Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2017
CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 76 (Động cơ hơi nước)
Phát minh động cơ hơi nước
James Watt
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
James Watt | |
---|---|
Ảnh James Watt (1736-1819)
của Carl Frederik von Breda |
|
Sinh | 19 tháng 1, 1736 Greenock, Renfrewshire, Scotland |
Mất | 25 tháng 8, 1819 (83 tuổi) + Handsworth, Birmingham, Anh |
Nơi cư trú | Glasgow sau đó Handsworth, Đại Anh |
Quốc tịch | Vương quốc Anh |
Tôn giáo | Nhà thờ Scotland, later Deist |
Ngành | Kỹ sư cơ khí |
Nơi công tác | Đại học Glasgow Boulton và Watt |
Nổi tiếng vì | Cải tiến động cơ hơi nước |
Ảnh hưởng bởi | Joseph Black Adam Smith |
Chữ ký |
Tiểu sử
Những năm tháng đầu đời
Watt đi học không thường xuyên và thay vào đó là được mẹ dạy tại nhà, nhưng sau đó ông theo học trường Greenock Grammar. Ông tỏ ra rất khéo tay và có năng khiếu về môn toán học trong lúc lại ớn môn tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp cổ và ông miệt mài với thần thoại Scotland
Khi ông 18 tuổi, mẹ ông qua đời và sức khỏe cha ông bắt đầu suy sụp. Watt đi London để học ngành điều khiển đo lường (measuring instrument) trong 1 năm, sau đó trở lại Scotland, đến Glasgow, dự tính lập một cơ sở kinh doanh sản xuất thiết bị đo lường. Tuy nhiên, vì ông không trải qua ít nhất 7 năm học việc cơ quan quản lý thợ thủ công của Glasgow (Glasgow Guild of Hammermen) không cấp phép cho ông dù lúc đó chưa có thợ chế tạo dụng cụ cơ khí nào ở Scotland.
Watt được các giáo sư của Đại học Glasgow cứu khỏi tình huống bế tắc này khi họ đã cho ông một cơ hội mở xưởng nhỏ trong trường này. Xưởng này được lập năm 1757 và là một trong những giáo sư của trường, là nhà vật lý và cũng là nhà hóa học Joseph Black trợ thành bạn và người thầy của Watt.
Năm 1767, Watt cưới cháu Joseph – Biller Miller và có 6 con với nhau. Miller mất trong khi sinh năm 1772. Năm 1777 ông kết hôn với Ann MacGregor, con cái của nhà nhộm Glasgow, và có 2 người con: Gregory (1777–1804) là một nhà địa chất học và khoáng vật học, và Janet (1779–1794). Ann mất năm 1832. Trong thời gian 1777 và 1790 ông sống tại Regent Place, Birmingham
Những thí nghiệm đầu tiên với hơi nước
Ý tưởng và sự nghiệp
Ý tưởng muốn tạo ra một chiếc máy hơi nước đến với Watt từ khi còn nhỏ, và ông luôn thôi thúc mình làm được điều đó, cho đến một nhóm đã phát hiện hơi nước Newcomen (1705) tuy được dùng rộng rãi nhưng nó có rất nhiều điểm cần được cải tiến. Vì vậy nó trở thành động lực để Watt phải tạo ra một máy hơi nước hoàn thiện hơn.Năm 1763 - 1764, tại Trường Đại học Glasgow, Watt bắt đầu đặc biệt chú ý tới máy hơi nước. Watt xác định việc nghiên cứu nguyên lý và kết cấu của máy hơi nước là phương hướng chủ yếu của mình. Chính vì điều này mà Watt đã mất ăn mất ngủ
Vào một buổi sáng nọ, Watt đi bách bộ ngoài sân golf, mặt trời rọi thẳng vào mặt ông. Bỗng nhiên một đám mây đen che khuất mặt trời, trong phút chốc bầu trời như tối lại, một trận gió thổi qua, mặt đất như xanh hơn,không gian như rộng hơn, cảm thấy dễ chịu lạ thường. Ông nhìn lên trời cao, nghĩ lại đám mây đen che kín mặt trời vừa rồi, một ý tưởng mới xuất hiện trong đầu ông:"Thiết kế bộ ngưng tụ hơi nước, làm cho hơi nước trực tiếp trở lại trạng thái nước ngay từ ngoài xi-lanh, như vậy chẳng phải xi-lanh có thể duy trì được nhiệt độ tương đối cao sao?"
Để chế tạo được máy hơi nước kiểu mới, Watt và các trợ lý của ông làm miệt mài không quản ngày đêm nhưng kết quả chưa giành được thành công, hơn nữa còn nợ nần chồng chất, cuộc sống hết sức khó khăn, có lúc thậm chí không còn tiền để ăn. Nhưng Watt không nản chí, ông càn nỗ lực hơn, cuối cùng năm 1765 ông đã chế tạo thành công một chiếc máy hơi nước
Loại máy hơi nước này giảm được 3-4 lượng than tiêu thụ so với máy hơi nước Newcomen mà hiệu suất nâng cao lên rất nhiều. Thành công lần này là sự cổ vũ lớn đối với Watt, ông vẫn muốn trực tiếp cải tiến một bước nữa để giảm lượng tiêu hao than xuống, hiệu suất càng cao hơn
Năm 1782, ông cho ra đời chiếc máy hơi nước mới như ông đã suy nghĩ: Máy tiêu hao than ít, hiệu suất làm việc cao. Thành công khi phát minh ra loại máy hơi nước này đã làm cho máy hơi nước Newcomen trở nên lạc hậu không còn chỗ đứng
Máy hơi nước do Watt phát minh nhanh chóng được sử dụng rộng rãi. Tàu thuyền, tàu hỏa dùng máy hơi nước đua nhau ra đời, công nghiệp toàn thế giới nhanh chóng bước vào "thời đại máy hơi nước"
Tháng 6 năm 1775, giữa Boulton và Watt đã ký kết một hợp đồng có giá trị 25 năm, thành lập công ty Boulton-Watt chuyên sản xuất và tiêu thụ loại máy hơi nước mới. Đây chính là tiền đề để cho Watt sáng tạo ra những cỗ máy hơi nước ngày càng tân tiến hơn. Trong 25 năm sau đó,công ty của Watt và Boulton đã sản xuất một số đã sản xuất một số lượng lớn máy hơi nước cung cấp cho thị trường
Năm 1781, Watt còn phát minh ra một bộ phận bánh răng để giúp máy hơi nước chuyển động xoay tròn làm cho máy hơi nước mở rộng phạm vi sử dụng. Ông còn phát minh ra bộ phận ly tâm điều chỉnh tốc độ, thông qua đó máy hơi nước có thể tự động khống chế. Năm 1790, ông đã phát minh ra đồng hồ áp lực, đồng hồ chỉ thị, van tiết lưu và nhiều cải tiến có giá trị khác
Năm 1782, cỗ máy hơi nước chuyển động song hướng do Watt nghiên cứu và chế tạo đã ra đời và được cấp bằng sáng chế độc quyền. Năm 1784, loại máy hơi nước nằm cũng được xác nhận quyền sáng chế. Máy hơi nước ngày càng có tính ứng dụng cao và dược sử dụng rộng rãi, nó có tên gọi là "máy hơi nước vạn năng"
4 năm sau, Watt phát minh ra bộ phận ly tâm điều chỉnh tốc độ và bộ phận điều tiết hơi. Năm 1790, Watt chế tạo thành công bộ phận biểu thị công năng của xi-lanh đầu tiên. Lúc này thì Watt đã hoàn thành toàn bộ quá trình phát minh ra máy hơi nước của mình. Đây là một bước đại nhảy vọt trong kỹ thuật sản xuất của loài người. Đây có thể được gọi là bản tuyên ngôn của nhân loại đã bắt đầu tiến vào "Thời đại máy hơi nước'
Những đóng góp của máy hơi nước trong xã hội
Từ khi máy hơi nước xuất hiện đã có một tác dụng to lớn trong cuộc cách mạng công nghiệp. Trước khi có máy hơi nước, mặc dù một số người dân đã biết sử dụng sức gió và sức nước nhưng động lực chủ yếu vẫn là sức lực của con người. Từ khi có máy hơi nước thì loài người đã thoát ra khỏi sự hạn chế đóNgoài việc dùng làm nguồn năng lượng cho các công xưởng, máy hơi nước còn được ứng dụng trong giao thông vận tải. Sự ứng dụng rộng rãi máy hơi nước đã ảnh hưởng đến cuộc cách mạng phương tiện giao thông ở nước Anh. Năm 1814, kiến trúc sư người Anh George Stephenson chế tạo thành công xe lửa chạy bằng hơi nước. Stephen đã được suy tôn là "Cha đẻ của đầu máy xe lửa"
Sự cải tiến giao thông đường thủy là đóng những chiếc tàu có thể lắp được máy hơi nước làm động lực. Ngày 19 tháng 8 năm 1807, một nhà phát minh người Mỹ là Fulton đã thiết kế một chiếc tàu chờ khách chạy bằng hơi nước chạy thử thành công trên sông Hudson, đồng thời đã mở ra những chuyến chạy định kỳ từ New York đến An-ba-ni
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 05:02 ngày 2 tháng 10 năm 2015.
Sự ra đời của máy hơi nước và ý nghĩa đối với
nhân loại
Cách mạng công nghiệp là sự kiện cơ bản đánh dấu việc chuyển biến từ xã
hội sang giai đoạn văn minh công nghiệp. Cách mạng công nghiệp là sự
biến đổi sâu sắc về chất của nền kinh tế mà đặc trưng cơ bản của nó là
việc thay thế lao động thủ công bằng máy móc., việc sử dụng rộng rãi
năng lượng than đá và phương thức sản xuất mới.
Sau cuộc cách mạng tư sản của các nước trên thế giới sau khi thành công là sự ra đời và phát triển của chế độ tư bản, ngay cùng thời gian đó là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ được tiến hành và đạt được hành loạt những thành tựu lớn với những phát minh vĩ đại như Năm 1733 John Kay đã phát minh ra “thoi bay”, Năm 1765 Giêm Hagrivơ ( James Hagreaves ) đã chế được chiếc xa kéo sợi kéo được 8 cọc sợi một lúc,..trong đó phải kể đến máy động cơ hơi nước. Sự ra đời của máy hơi nước là một trong những bước ngoặt lớn của loài người, đó là một trong những thành tựu văn minh vĩ đại mở ra một cánh của mới cho lịch sử văn minh thế giới.
Máy hơi
nước là phát minh quan trọng nhất để làm lên một cuộc cách mạng công
nghiệp. Nhu cầu của sản xuất là động lực trực tiếp thúc đẩy việc cải
tiến kỹ thuật. Những phát minh kỹ thuật đầu tiên xuất hiện trong ngành
dệt đó là “Thoi bay” do Jonh Kay phát minh, nó làm cho dệt nhanh hơn,
rộng hơn.
Năm
1767, James Hargreavers chế tạo ra máy kéo sợi 16-18 cọc đầu tiên có tên
là Jenny sau đó nó được nhiều nhà phát minh khác cải tiến cho chất
lượng và hiệu quả cao hơn.
Cho đến năm 1785, Chiếc máy dệt đầu tiên ra đời do Cartwright phát minh là nó được hoàn thiên năm 1800.
Cùng với máy móc thì kỹ thuật nhuộm màu in hoa cũng đạt được những tiến bộ lớn, góp phần củng cố địa vị trong nghành dệt.
Tuy
nhiên, những phát minh máy móc trên có ý nghĩa quan trọng cho phát triển
sản xuất, tăng năng xuất, nhưng tự bản thân chúng chưa làm lên cuộc
cách mạng công nghiệp. Cần phải có nguồn động lực cho máy móc. Ban đầu
người ta sử dụng sức nước, nhưng nó lại hạn chế vì không phải ở đâu cũng
lợi dụng được sức nước, đặc biệt ở những nước phương Tây vào mùa động
lạnh giá việc dùng động lực của nước càng trở lên khó khăn hơn. Cho đến
năm 1769 khi tìm cách cải tiến máy hơi nước của Thomas Newcomen, James
Watt (1736-1819) – một kỹ sư làm việc ở văn phòng thí nghiệm thuộc
trường đại học Glasgow (Scotland) đã chế tạo ra máy hơi nước – một phát
minh vĩ đại thế kỷ. James Watt tiếp tục hoàn thiện máy hơi nước của mình
cho đến khi ra đời máy hơi nước kép. Máy hơi nước đưa vào sử dụng mới
thực sự đánh dấu mốc mở đầu của quá trình cơ khí hóa.
+
Máy hơi
nước nhanh chóng được sử dụng để tạo đông lực cho các nghành công nghiệp
nhờ đó sức sản xuất ra tăng nhanh chóng và năng xuất lao động cũng vậy,
máy hơi nước dần thay thế sức lao động thủ công. Với việc sử dujg máy
hơi nước, các nhà máy ở Anh bắt đầu hình thành.
Với máy
hơi nước hoạt động giao thông cùng trở lên phát triển với sự ra đời của
tàu hỏa chạy bằng động cơ hơi nước rồi tàu thủy cũng được trang bị động
cơ này, năm 1804, chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước đã ra
đời. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Thành công này
đã làm bùng nổ hệ thống đường sắt ở Châu Âu và Mĩ. Năm 1807, Phơntơn
(Robert Fulton) đã chế ra tàu thuỷ chạy bằng hơi nước thay thế cho những
mái chèo hay những cánh buồm. Thực sự động cơ hơi nước đã làm được
những điều thật tuyệt vời cho quá trình công nghiệp hóa ở các nước
Phương Tây, đặc biệt là nước Anh – nơi được coi là “công xưởng của thế giới”
Cach
mạng công nghiệp không chỉ đơn thuần là cuộc cách mạng công cụ, nó đã
gây ra những biến đổi lớn trong quan hệ xã hội và cấu tạo giai cấp.
Ăngghen từng nhận xét: “Hơi nước và máy công cụ mới đã biến công trường thủ công thành đại công nghiệp hiện đại và, do đó, đã cách mạng hóa toàn bộ nền móng của xã hội tư bản”.
Như vậy có thể nói rằng sự ra đời của máy hơi nước thực sự đã làm lên
một cuộc cách mạng của con người trong việc khám phá và chinh phục thế
giới xung quanh. Động cơ hơi nước là cơ sở đánh cho toàn bộ nền công
nghiệp sau này, nó quyết định tới sự phát triển của mọi loại hình hoạt
động trong xã hội có nhu cầu sử dụng đến sức thay thế loa động thủ công
tay chân. Động cơ hơi nước có ý nghĩa quan trọng trong thành tựu văn
minh của con người./.
Vào thế kỷ XVII, cách mạng công nghiệp nổ ra ở Anh sau
khi cách mạng tư sản Anh thắng lợi đã đưa chủ nghĩa tư bản phát triển
lên một giai đoạn cao. Cuộc cách mạng này đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng trong quá trình sản xuất kinh tế ở Anh. Nó đem lại một sự biến đổi
lớn không những trong nền kinh tế Anh, mà còn ảnh hưởng đến các nước
khác ở châu Âu. I. NHỮNG TIỀN ÐỀ CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 1. Quá trình tích lũy TBCN ở Anh. So với bất cứ nước nào ở Châu Âu, Anh có đầy đủ điều kiện thứ nhất của nền sản xuất tư bản; đó là tích lũy tư bản. Quá trình tích lũy tư bản ở Anh được thực hiện thông qua sự bành trướng thuộc địa, mậu dịch hải ngoại và buôn bán nô lệ. Nước Anh bắt đầu bành trướng thuộc địa từ thế kỷ XV-XVII nhưng phải đợi đến thế kỉ XVIII, Anh mới chiếm địa vị hàng đầu trên mặt biển sau khi đánh bại các địch thủ của mình là Tây Ban Nha, Hà Lan và Pháp. Anh chiếm Ireland, Gibralta, 13 thuộc địa Châu Mỹ, Canada, một số đảo vùng Caribée, Tây Phi, Châu Úc, Ấn độ...Với hệ thống thuộc địa rộng lớn này, giai cấp tư sản Anh có một nguồn dự trữ dồi dào về tư bản. Các thuộc địa được dùng làm căn cứ quân sự và là nơi giai cấp tư sản Anh vơ vét, bóc lột các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho kinh tế TBCN của họ. Buôn bán nô lệ: cũng là một nguồn tích lũy nguyên thủy quan trọng của Anh. Sự phát triển của kinh tế đồn điền ở miền Nam nước Mỹ làm cho nhu cầu nô lệ ngày càng tăng, giai cấp tư sản Anh thu nhiều lợi nhuận từ việc buôn bán này. Trong số 15 triệu nô lệ đem bán ở Mỹ thì Anh là nước bán nhiều nhất. Tiền lời thường từ 100 % đến 300%. Sự phát triển của ngoại thương Anh cũng là một trong những yếu tố thúc đẩy kinh tế TBCN phát triển. Thông qua việc buôn bán mang tính chất tước đoạt, giai cấp tư sản Anh thu được một nguồn nguyên liệu dồi dào và rẻ mạt. Một điểm đặc biệt của Anh thế kỷ XVII-XVIII là nền thương nghiệp tam giác, nền thương mại ấy đã đem lại một món lời đặc biệt cao cho thương nhân Anh. 2. Cuộc cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp. Ðây là một tiền đề quan trọng của cách mạng công nghiệp; mà nội dung là việc tước đoạt ruộng đất của nông dân. Việc rào đất cướp ruộng đã chuẩn bị sức lao động cần thiết cho nền sản xuất tư bản chủ nghĩa (nông dân bị tước đoạt, mất tư liệu lao động, trở thành công nhân) và tạo thị trường cho công nghiệp. Tình trạng tước đoạt ruộng đất đã dẫn đến sự phát triển của những trang trại tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế nông nghiệp tư bản chủ nghĩa cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, một phần lương thực cho thành thị và các khu công nghiệp; đồng thời thị trường công nghiệp cũng được mở rộng. Những thành tựu mà nền nông nghiệp Anh đạt được là bằng sự bóc lột nặng nề công nhân nông nghiệp và sự tước đoạt tàn nhẫn đối với nông dân: phần lớn nông dân tự canh trở thành cố nông, một số di cư đến các thành thị hoặc các thuộc địa, nông dân bị phá sản dần dần trở thành quần chúng cơ bản của giai cấp vô sản, nhờ đó mà sức lao động ở Anh được tích lũy nhiều hơn nơi nào hết (ba triệu người). Trong tác phẩm "The First Industrial Revolution" (NXB Cambridge 1969, trang 49), tác giả Phyllis Deane cho rằng cuộc cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp đóng một vai trò khá lớn trong quá trình tích lũy tư bản ở Anh và là một trong những tiền đề của CMCN. Nó đã tách rời nông dân khỏi tư liệu sản xuất và tạo ra một đội ngũ công nhân trong các cơ sở công nghiệp, chuyển chế độ ruộng đất phong kiến sang trang trại TBCN và mở rộng thị trường trong nước, nó đã mở rộng đất đai và gia tăng sản lượng nông phẩm. Những đặc điểm này phát triển trong một thời gian dài qua nhiều thời kì ở những vùng khác nhau trong nền nông nghiệp Anh. 3. Cách mạng chính trị thành công ở Anh là một trong những cuộc cách mạng tư sản sớm nhất đã đánh đổ chế độ phong kiến ở Anh mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Chính chế độ chính trị mới này là lực lượng tích cực, xúc tiến việc thủ tiêu những quan hệ kinh tế cũ còn lại, và củng cố phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản Anh ra sức thực hiện nhiều biện pháp để thúc đẩy nhanh sự phát triển công nghiệp và thương nghiệp: chế độ thuế khóa đã mang tính chất tư sản điển hình hơn, độc quyền mua bán các loại hàng hóa của nhà vua bị thủ tiêu; chỉ có nghị viện mới có quyền định thuế. Người ta ban hành những biện pháp tích cực nhằm làm cho việc buôn bán dễ dàng, cải tiến việc vận chuyễn hàng hóa, làm cho sự liên hệ giữa các thành phố và trung tâm buôn bán được thuận lợi. Năm 1638, Anh bắt đầu có bưu trạm, bưu chính dùng để chuyển tiền, đẩy nhanh sự giao lưu tiền tệ. Việc xây dựng đường sắt được khuyến khích để phát triển nhanh việc chuyên chở, liên lạc. Ngoài những tiền đề nêu trên, Anh còn có điều kiện thuận lợi để tiến hành cách mạng công nghiệp như: thương nghiệp sớm phát triển, vị trí giao thông thuận tiện, là vị trí địa lý trung tâm thời bấy giờ. Trong công trường thủ công đã có những cải tiến kỹ thuật và sự phân công lao động. II. NỘI DUNG CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP Cách mạng công nghiệp thực chất là một cuộc cách mạng kỹ thuật, thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc, xây dựng cơ sở vật chất cho nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, bảo đảm sự toàn thắng của chủ nghĩa tư bản đối với nền sản xuất nhỏ. Nội dung của cách mạng công nghiệp là phát minh ra máy móc. 1. Những phát minh lớn trong các ngành công nghiệp. 1.1. Công nghiệp nhẹ: Việc cải tiến kinh tế ở Anh bắt đầu từ công nghiệp nhẹ,û một ngành ít đòi hỏi vốn và thu lời nhanh. Cải tiến đầu tiên được thực hiện trong ngành dệt bông, một ngành tương đối mới, chưa có nhiều xưởng thủ công và những luật lệ hạn chế. Có thể kể những phát minh của: - John Kay về con thoi bay (1733). -J. Hagreaves về máy quay sợi (1767). - Edmond Cartwright về máy dệt (1785). -Richard Arkwright về máy kéo sợi chạy bằng sức nước (1769) Từ ngành dệt bông, việc phát minh máy móc, cải tiến kỹ thuật lan sang các ngành khác: len, tơ tằm, đăng ten... 1. 2. Ngành luyện kim: Những cải tiến về kĩ thuật trong công nghiệp nhẹ đặt ra một vấn đề lớn cho nền kinh tế là phải sản xuất nhiều máy móc. Do đó, cần phải phát triển ngành luyện kim và cơ khí. Năm 1735, Abraham Darby đã phát minh ra phương pháp luyện kim mới: nấu than cốc từ than đá để luyện gang. Năm 1784, Henry Cort xây lò luyện gang sử dụng nguyên liệu khóang sản để sản xuất gang thép. Người ta xây dựng những lò cao gấp 50 lò cũ để luyện sắt và đơn giản hóa việc nấu chảy quặng bằng cách dùng luồng khí nóng chảïy. Những phát minh này làm khả năng sản xuất đồ kim loại tăng lên và kích thích sự phát triển của công nghiệp khai mỏ. 1.3. Công nghiệp động lực: Sau những phát minh trên, sức nước được xem là động lực chủ yếu trong những máy lớn. Năm 1769, dựa trên một số lí thuyết, James Watt đã phát minh ra nguyên tắc máy hơi nước, và đến năm 1784 thì áp dụng vào các công xưởng một cách hoàn thiện. 1.4. Giao thông vận tải: Máy hơi nước cung cấp động lực cho cả ngành giao thông vận tải. Tàu thủy và tàu hỏa được chế tạo dựa trên nguyên tắc máy hơi nước. Năm 1814, Stephenson chế tạo ra một đầu máy kéo 8 toa, tốc độ 6km/h. Năm 1825, đường xe lửa đầu tiên được khánh thành. Tàu thủy chạy bằng hơi nước của Anh được hạ thủy lần đầu vào năm 1811. (Ở Mĩ, Fulton cho hạ thủy chiếc tàu chạy bằng máy hơi nước đầu tiên ở Hudson vào năm 1807).Từ đó, công nghiệp đóng tàu của Anh phát triển mạnh. Ngoài ra, hệ thống kênh đào của Anh cũng được chú ý xây dựng, tạo điều kiện cho việc vận chuyển hàng hóa được dễ dàng. III. HỆ QUẢ 1. Kinh tế: Cuộc cách mạng công nghiệp đã đưa đến sự thay đổi lớn trong lĩnh vực sản xuất kinh tế ở Anh. Do sản xuất bằng máy móc, số lượng công nhân tăng lên, chất lượng và giá trị sản phẩm tăng lên, giá thành sản phẩm hạ, điều này phản ánh sự tăng tiến của năng suất lao động và sự tiến bộ của lực lượng sản xuất. Anh trở thành cường quốc công nghiệp lớn nhất châu Âu thời bấy giờ. Sự phát triển của công nghiệp làm biến đổi sâu sắc bản đồ địa lý của Anh. Trước đây, phần lớn trung tâm công nghiệp và các vùng đông dân tập trung ở miền Nam, nhưng sau CMCN một số vùng công nghiệp mới được xây dựng ở miền Bắc, nhiều thành phố mới phát triển nhanh chóng, dân cư tăng nhanh. Liverpool, Manchester, Birmingham là những trung tâm công nghiệp và là những thành phố phát triển ở Anh. 2. Xã hội. Một trong những hệ quả quan trọng nhất của cách mạng công nghiệp Anh là sự thay đổi căn bản trong cấu trúc giai cấp của dân cư Anh: Tư sản và vô sản trở thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội. Trong tác phẩm Tình cảnh giai cấp công nhân Anh, Engels viết: "Lịch sử của giai cấp công nhân bắt đầu ở Anh từ nửa sau thế kỷ XVIII với sự phát minh ra máy hơi nước và việc chế biến bông". Với việc sử dụng máy móc một cách rộng rãi, công nhân bị bóc lột thậm tệ, trở nên phụ thuộc vào máy móc. Khi những công xưởng đầu tiên xuất hiện, lao động đàn bà và trẻ em thay thế cho lao động nam giới, họ bị đối xử tàn tệ và bị bóc lột tàn nhẫn, lương công nhân nữ và trẻ em rất thấp. Ngày làm việc bị kéo dài, điều kiện lao động tồi tệ, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn. Vì vậy, ngay từ lúc mới ra đời, giai cấp công nhân Anh đã đứng lên đấu tranh nhưng do ý thức chính trị còn non kém nên những cuộc đấu tranh ban đầu của họ mang tính tự phát thể hiện qua phong trào đập phá máy móc. Phong trào này phát triển và lan rộng từ những năm 70 của thế kỉ XVIII đến những năm đầu thế kỉ XIX. Phải trải qua một thời gian dài đấu tranh, giai cấp công nhân mới nhận thức được nguyên nhân của sự cùng khổ của họ là do sự bóc lột của giai cấp tư sản, từ đó phong trào công nhân có những chuyển biến rõ rệt. |
Trả lời:
Viết bởi: Butsap
Ngày viết: 22 Jan 2011 lúc 4:57pm
Phát minh khởi nguồn cách mạng công nghiệp
------------- |
Viết bởi: Butsap
Ngày viết: 22 Jan 2011 lúc 5:00pm
Tàu hỏa chạy bằng đầu máy hơi nước đầu thế kỉ XIX
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét