Thứ Năm, 23 tháng 2, 2017

LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI 2/c (Châu Úc)

(ĐC sưu tầm trên NET)

-Lịch sử Úc



Con người rời khỏi châu Phi khi nào?

Hà Văn Thùy
08:08' CH - Thứ hai, 30/11/2015

I. Tài liệu khác nhau đưa tới sự lựa chọn
Bước vào thế kỷ XXI, xuất hiện ba công trình di truyền học khám phá nguồn gốc và sự thiên di của loài người ra khỏi châu Phi:
1. Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc (Genetic Relationship of Generations in China) của nhóm Y. J. Chu Đại học Texas Hoa Kỳ công bố cuối năm 1998, cho biết:
- Mọi con người hiện nay có tổ tiên duy nhất ở Đông Phi, ra đời khoảng 160 – 180.000 năm trước.
- Người từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam 60-70.000 năm trước. Tại đây họ gặp gỡ, lai giống và 50.000 năm trước di cư ra các đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ. 40.000 năm trước, nhờ khí hậu được cải thiện, người từ Việt Nam đi lên Trung Hoa. 30.000 năm trước, người từ Đông Á qua eo Beringa chiếm lĩnh châu Mỹ.
2. Cuộc hành trình của loài người - một Ođyxê gen (The Journey of Man: A Genetic Odyssey) của Spencer Wells thuộc Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ (National Geographic). Tác giả cho rằng: các luồng di dân bắt đầu giữa 60.000 và 50.000 năm trước. Các du khách sớm theo bờ biển phía Nam của châu Á, tới Úc khoảng 50.000 năm trước. Thổ dân Úc, là hậu duệ của làn sóng di cư đầu tiên ra khỏi châu Phi.
- Làn sóng thứ hai rời châu Phi 45.000 năm trước, sinh sôi nhanh chóng và định cư ở Trung Đông. Khoảng 40.000 năm trước, băng hà bớt cứng rắn, nhiệt độ ấm lên, con người di chuyển vào Trung Á. Trong quá trình thảo nguyên hình thành, họ tăng nhân số một cách nhanh chóng. "Nếu châu Phi là cái nôi của loài người, thì Trung Á là vườn trẻ của nhân loại”
3. Rời khỏi địa đàng chiếm lĩnh Trái đất (Out of Eden Peopling of the World- http://www.bradshawfoundation.com) và Cuộc hành trình của con người chiếm lĩnh Trái đất (Journey of Mankind the Peopling of the World- (http://www.bradshawfoundation.com/journey/) của Stephen Oppenheimer Đại học Oxford Anh quốc, với những nét chính:
- 160.000 năm trước, người hiện đại Homo sapiens đã sinh sống ở châu Phi.
- Khoảng 85.000 năm trước, một nhóm băng qua mũi của Biển Đỏ - the Gates of Grief rồi men theo bờ phía Nam bán đảo Ả rập tới Ấn Độ. Tất cả những người sống ngoài châu Phi đều thuộc nhóm này.
- Từ 85.000 tới 75.000 năm trước: Từ Sri Lanka họ tiếp tục men bờ Ấn Độ Dương tới phía Tây Indonesia, sau đó tiến vào châu Á. Những người còn ở lại thì đi vòng Borneo tới Nam Trung Hoa.
Ba tài liệu trên cùng xác nhận con người xuất hiện đầu tiên ở Đông Phi khoảng 160.000 – 180.000 năm trước. Nhưng trong khi công trình 1 và 3 cho rằng, cuộc di cư rời châu Phi diễn ra sớm hơn để con người tới Đông Nam Á 70.000 năm trước và làm nên đại bộ phận nhân loại sống ngoài châu Phi thì công trình 2 nói, có hai lần rời khỏi châu Phi, vào 60.000 và 45.000 năm trước. Đợt di cư thứ hai mới làm nên phần chủ thể của nhân loại.
Do suốt thế kỷ XX không tìm được nguồn gốc dân tộc nên khi các nghiên cứu di truyền xuất hiện, tôi coi đó như phép màu giúp tìm lại cội nguồn. Tuy nhiên, điều phiền hà là, các nhà di truyền đưa ra hai đáp án khác nhau cho cùng một bài toán, buộc phải có sự lựa chọn.
Tôi thấy tài liệu của Spencer Wells “có vấn đề.”
  1. Trước hết, về mặt nguyên lý, việc di cư khỏi châu Phi là chuyện lớn, chỉ xảy ra khi hội được những điều kiện nhất định. Đó là dân số tăng cao, gây sức ép tới môi trường sống, khiến cho dân cư đứng trước lựa chọn “di cư hay là chết.” Do vậy, phát hiện của Stephen Oppenheimer cho rằng phải 50000 năm sau cuộc di cư đầu tiên (135000 năm cách nay) mới có cuộc di cư thứ hai xảy ra 85000 năm trước xem ra có vẻ hợp lý. Trong khi đó, hai cuộc di cư do Wells nêu ra quá gần nhau, tỏ ra thiếu thuyết phục.
  2. Lúc đó, đang trong cái lạnh giá nghiệt ngã của Thời Băng hà, con đường từ Trung Đông vào Trung Á đèo cao dốc đứng khó có thể là lựa chọn của người di cư. Mặt khác, dù có vào Trung Á thì do môi sinh khắc nghiệt, con người chỉ có thể sống trong trạng thái tiềm sinh chứ nơi đó không thể là “vườn trẻ của nhân loại”
  3. Cuộc di cư nào của con người cũng để lại dấu vết. Ngoài dấu vết ghi trên ADN thì cũng còn những dấu tích khảo cố. Con đường sang phương Đông dù sau này bị nước biển che phủ nhưng tại chặng cuối của hành trình không thể không có dấu vết lưu lại. Do suy nghĩ như vậy, tôi đã truy tìm những phát hiện khảo cổ. Rất may là từ thập niên 1970, khảo cổ học đã khám phá bộ xương người Mongoloid ở Lưu Giang Quảng Tây 68000 năm tuổi và cốt sọ người Australoid tại hồ Mungo châu Úc 68000 năm trước. Hai chứng cứ này xác nhận người hiện đại đã tới Việt Nam 70000 năm trước, đúng như khám phá của J.Y. Chu cũng như S. Oppenheimer. Và như vậy, cuộc rời khỏi châu Phi phải xảy ra trước 70000 năm cách nay. Kết luận này không ủng hộ ý kiến cho rằng, cuộc di cư bắt đầu từ 60000 năm trước.
Chính từ suy nghĩ như vậy, tôi loại công trình của Wells khỏi tài liệu tham khảo.
II. Nguyên nhân thất bại của Spencer Wells
Đó là sự lựa chọn mà tôi buộc phải thực hiện vào năm 2005 khi bắt đầu khảo cứu về nguồn gốc dân tộc Việt. Thời gian 10 năm đến hôm nay cho thấy sự chọn lựa như vậy là chính xác. Ngày càng có thêm nhiều chứng cứ không ủng hộ công trình The Journey of Man: A Genetic Odyssey. Cùng với việc phát hiện di cốt người Homo sapiens 68000 năm trước tại Lưu Giang Trung Quốc và hồ Mungo nước Úc, đã có thêm bằng chứng cho thấy người hiện đại xuất hiện ngoài châu Phi trước 60.000 năm cách nay, là thời điểm bắt đầu cuộc di cư theo như công bố của Spencer Wells.
Trong bài viết Lao skull earliest example of modern human fossil in Southeast Asia (Sọ Lào, hóa thạch sớm nhất của người hiện đại ở Đông Nam Á) http://www.news.illinois.edu/news/12/0820skull_LauraShackelford.html, nhà nhân chủng học Laura Shackelford, Giáo sư Đại học Illinois Mỹ cho biết, năm 2009, nhóm của bà phát hiện một sọ người hóa thạch tại hang Tam Pa Ling (hang Khỉ) trên dãy Trường Sơn thuộc Bắc Lào. Qua quá trình khảo sát tới năm 2012, đưa ra kết luận:
- Đó là sọ người hiện đại Homo sapiens có tuổi từ 46.000 đến 63.000 năm, sớm hơn những cốt sọ tìm thấy ở Đông Nam Á 20.000 năm.
- Phát hiện này viết lại lịch sử di cư của con người tới Đông Nam Á.

Sọ cổ ở Lào
Mới đây, nhóm nhà khoa học Đại học Luân Đôn nước Anh vừa công bố trên tạp chí Nature danh tiếng bản tin làm chấn động thế giới. “Đó là việc phát hiện 47 răng người hiện đại Homo sapiens có tuổi 80000 năm ở Động Phúc Nham, huyện Dao, tỉnh Hồ Nam Trung Quốc. Niên đại này sớm hơn 20 ngàn năm so với thời di cư "Ra khỏi Phi châu" (Out of Africa) vốn là cột mốc được thừa nhận rộng rãi. Giáo sư Chris Stringer từ Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên London nói kết quả nghiên cứu mới là "điều làm thay đổi cuộc chơi" trong cuộc tranh luận về chuyện con người đã di cư đi các nơi như thế nào…”
Như vậy, sau khi cùng thừa nhận, người hiện đại Homo sapiens xuất hiện tại quê hương duy nhất là châu Phi thì mặc nhiên, người ở Bắc Lào hay Hồ Nam Trung Quốc cũng chỉ có thể từ châu Phi di cư tới. Và như vậy, cuộc di cư khỏi châu Phi trên thực tế đã diễn ra 20.000 năm trước thời điểm mà Spencer Wells ấn định (60.000 năm cách nay). Rõ ràng, với những phát hiện khảo cổ này, công trình của Spencer Wells không còn đứng vững. Thực tế này cũng mặc nhiên bác bỏ đề xuất của nhà di truyền học Mỹ cho rằng, tất cả con người sống ngoài châu Phi hôm nay là hậu duệ của người đàn ông duy nhất sống tại châu Phi 60.000 năm trước!

Răng người Động Phúc Nham 80.000 năm trước (ảnh NewsScience)
Ta biết rằng, The Journey of Man: A Genetic Odyssey là một phần của Dự án vẽ bản đồ gen người của National Geographic, một dự án lớn, có ngân quỹ lên tới 40 triệu USD nên được tập trung những phương tiện nghiên cứu tối ưu cùng những chuyên gia hàng đầu. Cũng do vậy, tài liệu này được tin tưởng và trở thành nguồn tham khảo của nhiều giới khoa học quốc tế. Một số nhà nghiên cứu người Việt trong và ngoài nước đã lấy công trình của Spencer Wells làm tài liệu tham khảo chính cho nghiên cứu của mình. Dựa vào Spencer Wells, có tác giả kịch liệt phản bác ý kiến của tôi cho rằng người từ châu Phi tới Việt Nam 70.000 năm trước, bởi lẽ: “Không thể có chuyện ông tổ đang ở châu Phi mà con cháu đã lang thang ở châu Á.”Không có chuyện người từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục 40.000 năm trước.” “Người Mongoloid hoàn chỉnh chỉ ra đời 10.000 năm trước.” Và “Người Mongoloid phương Nam sinh ra người Mongoloid phương Bắc …
Rút kinh nghiệm về sự thành công hay thất bại của mỗi công trình khoa học là cần thiết trên con đường học khôn của nhân loại. Do vậy cũng cần tìm hiểu nguyên nhân thất bại của công trình The Journey of Man: A Genetic Odyssey.
Tôi cho rằng, là người trẻ tuổi, do hạn chế về tri thức cũng như tầm nhìn văn hóa, Spencer Wells thuộc type người duy kỹ thuật, chỉ thực hiện công trình của mình duy nhất theo di truyền học. Đó là việc tận dụng tối đa ưu thế kỹ thuật hiện đại để truy tìm dấu di truyền (genetic marks) hòng xác định con đường di cư của loài người. Tuy nhiên, do cuộc thiên di diễn ra quá dài theo thời gian, quá rộng trong không gian và bao gồm quá nhiều cuộc hành quân khác nhau khiến cho lộ trình di cư đen xen nhau nên dấu vết di truyền (genetic marks) bị nhiều xáo trộn, khiến cho con đường thiên di trở thành mê lộ khó lần ra dấu vết thực sự. Do thiếu kiến thức sơ đẳng về khảo cổ học phát hiện Homo sapiens có mặt 68000 năm trước tại phương Đông nên khi thấy những genetic marks xuất hiện ở bán đảo Arap 60.000 năm trước, S. Wells đã vội cho là dấu vết của cuộc ra đi đầu tiên. Cũng vậy khi cho rằng những marks xuất hiện ở Trung Đông 45000 năm trước là kết quả của cuộc rời châu Phi lần hai! Từ đó sai lầm tiếp tục dẫn tới sai lầm… Cho rằng cuộc rời châu Phi 45000 năm trước qua Trung Đông tới Trung Á là cuộc di cư quan trọng nhất, làm nên đa số người sống ngoài châu Phi là kết luận trái với thực tế. Ngược lại, chính dòng người tới Đông Nam Á 70000 năm trước đã chiếm lĩnh Hoa lục rồi 40000 năm trước họ từ Đông Á qua Trung Á vào châu Âu, góp phần làm nên người Eurasian tổ tiên người châu Âu. Khoảng 15000 năm trước, người Eurasian từ châu Âu ngược con đường xưa, qua Trung Á, tiến về phương Đông…
So với Spencer Wells, Stephen Oppenheimer của Đại học Oxford có phong cách làm việc khác hẳn. Là ông già từng trải, có nhiều năm sống trên các đảo Nam Thái Bình Dương, hiểu thấu con người và lịch sử phương Đông. Là tác giả cuốn sách quan trọng Eden in the East… nên khi khảo sát lộ trình rời châu Phi của con người, ông không chỉ dựa trên genetic marks mà căn cứ vào toàn bộ vốn văn hóa lớn lao của mình. Ông hiểu rằng, ngoài genetic marks, còn phải tìm con đường ra khỏi châu Phi qua truyền thuyết, huyền thoại, qua tiếng nói, qua những dấu vết văn hóa nối kết con người theo hành trình di dân. Và một trong những căn cứ vững chắc của ông là di cốt Homo sapiens 68000 năm trước. Từ đó ông tìm ra vết tích genetic marks con người có mặt ở Việt Nam 70000 năm trước. Không chỉ vậy, những bằng chứng khảo cố học cũng giúp ông phát hiện cuộc di cư bất thành của con người diễn ra vào thời điểm 135000 năm trước… Kết quả là S. oppenheimer đã đúng khi xác định thời điểm di cư khỏi châu Phi 85000 năm trước. Do vậy nên hôm nay, việc phát hiện răng người ở Động Phúc Nham khiến cho công trình The Journey of Man: A Genetic Odyssey sụp đổ thì Out of Eden Peopling of the World của S. Oppenheimer vẫn vững như bàn thạch. Cùng rời địa đàng 85000 năm trước, trong khi phần lớn dòng người tới Đông Nam Á sau hành trình 15000 năm thì cũng bình thường khi có nhóm người lên chuyến tàu nhanh, chỉ mất 5000 năm! Theo nguyên lý di truyền học, ta biết rằng, vì nguyên do nào đó, nhóm người tiên phong chiếm Động Phúc Nham, cũng như biết bao nhóm xấu số khác, bị tuyệt diệt nên không để lại genetic marks trong dân cư phương Đông hôm nay. Do vậy các nghiên cứu di truyền người hiện đại đã không biết tới họ. Trong khi đó, những người tới Đông Nam Á 70000 năm trước đã làm nên dân cư phương Đông hôm nay.
III. Kết luận
Con người rời châu Phi 85000 năm hay 60000 năm trước là chuyện của các nhà khoa học, dường như không quan hệ gì tới cuộc sống bình thường của nhân loại hôm nay. Tuy nhiên, với người Việt Nam, những con số vô hồn ấy lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Nếu cuộc ra đi 60000 năm trước và theo lộ trình như Spencer Wells đã vạch, chúng ta khó lòng tìm được tổ tiên của mình. Hay nói cách khác, tổ tiên chúng ta sẽ lẫn với đòng người từ Trung Á tới Tây Tạng, vào Trung Quốc rồi xuống Việt Nam. Với dòng chảy di truyền như vậy, cố nhiên những kết luận từ thế kỷ trước: “Người Việt chỉ là đám Tàu lai. Văn hóa Việt chỉ là sự bắt chước văn hóa Tàu chưa hoàn chỉnh” mặc nhiên được khẳng định. Còn khi cuộc ra đi bắt đầu 85000 năm trước, theo lộ trình mà J.Y. Chu và Stephen Oppenheimer đề xuất, vấn đề sẽ khác: Việt Nam là nơi phát tích, là vườn trẻ của phần lớn nhân loại, là cái nôi của nền văn hóa kỳ vĩ phương Đông…
Rất mừng là con đường phương Nam là lựa chọn đúng. Với con đường thiên di như vậy, lịch sử phương Đông, lịch sử Việt Nam đã được viết lại. Chỉ vài năm trước thôi, có học giả Trung Quốc còn khẳng định việc phát hiện người Arian từ phía Tây xâm nhập làm nên dân tộc Trung Hoa là phát kiến vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại ở thời hiện đại. Một học giả lão thành kiên trì quan điểm: “Tổ tiên chúng tôi là người Chu Khẩu Điếm.” Nhưng nay, gió đã đổi chiều. Các phương tiện truyền thông Trung Quốc đồng thanh ca lớn: người từ châu Phi di cư tới thềm Nam Hải, làm nên dân tộc Trung Hoa. Người Hán là trung tâm của Bách Việt. Việt Nam là đám ly khai khỏi trung tâm nên lạc hậu dốt nát, là lãng tử phải được dạy dỗ đề hồi đầu! Một lần nữa, lịch sử lại bị xuyên tạc, lại bị chiếm đoạt.


24 sự thật ít người biết về nước Úc


Hãy cùng tìm hiểu những điều thú vị về nước Úc, quê nhà của loài chuột túi và gấu Koala.

Chiếm nguyên cả một lục địa to lớn, lại còn ít dân cư nhất trên các lục địa có con người sinh sống, nước Úc dường như luôn ẩn tàng nhiều điều thú vị, bí ẩn. Cũng chẳng ngoa khi người ta cứ sử dụng cụm từ “kiểu Úc” khi nói về những thứ rất đỗi “giời ơi”, bởi sự thật là xứ sở chuột túi cũng có nhiều thứ khiến người ta phải mắt tròn mắt dẹt lắm.
1. Chiều rộng của Úc ngang ngửa với khoảng cách từ London, Anh chạy một mạch tới Moscow, Nga.
2. Anna Creek Station, trang trại chăn nuôi gia súc có diện tích lớn nhất thế giới, rơi vào cỡ 24.000 km2 nằm ở phía nam nước Úc thậm chí còn to hơn cả diện tích quốc gia của Isarel ( nước này có diện tích 20.800km2). Ở đây trước chăn nuôi cừu là chủ yếu, tuy nhiên sau khi bị bè lũ Dingo ( một loại chó hoang tại Úc) ghé thăm, mỗi ngày “làm tí” thì giờ đây người ta chuyển hẳn sang chăn nuôi đủ các loại gia súc cho đỡ… phí.
54ca33ab4ee32a91a06f2899e68f4043-016c4
Trang trại Anne Creek Station to “vật vã”.
3. Có thể coi độ rải rác dân cư của Úc là hình trăng khuyết, bởi người dân chỉ sống trong khu vực không quá 50 km tính từ bờ biển vào mà thôi. Cả diện tích phía bên trong đất nước này là sa mạc chẳng ai dám ở.
aus-low-density-areas-fb0d8
Minh họa mật độ phân bố dân cư tại Úc.
4. Ngày xửa ngày xưa, tức năm 1880, thành phố giàu có nhất thế giới chính là Melbourne.
5. Úc cũng là một trong những kẻ tiên phong trong việc bình đẳng hóa giới tính trên thế giới khi là quốc gia thứ 2 cho phép phụ nữ được phép bầu cử. Vị trí tiên phong thuộc về hàng xóm của Úc, tức New Zealand.
we-can-do-it-016c4
Úc là quốc gia thứ hai hợp pháp hóa quyền bầu cử cho phụ nữ.
6. Cũng bởi đặc thù địa lý với diện tích sa mạc quá lớn, độ phân bố dân cư trung bình tại Úc là rất thưa thớt. Trong khi thành phố Bangladesh đạt được chỉ số 985 người/km2 thì ở Úc chỉ là 2.6 người/km2, ít hơn tới gần 500 lần.
7. Giá điện ở Việt Nam vẫn còn rẻ chán, vị trí quán quân trong giá bán lẻ điện phải là Úc cơ.
8. Lực lượng nguy hiểm và đông đảo nhất trong khu vực lãnh thổ bên trong của Úc chính là lũ lạc đà hoang dã. Bọn này vô kỷ luật và đầu gấu đến nỗi chính phủ Úc phải đưa ra một chương trình trị giá 19 triệu USD ( khoảng hơn 430 tỷ đồng) để đưa lũ động vật có bướu này vào khuôn khổ. Và cũng nhờ đám “tài nguyên” dồi dào này, Úc đã trở thành “bạn hàng thân thiết” của Ả Rập Saudi, liên tục xuất khẩu lạc đà lấy thịt cho ông lớn dầu mỏ.
feralcamelma-5d291
“Lực lượng” lạc đà tại quốc gia này vào loại “rất đông và nguy hiểm”.
9. Nước Úc sở hữu một dãy hàng rào dài nhất thế giới, tận 5.614 km chiều dài. Bức “tường thành” này được xây để ngăn không cho bọn chó hoang Dingo thâm nhập vào khu vực đất màu mỡ của người dân.
dingo-fence-6[6]-a95f8
Dãy hàng rào dài “bất tận” ngăn lũ Dingo.
10. Trước khi có sự xuất hiện của con người, Úc đã từng là mái nhà cho các thể loại “dị thú”: chuột túi cao 3 mét, kỳ đà dài 7 mét và cả những con vịt to bằng ngựa.
11. Nếu mỗi ngày bạn định đi thăm thú một bãi biển mới tại Úc thì ước tính bạn sẽ dành hết cả 27 năm trời lang thang trên các bãi biển mà chẳng được tích sự gì trong đời. Nói thêm cho bạn biết, trước năm 1902 mà đi bơi biển vào ban ngày là bị phạt tù đấy.
enhanced-buzz-wide-25315-1395710767-11-016c4
Úc nổi tiếng với những dãy bờ biển dài và đẹp.
12. Số lượng cừu mà Úc sở hữu thậm chí còn nhiều hơn gấp 3.3 lần số dân cư đang sinh sống tại quốc gia này.
13. Mối nguy hiểm tiềm tàng khi tới chơi biển ở Úc là loài sứa hộp. Loài động vật không xương loe ngoe này giết chết còn nhiều người hơn cả cá mặt quỷ, cá mập và cá sấu cộng lại.
box-jellyfish_482_600x450-0b9f8
Loài sứa hộp sát thủ nguy hiểm bậc nhất tại Úc.
14. Dân Úc nổi tiếng là “bợm nhậu” trên thế giới, mỗi người dân ở đây trung bình uống khoảng 96 lít bia mỗi năm. Đây cũng là một phần lý do mà 63% dân số Úc bị thừa cân.
15. Mặt khác, quốc gia này cũng được xếp hạng nhì trong bảng xếp hạng Chỉ số phát triển con người HDI.
16. Đến Úc, đừng có theo thói nhà mà đi dạo lung tung, ở đây đi bộ về phía bên tay phải là “ăn chưởng” ngay lập tức đấy, đừng đùa.
17. Suốt 3 năm trời, Melbourne luôn được gọi tên trong danh sách những thành phố đáng sống nhất thế giới. Kể cũng đúng, nổi tiếng với hương vị cà phê không chê đâu được, âm nhạc nghệ thuật phát triển, lại còn không gian thoáng mát, “view” đẹp như thế cơ mà.
1-77969-016c4
Melbourne luôn nằm trong tốp trên những thành phố đáng sống nhất thế giới.
18. Nếu tất cả những mái buồm trên nhà hát Sydney được ghép lại, kết quả đạt được sẽ là một hình cầu tuyệt đối không hở lỗ nào. Ít ai biết rằng tòa kiến trúc độc đáo này được truyền cảm hứng khi kiến trúc sư đang ăn… một quả cam.
enhanced-buzz-wide-29115-1395716199-10-016c4
Nhà hát Sydney.
19. Khoảng 1/5 những máy đánh bạc trên thế giới “hội tụ” tại Úc. Người dân nước này cũng được biết tới là những đại gia mát tay chi nhiều tiền cho việc cờ bạc nhất trên hành tinh.
20. Lời khuyên thật lòng cho ai sợ gián là đừng đến thành phố Brisbane vào dịp 26/01. Bởi đây được biết đến là ngày diễn ra cuộc thi “Đua gián toàn quốc Úc”. Sự kiện này được tổ chức lần đầu vào năm 1982 với cái tên “Soft Cocky”, các “thí sinh” gián sẽ được người tham gia mang tới thi, hoặc có thể mua ngay tại quầy trong khu vực. Nói chung là ở Việt Nam có chọi dế, thì bên này người ta đi đua gián.
cockroach_140124_aap_1-0b002
Ngày hội đua gián độc đáo được tổ chức mỗi năm 1 lần tại Brisbane.
21. Có một quán bar dành cho gay ở Melbourne đã “xuất sắc” thắng cuộc trong việc đưa ra chính sách cấm cửa phụ nữ vào quán, bởi các “mỹ nam” trong quán cảm thấy khó chịu với sự xuất hiện của cánh chị em.
22. Năm 1975, Úc trải qua một cuộc khủng hoảng chính trị, dẫn đến việc đóng cửa chính phủ. Việc này chỉ kết thúc khi Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhị phải ra mặt, chỉ thị sa thải tất cả đội ngũ chính khách, “làm lại từ đầu” với nước Úc.
23. Một cuộc tranh luận bầu cử trên truyền hình giữa nữ thủ tướng Julia Gillard và lãnh đạo Liên đảng tự do Tony Abbott năm 2010 ở nước này đã phải dời lịch phát sóng nhường sóng cho vòng chung kết cuộc thi Masterchef.
23-76669
Thủ tướng Julia Gillard và Tony Abbott.
24. “Đặc sản” của Úc ngoài chuột túi còn có Koala- đối trọng của gấu trúc Trung Quốc, và chim Cầm Điểu, còn có tên gọi là Chim Đàn Lia. Loài chim này có khả năng hót tận 20 giọng.
8237fa779db3175d7d8ac8bb5792a2b9-016c4
Chim Cầm Điểu. Liên hệ Vietlink Education ngay để được tư vấn nhanh nhất:
Vượn biến thành người như thế nào?
Chúng ta đều biết theo thuyết tiến hóa thì tổ tiên loài người là các chú vượn châu Phi (1). Tuy nhiên rất ít người biết cụ thể quá trình kì lạ đó, dù chỉ trên những nét khái quát. Hy vọng bài viết dưới đây có thể khắc phục một phần thực tế đó.

Câu chuyện không thể tin nổi về quá trình vượn biến thành người khởi nguồn từ hơn 6-7 triệu năm trước và điểm xuyết bằng sự xuất hiện các đặc trưng điển hình của loài người như đứng thẳng và đi bằng hai chân, não lớn, vô mao, chế tác công cụ, săn bắt, chế ngự lửa, phát triển ngôn ngữ, phát minh tôn giáo và nghệ thuật, xây dựng văn hóa và văn minh.

Charles Darwin là người đầu tiên giả định nguồn gốc vượn châu Phi của loài người trong tác phẩm Nguồn gốc các loài năm 1859. Tuy nhiên, tại châu Phi không hề thấy một dấu vết hóa thạch nào của tổ tiên loài người cho đến tận năm 1924, khi Raymond Dart tìm được “em bé Taung”, một chú vượn phương Nam (Australopithecine) có niên đại 3-4 triệu năm trước.

Từ đó đến nay, hàng chục loại người cổ khác nhau đã được phát hiện và các nhà cổ nhân học vẫn còn đang tranh cãi gay gắt về mối liên hệ giữa họ với nhau. Cũng không ai ngờ được rằng, đến tận năm 2004 mà giới nghiên cứu vẫn có thể tìm thấy hóa thạch của loại người lùn đặc biệt, Homo floresiensis, tại hòn đảo Flores nằm ở vùng viễn đông Indonesia, giữa Nam Thái Bình Dương.

Đứng thẳng:

Trên thực tế người cũng chỉ là một loài vượn (2), vì chúng ta có 98% số ADN giống như tinh tinh, họ hàng gần gũi nhất của loài người. Các bộ môn di truyền và khảo cổ học cho rằng, người và tinh tinh có chung tổ tiên khoảng 7-10 triệu năm trước. Nói cách khác, người và tinh tinh chia tách nhau về mặt di truyền chỉ chưa đầy 10 triệu năm trước.

Bằng chứng khảo cổ cho thấy, khoảng 6 triệu năm trước, loài vượn đi bằng hai chân bắt đầu xuất hiện. Cho dù các chú vượn phương Nam này, cũng như nhiều loại người tối cổ xuất hiện sau đó, có hình thể không lớn hơn tinh tinh và có kích thước não tương tự, việc đứng thẳng và đi bằng hai chân là một bước tiến hóa đặc biệt, có tầm quan trọng không kém việc tăng kích thước não trong sự tiến hóa của con người.

Đứng thẳng và đi bằng hai chân mang lại nhiều ưu thế nổi bật, như có thể mang thức ăn cho đồng loại hay mang về nhà; giảm diện tích bề mặt cơ thể dưới ánh nắng nhiệt đới, do đó giúp giảm thiểu sự tăng nhiệt độ quá mức, nhất là với não; giải phóng đôi tay để dùng công cụ; bế trẻ em đi xa; giảm năng lượng cần thiết khi di chuyển so với đi bằng bốn chân như các loài linh trưởng khác (với cùng một mức năng lượng, tinh tinh đi được 6 dặm, trong khi người đi được 11 dặm một ngày); nhìn rõ hơn và xa hơn khi di chuyển (do đứng cao hơn); tăng vẻ đe dọa khi phải đối mặt với kẻ cạnh tranh…

Hành vi đứng thẳng có thể xuất hiện khi khí hậu khô hơn đã thu hẹp các cánh rừng nhiệt đới châu Phi. Thay vào đó là các bụi cây với những chùm quả nhỏ. Để “hái quả”, do một đột biến ngẫu nhiên nào đó mà vượn phương Nam đã tiến hóa hành vi đứng thẳng (giả thuyết của Clifford Jolly và Randall White, Đại học New York, năm 1995). Đồng thời, vì rừng đã thưa hơn, nên cần phát hiện kẻ thù từ xa, do đó đứng thẳng trở thành một ưu thế sinh tồn được quá trình tiến hóa ưu ái.

Bằng chứng vượn phương Nam đứng thẳng bao gồm việc phân tích hình dạng xương và dấu chân hóa thạch của chúng. Trong đó nổi tiếng nhất là hóa thạch hầu như nguyên vẹn của Lucy, một phụ nữ thuộc giống Australopithecine afarensis sống khoảng 3.2 triệu năm trước, do nhà cổ nhân chủng học Donald Johanson tìm thấy ở Hadar, Ethiopia năm 1974. Cô cao khoảng 1.1 m, và mặc dù đi bằng hai chân, theo kết quả mô phỏng trên máy tính, dáng của cô không thể xem là chuẩn theo tiêu chí hiện đại! Cánh tay dài và ngón tay cong chứng tỏ cô vẫn rất thiện nghệ trong việc leo trèo.

alt

Vượn phương Nam (phục dựng).

Đến nay hàng trăm hóa thạch Australopithecine afarensis đã được phát hiện. Ngoài ra là hóa thạch của các loài liên quan, chẳng hạn như Australopithecine africanus (điển hình là “em bé Taung” 3.5 triệu năm trước).

Chế tác và sử dụng công cụ:

Vượn phương Nam Australopithecine được xem là tổ tiên của người (Homo), một nhóm linh trưởng gồm cả chúng ta, Homo sapiens (người khôn).

Australopithecine cũng là tổ tiên của một số nhóm động vật nhân hình khác, như các loài Paranthropus ăn thực vật. Chẳng hạn khoảng 2.7 triệu năm trước, xuất hiện loài Paranthropus bosei ở Đông Phi có răng hàm lớn và cơ nhai khỏe để nhai rễ và củ.

Khoảng 2.5 triệu năm trước, người khéo (Homo habilis) xuất hiện; đó là loại động vật nhân hình đầu tiên giống con người, theo các kết quả hóa thạch. Họ sống cùng thời với Paranthropus bosei. Cơ thể của người khéo bằng khoảng 2/3 người hiện đại và bộ não lớn gấp rưỡi não vượn, đạt tới 600 cm3. Homo habilis có răng và hàm nhỏ hơn Paranthropus và có lẽ là loại người đầu tiên ăn nhiều thịt. Đó là nguồn năng lượng quan trọng giúp tăng kích thước não.

Người khéo cũng là loài đầu tiên biết chế tác công cụ và dùng chúng để đập vỡ xương lấy tủy. Truyền thống chế tác đó, truyền thống Oldowan (do tìm thấy công cụ tại vùng Olduvai Gorge, Tanzania), kéo dài gần một triệu năm mà không có sự thay đổi rõ rệt nào. Công cụ Oldowan chế tác bằng cách dùng một hòn đá làm búa ghè vỡ một hòn đá góc cạnh khác để tạo ra các mảnh đá sắc; và chúng được dùng để chặt hay cắt.



alt

Người khéo (phục dựng)

Mặc dù cũng tăng kích thước não, nhưng loài Paranthropus tuyệt chủng khoảng 1.2 triệu năm trước. Một số chuyên gia cho rằng, khả năng làm việc theo nhóm để chống lại thú ăn thịt đã giúp con người (Homo) thoát khỏi thảm cảnh diệt vong.

Dáng điệu hiện đại:

Khoảng 1.8 triệu năm trước, xuất hiện người đứng thẳng (Homo erectus) tiến hóa từ người khéo. Đó là loài linh trưởng đầu tiên không biết trèo cây (Homo habilis vẫn còn trèo cây rất thiện nghệ). Một số nhà cổ nhân chủng học dùng thuật ngữ Homo ergaster để chỉ loại người này, còn Homo erectus dùng để chỉ Homo ergaster ở châu Á, do hóa thạch đầu tiên tìm thấy ở Indonesia năm 1891. Người đứng thẳng chế tạo công cụ theo truyền thống riêng biệt, truyền thống Acheul (do tìm thấy công cụ loại này tại Saint Acheul, ngoại ô Amiens phía bắc nước Pháp). Truyền thống này kéo dài đến tận 100 ngàn năm trước. Các công cụ Acheul, như rìu tay, có kích thước lớn và tinh xảo hơn công cụ Oldowan; và vừa là công cụ, vừa là tượng trang trí.

Về hình thể, người đứng thẳng khá giống người hiện đại. Có thể họ là những người đầu tiên rất ít lông và tiết mồ hôi, một chức năng sinh lý thích hợp để hoạt động tích cực dưới ánh nắng mặt trời.

Homo erectus là người đầu tiên rời khỏi châu Phi (khoảng 1.75 triệu năm trước) và sống đến tận 30.000 năm trước. Họ có bộ não lớn khoảng 1000 cm3 và có thể đã tiếp xúc với người hiện đại. Họ cũng là người đầu tiên chinh phục biển cả và tiến hành các cuộc săn bắt lớn, như săn voi ma-mút và ngựa hoang. Họ cũng biết dùng lửa và dựng “nhà” đầu tiên trên thế giới. Đặc biệt, khung chậu của họ cũng hẹp gần theo tỉ lệ của người hiện đại. Điều đó chứng tỏ, phụ nữ bắt đầu khó sinh nở và cần được trợ giúp trong quá trình mang thai, sinh nở và nuôi con. Đó chính là cơ sở sinh học của cấu trúc gia đình trong xã hội loài người sau này.

Năm 2004, dấu vết của một loại người lùn bí ẩn sống khoảng 13.000-18.000 năm trước được phát hiện tại Indonesia. Một năm sau, các nhà khoa học tìm thấy nhiều hóa thạch của loài Homo floresiensis này. Một số chuyên gia cho rằng loài này có bộ não phát triển và là một loài hoàn toàn riêng biệt; nhưng nhiều chuyên gia khác cho rằng, đó chính là người hiện đại mắc bệnh di truyền.

alt

Người đứng thẳng (phục dựng)

Người Âu đầu tiên:

Hóa thạch đầu tiên của người châu Âu, phát hiện tại Tây Ban Nha, có tuổi 780.000 năm. Công cụ đá tìm thấy ở Anh có niên đại 700.000 năm. Chúng được cho là sản phẩm của các loài Homo antecessor hay Homo Heidelbergensis. Có ý kiến cho rằng, người Heidelberg tiến hóa thành người hiện đại tại châu Phi; còn tại châu Âu, người Neanderthal nổi lên như một loài riêng biệt.

alt
Người Heidelberg (phục dựng)

Người Neanderthal để lại dấu vết khắp châu Âu, bắt đầu từ hơn 200.000 năm trước. Dù có một số khác biệt, họ vẫn rất giống chúng ta. Họ có bộ não lớn hơn người hiện đại một chút và có độ tuổi trưởng thành tương tự. Họ có tiếng nói, nhưng có lẽ chưa có ngôn ngữ hoàn chỉnh, dù chỉ đơn giản. Nhưng họ cũng có một số đặc trưng văn hóa giống chúng ta, như chôn người chết kèm lễ nghi, dùng công cụ để tấn công người khác, hay biết tổ chức các cuộc đi săn qui mô lớn.

alt
Em bé Neanderthal (phục dựng)

Khoảng 28.000 năm trước, họ tuyệt chủng tại bán đảo Iberia (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha). Nguyên nhân của thảm kịch đó vẫn là “quả táo bất hòa” trong giới chuyên gia (không thích ứng với sự thay đổi khí hậu; thua vì kém năng lực sáng tạo trong cuộc cạnh tranh không đổ máu với người hiện đại; tuyệt chủng do bị người hiện đại “ném đá”, vì phân tích xương cho thấy, người hiện đại có khả năng ném đá hay phóng lao tốt, trong khi người Neanderthal không có năng lực đó…).

Rời khỏi châu Phi:

Hiện có hai giả thuyết trái ngược nhau về nguồn gốc người hiện đại. Đó là Thuyết rời khỏi châu Phi và Thuyết tiến hóa đa vùng.

Được thừa nhận rộng rãi là Thuyết rời khỏi châu Phi. Dựa trên bằng chứng khảo cổ và di truyền, nó giả định loài người tiến hóa tại châu Phi rồi lan tỏa khắp địa cầu qua hai làn sóng. Sự thiên di của người đứng thẳng sang lục địa Á - Âu gần hai triệu năm trước tạo thành làn sóng thứ nhất. Hàng triệu năm sau, người hiện đại tiến hóa tại châu Phi từ khoảng 200.000 năm trước, trước khi tỏa sang các lục địa khác chỉ khoảng 50.000-60.000 năm trước theo làn sóng thiên di thứ hai. Những người này thay thế người đứng thẳng ở châu Á và người Neanderthal ở châu Âu.

Ngược lại, giả thuyết đa vùng cho rằng, loài người rời khỏi châu Phi khoảng hai triệu năm trước và không hề bị thay thế bằng các cuộc thiên di muộn hơn (làn sóng thứ hai). Thay vào đó, họ tự tiến hóa thành người hiện đại tại vùng họ sinh sống. Và sự hòa huyết vượt ranh giới địa lý giúp toàn nhân loại thống nhất về mặt di truyền.

Hầu hết bằng chứng di truyền ủng hộ Thuyết rời khoải châu Phi. Đáng ngạc nhiên là toàn nhân loại hiện nay khác biệt nhau rất ít về ADN ti thể (do mẹ truyền cho con) và ADN nhiễm sắc thể Y (do cha truyền cho con trai). Điều đó chứng tỏ nhân loại tiến hóa từ một nhóm người nhỏ trong quá khứ. Thêm nữa, biến thiên di truyền của người châu Phi lớn hơn ở người xứ khác, chứng tỏ họ đã tiến hóa lâu hơn. Trên thực tế khoa học đã xác định được tổ mẫu và tổ phụ của tất cả những người đang sống trên Trái Đất. Nói cách khác, chúng ta là hậu duệ của người đàn bà duy nhất (nàng Eva ti thể) sống tại Đông Phi khoảng 170.000 nằm trước và người đàn ông duy nhất (chàng Adam nhiễm sắc thể Y), cũng sống tại Đông Phi chỉ 60.000 năm trước. Các chuyên gia cho rằng, một nhóm 50 người có thể sinh ra toàn bộ người Âu; trong khi toàn nhân loại có thể tiến hóa từ một nhóm không quá 200 người.

“Bước nhảy vọt”:

Jared Diamond dùng thuật ngữ “bước đại nhảy vọt” (great leap forward) để chỉ sự xuất hiện các đặc trưng hiện đại trong hành vi của Homo sapiens, trong đó quan trọng nhất là ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ mà các khái niệm trừu tượng có thể được lan tỏa và lưu giữ lâu dài, điều mà người Neanderthal không thể thực hiện.

Người hiện đại về giải phẫu (tức có hình dáng bên ngoài hoàn toàn giống chúng ta) xuất hiện khoảng 200.000 năm trước. Khoảng 100.000 năm trước, họ đã di cư sang Trung Cận Đông nhưng bị người Neanderthal đẩy ngược về châu Phi. Vì thế họ cần thêm 50.000 năm để phát triển các hành vi hiện đại (ngôn ngữ, tôn giáo, nghệ thuật…) và dùng chúng như hành trang trong cuộc thiên di vĩ đại cuối cùng khoảng 60.000 năm trước. Họ vượt biển Đỏ sang Trung Đông và châu Á theo hai con đường: đường phía Nam men theo bờ Ấn Độ Dương tới tận lục địa Sunda (Đông Nam Á lúc chưa bị chìm ở độ sâu hàng trăm mét dưới mức nước biển hậu kỉ băng hà), trước khi tới châu Úc và Bắc Mĩ; còn đường phía Bắc hướng tới Trung Á trước khi lan tỏa khắp Á - Âu rồi sang Bắc Mĩ. Khoảng 90% số đàn ông ngoài châu Phi hiện nay là hậu duệ của những người chinh phục con đường phía Bắc này khoảng 45.000 năm trước.

Trong suốt thời tiền sử, công cụ đá thay đổi không đáng kể cho đến tận 50.000 trước. Nhưng kể từ thời điểm đó, văn hóa bắt đầu phát triển với tốc độ chưa từng có. Người hiện đại phát triển công cụ mới, chôn người chết theo lễ nghi, tạo đồ trang sức, sáng tạo các kĩ thuật săn bắt hoàn toàn mới, dùng da thú may quần áo, vẽ và xăm mình, vẽ tranh trong hang… Mặc dù một số hành vi đã xuất hiện từ trước, nhưng chỉ đến lúc đó chúng mới được sử dụng một cách rộng rãi và tích hợp.

Những thay đổi đó có thể đi kèm với sự tăng kích thước não (tới khoảng 1.400 cm3) hay cách chúng ta suy nghĩ. Bình minh của văn minh nhân loại được gieo mầm từ khoảng 30.000 năm trước. Cuộc cách mạng thời đá mới - cách mạng nông nghiệp - chỉ xuất hiện khoảng 10.000 năm trước. Các thành phố đầu tiên xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà (Iraq ngày nay) khoảng 4.000 năm trước.

Các cột mốc tiến hóa:

• 55 triệu năm trước: Các linh trưởng đầu tiên xuất hiện.
• 8-6 triệu năm trước: Tinh tinh và người tách nhau trong cây di truyền.
• 5.8 triệu năm trước: Orririn tugenensis, tổ tiên cổ nhất của loài người được cho là bắt đầu đi bằng hai chân.
• 5.5 triệu năm trước: Ardipithecus, “nguyên người” đầu tiên, chung hành vi với tinh tinh và khỉ đột.
• 4 triệu năm trước: Vượn phương Nam xuất hiện, với kích thước não không hơn vượn nhưng đi thẳng bằng hai chân. Tổ tiên đầu tiên của loài người sống tại đồng cỏ miền nhiệt đới.
• 3.2 triệu năm trước: Lucy, thành viên danh tiếng của loài Australopithecus afarensis, sống tại Hadar, Ethiopia.
• 2.5 triệu năm trước: Người khéo xuất hiện. Có bộ não 600 cm3 nhưng vẫn mang nhiều nét khỉ, Homo habilis là loại người đầu tiên biết chế tác công cụ (truyền thống Oldowan, kéo dài khoảng một triệu năm). Do ăn thịt nên phần dư năng lượng được dùng để phát triển bộ não.
• 2 triệu năm trước: Người đứng thẳng (Homo erectus) xuất hiện, với bộ não 1.000 cm3. Đây là loại người đầu tiên đoạn tuyệt hoàn toàn với việc trèo cây.
• 1.8 triệu năm trước: Người đứng thẳng thiên di sang châu Á.
• 1.6 triệu năm trước: Dấu vết khả dĩ của việc dùng lửa tại Koobi Fora, Kenya. Truyền thống Acheul xuất hiện thay thế truyền thống Oldowan trong việc chế tạo công cụ.
• 700 ngàn năm trước: Người Heidelberg sống tại châu Phi và châu Âu.
• 500 ngàn năm trước: Bằng chứng đầu tiên về “nhà” tại Chichibu, Nhật Bản
• 400 ngàn năm trước: Bắt đầu đi săn với cây thương.
• 230 ngàn năm trước: Người Neanderthal xuất hiện khắp châu Âu cho đến khi tuyệt chủng chỉ 28.000 năm trước.
• 195 ngàn năm trước: Người hiện đại từ cánh gà bước ra sân khấu.
• 170 ngàn năm trước: Eva ti thể, tổ mẫu của tòan bộ loài người hiện tại, sống tại Đông Phi.
• 140 ngàn năm trước: Dấu vết đầu tiên về thương mại đường xa.
• 60 ngàn năm trước: Adam nhiễm sắc thể Y, tổ phụ của tất cả mọi người trên địa cầu ngày nay, cũng sống tại Đông Phi.
• 50 ngàn năm trước: “Bước đại nhảy vọt”, với nền văn hóa thay đổi cực kì nhanh chóng.
• 33 ngàn năm trước: Nghệ thuật tranh tường cổ nhất.
• 18 ngàn năm trước: Người lùn Homo Floresiensis, tìm thấy tại Đông Indonesia. Họ cao 1 mét, có bộ não như não vượn nhưng biết chế tạo công cụ.
• 12 ngàn năm trước: Định cư đầu tiên tại vùng Lưỡi liềm phì nhiêu. Tới châu Mĩ qua eo Bering.
• 10 ngàn năm trước: Cuộc cách mạng nông nghiệp xuất hiện tại Cận Đông.
• 5.5 ngàn năm trước: Thời đồ đá kết thúc, bắt đầu thời đồ đồng
• 5 ngàn năm trước: Chữ viết đầu tiên.
• 4 ngàn năm trước: Người Sumer ở Lưỡng Hà phát triển nền văn minh đầu tiên trên thế giới.

Vĩ thanh 1: Con người biết may quần áo từ bao giờ?

Mùa thu năm 1999, Mark Stoneking, nhà nhân chủng học tiến hóa Mĩ, một trong ba tác giả khám phá nàng Eva ti thể năm 1987, được con trai đưa bản thông báo của nhà trường về việc một học sinh trong lớp có chí. Như bất cứ một ông bố hay lo lắng nào, nhà nghiên cứu đang làm việc tại Viện nhân chủng học tiến hóa Mark Planck tại Leipzig, CHLB Đức, mau chóng nhận biết từ bản thông báo rằng, chí không sống quá 24 giờ nếu thiếu hơi ấm từ cơ thể người. Với tư cách một học giả đang nghiên cứu về tiến hóa loài người, Stoneking giả định, nếu điều đó đúng thì có thể dùng chí để nghiên cứu các cuộc thiên di thời tiền sử. Tuy nhiên chỉ sau vài giờ trong thư viện, Stoneking chợt nhận thấy chí có thể lưu giữ trong ADN của chúng một sự kiện thú vị hơn nhiều: thời điểm con người bắt đầu biết may quần áo.

Trên một khía cạnh nào đó, vượn biến thành người là quá trình vô mao hóa, khi lông vượn dần mất đi để cơ thể có thể tiết mồ hôi, cho phép làm việc với cường độ cao dưới ánh nắng nhiệt đới châu Phi. Nhưng với chí thì đó là một thảm họa: thay cho việc tự do du ngoạn khắp cơ thể như trước kia, nay chí chỉ có thể sống trên đầu con người, nơi có đủ tóc để vẫy vùng. Tuy nhiên khi con người biết may quần áo thì chí có cơ may giành lại “vương quốc” đã mất, miễn là chúng tiến hóa thành một loài có thể bám vào quần áo, chứ không phải bám vào tóc như trước.

Stoneking thu thập chí sống trên đầu và ở thân người từ công dân 12 nước, từ Ethiopia tới Ecuador hay New Guinea. Ông phân tích ADN của chúng và vẽ cây phả hệ di truyền. Biết tốc độ đột biến gien, ông tính được tuổi loài chí sống ở thân người đầu tiên là 72.000 năm trước. Đó chính là thời điểm con người bắt đầu biết may quần áo.

Vĩ thanh 2: Chiến lược bí mật của Thành Cát Tư Hãn.

Để tìm phần mộ của Thành Cát Tư Hãn, vị bạo chúa Mông Cổ mất năm 1227, Chris Tyler-Smith và đồng nghiệp tại Đại học Oxford phân tích nhiễm sắc thể Y của 2.000 đàn ông từ vùng nội địa Á - Âu. Họ nhận thấy nhiều nhiễm sắc thể thuộc nhiều vùng địa lý lại rơi vào một nhóm duy nhất. Và nhóm đó cũng rất phổ biến tại Nội Mông. Phân tích tốc độ đột biến gien, các nhà nghiên cứu thấy nhóm đặc biệt đó xuất hiện khoảng 1000 năm trước, đúng thời điểm Thành Cát Tư Hãn leo lên đỉnh cao sức mạnh và quyền lực. Nói cách khác, những người thuộc nhóm nhiễm sắc thể Y đó đều là hậu duệ của vị bạo chúa Mông Cổ.

Sử sách chép rằng, bên cạnh Thành Cát Tư Hãn lúc nào cũng có 500 thê thiếp. Hệ quả của chiến lược bí mật đó là ngày nay tại những nơi từng là lãnh địa của đế chế Mông Cổ, hơn 16 triệu đàn ông mang các dấu gien của vị hoàng đế tàn bạo và khôn ngoan.

Vĩ thanh 3: Ý nghĩa bảo vệ của ngôn ngữ.

Ngôn ngữ có chức năng cơ bản là truyền thông; tuy nhiên nó cũng có một chức năng đáng ngạc nhiên là bảo vệ, khi giúp người nguyên thủy nhanh chóng phát hiện người lạ qua cách phát âm.

Người nguyên thủy sống theo các nhóm từ khoảng 50 tới một vài trăm người, được tổ chức hầu như theo quan hệ huyết thống. Để đảm bảo sự sinh tồn của nhóm, việc phát hiện kịp thời kẻ lạ không cùng huyết thống là yếu tố cốt tử. Đó là lí do các nhóm người có cách phát âm khác nhau, cho dù có cùng một ngôn ngữ. Và đó cũng là lí do mà từ một ngôn ngữ do nhóm người vượt biển Đỏ 60.000 năm trước dùng, ngày nay nhân loại dùng đến hàng chục ngàn ngôn ngữ khác nhau, chưa kể nhiều ngữ điệu và cách phát âm trong cùng một ngôn ngữ.

Vào ngày Phục Sinh năm 1282, người dân đảo Sicily (Ý) vùng lên lật đổ ách thống trị của công tước Charles de Anjou (Pháp). Để phát hiện số người Pháp đang lẩn trốn, người Sicily đặt ra một thách thức về ngôn ngữ. Đó là phát âm từ “ceci” (phát âm là chay-chi), tên một loại đậu theo tiếng Ý. Chỉ trong vài giờ, hàng ngàn người Pháp không vượt qua được thử thách và bị hành quyết.

TS. Đỗ Kiên Cường


Chú thích thêm của Lâm Thị Mỹ Dung

1. Thực ra phải viết là hóa thạch vượn người đã bị tuyệt diệt

2. Thực ra phải viết là một loài linh trưởng

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét