CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 182
(ĐC sưu tầm trên NET)
Điệp viên H3 và Văn phòng Bộ Tổng tham mưu ngụy, nơi ông hoạt động trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Năm 2006, tại Mỹ diễn ra hội thảo quốc tế về “Tình báo trong chiến
tranh Việt Nam”, do Trung tâm Việt Nam, thuộc Đại học Công nghệ Tếch-dớt
cùng Trung tâm Nghiên cứu tình báo thuộc CIA phối hợp tổ chức. Một cựu
nhân viên CIA đã nhận định rằng: “Đúng là phải có một điệp viên cộng sản
từng nằm ngay trong lòng Bộ Tổng tham mưu (ngụy). Dường như không phải
là sĩ quan cao cấp, không phải là tùy tùng thân cận của Tổng thống
Thiệu, song chắc chắn nhân vật này đã gửi ra Bộ Chính trị Bắc Việt nhiều
tin tình báo chiến lược”.
Thông tin đó về sau đã được giải mật. Đó là điệp viên mang bí số H3 của Phòng Tình báo B2, với hơn 20 năm sống trong lòng địch, 16 năm sống trong sào huyệt của quân đội Việt Nam Cộng hòa, đã thể hiện bản lĩnh kiên cường và mưu trí “siêu việt”. Giữa “biển giáo, rừng gươm”, một mình hoạt động đơn tuyến, tính mạng lúc nào cũng treo “trên miệng cọp” nhưng ông đã bình tĩnh hoạt động, hoàn thành tốt các chức trách mà quân đội ngụy giao cho, tạo nên “tấm bình phong” an toàn để ông hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà cách mạng giao phó. Ông là Nguyễn Văn Minh, Anh hùng LLVT nhân dân.
Nguyễn Văn Minh sinh năm 1933, tại Hưng Yên, trong một gia đình thợ thủ công. Lớn lên, ông vào Sài Gòn tìm việc làm, lòng yêu nước đã thôi thúc ông tìm đến với cách mạng. 20 tuổi, ông đã là một công nhân hoạt động bí mật cho Mặt trận Liên Việt giữa lòng Sài Gòn. Đến năm 1959, ông được Quận ủy Thủ Đức cử làm nhiệm vụ tìm cách lọt vào quân đội ngụy quyền Sài Gòn. Năm 1963, lợi dụng sự kiện chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các phe phái ngụy quân, ngụy quyền chèn ép nhau để tranh quyền, đoạt lợi, ông đã tìm cách chui sâu vào hàng ngũ kẻ thù với chức danh nhân viên văn thư của Văn phòng Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Có. Không lâu sau đó, Nguyễn Cao Kỳ lật đổ Nguyễn Hữu Có nhưng với vỏ bọc là một nhân viên quân sự mẫn cán, tận tụy với công việc, được nhiều người trong Văn phòng quý mến nên ông được tân Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên tiếp tục tin dùng. Từ đó, H3 trở thành một trong 4 nhân viên văn thư của Văn phòng Tổng tham mưu trưởng.
Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Minh.
Công việc hằng ngày của H3 là tiếp nhận và lưu trữ công văn đi, công văn
đến giữa Văn phòng Tổng tham mưu trưởng với các cơ quan, đơn vị trong
quân đội ngụy, đặc biệt là trao đổi công văn với Phủ Tổng thống, với các
cơ quan Bộ Quốc phòng, các quân đoàn, quân khu. Công việc này tạo cơ
hội để H3 tiếp xúc với các tài liệu tối mật của địch.
Chính vì vậy, những tài liệu, tin tức mà H3 cung cấp cho ta rất có giá trị, bảo đảm độ chính xác cao. Làm việc trong môi trường tối mật như vậy, H3 luôn bị các cơ quan mật vụ, an ninh của địch để ý, theo dõi nhưng anh đã tìm ra cách hoạt động để che mắt kẻ thù. Không thể tiến hành sao chụp tài liệu vì nếu làm như thế dễ bị lộ, H3 đã rèn luyện để ghi nhớ, chép lại toàn bộ các công văn ông tiếp xúc hằng ngày rồi chuyển về lưới tình báo do đồng chí Hai Kim phụ trách.
Cách làm này đòi hỏi trí não ông hoạt động không ngơi nghỉ. Đôi mắt ông lúc về già bị mờ đi rất nhanh do hoạt động quá tải trong hàng chục năm ròng. Để có thể nắm nhiều tài liệu của địch, ông khéo léo nhận về mình nhiều phần việc trong số 4 nhân viên văn thư. Ngày làm việc cho địch, đêm thức viết lại để báo cho tổ chức, rất nhiều đêm ông đã thức trắng để báo cáo cho hết các nội dung công văn đã nắm được hằng ngày. Các ý đồ lớn của địch, như kế hoạch bình định nông thôn, kế hoạch lấn chiếm, xóa các vùng giải phóng… đều được ông báo cáo chính xác về căn cứ.
Đến đầu năm 1975, ông đã báo cáo tin quan trọng có tính quyết định để ta củng cố quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975, đó là tin Mỹ trả lời ngụy quân, ngụy quyền: “Mỹ coi như chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc, Mỹ sẽ không chi viện cho quân ngụy bằng lực lượng chiến đấu của Mỹ”. Cùng với đó, các báo cáo của ông còn phân tích mối tương quan giữa lực lượng địch và viện trợ của Mỹ, giữa viện trợ và mức độ sử dụng bom đạn, phi vụ, cơ động của xe tăng, tàu chiến, việc bố trí binh lực tại các quân khu của quân ngụy…
Trong sự kiện 30/4/1975, khi Quân giải phóng đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy, chính H3 đã động viên các viên chức trong văn phòng của tướng Cao Văn Viên gìn giữ, niêm phong kho tàng, hồ sơ, bảo toàn tài liệu, máy móc trong văn phòng để bàn giao cho quân giải phóng.
Sau ngày đất nước thống nhất, Đại tá Nguyễn Văn Minh tiếp tục công tác trong quân đội một thời gian rồi nghỉ hưu theo chế độ. Ông sống khiêm nhường, giản dị, gần gũi với mọi người. Tháng 9/2009, điệp viên H3-Nguyễn Văn Minh từ trần trong thanh thản, để lại nỗi tiếc thương khôn nguôi trong tâm trí người thân và đồng đội. Ông là một trong những điệp viên mà khả năng giữ bí mật hoạt động đã trở thành huyền thoại, khiến kẻ thù kinh ngạc về bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần “thép” của ông.
Nhưng vỏ quýt dày ắt có móng tay nhọn. Tình báo ta sớm phát hiện ra âm mưu, thủ đoạn ấy của địch, đã chủ động đối phó bằng cách chỉ đạo mạng lưới điệp báo bám sát cơ quan tình báo hỗn hợp Việt – Mỹ và các cơ quan cảnh sát, an ninh, tình báo, thông tin chiêu hồi… địch để thu thập tin tức, tài liệu về những bản cung khai của tù binh và bọn đầu hàng, đầu thú. Hằng tuần, các cụm điệp báo đứng chân ở vùng ven Sài Gòn tập hợp những tin tức, tài liệu dạng này (thường được viết chữ nhỏ li ti vào giấy pơ-luya), giao cho các tổ giao liên vũ trang vượt hàng trăm cây số, chuyển về Phòng tình báo chiến lược Miền (J22).
Nguyễn Văn Lễ (thứ tư từ trái sang) tại dinh Độc Lập ngày 30-4-1975. Ảnh tư liệu
Một ngày đầu năm 1969, trợ lý điệp báo của Phòng tình báo chiến lược
Miền nhận được liền mấy bản tin như vậy do tổ trưởng tổ điệp báo đồng
thời là điệp viên Nguyễn Văn Lễ (tức Ba Lễ, Ba Nghĩa, bí số H3, thời
Diệm là trưởng ty Cảnh sát Vĩnh Bình rồi trưởng ty Cảnh sát Côn Đảo, lúc
ấy là dân biểu, chủ tịch Tiểu ban lao động – xã hội của Hạ viện ngụy)
thu thập được. Trong xấp tin có một bản ghi lời khai của một cán bộ sơ
cấp thuộc Phân khu 23, do chịu không nổi sự gian khổ, ác liệt của chiến
trường Long An nên đã phản bội, ra đầu hàng địch. Nội dung tin cho thấy
tên này vốn là cán bộ thuộc Cục Chính trị – Bộ tư lệnh Miền, mới được
điều về bổ sung cho Phân khu 23 sau đợt 3 của cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Mậu Thân 1968. Hắn chẳng những đã khai hết hiểu biết của hắn về
tình hình Phân khu 23 mà còn khai rất cụ thể về tổ chức, lực lượng,
phương tiện, cán bộ chủ trì, chủ chốt, địa điểm đóng quân của Cục Chính
trị Miền cùng một số nội dung liên quan đến Cục Tham mưu, Cục Hậu cần
Miền và Quân ủy Miền. Nguy hiểm hơn, hắn còn vẽ cho địch sơ đồ đóng quân
khá cụ thể của các cơ quan trên tại khu rừng Sóc Mông ở phía bắc tỉnh
Tây Ninh, giáp với đất Cam-pu-chia. Lời khai của hắn đã được cơ quan
tình báo hỗn hợp Việt – Mỹ gửi tới Bộ chỉ huy không quân chiến lược Mỹ
để “tùy nghi sử dụng”.
Đọc xong bản tin, với sự nhạy bén vốn có, trợ lý điệp báo lập tức báo cáo thủ trưởng Phòng tình báo chiến lược Miền, đồng thời nêu nhận định nhiều khả năng địch sẽ dùng không quân đánh phá mạnh vào căn cứ của Bộ tư lệnh Miền. Tán thành nhận định đó, thủ trưởng phòng đã có báo cáo gửi ngay lên thủ trưởng Cục tham mưu và thủ trưởng Bộ tư lệnh Miền. Qua đọc báo cáo, lại thấy hôm trước có máy bay trinh sát Mỹ quần thảo mấy vòng trên khu vực căn cứ của mình, thủ trưởng Bộ tư lệnh Miền liền ra lệnh cho toàn bộ cơ quan mau chóng di chuyển ngay trong ngày, tới một khu rừng khác ở cách đó khoảng 3 giờ đi bộ. Tới nơi, tất cả phải khẩn trương bố trí nơi ăn ở, làm việc dã chiến và xây dựng hầm tránh bom vững chắc. Mỗi phòng chỉ để lại khu căn cứ cũ 1-2 tổ có vũ trang để sẵn sàng đánh địch khi chúng đổ quân.
Vài giờ sau khi ta thực hiện xong việc di chuyển, quả nhiên căn cứ cũ bị không quân địch đánh phá dữ dội. Từ 8 giờ tối hôm trước tới tận sáng hôm sau, cứ cách khoảng 7 phút lại có một tốp 3 chiếc máy bay B52 kéo tới trút bom. Thường thì máy bay B52 trút bom theo kiểu rải thảm, thành từng vệt dài, đợt sau kế tiếp đợt trước nhưng lần này chúng đánh bồi, đánh nhồi, cùng một chỗ, tốp trước đã đánh bom rồi, tốp sau lại đánh tiếp. Cả một khu rừng rậm rạp rộng chừng 20km2, là loại rừng có tới 3 tầng tán cây dày, từ máy bay trinh sát không thấy được người, nhà cửa, phương tiện, hầm hào… trên mặt đất vậy mà chỉ sau một đêm đã bị san bằng. Ba chiến sĩ bảo vệ của ta hy sinh do đã quen đối phó với kiểu ném bom rải thảm, khi dứt đợt bom trước liền tới ẩn nấp ở những hố bom vừa mới xuất hiện, không ngờ địch đánh bồi, đánh nhồi, trùm lên cả khu vực đã đánh.
Như vậy là từ một bản tin cụ thể của điệp viên H3, qua phân tích, nhận định chính xác của Phòng tình báo và nhờ quyết định đúng đắn của thủ trưởng Bộ tư lệnh Miền mà toàn bộ cơ quan Bộ tư lệnh đã kịp thời di chuyển, tránh được nguy cơ bị xóa sổ.
Vũ Sáng
Người chép những bản tin TUYỆT MẬT
Giải mật về điệp viên H3 – người khiến CIA kinh ngạc
Một mình hoạt động đơn tuyến, ông đã tạo
nên “tấm bình phong” an toàn ngay giữa sào huyệt của quân đội Việt Nam
Cộng hòa để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà cách mạng giao phó. Ông là
điệp viên H3-Nguyễn Văn Minh, Anh hùng LLVT nhân dân.
Điệp viên H3 và Văn phòng Bộ Tổng tham mưu ngụy, nơi ông hoạt động trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thông tin đó về sau đã được giải mật. Đó là điệp viên mang bí số H3 của Phòng Tình báo B2, với hơn 20 năm sống trong lòng địch, 16 năm sống trong sào huyệt của quân đội Việt Nam Cộng hòa, đã thể hiện bản lĩnh kiên cường và mưu trí “siêu việt”. Giữa “biển giáo, rừng gươm”, một mình hoạt động đơn tuyến, tính mạng lúc nào cũng treo “trên miệng cọp” nhưng ông đã bình tĩnh hoạt động, hoàn thành tốt các chức trách mà quân đội ngụy giao cho, tạo nên “tấm bình phong” an toàn để ông hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà cách mạng giao phó. Ông là Nguyễn Văn Minh, Anh hùng LLVT nhân dân.
Nguyễn Văn Minh sinh năm 1933, tại Hưng Yên, trong một gia đình thợ thủ công. Lớn lên, ông vào Sài Gòn tìm việc làm, lòng yêu nước đã thôi thúc ông tìm đến với cách mạng. 20 tuổi, ông đã là một công nhân hoạt động bí mật cho Mặt trận Liên Việt giữa lòng Sài Gòn. Đến năm 1959, ông được Quận ủy Thủ Đức cử làm nhiệm vụ tìm cách lọt vào quân đội ngụy quyền Sài Gòn. Năm 1963, lợi dụng sự kiện chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các phe phái ngụy quân, ngụy quyền chèn ép nhau để tranh quyền, đoạt lợi, ông đã tìm cách chui sâu vào hàng ngũ kẻ thù với chức danh nhân viên văn thư của Văn phòng Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Có. Không lâu sau đó, Nguyễn Cao Kỳ lật đổ Nguyễn Hữu Có nhưng với vỏ bọc là một nhân viên quân sự mẫn cán, tận tụy với công việc, được nhiều người trong Văn phòng quý mến nên ông được tân Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên tiếp tục tin dùng. Từ đó, H3 trở thành một trong 4 nhân viên văn thư của Văn phòng Tổng tham mưu trưởng.
Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Minh.
Chính vì vậy, những tài liệu, tin tức mà H3 cung cấp cho ta rất có giá trị, bảo đảm độ chính xác cao. Làm việc trong môi trường tối mật như vậy, H3 luôn bị các cơ quan mật vụ, an ninh của địch để ý, theo dõi nhưng anh đã tìm ra cách hoạt động để che mắt kẻ thù. Không thể tiến hành sao chụp tài liệu vì nếu làm như thế dễ bị lộ, H3 đã rèn luyện để ghi nhớ, chép lại toàn bộ các công văn ông tiếp xúc hằng ngày rồi chuyển về lưới tình báo do đồng chí Hai Kim phụ trách.
Cách làm này đòi hỏi trí não ông hoạt động không ngơi nghỉ. Đôi mắt ông lúc về già bị mờ đi rất nhanh do hoạt động quá tải trong hàng chục năm ròng. Để có thể nắm nhiều tài liệu của địch, ông khéo léo nhận về mình nhiều phần việc trong số 4 nhân viên văn thư. Ngày làm việc cho địch, đêm thức viết lại để báo cho tổ chức, rất nhiều đêm ông đã thức trắng để báo cáo cho hết các nội dung công văn đã nắm được hằng ngày. Các ý đồ lớn của địch, như kế hoạch bình định nông thôn, kế hoạch lấn chiếm, xóa các vùng giải phóng… đều được ông báo cáo chính xác về căn cứ.
Đến đầu năm 1975, ông đã báo cáo tin quan trọng có tính quyết định để ta củng cố quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975, đó là tin Mỹ trả lời ngụy quân, ngụy quyền: “Mỹ coi như chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc, Mỹ sẽ không chi viện cho quân ngụy bằng lực lượng chiến đấu của Mỹ”. Cùng với đó, các báo cáo của ông còn phân tích mối tương quan giữa lực lượng địch và viện trợ của Mỹ, giữa viện trợ và mức độ sử dụng bom đạn, phi vụ, cơ động của xe tăng, tàu chiến, việc bố trí binh lực tại các quân khu của quân ngụy…
Trong sự kiện 30/4/1975, khi Quân giải phóng đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy, chính H3 đã động viên các viên chức trong văn phòng của tướng Cao Văn Viên gìn giữ, niêm phong kho tàng, hồ sơ, bảo toàn tài liệu, máy móc trong văn phòng để bàn giao cho quân giải phóng.
Sau ngày đất nước thống nhất, Đại tá Nguyễn Văn Minh tiếp tục công tác trong quân đội một thời gian rồi nghỉ hưu theo chế độ. Ông sống khiêm nhường, giản dị, gần gũi với mọi người. Tháng 9/2009, điệp viên H3-Nguyễn Văn Minh từ trần trong thanh thản, để lại nỗi tiếc thương khôn nguôi trong tâm trí người thân và đồng đội. Ông là một trong những điệp viên mà khả năng giữ bí mật hoạt động đã trở thành huyền thoại, khiến kẻ thù kinh ngạc về bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần “thép” của ông.
Theo Quân đội Nhân dân
Bí mật về viên thượng sĩ mang mật danh H3
Chủ Nhật, 17/1/2016 07:47 GMT+7
(PLO) - Viên thượng sĩ “quèn” đó từ năm
1963 đã là nhân viên văn thư của Văn phòng Tổng Tham mưu trưởng quân
đội Sài Gòn Nguyễn Hữu Có. Với tinh thần làm việc mẫn cán, tận tụy, được
nhiều người trong văn phòng quý mến, lại được tân Tổng Tham mưu trưởng
Cao Văn Viên tiếp tục tin dùng, trở thành một trong bốn nhân viên văn
thư của Văn phòng Tổng Tham mưu trưởng.
Điệp viên H3 và Văn phòng Bộ Tổng tham mưu quân đội VNCH, nơi ông hoạt động trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Viên thượng sĩ
Đồng
chí Bảy Vĩnh - cán bộ tình báo - kể lại, khi chỉ huy một bộ phận biệt
động bí mật đột nhập vào khu vực cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, đã “đụng”
ngay một viên thượng sĩ nhất của văn phòng như đang ngồi chờ đợi.
Viên
thượng sĩ “quèn” đó bình tĩnh ở lại văn phòng cho tới 3 giờ chiều, khi
mọi việc giao nộp sổ sách cho Quân giải phóng xong xuôi; hệ thống máy
tính lưu trữ hồ sơ của hơn một triệu quân đội Sài Gòn, cùng toàn bộ giấy
tờ tại Văn phòng Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên được niêm phong
không mất một tờ nào, anh ta mới ra về…
Viên
thượng sĩ ấy còn trực tiếp trao chìa khoá, dẫn quân giải phóng tiếp
quản tất cả những gì còn lại ở cơ quan đầu não của Quân đội Việt Nam
Cộng hòa.
Mãi
về sau ông Bảy Vĩnh kể lại, trong cuộc gặp mặt những anh em, đồng đội
của Phòng Tình báo chiến lược (J22) - Bộ tham mưu quân giải phóng miền
Nam, chính Bảy Vĩnh, cụm trưởng Cụm tình báo H67, đã nhận ngay ra viên
thượng sĩ nhất “phe địch” mà mình đã gặp khi đánh chiếm Bộ Tổng Tham
mưu, Và càng ngạc nhiên hơn khi biết, viên thượng sĩ nhất đó mang bí
danh H3, một đồng đội của mình cùng hoạt động trong ngành tình báo.
Mật danh H3
Còn
với người Mỹ và cơ quan tình báo CIA, mãi về sau, vẫn không hề biết
được H3 là ai? Năm 2006, tại Hội thảo quốc tế về “Tình báo trong chiến
tranh Việt Nam” do Trung tâm Việt Nam thuộc Đại học Công nghệ Tếch-dớt
của Mỹ cùng Trung tâm Nghiên cứu tình báo CIA phối hợp tổ chức, một cựu
nhân viên CIA đã nhận định rằng:
“Đúng
là phải có một điệp viên cộng sản từng nằm ngay trong lòng Bộ Tổng Tham
mưu (Việt Nam Cộng hòa). Dường như không phải là sĩ quan cao cấp, không
phải là tùy tùng thân cận của Tổng thống Thiệu, song chắc chắn nhân vật
này đã gửi ra Bộ Chính trị Bắc Việt nhiều tin tình báo chiến lược”.
Thông tin đó về sau đã được giải mật. Người đó là điệp viên mang bí số
H3 của Phòng Tình báo Miền.
Giữa
“biển giáo, rừng gươm”, một mình hoạt động đơn tuyến, tính mạng lúc nào
cũng treo “trên miệng cọp” nhưng với bản lĩnh kiên cường và mưu trí
“siêu việt”, H3 đã bình tĩnh hoạt động, hoàn thành tốt chức trách mà
quân đội Sài Gòn giao cho, tạo nên “tấm bình phong” an toàn để hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ mà cách mạng giao phó.
![]() |
| Đại tá, Anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Minh, tức H3 |
H3 chính là viên thượng sĩ “quèn”, chiến sĩ tình báo mang tên Nguyễn Văn Minh.
Được
biết, Nguyễn Văn Minh sinh năm 1933, tại Hưng Yên, trong một gia đình
thợ thủ công. Lớn lên, ông vào Sài Gòn tìm việc làm. Lòng yêu nước đã
thôi thúc ông tìm đến với cách mạng và năm 20 tuổi, ông đã là một công
nhân hoạt động bí mật cho Mặt trận Liên - Việt giữa lòng Sài Gòn.
Năm
1959, Nguyễn Văn Minh với bí danh H3, được phái khiển lọt vào quân đội
Sài Gòn hoạt động bí mật và năm 1963, lợi dụng lúc Ngô Đình Diệm bị lật
đổ, các phe phái tranh quyền, đoạt lợi, ông đã tìm cách chui sâu vào cơ
quan cơ mật của quân đội với chức danh nhân viên văn thư của Văn phòng
Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Có.
Không lâu sau, Nguyễn Cao Kỳ lật đổ Nguyễn Hữu Có, ông được tân Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên tiếp tục tin dùng.
Ở
vị trí này, H3 - Nguyễn Văn Minh có điều kiện tiếp xúc nhiều tài liệu
tuyệt mật của địch, hàng ngày phải tiếp nhận, sản xuất và giải quyết
“hàng lô” công văn đi - công văn đến giữa Văn phòng Tổng Tham mưu trưởng
với các cơ quan, đơn vị trong quân đội; đặc biệt trao đổi công văn với
Phủ Tổng thống, các cơ quan Bộ Quốc phòng, các quân khu, quân đoàn...
Đây toàn là những tài liệu thuộc hạng tối mật, tuyệt mật của địch.
Vũ khí là…trí nhớ
Làm
việc trong môi trường như vậy, H3 luôn bị các cơ quan mật vụ, an ninh
của địch để ý, theo dõi nên không thể tiến hành sao chụp tài liệu, vì
làm như thế dễ bị lộ. Để có thể nắm được nhiều tài liệu của địch, ông
khéo léo nhận về mình nhiều phần việc trong số bốn nhân viên văn thư.
Ngày
làm việc cho Văn phòng Tổng Tham mưu trưởng, đêm thức viết lại để báo
cho tổ chức. Rất nhiều đêm ông thức trắng báo cáo cho hết các nội dung
công văn đã nắm được. Tránh sai sót, thiếu hụt. H3 đã rèn luyện để có
trí nhớ tuyệt vời, chép lại toàn bộ các công văn tiếp xúc hằng ngày bằng
trí nhớ rồi chuyển về lưới tình báo do nữ đồng chí Hai Kim phụ trách.
Cách
làm này đòi hỏi trí não ông hoạt động không ngơi nghỉ và đôi mắt phải
hoạt động quá tải, nên lúc về già mắt ông bị mờ đi rất nhanh…
Những
tài liệu, tin tức mà H3 - Nguyễn Văn Minh chuyển về, có giá trị chiến
lược, chiến dịch quan trọng mà tình báo cần. Nhiều tài liệu nguyên bản
đạt độ tin cậy và chính xác cao, giúp cơ quan chỉ đạo chiến lược của ta
hiểu rõ âm mưu ý đồ của địch, như kế hoạch bình định nông thôn, kế hoạch
lấn chiếm xóa các vùng giải phóng theo kiểu “lấp lỗ da báo” của địch,
đồng thời đánh giá đúng ý đồ của Mỹ sau khi ký Hiệp định Paris năm
1973.
Tin
tức của H3 -Nguyễn Văn Minh đưa về giúp trên khẳng định: “Đối với Mỹ
không có nửa hòa, nửa chiến, Mỹ chỉ tìm cách xóa ta, nếu ta mạnh, Mỹ
chịu thua, nếu ta yếu, Mỹ lấn tới”.
Ngoài
những tin tức có ý nghĩa chiến lược, chiến dịch nói trên, H3 - Nguyễn
Văn Minh còn cung cấp những tin tức về chủ trương mới của quân đội Sài
Gòn; theo dõi diễn biến toàn miền; tin địch nhận định về ta; chủ trương
đối phó của địch; việc bố trí binh lực giữa các quân khu; việc sử dụng
lực lượng tổng trù bị dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, không
quân; việc địch tổ chức lại lực lượng sau những lần tổn thất;...
Đặc
biệt, những tin tức thu được trong hai năm 1973, 1974 và đầu năm 1975
có giá trị cao, góp phần giải đáp được các yêu cầu điều tra một loạt các
vấn đề chiến lược quan trọng trong thời điểm then chốt.
Khi
ta chuẩn bị Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, tin tức của H3
- Nguyễn Văn Minh đã giúp trên khẳng định: “Khi ta đánh vào Sài Gòn thì
Mỹ không trực tiếp tham chiến trở lại”, “Mỹ coi như chiến tranh ở Việt
Nam đối với Mỹ đã kết thúc, Mỹ sẽ không chi viện cho quân đội Sài Gòn
bằng lực lượng chiến đấu của Mỹ”.
Tài
liệu do H3 - Nguyễn Văn Minh lấy được từ phòng làm việc của Tổng Tham
mưu trưởng Cao Văn Viên có giá trị chiến lược hết sức quan trọng để Bộ
Chính trị, Quân ủy Trung ương chọn giải pháp cho cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy mùa Xuân năm 1975 trong thời gian ngắn nhất...
Hơn
20 năm hoạt động bí mật giữa lòng địch, H3 - Nguyễn Văn Minh đã tạo cho
mình một vỏ bọc ở vị trí cao sâu. Những năm cuối của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, H3 - Nguyễn Văn Minh là cơ sở chủ yếu cung cấp được
khối lượng lớn tin tức, tài liệu về chiến dịch, chiến lược của địch, góp
phần tích cực vào đại thắng Mùa xuân 1975, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
trên giao.
H3
- Nguyễn Văn Minh trở thành một trong những điệp viên huyền thoại,
khiến kẻ thù kinh ngạc về bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần “thép” của ông.
Năm 1999, Đại tá Nguyễn Văn Minh vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng
danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân…/.
Từ một bản tin của H3…
Tháng Ba 28, 2011
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, cả Mỹ lẫn chính quyền Sài Gòn đều
rất coi trọng việc thẩm vấn, lấy lời khai của bọn phản bội, đầu hàng,
đầu thú. Chúng thành lập hẳn một cơ quan tình báo hỗn hợp Việt – Mỹ để
làm việc này. Hễ bắt được tù binh hoặc có kẻ từ phía ta ra đầu hàng, đầu
thú là chúng tập trung khai thác tin tức, tài liệu. Trên cơ sở những
tin tức, tài liệu đó, chúng đã tiến hành nhiều hoạt động đánh phá trên
hầu khắp các mặt, gây cho ta không ít tổn thất.Nhưng vỏ quýt dày ắt có móng tay nhọn. Tình báo ta sớm phát hiện ra âm mưu, thủ đoạn ấy của địch, đã chủ động đối phó bằng cách chỉ đạo mạng lưới điệp báo bám sát cơ quan tình báo hỗn hợp Việt – Mỹ và các cơ quan cảnh sát, an ninh, tình báo, thông tin chiêu hồi… địch để thu thập tin tức, tài liệu về những bản cung khai của tù binh và bọn đầu hàng, đầu thú. Hằng tuần, các cụm điệp báo đứng chân ở vùng ven Sài Gòn tập hợp những tin tức, tài liệu dạng này (thường được viết chữ nhỏ li ti vào giấy pơ-luya), giao cho các tổ giao liên vũ trang vượt hàng trăm cây số, chuyển về Phòng tình báo chiến lược Miền (J22).
Nguyễn Văn Lễ (thứ tư từ trái sang) tại dinh Độc Lập ngày 30-4-1975. Ảnh tư liệuĐọc xong bản tin, với sự nhạy bén vốn có, trợ lý điệp báo lập tức báo cáo thủ trưởng Phòng tình báo chiến lược Miền, đồng thời nêu nhận định nhiều khả năng địch sẽ dùng không quân đánh phá mạnh vào căn cứ của Bộ tư lệnh Miền. Tán thành nhận định đó, thủ trưởng phòng đã có báo cáo gửi ngay lên thủ trưởng Cục tham mưu và thủ trưởng Bộ tư lệnh Miền. Qua đọc báo cáo, lại thấy hôm trước có máy bay trinh sát Mỹ quần thảo mấy vòng trên khu vực căn cứ của mình, thủ trưởng Bộ tư lệnh Miền liền ra lệnh cho toàn bộ cơ quan mau chóng di chuyển ngay trong ngày, tới một khu rừng khác ở cách đó khoảng 3 giờ đi bộ. Tới nơi, tất cả phải khẩn trương bố trí nơi ăn ở, làm việc dã chiến và xây dựng hầm tránh bom vững chắc. Mỗi phòng chỉ để lại khu căn cứ cũ 1-2 tổ có vũ trang để sẵn sàng đánh địch khi chúng đổ quân.
Vài giờ sau khi ta thực hiện xong việc di chuyển, quả nhiên căn cứ cũ bị không quân địch đánh phá dữ dội. Từ 8 giờ tối hôm trước tới tận sáng hôm sau, cứ cách khoảng 7 phút lại có một tốp 3 chiếc máy bay B52 kéo tới trút bom. Thường thì máy bay B52 trút bom theo kiểu rải thảm, thành từng vệt dài, đợt sau kế tiếp đợt trước nhưng lần này chúng đánh bồi, đánh nhồi, cùng một chỗ, tốp trước đã đánh bom rồi, tốp sau lại đánh tiếp. Cả một khu rừng rậm rạp rộng chừng 20km2, là loại rừng có tới 3 tầng tán cây dày, từ máy bay trinh sát không thấy được người, nhà cửa, phương tiện, hầm hào… trên mặt đất vậy mà chỉ sau một đêm đã bị san bằng. Ba chiến sĩ bảo vệ của ta hy sinh do đã quen đối phó với kiểu ném bom rải thảm, khi dứt đợt bom trước liền tới ẩn nấp ở những hố bom vừa mới xuất hiện, không ngờ địch đánh bồi, đánh nhồi, trùm lên cả khu vực đã đánh.
Như vậy là từ một bản tin cụ thể của điệp viên H3, qua phân tích, nhận định chính xác của Phòng tình báo và nhờ quyết định đúng đắn của thủ trưởng Bộ tư lệnh Miền mà toàn bộ cơ quan Bộ tư lệnh đã kịp thời di chuyển, tránh được nguy cơ bị xóa sổ.
Vũ Sáng
|
| Người giữ khoá bí mật ở Bộ Tổng tham mưu VNCH | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| Giải mã người mang bí số H.3 nằm trong Bộ Tổng tham mưu Quân đội Sài Gòn
Không
cần phải 30 năm, 35 năm, hay những dịp kỷ niệm chẵn ngày chiến thắng.
Câu chuyện này được viết khi Quốc lễ 30 tháng Tư lần thứ 32 đang đến
gần. Những chiến công của họ không cần bất kỳ ngày lễ nào để tôn vinh,
bởi sự thật lịch sử không cần bất kỳ bàn tay nào tô hồng, đánh bóng. Bản
thân họ, cuộc đời họ, chiến công của họ… đã tự toả sáng mãi muôn đời.
Câu
chuyện này kể về 1 người đàn ông cao gầy, bệnh tật thường xuyên, giữ im
lặng suốt quãng đời phục vụ cho Tổ Quốc từ những năm còn chìm trong lửa
đạn cho tới ngày toàn thắng. Đến tận năm 2006, CIA vẫn còn phải đặt câu
hỏi: Ông là ai?
Bài 1: Người giữ khoá bí mật ở Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng hoà
Sài Gòn. Sáng 30/4/1975. Những góc thành lịch sử.
Năm
đạo quân từ 5 cánh đổ về, rợp cờ giải phóng rầm rập tiến vào thành phố.
Những con đường tấp nập hằng ngày giờ bỗng trở nên tán loạn. Từng tốp
lính cộng hoà, có người chỉ còn chiếc quần xà lỏn, vội vã chạy ngang dọc
mà không biết về đâu.
Tại Đại sứ quán Mỹ…
9
giờ sáng, khi tiếng xích xe tăng của quân giải phóng kéo sầm sầm trên
đường phố Sài Gòn thì cũng là lúc chiếc máy bay di tản cuối cùng ngừng
gầm rú ngay trên nóc toà đại sứ quán.
Cái
nhìn của Moorefield về Sài Gòn giờ phút cuối thật kinh hoàng: “Hàng
trăm người Việt Nam đổ ào lên những bức tường, cướp bóc kho hàng, phòng
ốc, quầy bar. Một số người khác thì lái xe của sứ quán chạy lòng vòng
như những kẻ điên khùng. Ở bên kia bức tường, cả đám đông người hát vang
lời ca chống Mỹ, chào mừng chiến thắng đang tới gần của những người
cộng sản...
Từ
trên cao, tôi có thể nhìn thấy văn phòng của tuỳ viên quân sự Mỹ - DAO -
ở Tân Sơn Nhứt - bốc cháy. Cả thành phố im lìm một cách đáng sợ. Chỉ
toàn một màu đen đặc. Không động tĩnh, không đèn điện, không một cảm
giác nào về những gì đang đến”.
Trong
giờ phút nguy cấp ấy, có bao nhiêu người rời khỏi Việt Nam mà không một
lần giật mình hỏi: “Điều tồi tệ có thể đến là gì? Liệu Mỹ sẽ trở lại
“trả thù” không, trên xứ sở nắng ấm tươi đẹp này?”
Tại Bộ Tổng tham mưu của Quân đội Việt Nam Cộng Hoà (BTTM)…
41
chiến sỹ đặc công biệt động Z28 (đoàn 316 đặc công) chia làm 2 mũi tiếp
cận với cổng số 1 và cổng số 3. Mũi chủ công do Bảy Vĩnh (tên thật là
Lê Văn Vĩnh - chúng tôi sẽ đề cập trong phần sau), mũi bảo đảm do Ba Đen
phụ trách. Nhiệm vụ: Đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu - đầu não của quân đội
Việt Nam Cộng hoà – và chờ đại quân tiến vào.
7
giờ sáng. Mũi do Bảy Vĩnh chỉ huy lợi dụng lực lượng bảo vệ cổng số 3
sơ hở, sử dụng 3 xe bọc thép M113 lấy được của địch áp sát, khống chế
rồi vượt qua cổng gác, chạy thẳng vào trung tâm BTTM. Toàn bộ lực lượng
địch giơ tay xin hàng.
9 giờ 40’, cờ giải phóng treo cao trên cột cờ BTTM chế độ Sài Gòn. Việc đánh chiếm BTTM từ cổng số 3 không tốn một viên đạn.
11
giờ 45’, từ một góc quan sát trong căn phòng bé tí chứa hồ sơ tại BTTM,
một người đàn ông ngoài 40 tuổi cao lênh khênh, gầy mảnh khảnh vẫn lặng
yên chờ. Ông không chạy di tản như những chiến hữu khác, song cũng
chẳng bỏ văn phòng thư ký của mình để tìm chỗ an thân.
Trong
đôi mắt long lanh lạ thường của một người đã hàng trăm đêm mất ngủ cứ
ánh lên nỗi mong chờ. Nỗi mong chờ đằng đẵng mấy thập kỷ, vậy mà đến giờ
lại mang vẻ thản nhiên, thanh tĩnh lạ kỳ.
Trước
đó, lúc 6 giờ sáng cùng ngày, chính mắt ông chứng kiến hình ảnh một đại
tá Pháp tới báo tin cho 1 trung tá làm việc tại văn phòng Cao Văn Viên.
Chỉ sau vài phút ngắn ngủi, viên trung tá cởi phăng quân phục ra, lấy
súng ống quẳng vào cốp xe và chạy đi.
Một
tiếng sau, Nguyễn Cao Kỳ bay trực thăng tới, vội vã đi bộ vào toà nhà
chính chừng 5 - 10 phút, sau đó ra đứng chờ. Chờ một lúc thì chiếc trực
thăng thứ 2 đến. Nguyễn Cao Kỳ khiêng 1 va li con cho lên máy bay. Ông
còn nhớ trước khi leo lên trực thăng bỏ chạy, Nguyễn Cao Kỳ còn không
quên ngoái lại trụ sở BTTM với ánh nhìn đầy tiếc nuối.
“Anh lính quèn” và mệnh lệnh cuối cùng của thời chiến
…
Sau giờ khắc mà hai miền nối lại, ngay tại chính trụ sở của Bộ Tổng
tham mưu, có hai nhà tình báo anh hùng của cộng sản... chạm trán nhau.
Một người là sĩ quan chỉ huy cánh quân biệt động - đại tá anh hùng Bảy
Vĩnh, còn người kia là anh thượng sĩ nhứt “quèn” mang bí số H3.
Lời
dặn chỉ bấy nhiêu, nhưng người đàn ông đó đã ở lại cho tới 3 giờ chiều,
khi mọi việc bàn giao xong xuôi. Hệ thống máy tính lưu trữ hồ sơ của
hơn 1 triệu quân VNCH cùng toàn bộ giấy tờ tại văn phòng Tổng tham mưu
trưởng Cao Văn Viên được niêm phong không mất một tờ nào.
Người
đàn ông cao hơn 1m70 mà nặng chỉ ngoài 40 kg đó thậm chí còn tự đi kiếm
giùm mấy ông giải phóng lá cờ khác để thay, rồi lại trực tiếp trao chìa
khoá, dẫn quân giải phóng tiếp quản tất cả những gì còn lại ở cơ quan
đầu não của quân đội Việt Nam Cộng hoà.
Chỉ
khi ấy, ông mới thanh thản trở về nhà. Mệnh lệnh cuối cùng của thời
chiến, nhiệm vụ cuối cùng của người lính ẩn danh: ông đã hoàn thành!
32
năm sau, trong 1 gian nhà nhỏ giữa Sài Gòn cũng vào cuối tháng 4, đại
tá anh hùng Bảy Vĩnh nhớ lại khoảnh khắc đó: "Khi tôi và anh em xông vào
thì thấy 2 nhân viên văn phòng ngồi chờ. Các ngăn tủ đã được khoá kín.
Tôi hỏi đường lên nóc BTTM thì một người đàn ông cao, gầy chỉ đường...".
Mãi
về sau, người hỏi lối kẻ chỉ đường mới có dịp gặp nhau trong một tình
huống hoàn toàn ngược lại: Cuộc gặp mặt những anh em đồng đội của Phòng
tình báo chiến lược (J22) - Bộ tham mưu quân giải phóng miền Nam. Chính
Bảy Vĩnh - sĩ quan chỉ huy quân biệt động khi ấy, Cụm trưởng Cụm tình
báo H67 (đơn vị anh hùng) – đã nhận ra ngay người đàn ông “phe địch” mà
mình gặp khi đánh chiếm BTTM.
Cả
2 người, giờ đã vào tuổi "thất thập cổ lai hy", đều cùng nghỉ ngơi với
quân hàm Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang ngành tình báo quân đội
Nhân dân Việt Nam, cùng sinh sống ngay tại chính thành phố mà họ đã
chiến đấu, bằng cách này hay cách khác nhau, để giải phóng đất nước.
Và bây giờ thì tất cả đều đã là con dân của một quốc gia thống nhất!
Thiếu
tướng Nguyễn Văn Khiêm, (bí danh Sáu Trí, nguyên Trưởng phòng J22) sau
này còn xác nhận thêm một chi tiết thú vị nữa: "Khi tiến vào trung tâm,
đồng chí Bảy Vĩnh đã gặp nội tuyến của ta, chuẩn uý văn phòng BTTM. Nội
tuyến này còn động viên sỹ quan binh lính địch ra hàng".
Nhân
vật nội tuyến, người đàn ông cao gầy, thượng sỹ nhất ở văn phòng
BTTM... cứ được nhắc hoài đó chính là H3, người mà rất nhiều năm sau
này, CIA vẫn không ngừng thắc mắc: Ông là ai?
|































Nhận xét
Đăng nhận xét