng ở nước ngoài. Một tên thợ sửa ô tô tên là Freddy DiNome cũng thông đồng với chúng. Chúng nhanh chóng kết nạp thêm hai thành viên nữa là Joey và Anthony, và thành lập băng nhóm Gemini Lounge.


[Only registered and activated users can see links]

Tay chân của Roy DeMeo

Không lâu sau đó, Roy kết nạp thêm thành viên thứ 5, Henry Borelli, một kẻ còn khá trẻ nhưng được Roy đánh giá là có trái tim lạnh để trở thành một kẻ giết người chuyên nghiệp.
Roy và tay chân của mình bắt đầu thu thập vũ khí, chủ yếu là súng máy, súng trường tự động, các thiết bị giảm thanh…
Roy đào tạo tay chân của mình giết người theo cách riêng của hắn gọi là Phương pháp Gemini. Khi cần giải quyết bất cứ vấn đề gì, chúng sẵn sàng ra tay giết người.
Rất nhiều người đã trở thành nạn nhân của băng nhóm này, đặc biệt là những cô gái trẻ. Điều đặc biệt không ai nghi ngờ kẻ có bề ngoài lịch lãm như Roy là lại tên sát nhân máu lạnh, kẻ cầm đầu những kẻ giết người nguy hiểm nhất.
Khi hai trong số năm tay chân của Roy bị bắt, cảnh sát vẫn không thể tìm ra bằng chứng liên quan để buộc tội Roy. Roy đã không ngần ngại bỏ ra số tiền lớn thuê luật sư có tiếng để bảo vệ danh tiếng của mình, đồng thời giúp cho tay chân mình thoát khỏi việc bị truy tố.


[Only registered and activated users can see links]

Nơi hoạt động chính của băng nhóm

Liên tiếp những vụ mất tích xảy ra, theo ước tình trong vòng 10 năm khi băng nhóm của Roy hoạt động, hơn 200 người trên tất cả những địa bàn chúng hoạt động mất tích.
Năm 1976, khi Roy mới 34 tuổi và hơn một năm đào tạo tay chân của mình, tên trùm Carlo Gambino chết. Roy chọn Paul Castellano làm ông chủ mới của mình.
Đối với Roy, kiếm tiền là việc quan trọng nhất. Hắn liên hệ với các băng nhóm ở Ailen để mở rộng địa bàn hoạt động. Hắn bắt đầu chuyển sang buôn bán ma túy, điều đó gây sự chú ý của FBI. FBI đã để ý đến Roy và tiến hành điều tra xem liệu hắn có phải kẻ giết người chuyên nghiệp.
Không lâu sau đó, Castellano rút khỏi giới xã hội đen, gần như không can dự vào những hoạt động của băng nhóm, từ đó, Roy mở rộng phạm vi hoạt động, tự cho mình quyền hạn hơn và có quyền được giết bất cứ ai cản trở hắn.
Những năm 1977 đến 1979, theo điều tra của FBI, những ai đã từng giao dịch với Roy đều biết mất một cách bất ngờ.
Thân cận nhất với Roy là Chris. Hắn tự nhận mình là con trai của Roy và giới thiệu mình là Chris DeMeo. Năm 1979, trong một phi vụ buôn bán ma túy ở Florida, Roy biết Chris đã lợi dụng tên tuổi của mình để lừa đối tác.
Hannibal
12-31-2014, 06:41 PM
Những vụ giết người liên tục xảy ra. Cảnh sát biết chắc chắn chúng có liên quan đến hoạt động trái phép của băng nhóm Gemini. Họ tập trung điều tra, cố gắng liên kết các vụ án với nhau để tìm ra những điểm chung phục vụ quá trình điều tra.
Không lâu sau đó, Henry và Freddy của băng nhóm Gemini đã bị bắt giữ liên quan đến hai tội danh giết người. Các thành viên còn lại trong băng nhóm cũng bắt đầu bị FBI đụng tới.
Con trai cua Ron, Albert đã viết rất nhiều về sự sợ hãi của cha mình trong những ngày mạng sống bị đe dọa. Trước khi FBI triển khai lực lượng, xóa sổ Gemini, Roy đã bị đe dọa.
Albert DeMeo lớn lên với những ấn tượng khá tốt đẹp về người cha của mình, đó là dí do tại sao Albert đã rất sốc khi nghe đoàn bồi thẩm nhắc đến những tội ác của cha mình hay đọc chúng trong những cuốn sách viết về Roy. Theo lời Alber, Roy lo sợ cuộc sống gia đình sẽ bị thay đổi nếu hắn bị giết hại hay bị FBI bắt giữ.


[Only registered and activated users can see links]

Cuốn sách do Albert viết về cha mình, Roy DeMeo

Sau khi Roy bị phát hiện chết trong cốp sau chiếc xe Cadillac của mình, điều mà hắn lo sợ nhất cũng nhanh chóng xảy ra: Gia đình hắn đã phải chịu đựng cho tội ác của chồng. Vợ Roy buộc phải bán căn nhà mơ ước của Roy để chuyển đến một nơi mới an toàn hơn.
Liên quan đến cái chết của Roy, sau khi băng nhóm Gemini thành lập và liên tiếp những vụ giết người và mất tích trong khu vực xuất hiện. FBI cho rằng Roy có liên quan. Lo sợ Roy có thể trở thành một nhân chứng hợp tác cho chính phủ, Castellano đã ra lệnh cho tay chân của mình, Nino, giám sát mọi hoạt động của Roy.
Nino rất được Roy tin tưởng vì thế lựa chọn Nino để theo sát Roy, để có được những thông tin cá nhân quan trọng được đánh giá là khá mạo hiểm.


[Only registered and activated users can see links]

Trùm maphia John Gotti

Theo một số thông tin cảnh sát có được từ giới xã hội đen, Nino là người cuối cùng gặp Roy, chính hắn đã ra tay lạnh lùng giết chết người anh em của mình. Roy bị bắn tới 7 phát súng trước khi chết và cái xác được đưa đi phi tang tại Sheepshead Bay, Brooklyn.
Nino bị bắt vào năm 1984 và được xem xét tại ngoại sau phiên xét xử. Không lâu sau đó, Nino nhận bản án 5 năm tù giam cho tội trộm cắp xe ô tô…
Trước khi phiên tòa xét xử băng nhóm Gemini và những tội ác của chúng kết thúc, Nino đã 62 tuổi và chết trong tù. Những kẻ khác hiện tại cũng bị kết án có liên quan.
Paul Castellano bị buộc tội ra lệnh giết hại Roy Demeo
Trong thời gian đó, Castellano đang chơi trò chơi quyền lực và tranh giành quyền lực với Roy. Trước khi phiên tòa được mở, John Gotti đã nhanh chóng có được một vị trí xứng đáng trong băng nhóm Gambino. John Gotti lên làm người lãnh đạo Gambino sau khi ám sát Castellano vào ngày 16/12/1985.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét