Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2017

CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 77/m (VŨ KHÍ CỔ ĐẠI)

(ĐC sưu tầm trên NET)
          

                                           Khám Phá Những Vũ Khí Tầm Xa Của Người Cổ Đại

Huyền thoại về cỗ máy quân sự La Mã - Kỳ 1: Người lính và chiến binh

Trong quá khứ, quân đội La Mã thường được mô tả như một “cỗ máy quân sự”. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu La Mã Ross Cowan, những lính lê dương La Mã này lại hung bạo như những thành viên của bộ lạc… man rợ nhất. Các nghiên cứu cho thấy những người lính lê dương La Mã không phải là những cỗ máy và chỉ trong nháy mắt, từ những người lính có kỷ luật, họ có thể trở thành những chiến binh đầy bản năng. Thiên hướng chiến đấu độc lập của đội quân La Mã, cùng số lần hành động vô kỷ luật không phải là hiếm, cũng như nhiều lần hành xử hung hăng đã cho thấy những tố chất chiến binh sẵn có trong họ, đồng thời làm nên những chiến thắng rực rỡ.

Kỳ 1: Người lính và chiến binh

Theo các nghiên cứu hiện đại, tổ chức phức tạp và tinh vi của quân đội La Mã, với vô số cấp bậc và chức năng được chuyên biệt hóa, cùng sự huấn luyện khắt khe, và trên hết là những thành công trong các cuộc chiến, đã khiến họ luôn được mô tả như là một “cỗ máy quân sự”. Họ được xem như là tiền thân của các lực lượng quân đội thường trực hiện đại, trong đó những binh lính của Đế chế La Mã, đặc biệt là những lính lê dương, được coi là những người lính chuyên nghiệp đầu tiên trên thế giới.

Phù điêu mô tả những người lính lê dương trong trận Sarcophagus năm 190 sau Công nguyên.

Người La Mã thường gọi quân đội của họ là “exercitus”. Nghĩa gốc của từ Latinh này là “rèn luyện” và nó được dùng để nhấn mạnh rằng người La Mã cực kỳ chú trọng tới công tác huấn luyện và tính kỷ luật. Nơi thao trường, đội quân này tôn thờ cả hai nữ thần Disciplina lẫn Campestres, song những người lính lê dương lại thường không phục tùng một cách máy móc như vậy.

Trong quân đội, tính kỷ luật tất nhiên là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong lịch sử trường kỳ của quân đội La Mã, những người lính - cả người La Mã gốc hay người Italia, dân tỉnh lẻ hay “bọn mọi rợ” ngoài tiền tuyến - đều được khích lệ giành được “virtus” để khuếch trương tên tuổi của họ. Được biết đến là từ ngữ chỉ phẩm chất can trường, xuất sắc và trên hết là lòng dũng cảm của một chiến binh, “virtus” đã trở thành niềm khát khao của những người lính và giúp các tướng lĩnh chỉ huy dễ dàng triển khai các đội hình tác chiến. Song chỉ khi lâm trận và ngoài tầm chỉ huy, kiểm soát của giới tướng lĩnh, phẩm chất “virtus” mới thực sự trỗi dậy. Do đó, có thể khẳng định rằng chính những hành động cá nhân của đội quân lính lê dương này mới quyết định kết quả thắng bại của cả trận đánh.

Phẩm chất “virtus” của cá nhân lính lê dương La Mã mới quyết định kết quả thắng bại của cả trận đánh.
Những người lính lê dương được bố trí, tổ chức thành các đơn vị chiến thuật gọi là trung đội hoặc đại đội bộ binh (từ 60 - 120 người). Nhiều lúc, những người lính lê dương này chiến đấu kề vai, sát cánh cùng nhau, tạo ra một khối sức mạnh và tập thể đoàn kết, tấn công thọc sâu vào hàng ngũ quân địch. Có những lúc, họ kéo dãn đội hình, mỗi người lính cách nhau khoảng 2 mét, chiến đấu độc lập nhưng vẫn hỗ trợ được cho nhau. Đôi khi, người lính lê dương chiến đấu hoàn toàn đơn độc, xoay chuyển và đối phó với kẻ thù từ mọi hướng. Vũ khí và trang bị thiết yếu của người lính lê dương là lao hoặc giáo. Kiếm và khiên che từ vai xuống chân có thể đáp ứng nhu cầu chiến đấu theo nhóm hoặc độc lập tác chiến.

Theo giới phân tích, một người lính La Mã khi tham chiến là sự kết hợp ghê gớm, đầy thăng hoa và hòa hợp những phẩm chất ưu tú giữa binh sĩ với chiến binh. Dưới sự chỉ đạo tài tình và khắt khe của các chuyên gia quân sự, các binh lính La Mã có tính kỷ luật cao này sẽ cùng nhau chiến đấu vì mục tiêu chung, song khi có cơ hội, quân đội La Mã cho phép các chiến binh vùng lên và thỏa mãn khát khao giành thắng lợi cá nhân của họ.

Tượng một sỹ quan chỉ huy đơn vị cấp 100 lính của Caesar.
Từng là tù nhân chính trị ở Rôma hồi giữa thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, sỹ quan kỵ binh và cũng là nhà sử học người Hy Lạp, ông Polybius khẳng định rằng, sự kết hợp giữa phẩm chất binh lính với chiến binh đầy hiệu quả này đã khiến người La Mã gần như bất khả chiến bại. Ngoài ra, Sallust, một sỹ quan chỉ huy của Hoàng đế Julius Caesar, cũng đã viết về việc virtus chi phối đội quân La Mã như thế nào và nó khiến họ trở nên can trường, dũng cảm và cạnh tranh dữ dội ra sao. Tuy nhiên, virtus còn khiến họ trở nên bất trị và không thể kiểm soát được.

Trong trận Thapsus (năm 46 trước Công nguyên), đội quân lê dương của Julius Caesar đã tỏ ra mất bình tĩnh, nôn nóng khi Hoàng đế chưa thể ra lệnh tấn công. Những người lính lê dương liền bắt một lính kèn ở tít cuối hàng ngũ phải thổi hiệu lệnh tấn công. Trong trận này, chính các sỹ quan chỉ huy mới là những người bị khiển trách do thiếu can đảm khi có hành động ngăn cản những người lính lê dương tấn công quân địch.

Trong khi đó, Hoàng đế Caesar lại tỏ ra không mấy bất ngờ trước sự bất tuân lệnh này của đám lính lê dương, ông lập tức bắt lính kèn của mình thổi điệu “chúc may mắn” và tự mình xông thẳng vào trận chiến. Sau đó, quân địch bị đánh bại tan tác, tướng lĩnh La Mã ra lệnh rút quân, song những binh lính “cuồng chiến” của Caesar đã phớt lờ những chỉ thị này, tiếp tục truy kích và tàn sát ngay cả những kẻ địch muốn đầu hàng.

Một sự kiện tương tự cũng đã xảy ra vào năm 68 sau Công nguyên. Tại Vesontio, trong cuộc thương lượng giữa tướng La Mã Verginius Rufus với thủ lĩnh Vindex của phiến quân xứ Gaul, những người lính lê dương thuộc Quân đoàn sông Rhine đã phá vỡ thỏa thuận đình chiến và xông thẳng vào tấn công lực lượng phiến quân trên.

Hai năm sau, trong cuộc vây hãm Jerusalem, những người lính lê dương đã phớt lờ các mệnh lệnh, chỉ thị rõ ràng từ tướng chỉ huy Titus, người sau này lên làm Hoàng đế La Mã, đã cố ý đốt Đền thánh Jerusalem của người Do Thái tại đây. Josephus, chỉ huy phiến quân Do Thái và cũng là nhà sử học, mô tả rằng những người lính La Mã đã trở nên khó kiểm soát: “Chẳng có tín ngưỡng hay mối đe dọa nào có thể ngăn được hành vi bạo lực của họ”.
LAT

Huyền thoại về cỗ máy quân sự La Mã - Kỳ 2: Tình đồng đội

Các chỉ huy trung đội “centurion” (từ 60 - 120 binh lính) không những có trách nhiệm duy trì kỷ luật, mà còn giúp khuếch trương và đề cao các tấm gương “virtus”. Họ cũng ý thức rõ danh tiếng của mình và quyết tâm duy trì hay củng cố “virtus” của bản thân.

Đội quân La Mã tiến vào pháo đài của người Dacian theo thế “mai rùa”, cũng là một kỹ thuật chiến đấu đỉnh cao của người La Mã.

Trong bộ phim truyền hình “Rome” từng được trình chiếu trên kênh HBO, có hai nhân vật được nhiều khán giả biết đến là Titus Pullo và Lucius Vorenus. Trong loạt phim này, Pullo chỉ là một lính lê dương bình thường dưới sự chỉ huy của Vorenus, song trong thực tế, cả hai đều là chỉ huy centurion.

Mùa Đông năm 54 trước Công nguyên, đội quân lính lê dương của Pullo và Vorenus bị bộ lạc chiến binh Nervii ở xứ Gaul bao vây. Bộ lạc Nervii là những đối thủ mà đội quân La Mã rất tôn trọng, không dám khinh thường. Tuy nhiên, với bản tính tị nạnh và ham lập công của mình, Titus Pullo không muốn quanh quẩn bảo vệ hay cố thủ trong thành, mà chỉ muốn xông trận giao chiến với kẻ thù, thậm chí còn muốn thách thức Vorenus tham chiến để cạnh tranh về “virtus” cũng như đọ lòng dũng cảm.

Phù điêu mô tả cảnh chiến binh La Mã dùng răng giữ thủ cấp của đối phương như là một chiến lợi phẩm.

Trong sử sách, Hoàng đế Julius Caesar viết rằng Pullo và Vorenus hay cãi cọ nhau và cạnh tranh khốc liệt vị trí chỉ huy cấp cao centurion trong đội quân lê dương. Trong một cuộc tấn công của các chiến binh Nervii, Pullo đã tuyên bố thẳng với Vorenus: “Sao lại do dự thế Vorenus? Ông đang đợi cơ hội nào đó để chứng minh lòng dũng cảm của mình à? Hôm nay sẽ quyết định sự cạnh tranh của chúng ta”. Ngay sau đó, Pullo đã xông thẳng ra ngoài thành và giao chiến với quân Nervii.
Về phần mình, Vorenus không thể cho phép Pullo có hành động hung hăng bất tuân lệnh như vậy. Ông hiểu rằng hành động liều lĩnh như vậy là nắm chắc phần chết, song danh dự và tiếng tăm còn quan trọng hơn. Nghĩ tới đó, Vorenus liền lập tức rời bỏ phòng tuyến và xông lên trước sự ngỡ ngàng của chính quân địch - các chiến binh Nervii.

Khi giáp chiến, Pullo ném ngay cây giáo của mình vào một kẻ địch. Ngay lập tức, đối phương đáp trả bằng cách ném một loạt mũi giáo vào Pullo, khiến lính lê dương này không có đường lùi và một mũi giáo đã xuyên thủng khiên, cắm vào bụng của Pullo. Theo ngay sát Pullo, Vorenus liền liều mình xông lên cứu đồng đội thoát khỏi vòng vây dày đặc của quân địch. Không may, Vorenus bất ngờ ngã xuống hố và bị quân địch bao vây. Tuy bị thương nhưng còn rất khỏe, Pullo liền vùng dậy hỗ trợ ứng cứu, cả hai người giết được một số quân địch và thoát khỏi vòng vây tháo chạy thành công về thành.

Trong quan niệm của người La Mã, những gì Pullo và Vorenus làm là nhằm gia tăng “virtus”. Đó là hình thức cạnh tranh anh hùng hữu hiệu, vinh quang và truyền cảm hứng nhất. Cho dù quân địch có hùng mạnh đến mấy, các centurion cũng đã thể hiện được tình đồng đội của họ. Hoàng đế Caesar từng nói rằng không thể quyết định ai là kẻ dũng cảm nhất trong đội quân La Mã.

Jacques Harmand, học giả nổi tiếng thời hiện đại về quân đội La Mã của thời Caesar, lại cho rằng Pullo và Vorenus là “những kẻ hung hăng điên khùng”. Hành vi hung hăng điên khùng không bị hạn chế đối với các centurion của Caesar. Trong trận chiến với người Giécmanh ở Ariovistus (năm 58 trước Công nguyên), Caesar đã chứng kiến nhiều lính lê dương đã lao như thiêu thân vào thế trận phòng thủ “mai rùa” (đan các tấm khiên thành khối thép phòng thủ) của quân Giécmanh nhằm xé toạc thế trận này từ trên cao. Những hành động “hung bạo” này là nét đặc trưng của các chiến binh La Mã bắt nguồn từ thời kỳ đầu tiên của đế chế.

Trong cuộc đụng độ bên ngoài thị trấn Fidenae vào năm 437 trước Công nguyên, tượng đài quân sự La Mã Cornelius Cossus đã giao chiến với Lars Tolumnius, vua của vùng Etruscan Veii. Cossus dùng giáo quật Tolumnius ngã ngựa, sau đó nhảy xuống ngựa và ra những đòn kết liễu vị vua này. Không dừng ở đó, Cossus còn lột giáp Etruscan, chặt đầu và gắn lên đầu ngọn giáo rồi lên ngựa phóng thẳng về phía hàng ngũ địch. Kỵ binh của xứ Etruscan hoảng sợ và tháo chạy khi chiến binh khát máu này xông thẳng tới với cái đầu thảm hại của vị vua xấu số.

Hành động lấy thủ cấp thường được gắn với những kẻ thù “man rợ” của Rome, đặc biệt là những kẻ tới từ xứ Gaul. Theo nhà chép sử Diodorus, trong thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, khi kẻ thù gục ngã, những người lính lê dương cắt đầu kẻ địch và buộc vào cổ ngựa. Họ mang chúng về nhà như là những chiến lợi phẩm và treo chúng lên tường nhà giống như treo đầu thú hoang mang về sau mỗi cuộc đi săn.

Một số học giả cho rằng người La Mã bắt đầu trở thành những kẻ săn đầu người từ khi giao chiến với các chiến binh xứ Gaul. Tuy nhiên, Cossus đã chặt đầu Tolumnius khoảng 50 năm trước khi người La Mã và người xứ Gaul trạm chán với nhau lần đầu tiên. Do đó, nhiều khả năng thói quen chặt đầu của người La Mã bắt nguồn từ thời tiền sử. Người La Mã vẫn duy trì truyền thống mà Romulus, con trai của Thần chiến tranh và là người xây dựng thành Rome, đã đánh bại vua Latin trong cuộc đấu tay đôi và sau đó chặt đầu vị vua này.

Lấy thủ cấp thường là hành động cuối cùng trong cuộc đấu tay đôi với kẻ thù, đồng thời cũng là biện pháp tối thượng để người La Mã xác định vị thế chiến binh của mình.

LAT

Huyền thoại về cỗ máy quân sự La Mã - Kỳ cuối: Săn đầu người

Năm 222 trước Công nguyên, Claudius Marcellus giết Viridomarus, Vua của xứ Gaesati trong trận Clastidium. Theo tính toán trên chiến trường, người Gaesati có biệt tài dùng kỵ binh. Nhằm tránh cho đoàn quân bị kỵ binh đối phương bao vây, Marcellus đã tính toán cách rút lui tốt nhất để Viridomarus ngạo mạn đuổi theo và thách đấu tay đôi.

Lính La Mã dâng lên Hoàng đế đầu đối phương đoạt được trong trận đánh.

Marcellus là một người nổi tiếng đấu tay đôi và danh tiếng của ông có thể cũng đã tới tai Vua Viridomarus. Ngay lập tức, vị vua ngạo mạn này chấp nhận lời thách thức và thúc ngựa tiến lên phía trước. Sau một cú đâm giáo mạnh thủng giáp của vị vua, Marcellus đã quật ngã đối thủ và nhanh chóng hạ sát đối phương. Công đoạn tiếp theo vẫn như thông lệ, Marcellus lấy đầu đối phương.

Cùng với vũ khí và áo giáp, những cái đầu của các vị vua như Lars Tolumnius và Viridomarus nhiều khả năng đã được dâng tiến cho chúa tể các vị thần là Jupiter. Đôi khi những cái đầu được đem ra trưng cho chỉ huy thấy để xác nhận số lượng kẻ địch mà những người lính lê dương hạ được. Có khi những cái đầu cũng được dùng để tô điểm cho những thắng lợi trên chiến trường. Giống như người xứ Gaul, người La Mã có thói quen đáng sợ là trang hoàng nhà của họ bằng những chiến lợi phẩm thu được trong trận chiến, trong đó những mảnh da đầu của kẻ thù thường được dùng trang trí trên các mũ sắt treo trong nhà.

Thói quen lấy đầu kéo dài tới tận thời kỳ Đế chế. Năm 2005, người ta đã phát hiện một tấm bia mộ La Mã ở thành phố Lancaster, Vương quốc Anh. Trên bia ghi năm 100 sau Công nguyên, mô tả chân dung của đội kỵ binh Insus. Ngựa của kỵ binh này giẫm đạp không thương tiếc lên một xác không đầu người Anh, còn lính Insus vung vẩy thủ cấp của người đàn ông này.

Bia mộ của một Insus, lính kỵ binh người Gaul trong quân đội La Mã.

Điều này cho thấy Insus đã tiếp nối truyền thống săn đầu của người xứ Gaul. Ngoài ra, tới thời Trajanic Frieze Đại đế, tượng đài chiến thắng ở Rôma trong các cuộc chiến với người Dacia thuộc Đế chế Trajan (năm 101-102 và 105-106 sau Công nguyên), người ta cũng thấy các cận vệ Praetorian chuyên bảo vệ các hoàng đế La Mã trưng các thủ cấp như là chiến lợi phẩm. Tưởng nhớ cuộc chiến với Marcomanni (năm 167-180 sau Công nguyên), Hoàng đế Marcus Aurelius cũng mô tả một cận vệ Praetorian giơ cao một cái đầu người mà cận vệ này đoạt được trong trận chiến.

Các cận vệ Praetorian là những người Italia đặc trưng nhất và là bằng chứng phản ánh đậm nét nhất thói quen lấy đầu của người La Mã vẫn rất mạnh. Những người lính lê dương tỉnh lẻ, có quê quán từ xứ Gaul và Giécmanh tham gia giao chiến trong trận Amida (359 sau Công nguyên), đã được khích lệ bằng khái niệm “virtus” khiến họ phục vụ lâu dài trong quân đội La Mã và dường như hành động lấy thủ cấp của kỵ binh Insus đã chịu ảnh hưởng rất sâu đậm từ các truyền thống của quân đội La Mã.

Người La Mã nổi tiếng với truyền thống lột da đầu và thường sử dụng các mảnh da đầu này trang trí trên các mũ giáp của họ. Trong trận chiến ở Hồ Trasimene (năm 217 trước Công nguyên), tướng La Mã Gaius Flaminius xung trận với một mũ giáp được trang trí bằng một miếng da dài từng lột từ đầu một thủ lĩnh xứ Gaul trong trận chiến tay đôi nhiều năm trước đó.

Giống như tục lấy đầu những chiến binh xứ Gaul và treo chúng trên cổ ngựa, hoặc treo chúng trên cánh cửa nhà, mảnh da đầu trên mũ Flaminius là minh chứng cho lòng dũng cảm của ông như một chiến binh độc lập. Thêm vào đó, trận chiến Vercellae (năm 101 trước Công nguyên) đội quân lính lê dương dùng lột da đầu như là một biện pháp khủng bố tinh thần và chinh phục những phụ nữ hiếu chiến thuộc bộ tộc Cimbri.

Thói quen ghê rợn lột da đầu làm chiến lợi phẩm này kéo dài tới tận thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Nghiên cứu gần đây về nền văn minh Babylon của Tiến sỹ Guy Stiebel thuộc Đại học Do Thái ở Jerusalem cho rằng trong cuộc khởi nghĩa Bar Kokhba (năm 132-136 sau Công nguyên), các lính lê dương bọc mũ giáp của họ bằng những miếng da đầu của các phiến quân Do Thái.

Mô tả đội quân La Mã như một cỗ máy quân sự là khá hấp dẫn nhưng lại không tương thích với khái niệm về một đội quân hiện đại. Quân đội La Mã phát triển từ các nhóm chiến đấu thuộc các bộ tộc La Mã cổ đại, và dù đã phát triển lớn mạnh về quy mô cũng như cơ cấu tổ chức tinh vi, song đội quân này vẫn luôn giữ đặc tính của những chiến binh.

Quân đội La Mã cũng có hình thức kỷ luật đối với những hành động bất tuân lệnh và vô kỷ luật. Một số binh lính xấu số đã bị hành hình nhằm răn đe những kẻ khác. Nhưng quan niệm chung về việc chứng tỏ giá trị của một chiến binh (điều mà mỗi người La Mã ở bất cứ cấp bậc nào cũng khát khao có được) đã giải thích lý do tại sao những hành động điên rồ của những kẻ như Titus Pullo hay các chỉ huy trong trận Amida không những được khoan dung, tha thứ, mà thậm chí còn được ca tụng và truyền đời.

LAT

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét