Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo đất nước ta tiến hành cải cách mở cửa đã hơn 30 năm, bộ mặt xã
hội, cơ sở hạ tầng ngày một phát triển, nền kinh tế có những chuyển biến
rõ rệt… Trong khí thế đổi thay đó, Phật giáo Việt Nam cũng khoác lên
mình chiếc áo mới mẻ, chùa chiền các nơi được xây dựng, trùng tu khang
trang đẹp đẽ, số lượng phật tử, người tín mộ Phật giáo ngày một tăng lên
với đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi thành phần trong các tầng lớp khác nhau.
Trong đó có sự đóng góp sức lực, vật chất không nhỏ của những cán bộ,
công chức, đảng viên Đảng Cộng sản có tín ngưỡng, mến mộ đạo Phật.
Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước ta
thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp qua từng giai đoạn, từng thời
kỳ khác nhau như Nghị quyết số 24/NQ - TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính
trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới, đã ghi dấu son về sự đổi
mới đường lối, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo, xác định:… Tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo
có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”; Quy định số
123 - QĐ/TW của Bộ Chính trị quy định một số điểm về kết nạp đảng viên
đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo
ngày 28/9/2004 cũng là một chính sách nổi bật, phù hợp xu thế nhằm nâng
cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng, tính cấp thiết của công tác
phát triển đảng viên là người có đạo, tạo ra sự phấn khởi trong đảng
viên và quần chúng ưu tú trong các tôn giáo; Hướng dẫn số 40 - HD/BTCTW
ngày 8/4/2005 của Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn thực hiện Quy định số
123 - QĐ/TW “Một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và
đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo” v…v….
Các chủ trương, chính sách đó hoàn toàn đúng đắn, phù hợp lòng dân bởi một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, sự xuất hiện của Phật giáo
là một dạng văn hóa có tính lịch sử với đặc thù riêng. Trải qua hàng
nghìn năm phát triển qua bao thăng trầm, Phật giáo trở thành một trong
ba tôn giáo lớn nhất của thế giới và là tôn giáo có lượng tín đồ, người
kính ngưỡng lớn nhất tại nước ta hiện nay, có được sự đón nhận rộng khắp
như vậy đương nhiên có tính hợp lý và ý nghĩa thiết thực trong đời sống
của tôn giáo này.
Thứ hai, trong đời sống chính trị tại
Việt Nam, chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tín ngưỡng
về chính trị, còn sự sùng kính, mến mộ, tín ngưỡng đối với Phật giáo lại
được hiểu như giá trị trực quan và thế giới quan về cuộc sống, tinh
thần của con người. Các kinh điển Phật giáo ngoài giá trị thực tiễn
trong học thuyết còn có tác dụng tích cực lên cách hành xử của con người
với xã hội, của con người với con người, thúc đẩy phát huy sức sáng
tạo, chân, thiện, mỹ của mỗi người dân trong đời sống hàng ngày, tạo môi
trường sống hài hòa, ngày một tươi đẹp hơn.
“Phật pháp bất ly thế gian giác”, luôn
đề cao lòng từ bi, nhân ái, gắn bó với dân tộc Việt Nam bằng tinh thần
cứu khổ, cứu nạn của đức Phật. Giáo lý Phật giáo quan niệm con người cần
có lòng từ, bi, hỉ, xả, đây là nhân tố chủ yếu giúp phát triển tâm từ
bi, hạnh cứu khổ, định hướng hoạt động của Phật giáo cho con người và vì
con người, nếu mỗi vị cán bộ lãnh đạo, mỗi một đảng viên sống trọn vẹn
với tâm hạnh đó thì những tệ nạn, sự xa rời quần chúng, thờ ơ nỗi đau
của dân thường… không còn xảy ra trong hiện thực hàng ngày. Triết lý tốt
đẹp đó không khác nhiều so với lý tưởng của Đảng, của Nhà nước Việt Nam
vì ấm no, hạnh phúc của mọi người dân. Như tại Báo cáo Chính trị của
Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Bảo đảm an sinh xã hội… trợ giúp và cứu
trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành
viên trong xã hội, nhất là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương”.
Nét đồng điệu trên cũng là một trong những cơ sở then chốt, là cơ duyên
để Phật giáo phát triển, đồng hành cùng với dân tộc Việt Nam, thể hiện
tinh thần nhập thế hành đạo, phát huy truyền thống “lá lành đùm lá
rách”, “thương người như thể thương thân” của cha ông ta.
Thứ ba, Phật giáo Việt Nam trải qua
hàng nghìn năm hòa hợp với văn hóa xã hội, đã hình thành nên một hệ
thống đặc sắc, rõ nét, phù hợp với nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Thế giới quan Phật giáo nhà Phật được coi như là một học thuyết hay
triết học nghiên cứu, suy xét về vũ trụ, con người, nhân sinh quan của
Phật giáo Việt Nam xây dựng trên thế giới quan ấy luôn chứa đựng những
nét nhân bản, nhân văn cao cả. Phật giáo Việt Nam trong khoảng hơn 2000
năm phát triển đã xây dựng cho mình truyền thống yêu nước, gắn bó với
dân tộc, là thành tố quan trọng chung dựng nên nền văn hóa Việt Nam, mà
như Hoà thượng Thích Đức Nghiệp, trong bài "Hồ Chủ tịch, một biểu trưng
nhân bản Việt Nam" đã ghi lại lời khẳng định của Bác Hồ với một nhà báo
nước ngoài: "Nhà nước chúng tôi luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng, Phật
giáo Việt Nam với dân tộc gắn bó như hình với bóng, tuy hai mà một”.
Có người cho rằng, đã là đảng viên thì
không được tín ngưỡng tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng theo
yêu cầu bắt buộc hoặc không chính thức, nhưng tại Việt Nam qua thời kỳ
giữ nước, xây dựng đất nước, có biết bao sự đóng góp xương máu, sức lực
của các cá nhân, tăng ni phật tử, của những người được cho là tín ngưỡng
chủ nghĩa duy tâm. Thời thế hội nhập, mở cửa cũng đã thay đổi những
định kiến đó, sự truyền bá, giao lưu tư tưởng văn hóa, tôn giáo đôi khi
còn nhanh hơn cả sự phát triển về kinh tế. Do vậy, yêu cầu cởi mở đối
với vấn đề tín ngưỡng Phật giáo nói riêng và tôn giáo nói chung trong
tình hình hiện nay là điều cần thiết, là kết quả tất yếu của sự phát
triển thời đại mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã sớm nắm bắt và có chính
sách, chủ trương điều chỉnh phù hợp.
Mặc dù như vậy, là một đảng viên tín
ngưỡng tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng không vì thế mà gạt bỏ
những quy định, yêu cầu khắt khe đối với những điều đảng viên không được
làm, trong đó điều 18 quy định rõ đảng viên không được “Mê tín, hoạt
động mê tín (đốt đồ mã, hành nghề đồng cốt, thầy cúng, thầy bói). Lập
đền, miếu, nơi thờ tự của các tôn giáo trái phép; ủng hộ hoặc tham gia
tôn giáo bất hợp pháp; tham gia các tổ chức do tôn giáo lập ra chưa được
cấp có thẩm quyền cho phép. Lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi vì mục đích
cá nhân.
Là đảng viên nếu không học tập chăm
chỉ, hiểu thấu đáo sẽ dễ sa vào sự mê tín mơ hồ không hay biết, nói
không chừng sẽ bước vào con đường phủ định chủ nghĩa Mác Lênin, như vậy
sẽ không còn là một người đảng viên chân chính nữa.
Nói như vậy, không có nghĩa rằng người
đảng viên vì lo sợ mà từ bỏ quyền, né tránh tự do tín ngưỡng của mình,
đảng viên Đảng Cộng sản chân chính có thể tín ngưỡng Phật giáo theo ý
mình mong muốn nhưng luôn luôn phải thức tỉnh lý trí bản thân trong việc
vấn đề nhận biết rạch ròi giữa niềm tin Phật giáo một cách chánh tín,
có khoa học. Do đó, đảng viên cần:
1. Nắm vững chủ trương, chính sách của
Đảng trong lĩnh vực tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng: luôn học
tập để có kiến thức cơ bản về thế giới quan duy vật biện chứng và
phương pháp luận khoa học; nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo; quán triệt và trung
thành với tôn chỉ, mục đích, Cương lĩnh đường lối chính trị của Đảng;
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn
giáo.
2. Không làm trái chính sách Đảng và
pháp luật Nhà nước; không ngộ nhận, cả tin vào các giáo lý mà phai mờ
hoặc xem nhẹ thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa
học; không sa vào mê tín, hủ tục và phải có thái độ kiên quyết; dứt
khoát đấu tranh với các hiện tượng đó.
3. Không né tránh dấu hiệu lợi dụng
tôn giáo chống phá cách mạng; là tấm gương cho quần chúng noi theo; phối
hợp với quần chúng, với những tín đồ khác cùng thực hiện, tuân thủ
chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong đời sống và các hoạt động
xã hội.
Qua một số quan điểm trên đây, là
người đảng viên Đảng Cộng sản, đứng trong đội ngũ tiên phong, đòi hỏi
mỗi cá nhân trong công tác nhiệm vụ của mình cùng sự tín ngưỡng, mến mộ
Phật giáo cần chuyên tâm sâu sắc với từng vai trò mà mình tham gia. Vừa
tăng cường nhận thức quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về tín ngưỡng Tôn
giáo, về chủ nghĩa duy vật biện chứng để làm nền tảng tư tưởng trong
mọi hoạt động của bản thân trên các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực tôn
giáo, đồng thời vừa tham gia sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo làm tốt đời,
đẹp đạo, phân tích, làm rõ giá trị nhân sinh quan từ - bi - hỉ - xả của
nhà Phật, nhìn nhận Phật giáo dưới góc độ khoa học, là một triết học
mang lợi ích nhân sinh, góp phần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân
tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, làm tốt quyền lợi và
nghĩa vụ của bản thân với Tổ quốc và Đạo pháp.
“Đạo pháp tộc chủ nghĩa xã hội” – Biến thái của Phật giáo Việt Nam hiện tại
Phật Giáo | Tuệ Sỹ
Phật giáo chỉ tồn tại như một bộ phận của Đảng, và lãnh đạo Phật giáo chỉ là cán bộ của Đảng và Nhà Nước.
Lời dẫn của Tuệ Sỹ: Bài tham luận này được viết đã lâu.
Nguyên đề là “Văn minh tiểu phẩm,” chỉ là bài tham luận có tính chuyên
đề. Bỗng nhiên nó mang tính thời sự. Ban đầu người viết không có ý định
phổ biến rộng rãi, mà chỉ giới hạn trong một số thức giả đọc để suy ngẩm
về quá khứ và tương lai.
Tuy nhiên, nay nó được cho phổ biến, vì trong mấy tuần vừa
qua, Nhà Nước đã vận dụng bộ máy tuyên truyền khổng lồ và độc quyền, từ
diễn đàn Quốc hội, cho đến các cuộc họp một số phường quận; từ Hội đồng
chứng minh, Giáo hội trung ương, cho đến các ban Đại diện Phật giáo
quận; bằng các phương tiện phát thanh, truyền hình, báo chí; mục đích là
xác định lại lập trường “trước sau như một” của Đảng CSVN đối với Phật
giáo, và cũng xác định sự hiện hữu duy nhất của Phật giáo qua đại diện
hợp pháp là Giáo hội Phật giáo Việt Nam, mà thực chất là một tổ chức
chính trị của Đảng, thực hiện đúng sách lược tôn giáo theo chỉ thị của
Lenin: “đảng phải thông qua tôn giáo để tập hợp quần chúng.”
Chính điều đó xác định rõ nhiệm vụ lịch sử của Giáo hội Phật
giáo Việt nam như là công cụ bảo vệ Đảng, đúng như lời Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh trước đây đã tuyên bố: Phật giáo Việt nam là chỗ dựa cho
người Cộng sản Việt nam làm cách mạng.
Những tuyên truyền và tuyên bố như trên chỉ được nghe và
nhìn từ một phía. Vì vậy tôi cho phổ biến lại bài này; không xem đây là
chân lý lịch sử, nhưng là sự thực được nhìn theo chủ quan của một cá
nhân. Dù sao, nhìn sự việc từ một khía cạnh khác sẽ cho thấy rõ thêm vấn
đề. Chân lý cuối cùng tùy thuộc người đọc; tùy thuộc trình độ tư duy,
thành kiến xã hội, hay quyền lợi vật chất.
Trước khi giới thiệu bản văn, nhân tiện tôi ghi thêm một vài sự kiện
có tính lịch sử gần nhất, để người đọc có thêm cảm hứng suy luận.
Tôi nói sự kiện lịch sử gần nhất, là muốn nói ngay đến sự xuất hiện
của Pháp sư Thích Trí Độ lần đầu tiên tại miền Nam sau ngày Cộng sản
chiến thắng. Trên lễ đài chiến thắng, gồm các lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, hàng cao nhất. Pháp sư thay mặt Phật giáo miền Bắc, mà trên cương
vị người chiến thắng, là chính thức đại diện toàn thể Phật giáo Việt
Nam. Đó là vị Pháp sư, mà miền Nam gọi là Đại lão Hòa thượng; Ngài bận
chiếc áo sơ-mi cụt tay như các cán bộ cao cấp khác của Đảng và Nhà Nước.
Sự thực như vậy rất rõ: Phật giáo không tồn tại nữa ở Miền Bắc, mà
chỉ tồn tại như một bộ phận của Đảng và lãnh đạo Phật giáo chỉ là cán bộ
của Đảng và Nhà Nước.
Ở miền Nam, theo báo cáo của Trần Tư, tài liệu của Bộ Nội vụ phổ biến
năm 1996, bấy giờ chỉ có “khoảng 2.5 triệu tín đồ.” Nhưng do nhu cầu
lịch sử, nói theo lý luận của Đảng, nghĩa là chưa xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội nên tôn giáo như thuốc phiện ru ngủ vẫn còn có nhiệm vụ
lịch sử của nó; do nhu cầu lịch sử nên Đảng thừa nhận tồn tại tín
ngưỡng Phật giáo.
Tín ngưỡng, chứ không phải tôn giáo. Bởi vì, tin và thờ bình vôi, cây
đa, ông Táo, ông Địa, là tín ngưỡng, chứ không phải tôn giáo. Đảng tôn
trọng tự do tín ngưỡng, nhưng chỉ cho phép tin một số hiện tượng. Ngoài
ra là mê tín, hoặc duy tâm mang tính phản động thì triệt để bài trừ.
Năm 1980, tôi được anh Võ Đình Cương mời họp thảo luận về văn hoá
Phật giáo tại tòa soạn Giác ngộ, tại đó, đại diện Mặt trận Thành phố HCM
đến dự, và đề nghị (thực chất là ra lệnh): nhiệm vụ văn hoá Phật giáo
là bài trừ mê tín; do đó phải xét lại trong Phật giáo những gì không
thuần tuý thì phải dẹp bỏ. Thí dụ, Quan Âm, Địa Tạng có thuần tuý Phật
giáo hay không?
Tôi phản ứng: đó là đức tin tồn tại ít nhất hơn 2 nghìn năm, trên một
phạm vi châu Á rộng lớn; do đó không ai có quyền xét để dẹp bỏ. Tin hay
không, đó là quyền tự do cá nhân. Nhưng dẹp bỏ thì không ai có quyền.
Ngay sau 1975, nhiều tượng Phật lộ thiên bị giựt sập. Gây chấn động
lớn nhất là giựt tượng Quan Âm tại Pleiku. Viện hóa đạo đã có những phản
ứng quyết liệt, và đích thân Hòa thượng Đôn Hậu mang tài liệu phản đối
ấy ra báo cáo Thủ Tướng Phạm Văn Đồng.
Hoà thượng kể lại cho tôi nghe, sau khi chuyển hồ sơ vi phạm chính
sách tôn giáo lên Thủ tướng; hôm sau Hòa thượng được một Đại tá bên Bộ
Nội vụ gọi sang làm việc. Sau khi nghe Đại tá lên lớp chính trị, Hòa
thượng nói: “Bởi vì Thủ tướng có nhờ tôi sau khi vào Nam trở ra Bắc, báo
cáo Thủ tướng biết tình hình Phật giáo trong đó. Vì vậy tôi báo cáo
những vi phạm để Chính phủ có thể kịp thời sửa chữa, ngăn chận cán bộ
cấp dưới không để vi phạm. Nếu Thủ tướng không muốn nghe thì thôi. Còn
viêc lên lớp chính trị như thế này, đối với tôi (Hòa thượng) thì xưa quá
rồi.”
Dù sao, phản ứng ấy cũng làm chùn tay những đảng viên cuồng tín Mác
xít, và tự kiêu về chiến thắng với khẩu hiệu nhan nhãn các đường phố lúc
bấy giờ: “Chủ nghĩa Mác Lê-nin bách chiến bách thắng muôn năm!” Nghĩa
là, không thể tự do hoành hành như trong những năm sau 1954 trên đất
Bắc.
Ở đây, chúng ta phải đặt câu hỏi: sau 1975, nếu không có Phật giáo
miền Nam, cùng với thái độ cương quyết của các vị lãnh đạo Giáo hội
Thống nhất, Phật giáo Việt Nam sẽ thoi thóp đến lúc nào rồi đứt hơi
luôn, với đà tự kiêu chiến thắng 1975 và với ảo tưởng về thành trì xã
hội chủ nghĩa bách chiến bách thắng của Liên-Xô?
Năm 1982 là cột mốc lớn cho Phật giáo Việt Nam, với lời tuyên bố của
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Đảng không dại gì mà dựa lưng vào chỗ mình
chưa nắm chắc. Do đó, bằng mọi giá phải cải tạo Phât giáo miền Nam,
giống như cải tạo xã hội chủ nghĩa theo phương thức tịch thu tư liệu sản
xuất và đưa các chủ tư bản đi lao động cải tạo.
Đảng biết chắc, tuy gặp phải chống đối quyết liệt của lãnh đạo Phật
giáo, nhưng với bạo lực chuyên chính trong tay, sẽ phải cải tạo thành
công. Trước hết, sự bức tử đối với Thượng tọa Tâm Hoàn, Chánh Đại diện
GHPGVNTN tỉnh Bình định, năm 1975, gây kinh sợ không ít cho những ai
cưỡng lại ý chí của Đảng.
Kinh hoàng nhất là cái chết của Thượng Tọa Thiện Minh năm 1978, trong
trại giam K4, Bộ Nội vụ. Đó là thời gian tôi được giam cùng trại với
Hòa thượng Thiện Minh, nhưng hoàn toàn cách ly. Chỉ biết rõ, khi nghe
tiếng Hòa thượng trả lời thẩm vấn ở phòng hỏi cung kế cận.
Tất cả điều đó củng cố cho tuyên bố của ông Mai Chí Thọ, bấy giờ là
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố HCM, nói thẳng với Hòa thượng Trí
Thủ, bấy giờ là Viện trưởng Viện hóa đạo: “Các thầy chỉ có hai con
đường, theo hoặc chống. Các thầy theo, chúng tôi tạo điều kiện cho sinh
hoạt. Các thầy chống, chúng tôi còn đủ xe tăng thiết giáp đó.” Hòa
thượng trả lời: Không theo cũng không chống. Nhưng, đối với Đảng, không
có con đưòng thứ ba.
Ý chí của đảng là một chuyện. Nhưng những người Phật giáo cũng nên tự
đặt câu hỏi: Ban Liên lạc Công giáo Yêu nước cũng hoạt động rất tích
cực, nhưng không đưa được Hội đồng Giám mục vào trong Mặt trận Tổ quốc.
Trong khi, rất nhanh chóng, Phật giáo trở thành một bộ phận của đảng
Cộng sản Việt Nam. Tại sao?
Từ ngày thành lập đến nay, Giáo hội thành thành viên Mặt trận đó đã
làm những gì? Làm nhiều lắm, vì chùa chiền đồ sộ thêm lên. Như lời Hòa
thượng Thanh Tứ phát biểu mới đây trong buổi lễ khai giảng của trường
Phật học Trung cấp tỉnh Bình Định.
Hòa thượng nói: “Phật giáo thời Lý rất thạnh. Nhưng không bằng nay.
Vì nay cơ sở của ta to lớn hơn.” Ấy là, theo như lời Hòa thượng nhắc đi
nhắc lại nhiều lần trong bài phát biểu: nhờ chính sách của Đảng. Đó là
sự thực không thể chối cãi. Nhưng cần nói cho rõ thêm, Việt Nam chúng ta
bây giờ tiến bộ hơn thời Hồng Bàng gấp vạn lần.
Thời Lý, nước Việt Nam chỉ từ Thanh Hóa trở ra Bắc, chỉ hơn 1/3 lãnh
thổ hiện nay. Như vậy thì cơ sở hiện nay nhất định phải to lên rồi.
Nhưng cái to hơn ấy của lịch sử bốn nghìn năm văn hiến lại chưa bằng một
phần nhỏ của Thái Lan chỉ hơn 8 thế kỷ định cư.
Và cũng nhờ chính sách của Đảng, nếu chính sách đó trước sau như một,
nghĩa là như Phật giáo miền Bắc trước 1975, thì không biết ngày nay các
Hòa thượng khi xuất hiện trước công chúng sẽ khoác tăng bào, hay cũng
chỉ bận áo sơ mi cán bộ như Pháp sư Trí Độ trước đây?
Trên toàn miền Bắc, cho đến 1975, có trên dưới 300 “ông sư, bà vải.”
Đến 1996, theo báo cáo Bộ Nội vụ của Trần Tư, “Hiện nay Phật giáo ở miền
Bắc có khoảng 3.000 tăng ni, tín đồ phần đông là ông già (bà già là chủ
yếu –nguyên văn).
Số cao tăng tiêu biểu hầu hết đã già yếu không còn khả năng hoạt
động. Số tăng ni trẻ trình độ văn hoá cũng như lý luận về Phật giáo
thấp, không đủ sức làm nhiệm vụ tranh thủ Phật giáo miền Nam và hoạt
động quốc tế.” Giáo hội Phật giáo Việt Nam phục vụ cho cái gì, theo báo
cáo đó đã quá rõ.
Ngoài cơ sở “to lớn hơn thời Lý” ra, còn thêm được những gì để vượt
hơn Phật giáo miền Nam trước 1975? Nói về báo và tạp chí, được mấy phần
trăm? Chỉ một tờ Giác Ngộ duy nhất cho cả nước.
Cũng là tờ báo hoằng pháp. Nhưng cũng thường xuyên ca ngợi vinh quang
của Đảng, và giúp Nhà nước phổ biến kế hoạch sinh đẻ, tuyên truyền
đường lối của Đảng chống NATO. Những lời Phật dạy cao siêu cũng chỉ đủ
thêm vài chấm đỏ cho vinh quang của đảng và đường lối sáng suốt của đảng
trên chính trường quốc tế.
Ngoài tờ Giác Ngộ ra, với ba cơ sở giáo dục cao cấp, tương đương đại học, nhưng đã có công trình gì đáng kể?
Vậy thì, qua hơn 20 năm hoạt động, trong tư cách là một bộ phận của
đảng, Giáo hội PGVN đã làm thêm được gì cho văn hoá Phật giáo VN so với
những gì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đã làm trước
1975?
Trong khi cả khu vực, và kể luôn cả nước Việt Nam đều tiến bộ, theo
chừng mực nào đó, mà Phật giáo Việt Nam chưa lấy lại được thế đứng của
nó trong lòng văn hoá dân tộc như trước đó, vậy thì đảng hỗ trợ PGVN
tiến theo hướng nào?
Bề ngoài, cũng còn có mặt đáng nói khác, đó là giáo dục. Trước hết,
bao nhiêu cơ sở Trung học Bồ đề, và các Viện Đại học: một Vạn Hạnh, và
một Phương Nam, của Phật giáo miền Nam, nay biến đi đâu mất? Nói là
biến, vì hầu hết các tăng ni sinh, kể cả những vị đang học tại các
trường cao cấp Phật học, không biết các cơ sở giáo dục này là cái gì,
dạy những gì trong đó. Chính vì vậy mà họ chỉ biết Phật giáo Việt Nam
tiến bộ vì chùa to Phật lớn.
Các tăng ni sinh này được đào tạo để làm gì? Không thấy họ được đưa
về các địa phương để giảng pháp cho Phật tử. Cũng không có cơ sở văn hoá
nào để họ phục vụ. Hầu hết, học xong, trở về chùa, làm nghề thầy cúng
hoặc thầy bói. Tất nhiên cũng có nhiều thầy cô vẫn tìm cách mở các khoá
học Phật pháp, nhưng cũng chỉ giới hạn trong một số tỉnh thành lớn, nhất
là Thành phố HCM.
Ngay như Huế, được xem là kinh đô của Phật giáo miền Nam, hầu như các
thầy chỉ đi cúng và đăng đàn chẩn tế, hoặc lập đàn chay phá cửa địa
ngục cho cô hồn đi chơi, chẳng có buổi giảng kinh nào đáng kể.
Còn cái trường gọi là cao cấp Phật học, hay Học viện Phật giáo Hồng
đức, sau khi Hòa thượng Thiện Siêu tịch rồi, không còn thầy cô nào đủ
sức dịch cho xuôi một trang luận Câu-xá, thì lấy chữ đâu mà giảng dạy
kinh luận cho tăng ni sinh trình độ cao đẳng, đại học?
Nhìn chung, Phật giáo chỉ đang phục vụ nhiều nhất cho người giàu. Còn
quần chúng tại các vùng sâu xa, vì họ thiếu phước, kiếp trước ít tu,
nên nay chẳng mấy khi được nghe các thầy cô thuyết pháp. Còn lập đàn
chẩn tế và phá cửa địa ngục cho ông bà cha mẹ siêu thăng, đốt vàng mã
thật nhiều cho ông bà có tiền tiêu và có xe hơi nhà lầu, dưới âm phủ,
thì họ không đủ tiền.
Tóm lại, nếu nói Phật giáo Việt Nam hiện tại chẳng có tiến bộ gì thì
không đúng. Vì cơ sở chúng ta hiện nay đồ sộ hơn trước, kể cả miền Nam
trước 1975 chứ không cần so sánh xa xôi lùi cho đến đời Lý như Hòa
thượng Thích Thanh Tứ.
Ngoài việc xây dựng chùa to Phật lớn, Phật giáo hiện tại đã đóng góp
gì cho gia tài văn hoá, tư tưởng của dân tộc, ngoài sứ mệnh được giao
phó là rao truyền chính sách sáng suốt của Đảng quang vinh? Còn chuyện
tìm một vị trí của Phật giáo Việt nam, dù chỉ khiêm tốn thôi, trong thế
giới hiện đại, là điều mộng tưởng xa vời.
Gần đây, các trường Phật học tại Saigon sợ tăng ni sinh nghe thêm
những nguồn thông tin không phù hợp với sự tuyên truyền một chiều vừa
độc quyền vừa độc đoán của Nhà nước, nên vừa cảnh cáo, vừa khuyên răn:
hãy quên đi quá khứ mà lo chăm học cho hiện tại.
Quên đi quá khứ hận thù, để sống trong tình cảm dân tộc bao dung, đó
là điều cần phải học. Nhưng quên đi những thành tựu quá khứ gần nhất,
chỉ cách đây chưa đầy 30 năm, để rồi so sánh sự tiến bộ của ta ngày nay
với thời đại Hồng Bàng, hay với thời Lý như Hòa thượng Thanh Tứ, thế thì
bản chất của nền giáo dục Phật học ấy là gì?
Có phải các thầy muốn dạy tăng ni sinh quên đi những hy sinh gian khổ
của Thầy Tổ đã tạo ra di sản ngày nay, do vậy họ sẽ nhận thức dễ dàng
rằng những gì chúng ta đang thừa hưởng ngày nay là nhờ công ơn Đảng và
Nhà nước?
Lời hăm của các thầy có giá trị “hàn mặc dy luân” của những nhà giáo
dục. Chính vì thế tôi cho phổ biến bài tham luận này, mà trước đó tôi
cho là ý kiến cá nhân nên giới hạn người đọc. Bây giờ tôi vẫn xem đây
chỉ là quan điểm cá nhân. Nhưng tôi cho phổ biến để các thầy có cơ sở
kiểm chứng những thành tựu mà Nhà nước đã giúp Phật giáo Việt Nam.
Tất nhiên, tôi nhận mọi trách nhiệm trước pháp luật, và trên hết,
trước lương tâm của một con người còn tin tưởng giá trị làm người.
Già Lam 10-11- 2003.
Tuệ Sỹ
Thích Tuệ Sỹ (Ảnh: Internet)
[*] Bài
viết được đăng lại dưới sự đồng ý của Sài Gòn Báo. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của các tác giả.
“Câu Chuyện Cuối Tuần” là một đề mục của
Đài Phật giáo Việt Nam phát thanh về trong nước, trình bày vấn đề Phật Pháp & Thời luận phát thanh mỗi thứ sáu hàng tuần, do ký giả
Triều Thanh phụ trách.
Hôm nay xin mời bạn đọc theo dõi bài 1 và bài 2 Cư sĩ Võ Văn Ái nói về
“Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến từ đâu”, chép lại từ cuộc phỏng vấn của Triều Thanh qua 2 chương trình Đài hôm thứ sáu 28-10-2016 và thứ sáu 4-11-2016 :
Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến từ đâu ?
Bài 1
Triều Thanh : Thưa ông Võ Văn Ái, với tất cả sự xáo
trộn nát tan xẩy ra cho phong trào Phật giáo Việt Nam sau khi chế độ Xã
hội Chủ nghĩa xích hóa toàn bộ Việt Nam sau năm 1975, đặc biệt với tổ
chức quy mô và đại biểu, mang danh xưng
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
(GHPGVNTN), ngày nay có số người đánh lên dấu hỏi : Phải chăng sự thống
nhất của Phật giáo đã bị rã tan, phân hóa, chia rẽ tới tận cùng của sự
giải thể một phong trào có tính thống nhất và lịch sử ?
Võ Văn Ái : Nếu hiểu thống nhất là sự chồng chất của
những con số người mang thẻ hội viên, con số khuynh hướng các bộ phái,
thì quả thực thể thống nhất bị khuấy tan theo chủ trương chống tôn giáo
và phi tôn giáo của người Cộng sản vô thần phương Tây.
Nhưng chữ
thống nhất trong danh xưng GHPGVNTN không mang
nghĩa số lượng, mà mang nghĩa phẩm chất của đạo Phật Việt ? Số lượng có
thể tan rã, chia xé, tranh chấp. Nhưng phẩm chất thì không. Phẩm chất là
tiến trình thăng hoa, từ thấp đến cao, từ thủ cựu vươn lên tiến bộ để
thích nghi thời đại trong mục tiêu cứu người của Phật giáo.
Triều Thanh : Như vậy, phẩm chất của hai chữ thống nhất qua danh xưng GHPGVNTN nghĩa là gì, xin ông giải thích rõ hơn ?
Võ Văn Ái : Trước hết ta cần biết danh xưng GHPGVNTN
đến từ đâu, và lúc nào ? Đọc sử ta biết cách đây mười thế kỷ, thời
Đinh, vua ban chức Tăng Thống cho Quốc sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu. Có
Tăng Thống tức có sự tập trung đông đảo của chư Tăng, có sự hiện diện
của tổ chức tăng đoàn và giáo hội.
Thế nhưng mười thế kỷ sau, dưới thời Pháp thuộc, Dụ số 10 do vua Bảo
Đại ký, đặt Phật giáo vào quy chế hiệp hội, hội đoàn, chứ không là tôn
giáo. Thời ấy, chỉ riêng Công giáo được hiện hữu như một giáo hội tôn
giáo. Dụ số 10 tiếp tục áp dụng đối với Phật giáo dưới thời Đệ nhất Cộng
hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Không may cho Phật giáo và dân tộc, là có sự kỳ thị tôn giáo, và bất
bình đẳng tôn giáo suốt 9 năm nhà Ngô chấp chính dưới thời Đệ nhất Cộng
hòa. Đây là một thực tế lịch sử, chứ không là nhận định theo từng quan
điểm. Khiến cho hàng vạn Phật tử trở thành nạn nhân của sự đày đọa tại
các khu Dinh điền hoặc thông qua
Ban Tuyên giáo Cộng giáo Tiến hành, hàng trăm Phật tử bị thủ tiêu, và khoảng hai nghìn bị bắt buộc bỏ đạo Phật tại miền Trung.
Tình trạng kỳ thị này được Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Pháp chủ Giáo
hội Tăng già Trung phần, báo động qua thư gửi Tổng thống Ngô Đình Diệm
và Quốc hội Đệ nhất Cộng hòa ngày 20 tháng 2 năm 1962, kèm theo hồ sơ 50
trang ghi rõ chi tiết những cá nhân, những Khuôn hội Phật giáo bị kỳ
thị và các kẻ chủ động thảm sát Phật tử tại các tỉnh Tuy Hòa, Phú Yên,
Bình Định, Quảng Ngãi, v.v… Thư gửi bằng đường bưu điện, và được một vị
Dân biểu Phật giáo đưa đến tận tay Tổng thống Diệm.
Trong thư, có đoạn Hòa thượng Thích Tịnh Khiết viết rằng :
“Kính thưa Tổng Thống,
“Chúng tôi nghĩ rằng dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa do Tổng
thống lãnh đạo, nền tự do tín ngưỡng đã được Hiến Pháp minh định, được
Tổng Thống và Quốc hội nhiều lần xác nhận, thế mà những hành động bất
công được nuôi dưỡng ở hạ tầng, đi ngược lại chủ trương của Chính phủ,
chia rẽ khối Đại Đoàn kết của toàn dân. Nỗi bất bình oan ức của hàng hội
hữu tín đồ Phật giáo chúng tôi không xiết tả.
“Chính sách Di Dân tốt đẹp đang bị lợi dụng và thi hành một cách
hết sức lệch lạc, Hiến pháp đang bị vi phạm. Những sự kiện trên sẽ đem
lại hậu quả vô cùng tai hại cho đường lối của Chính phủ dù sự lãnh đạo
sáng suốt của Tổng Thống (…) Kính mong Tổng Thống công minh xét đoán gấp
những nguyện vọng khẩn thiết trên cho hàng Phật tử chúng tôi”.
Tiếc thay, thư khẩn thiết và hồ sơ minh chứng của Phật giáo không
được Tổng Thống Diệm hay Quốc hội hồi âm, cứu xét. Đưa tới giọt nước làm
tràn ly vào tháng 5 năm 1963, khi Phật giáo không thể làm gì khác hơn
là mở đầu cuộc đấu tranh tự vệ nhắm mục tiêu yêu sách bình đẳng tôn
giáo. Việc sau đó ai cũng biết, không cần thiết đi sâu vào chi tiết của 6
tháng vận động qua phản ứng tự vệ của Phật giáo đồ.
Trên kia tôi nhắc Dụ số 10 như đầu mối kỳ thị tôn giáo tại Việt Nam. Đồng thời hiểu thêm sự kiện
Phong trào Chấn hưng Phật giáo
từ những năm 20 đầu thế kỷ XX, các tổ chức Phật giáo lần lượt ra đời từ
Nam Trung Bắc, tất cả đều phải mang danh xưng Hội đoàn như
Hội Nghiên cứu Phật học, Hội Lưỡng Xuyên Phật học ở miền Nam,
Hội Phật học Trung kỳ, Hội An Nam Phật học ở miền Trung,
Hội Phật giáo Bắc kỳ
ở miền Bắc, v.v… Mãi tới tháng 5 năm 1951, Phật giáo toàn quốc Bắc
Trung Nam quyết tâm tiến tới việc thống nhất Phật giáo họp nhau tại Chùa
Từ Đàm Huế với 3 tập đoàn Tăng Già và 3 tập đoàn Cư sĩ, nhưng danh xưng
vẫn nằm trong quy chế Hiệp hội : gọi là
Tổng hội Phật giáo Việt Nam, là chủ lực và tiền thân của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Cuộc đấu tranh đòi hỏi bình đẳng tôn giáo chấm dứt vào ngày 1 tháng
11 năm 1963 qua cuộc đảo chánh của giới quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sang
thời Đệ nhị Cộng hoà, Dụ số 10 mới bị bãi truất đối với Phật giáo.
Một Đại hội Phật giáo toàn quốc ở phía Nam được tổ chức tại Chùa Xá
Lợi, Saigon, từ ngày 31 tháng 12 năm 1963 đến ngày 4 tháng giêng 1964,
danh xưng giáo hội của Phật giáo mới được chính thức ra đời, với tên
GHPGVNTN cùng bản Hiến chương đầu tiên của Giáo hội nói rõ lập trường
nhân loại và dân tộc của Phật giáo với quá trình lịch sử hai nghìn năm.
Chữ thống nhất trong danh xưng GHPGVNTN, hiển nhiên là sự quy tụ hòa
hài tại Đại hội của 11 tổ chức, bộ phái của Phật giáo thời bấy giờ.
Nhưng ý nghĩa chính và công trình của chữ
thống nhất trong
danh xưng, là thống nhất hai trường phái chính yếu của Phật giáo thế
giới. Đó là truyền thống Bắc tông, cũng gọi là Đại Thừa (Mahayana), và
Nam tông tức Nguyên Thủy (Theravada), có lúc gọi là Tiểu thừa
(Hinayana).
Đây là nỗ lực đặc thù của Phật giáo Việt Nam thống nhất giáo lý Phật Đà trong việc
Tịnh Phật quốc độ và
Thành tựu chúng sinh, chưa hề xẩy ra cho Phật giáo trên thế giới trước đây.
Đồng thời, ở điều 5, chương 3 của Hiến chương GHPGVNTN quy định
“thành phần của GHPGVNTN gồm Tăng sĩ và Cư sĩ thuộc Bắc tông và Nam tông chấp nhận bản Hiến chương này”, cho ta thấy nỗ lực
thống nhất
tứ chúng (bao gồm hai giới Tăng, Ni, và hai giới Nam Cư sĩ và Nữ cư
sĩ), đạo và đời. Từ đó, giới Cư sĩ không còn bị xem khinh, nếu không là
kỳ thị, phát khởi từ thời Phật giáo tu viện hai nghìn năm trước, hay
thành kiến luân lưu trong một số Phật tử ngày nay.
Triều Thanh : Ông có thể cho biết ảnh hưởng cuộc đấu
tranh tự vệ của Phật giáo năm 1963 với sự ra đời của một tổ chức hoàn
chỉnh GHPGVNTN có mang lại ảnh hưởng gì trong đời sống cận đại Việt Nam
giữa hai miền Nam Bắc ?
Võ Văn Ái : Nói cho dễ hiểu và tổng quát, thì trong
bối cảnh bị xâm lược, chiến tranh thế giới, rồi chiến tranh huynh đệ
Việt Nam làm điêu linh xã hội, thì ảnh hưởng cận đại căn bản là tâm tư
người Phật tử Việt Nam biến thành
thái độ chính trị để rộ nở ra trong
văn học nghệ thuật. Đỉnh mốc ảnh hưởng Phật giáo trong lòng dân tộc rõ nét nhất từ 1963 trở đi. Một sinh thức mới
phi nhị tướng cũng gọi là
bất nhị
(Non duality) xuất hiện trong văn học và tư tưởng nhằm hóa giải cuộc
khủng hoảng tư tưởng của Tây phương, mà tranh cãi ý thức hệ hoá thân
bằng chiến tranh như tiền đề sụp đổ của nền văn minh Tây phương mà ta
đang chứng kiến trong thế kỷ XXI này.
Trên phương vị dân tộc, thì biến động Phật giáo năm 1963 là tiếng sét thức tỉnh giới lý thuyết gia mác-xít ở miền Bắc.
Triều Thanh : Có chuyện ấy sao ? Ông có thể khai triển cuộc diện mới mẻ này ?
Võ Văn Ái : Một nhà ngoại giao thời ấy, Giám đốc Vụ
Đông Nam Á Bộ Ngoại giao Pháp, tiết lộ cho tôi biết, thoạt đầu khi biến
động Phật giáo Huế bộc phát tháng 5 năm 1963, thì Hà Nội vẫn mơ tưởng và
đánh giá như một phong trào đô thị tự phát “chống Mỹ Diệm” do Xứ ủy
Miền Nam của Đảng Cộng sản, là Mặt trận Giải phóng Dân tộc Miền Nam thúc
đẩy.
Nhưng sau 3 tháng quan sát, thì Hà Nội mới giật mình tỉnh thức trước
một phong trào quần chúng Phật giáo lớn rộng không nằm trong tầm tay ảnh
hưởng hay giật dây của Đảng, tức Mặt trận, và họ tỏ ra khá lo ngại.
Trong đấu tranh chính trị, nhận thức người Cộng sản thường khởi sự
bằng sự nghiên cứu cơ bản đối tượng, để phác hoạch sự đối trị.
Cho đến thời gian ấy, các bài nghiên cứu ở miền Bắc về Phật giáo chỉ
quanh quẩn trên lĩnh vực văn học, thi ca, tư liệu lịch sử. Đột nhiên, lý
thuyết gia của chế độ xuất hiện, lên vũ đài nghiên cứu nhằm đánh giá
một lực lượng quần chúng có tầm vóc chính trị ở miền Nam, là phong trào
Phật giáo, mà Hà Nội bắt đầu thấy nguy cơ đối đầu trong tương lai với
nhà nước Cộng sản.
Lý Thuyết gia này là ông Trần Văn Giàu. Bài viết ký tên thật hoặc qua
các bút danh Gió Nồm, MN, Tầm Vu. Ông đăng một loạt bài về Phật giáo
trên báo
Nghiên cứu Lịch sử dưới các tựa đề bám sát cuộc đấu tranh của Phật giáo Miền Nam từng tháng một, để lèo lái lý luận nhằm
“chứng minh” Mặt Trận Giải Phóng Dân tộc Miền Nam
“lãnh đạo”
cuộc đấu tranh của Phật giáo. Thực tế, Phật giáo chẳng ăn nhập gì với
chủ trương hay ảnh hưởng Cộng sản của Mặt trận hay Bắc Việt.
Theo dõi thời sự cuộc đấu tranh của Phật giáo ở miền Nam năm 1963, ông tviết một bài dài mang tên
“Phong trào đô thị, phong trào Phật giáo, Đàn áp dã man của Mỹ Diệm” đăng trên báo
Nghiên cứu Lịch sử, sau in vào bộ sách
“Miền Nam Giữ Vững Thành Đồng”
(tập II, phát hành tại Hà Nội ngày 6.10.1966). Dù mưu mô “cột” Phật
giáo với Mặt trận, nhưng một câu viết của ông Giàu trong bài này cho
thấy sự thất bại của Mặt Trận trong việc tiếp cận trịch thượng, nhưng
chẳng được Phật giáo để ý qua tiết lộ của ông Giàu :
“Những lời kêu gọi, những điều hướng dẫn của Ủy ban Trung Ương
Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ngày 14 tháng 5 và ngày 22 tháng 8
[năm 1963]chưa có điều kiện (chúng tôi nhấn mạnh) để hàng ngũ Tổng Hội Phật Giáo [Việt Nam] nhận thức được tầm quan trọng và thưc hiện một cuộc thống nhất hành động chống kẻ thù chung” (Miền Nam Giữ Vững Thành Đồng, tập II, tr. 360).
Hai thiên khảo cứu quy mô, nhưng lêch lạc về lý luận, của ông Trần Văn Giàu mang tựa đề dài
“Phong
trào Chấn hưng Phật giáo” và các vấn đề tư tưởng Triết học mà phong
trào ấy đã nêu lên ở nước ta trong thời kỳ lịch sử giữa hai cuộc chiến
tranh thế giới” đăng trên hai số báo
Nghiên cứu Lịch sử số 139 (tháng 7 và 8 năm 1971), và số 140 (tháng 9 và 10 năm 1971). Sau này, đưa in vào sách
“Hệ ý thức Tư sản và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử” ấn hành tại Hà Nội ngày 30.3.1975.
Sự giật mình tỉnh thức trước một tôn giáo có đóng góp văn hiến và
đồng hành cùng dân tộc suốt hai nghìn năm lịch sử Việt Nam, nay mới được
người Cộng sản vội vàng học tập, tìm hiểu, và đánh giá. Dẫn nhập bài
viết, ông Giàu nói lên một sự trạng mà từ người Cộng sản đến ngưới Quốc
gia ít khi nghĩ tới. Ông Giàu nhận thức :
“Không thể không chú ý rằng, trong thời gian lịch sử này, các
giáo phái là yếu tố khá nổi bật của cục diện xã hội, của thời thế, lắm
khi còn to hơn là một đảng phái chính trị.
“Thuở đó, tại xứ ta, ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương ra thì không
có chính đảng nào có thể so sánh được với các giáo phái chính về mặc số
lượng quần chúng, hệ thống tổ chức, và hoạt động tư tưởng.
“Hoạt động của các giáo phái đặc biệt là của Phật giáo lúc này,
đặt ra nhiều vấn đề tư tưởng triết học và kích thích nhiều cuộc tranh
luận về lý thuyết còn hơn là các hoạt động của các chính đảng tư sản hay
tiểu tư sản”.
Triều Thanh : Xin cám ơn Cư sĩ Võ Văn Ái và xin hẹn quý thính giả ở Câu Chuyện Cuối Tuần vào thứ Sáu tuần tới, cũng vào giờ phát thanh này.
Bài 2
Triều Thanh : Thưa ông Võ Văn Ái, trong bài 1 trước
đây, ông đưa ra khám phá mới mẻ, mà ông gọi Biến động Phật giáo năm 1963
là tiếng sét thức tỉnh giới lý thuyết gia mác-xít miền Bắc về tiềm lực
dân tộc mà họ tưởng rằng chỉ có thể tìm thấy ở thủ đô Cộng sản Mạc Tư
Khoa. Xin ông khai triển sự thức tỉnh này ?
Võ Văn Ái : Thức tỉnh là đưa trạng thái u mê về lại
với trí tuệ sáng suốt để hòa đồng phục vụ nhân loại. Người Cộng sản
không thức tỉnh theo lối này. Vì mỗi người Cộng sản đều mang trong đầu
một bục công an, khiến họ ngày đêm đi tìm kẻ địch như kẻ đi săn thú. Kẻ
địch yếu họ giết nhanh, kẻ địch mạnh mà họ mới khám phá, họ nghiên cứu,
tìm hiểu ưu khuyết của địch để có đối án trừng trị, thanh toán.
Khi tôi nói Hà Nội thức tỉnh là diễn tả tình trạng bất ngờ, thảng
thốt thấy từ lòng đất tổ Việt Nam vọt lên một tiềm lực Phù Đổng là Phật
giáo.Tiềm lực Phật giao khác hẳn vơi các xung lực khác trên sân khấu
chính trị Việt Nam, là Phật giáo đặt quyền lợi dân tộc trên mọi quyền
lợi chính trị, phe đảng, bè nhóm. Vì tất cả các xung lực chính trị này
rồi sẽ qua đi như bóng mây, hạt móc. Chỉ có dân và dân tộc là tồn tại
trong sự trăn trở giác ngộ. Do đó, mà hai nghìn năm qua, Phật giáo không
đi với bất cứ triều đại, chế độ, quyền lực chính trị nào, mà chỉ đồng
hành cùng dân tộc mà thôi.
Trong bài trước tôi nhắc tới sự xuất hiện của ông Trần Văn Giàu, một
lý thuyết gia thượng thặng của chế độ Mác- xít Việt Nam, qua các bài
theo dõi cuộc tranh đấu từng tháng một tại miền Nam năm 1963 để cố “gán
ghép” vào sự lãnh đạo của Mặt Trận Giải phóng. Ngay vào lúc mà hoạt động
của Mặt Trận đang xuống dốc trong lòng quần chúng Miền Nam. Đặc biệt,
sự thiên vị thấy rõ qua thiên khảo cứu dài về
“Phong trào Chấn hưng Phật giáo” đầu thế kỷ XX, đăng trên báo
Nghiên cứu Lịch sử năm 1971, sau đưa vào sách
“Hệ Ý thức Tư sản và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử” phát hành tại Hà Nội tháng 3 năm 1975.
Bài nghiên cứu của ông Giàu có chất lượng, vì ông biết dùng vốn triết
học thu tập những năm ông du học ở Pháp (1928) rồi sau qua thụ giáo chủ
nghĩa Cộng sản tại Trường Đại học Phương Đông ở Mạc Tư Khoa (1931).
Nhưng triết học ông am hiểu là Duy vật Sử quan, nên ông thiếu căn bản
triết học tỉ giảo. Đối với Phật giáo ông còn mù tịt hơn, như khi ta đọc
những đoạn ông so sánh và giải thích hết sức sơ cơ về Niết Bàn hay Duy
thức học. Ông đánh đồng tâm lý học với khoa học.
Tích cực nhất của bài ông Giàu nghiên cứu
Phong trào Chấn hưng Phật giáo
là ông thấy được một đồ biểu hết sức hấp dẫn của một phong trào có lý
luận, có tư tưởng, có tổ chức, và có hướng tiến khai dân trí. Ông phát
lộ những bài viết của giới trí thức Phật giáo đưa lên báo thời bấy giờ,
từng làm kinh ngạc giới trí thức hay tôn giáo phương Tây trong xã hội
thời đó.
Ông Giàu nhận định trong phần kết luận thiên khảo cứu :
“Ở nước ta, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, sự hoạt
động của các tôn giáo mang một tính chất chính trị ngày càng đậm nét,
và mang một tính chất tư tưởng có ảnh hưởng ngày thêm nhiều đến chính
trị. Trong toàn bộ hoạt động của các tôn giáo thì sự chấn hưng Phật giáo
là một cuộc hoạt động có chiều sâu tư tưởng nhất, chẳng những vì các
Phật tử, các nhà Phật học chịu khó trở lại kinh điển Phật giáo, đặt và
bàn nhiều triết học [mà] nước ta xưa nay ít khi bàn”.
Nhận định khá chính xác, nhưng khi nêu các nguyên nhân nẩy sinh
“Phong trào Chấn hưng Phật giáo”
thì ông lại đánh mất con người nghiên cứu để hiện hình thành nhà tuyên
truyền cho chế độ. Hai lý do ông nêu bật, là Phật giáo phản ứng trước sự
ra đời rầm rộ của đạo Cao Đài những năm 1925 – 1926, làm cho Phật giáo
mất tín đò, nên Phật giáo phải chấn hưng. Hai là, xin trích lời ông :
“Những
năm 1930 – 1931 nổi lên ở khắp Việt Nam một cao trào cách mạng quần
chúng do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo làm điên đảo thực dân Pháp và
rung động triều đình Huế. Trong tình hình này, Pháp thấy có thể (…) sử
dụng vũ khí tinh thần để đấu tranh chống lại cách mạng trên mặt trận tư
tưởng, ý thức. Vì vậy Thống đốc Nam Kỳ cho Com-mi Chấn đứng ra chủ
trương “Hội Nghiên cứu Phật học” và tờ tạp chí Từ Bi Âm ra đời năm 1931”.
Triều Thanh : Điều này có đúng theo lịch sử không ?
Võ Văn Ái : Hiển nhiên sai. Ông Giàu muốn lập lờ với
cái gọi là “Xô viết Nghệ Tĩnh” ở vùng Thanh – Nghệ mà người Cộng sản
hãnh tiến tuyên truyền, song vốn không có thật. Thực tế, sự xôn xao ồn
động nhất từ Việt Nam sang tới Pháp thời gian 1930 – 1931, không là Đảng
Cộng sản Đông Dương, mà là việc xử từ hình 13 đồng chí Việt Nam Quốc
Dân Đảng của Nguyễn Thái Học.
Còn Phong trào Chấn hưng Phật giáo thì đã được Tổ Khánh Hòa ở Nam bộ
xướng xuất từ năm 1920, lập thư xã, thỉnh ba Tạng kinh, dịch ra quốc
ngữ, lập trường đào tạo Tăng tài, phát hành tạp chí
Pháp Âm.
Phong trào chấn hưng ở Nam Bộ năm 1920 này đã ảnh hưởng đến Trung Bộ
trong cùng thời gian. Ở Bình Định, Tổ Phước Huệ cũng xướng xuất Chấn
hưng Phật giáo tại chùa Thập Tháp và Long Khánh. Sau này Tổ Phước Huệ
được thỉnh ra Huế làm chủ giảng năm 1931 tại Sơn Môn Học Đường Trúc Lâm,
là nơi do Hòa thượng Giác Tiên và Cư sĩ Lê Đình Thám chủ động mở đạo
tràng giảng giải kinh nghĩa.
Tuy ông Trần Văn Giàu có nhắc tới ảnh hưởng ngài Thái Hư Đại sư trong
Phong trào chấn hưng Phật giáo tại Việt Nam. Nhưng ông không thấy tầm
quan trọng và nghĩa lý giác ngộ chính yếu của công trình chấn hưng. Thời
ấy, các vị Cao tăng và Cư sĩ Việt Nam nhờ đọc tạp chí
Hải Triều Âm
bên Trung quốc mà noi gương chấn hưng Phật giáo. Cuộc Cách mạng Tân
Hợi, năm 1912, của ông Tôn Dật Tiên bên Trung quốc, kéo theo phong trào
Canh tân Phật giao Trung quốc do các ngài Đế Nhàn Quán Tông, Viên Ảnh và
Thanh niên Tăng Thái Hư đề xướng, lập các
Hội Phật học và xuất bản tạp chí
Hải Triều Âm. Công lao ngài Thái Hư Đại sư rất lớn, ngài chủ xúy 3 cuộc Cách mạnh Phật giáo, là
Cách mạng Giáo lý, Cách mạng Giáo chế và Cách mạng Giáo sản.
Các chuyến xuất ngoại thuyết trình đã đưa tới việc thành lập các Hội
Phật học tại Pháp, Anh, Mỹ, Nhật, v.v… thành một trào lưu quốc tế trong
nhiệm vụ Phật hóa xã hội. Tại Trung quốc còn có sự xuất hiện mới mẻ
trong lịch sử hoằng dương chánh pháp của Phật giáo, là phong trào
Cư sĩ lâm
do các Cư sĩ giỏi giáo lý thuyết giảng để giáo dục quần chúng Phật tử.
Vì tệ nạn thời ấy, đầy dẫy giới Tăng lữ không biết đọc kinh sách, không
được chí thành tu học, họ chỉ biết cúng kiến với phù chú mê tín để sinh
nhai.
Triều Thanh : Ngoài những điều tuyên truyền hay lý luận phản Phật giáo của ông Trần Văn Giàu, bài nghiên cứu về
Phong trào Chấn hưng Phật giáo của ông ấy lập luận như thế nào ?
Võ Văn Ái : Hiển nhiên là lập luận theo quan điểm
Mác-xít. Nhưng cái khôn và là thủ thuật của ông Giàu, là ông trích dẫn
những bài viết hay sách in phê phán Phật giáo của những trí thức có
tiếng tăm làm lá chắn cho mục tiêu ông đánh đổ Phật giáo. Ông sử dụng
bốn người : Sư Thiện Chiếu, Hải Triều Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn An Ninh
hay Phan Văn Hùm. Hai ông Nguyễn An Ninh và đặc biệt Phan Văn Hùm vốn có
cảm tình và đề cao Phật giáo, tuy nhiên, sở học Phật giáo của họ chưa
thâm sâu, lại tả khuynh, nên khi phân tích, họ hay quy chiếu lý luận xã
hội của Marx hay Tây phương để so sánh, ngộ nhận tư tưởng Phật giáo.
Hải Triều Nguyễn Khoa Văn là một người Cộng sản viết bài
Phong trào Phật giáo Phục hưng trên báo
Tràng An về sau cũng viết trên báo
Ánh Sáng công kích Phong trào Chấn hưng Phật giáo. Hải Triều cho rằng :
“Rốt cùng và trên thực tế thì Chấn hưng Phật giáo chỉ là một cách nhồi sọ, một âm mưu của chính phủ [Pháp].
Trên tạp chí
Viên Âm của Phật giáo Huế số 13, phát hành ngày
13-8-1935, Cư sĩ Xuân Thanh đã bác bỏ lập luận “chụp mũ” trên đây của
người Cộng sản Hải Triều cùng 3 nguyên nhân chấn hưng Phật giáo mà Hải
Triều cho là vì
“lòng tự ái dân tộc”, vì
“lòng khát vọng một lý tưởng để theo”, và vì
“nạn kinh tế khủng hoảng”, rồi Xuân Thanh đưa ra 3 nguyên nhân khác trong mục tiêu chấn hưng Phật giáo :
“Một là “vì sự tiến hóa của trí thức người xứ ta về mặt luân
lý” ; hai là “vì khoa học tuy đánh đổ cái mê tín nhưng tự mình không có
năng lực để tạo thành hạnh phúc cho nhân loại” ; và ba là “vì phải có
một đạo lý vững vàng làm cho khoa học phục tùng để đào tạo đức tính của
loài người”.
Thậm chí Hải Triều còn bài bác mục tiêu Cứu khổ của đạo Phật, khi lý luận hồ đồ rằng :
“Đạo
Phật nói cứu khổ nhưng đạo Phật nhất định không phải là đạo có thể cứu
khổ cho loài người, đừng kỳ vọng vào nó mà thất vọng”. Hải Triều khẳng định :
“Một tôn giáo tự nhận cái trọng trách cứu đời mà sau 2500 năm,
người đời còn phải kỳ cục tìm xem người xưa nói gì ! Nếu loài người có
thể chịu khó chờ đạo Phật cứu, thì e cũng không có thì giờ mà chờ”.
Tìm xem người xưa nói gì, với học tập kinh điển là hai động thái khác
nhau. Học tập kinh sách là quán chiếu nghĩa lý kinh, cốt mở mang trí
tuệ bát nhã nhằm giác ngộ bản thân, đồng thời phát huy lòng từ bi cứu độ
người. Không học y khoa thì làm sao thành bác sĩ để cứu chữa bệnh
nhân ?
Những câu viết khẳng quyết của người Cộng sản Hải Triều vào những năm
30, thì nay ta có thể kiểm chứng phong trào Cộng sản đại đồng, tạo
thiên đường trên hạ giới, đã thất bại thảm não như thế nào ? ! Trong khi
con đường giác ngộ và cứu khổ của Phật giáo vẫn uy nghi phát triển trên
toàn cầu.
Thực tế, là những người Cộng sản như Trần Văn Giàu, Hải Triều Nguyễn Khoa Văn, chưa hề hiểu chữ
Khổ của Phật giáo, tiếng Phạn là
Dukkha, trong Tứ Diệu Đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật tại Vườn Nai, thành Ba La Nại. Chữ
Khổ
mà người Cộng sản tâm niệm chỉ mang nghĩa xã hội, thường tục, đại biểu
cho sự thất bại cướp giật miếng ăn và địa vị đặc quyền đặc lợi thông qua
chủ trương đấu tranh giai cấp, bạo hành và chiến tranh.
Triều Thanh : Còn trường hợp Sư Thiện Chiếu mà ông Trần Văn Giàu trích dẫn thì sao ?
Võ Văn Ái : Sư Thiện Chiếu là một thanh niên Tăng
đầy nhiệt huyết và có khả năng lý luận. Trong cuộc luận chiến với thành
phần bảo thủ chống Phật giáo trên lý thuyết hay trong thực tiễn chấn
hưng, các bài viết của Sư là cây bút sắc bén. Sư là một trong những vị
tăng trẻ tiên phong theo Tổ Khánh Hòa trong
Phong Trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam bộ từ năm 1920.
Có thể nói Sư Thiện Chiếu thấm nhuần tư tưởng canh tân của ngài Thái Hư Đại sư qua tạp chí
Hải Triều Âm hơn một số người khác, và dùng lý luận của
Hải Triều Âm
khai thông thời thế. Nhưng do con người Sư thiên về hành động, lại nóng
vội, không có người hướng dẫn Phật Pháp thâm sâu, nên bị giới Cộng sản
thời ấy ảnh hưởng, thúc đẩy, biến lòng yêu nước thành con cờ vong bản
quốc tế, sa đà theo lý thuyết nhị nguyên Tây phương của trò chơi tranh
chấp Duy Tâm – Duy Vật.
Sư Thiện Chiếu là một tay lý luận, có học thuật. Nhưng sở trường này
đã hoá ra sở đoản khi đi theo Cộng sản. Sư bị ngốc hoá, trở thành con
người vô dụng kể từ thời Sư hoàn tục giữa thập niên 30 thế kỷ trước cho
tới những năm tháng phục vụ Việt Minh rồi Việt Cộng qua hai cuộc chiến
thừa sai. Thiện Chiếu chẳng để lại công trình hay trước tác gì so với
thời thanh niên theo Phật.
Chủ nghĩa Cộng sản tiêu diệt trí thức và nhân tài dân tộc.
Năm 1936, Sư Thiện Chiếu phát hành sách
“Tại sao tôi cảm ơn đạo Phật” là ngày Thiện Chiếu bỏ Phật ra đi. Ông viết một cách đau lòng rằng :
“Bây giờ đối với cái chương trình quyết định trước kia, đã lãnh
đạm đi rồi. Kinh làm biếng xem, đầu hết muốn cạo ! Bởi thấy kinh tế càng
khủng hoảng nặng nề ; người ta càng lầm than, càng đói khổ. Do nguyên
nhân gì gây ra ? lấy phương pháp nào cứu chữa ? Chớ Phật giáo đã không
phải là phương thuốc cứu khổ duy nhất nữa rồi”.
Thâm độc hơn, Sư Thiện Chiếu công kích thẳng tới giáo điển nền tảng
của Phật giáo, như phủ nhận luật Nhân quả, mà Sư cho rằng thua luật Nhân
quả của khoa học. Còn Niết Bàn thì sư cho là “sự láo dóc”.
Trần Văn Giàu trích dẫn và khai thác triệt để sách
“Tại sao tôi cảm ơn đạo Phật” của Thiện Chiếu nhằm đánh đổ Phật giáo, để đề cáo cái
praxis / thực tiễn hành động Cộng sản.
Triều Thanh : Tại sao qua những trích dẫn của ông
Trần Văn Giàu, có khi đề cao phong trào Phật giáo, đồng thời lại chỉ
trích giáo lý “phi tư tưởng” của Phật giáo. Xem có vẻ mâu thuẫn, ông có
nghĩ như vậy không ?
Võ Văn Ái : Tất cả những người Cộng sản đều là con
người hai mặt. Sự xung khắc hai mặt này làm cho họ mất nhân tính. Trong
nghiên cứu Phật giáo, ông Giàu thấy được những điều xưa nay ông chưa hề
biết, khiến ông bất thần ngạc nhiên và lo ngại cho tiền đồ chủ nghĩa của
ông. Nhưng con người chế độ của một gã tuyên truyền cố hữu, ngăn cản
ông Giàu bước qua lằn ranh
thức tỉnh để đổi thay. Bi kịch của
người Cộng sản là bỏ gần hết đời người làm tên nô lệ ý thức, rồi phần
đời còn lại lúc già, ngồi nuối tiếc mình đã bị lừa, nhưng ngậm miệng
chẳng dám nói ra.
Ta đã thấy ông đề cao hết mực Đảng Cộng sản Đông Dương những năm 30 đầu thế kỷ XX
“làm điên đảo thực dân Pháp và rung động triều đình Huế”. Nhưng ông Giàu lại quên một thực tế đồng hành cùng dân tộc trong mọi biến động lớn nhỏ của lịch sử.
Chưa ai quên vào những năm 1925, 1926, trong số thính giả đi hoan hô Nguyễn An Ninh, Phan Chu Trinh diễn thuyết ở trụ sở
Bắc Kỳ Ái hữu
tại Saigon, có sự tham gia của hàng chục cái đầu cạo bóng của chư Tăng
Phật giáo. Và hôm đi rước ông Bùi Quang Chiêu ở Pháp về, cũng có hơn 20
Tăng sĩ trẻ. Có người chất vấn :
“Ai xui Thầy chùa đi biểu tình” ?, thì Tăng sĩ này đã viết một bài trên báo trả lời rằng :
“Thuyết Từ bi cứu khổ của Phật Tổ xui Phật tử tham gia nhũng cuộc vận động yêu nước thương dân chớ không ai xúi cả”.
Nói về số lượng người, thì tuy ông Giàu đề cao Đảng Cộng sản Đông
Dương hoạt động “kinh thiên động địa” những năm 30, nhưng chẳng thấy ông
cung cấp một số liệu đảng viên nào. Trong khi ấy,
An Nam Phật Học Hội
ra đời tại Huế năm 1931, và theo báo cáo tại Đại hội Phật giáo tháng 8
năm 1938 ở chùa Từ Đàm cho biết đến cuối năm 1937, số hội viên là 3000,
các tỉnh ở Trung bộ, kể cả các tỉnh ở Tây nguyên, đều có Tỉnh hội Phật
giáo.
Ở ngoài Bắc,
Bắc Kỳ Phật Giáo hội ra đời năm 1935, theo báo
cáo của vị Hội trưởng Nguyễn Năng Quốc cho biết sau một năm hoạt động,
hội đã có 2000 Tăng Ni và 10 nghìn hội viên.
Thế nhưng ông Trần Văn Giàu im lặng trước sự phát triển của
Phong trào Chấn hưng Phật giáo,
mà chắc chắn số người tham gia vượt quá xa số đảng viên Cộng sản. Đây
ta chỉ đề cập tới con số là chuyện thứ yếu thôi. Chưa đặt vấn đề tinh
thần và sự phát triển
khai dân trí cũng như bước lên đường Giác ngộ bản thân, trừ phá vô minh hay các chính sách ngu dân.
Triều Thanh : Xin cám ơn Cư sĩ Võ Văn Ái và xin hẹn quý thính giả ở Câu Chuyện Cuối Tuần vào thứ Sáu tuần tới, cũng vào giờ phát thanh này.
PARIS, ngày 29.11.2016 (PTTPGQT) –
“Câu Chuyện Cuối Tuần” là một đề mục của
Đài Phật giáo Việt Nam phát thanh về trong nước, trình bày vấn đề Phật Pháp & Thời luận phát thanh mỗi thứ sáu hàng tuần, do ký giả
Triều Thanh phụ trách.
Hôm nay xin mời bạn đọc theo dõi bài 3 và cũng là bài kết thúc, Cư sĩ Võ Văn Ái nói về
“Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến từ đâu, cùng những hệ luỵ chụp mũ tuỳ tiện”, chép lại và bổ sung từ cuộc phỏng vấn của Triều Thanh qua chương trình Đài hôm thứ sáu 18-11-2016.
Bài 1 và
Bài 2
đã phát thanh trên chương trình thừ sáu 28-10-2016, và thứ sáu
4-11-2016 và đăng tải trên Thông cáo Báo chí phát hành ngày 4-11-2016 :
Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
đến từ đâu, cùng những hệ luỵ chụp mũ tuỳ tiện
Bài 3
Triều Thanh : Thưa ông Võ Văn Ái, trong những năm
gần đây, cứ vào khoảng tháng 10 người ta thấy trên mạng rất nhiều bài
tôn vinh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Không chỉ tôn vinh, nhớ tiếc hay cầu
hồn cho vị tổng thống, mà nhắm chỉ vào Phật giáo để hạch tội, xem như kẻ
thù truyền kiếp của chế độ Đệ nhất Cộng hòa. Ông nghĩ sao về hiện tượng
này ? So chiếu trên phương diện lịch sử những phê phán như vậy có đúng
không ?
Võ Văn Ái : Tôi nghĩ rằng người dân thuộc bất cứ
chính kiến hay tôn giáo nào đều được quyền tưởng niệm, tôn vinh các nhân
vật lãnh đạo đất nước. Nhưng lợi dụng tôn vinh một người, rồi đem cả
hàng triệu Phật giáo đồ ra xỉ vả, xử tội, kết án thì đấy là chuyện bất
thường, nếu không nói phi pháp.
Triều Thanh : Vì sao phi pháp ?
Võ Văn Ái : Chúng ta là người Việt theo chế độ dân
chủ, thì mọi sự phải xử lý thông qua pháp luật, chứ không thể đem tư ý
vào việc luận tội. Nay không còn quốc gia như trước, thì các nhà khảo
cứu có thể góp công suy tìm sự thật, viết thành sách chứng minh. Tiếc
thay, hiện tình cộng đồng không theo hướng đó, mà có số người nghiêng về
phía phục thù, tố giác thiếu bằng chứng. Không thể đem ý kiến chủ quan
hồ đồ phán xét. Vụ tranh đấu Phật giáo năm 1963, không còn là chuyện mới
xẩy ra hôm qua. Tính đến nay là đã 53 năm. Thời gian khá đủ, tư liệu
ngày càng dồi dào với những nhân chứng, đặc biệt các tài liệu của Hoa Kỳ
được giải mật mang lại nguồn sáng soi rọi vào một giai đoạn lịch sử tối
tăm của đất nước ta.
Thiển kiến tôi một người có lương tri, chịu nghiên cứu, tìm hiểu,
chịu khó đọc các tài liệu dồi dào như thế, không thể nào lên tiếng tố
cáo những điều chỉ có thật trong khối óc tưởng tượng của họ, nhưng không
hề có trong thực tế.
Triều Thanh : Đa số những bài viết còn tố giác một
số chư Tăng lãnh đạo và phong trào tranh đấu Phật giáo năm 1963 là Cộng
sản. Là người trong cuộc, ông phân tích như thế nào lời tố giác ấy ?
Võ Văn Ái : Phật giáo bị chụp mũ, không còn là
chuyện lạ. Lạ là chụp hai ba thứ mũ khác nhau lên một đầu người ! Phía
Cộng sản, như tôi trình bày ở các bài trước, đã gán cho
Phong trào Chấn hưng Phật giáo từ những năm 20 thế kỷ trước là
“âm mưu của chính phủ Pháp”.
Họ làm như Phật giáo đồ, theo nền tín ngưỡng trí tuệ chẳng biết làm gì
khác để phát huy đạo Phật của mình, ngoài việc làm đầy tớ cho thực dân
Pháp !
Sang thời đệ nhất và đệ nhị Cộng hòa, thì ông Trần Bạch Đằng, biệt
danh Tư Ánh, thuộc Trung ương Cục Miền Nam và chỉ huy vùng Saigon – Chợ
Lớn dưới thời chiến tranh Mỹ Việt, thì báo cáo cấp trên rằng Hòa thượng
Trí Quang, linh hồn của Phật giáo miền Trung, là
“loại CIA chiến lược”. Ông Trần Bạch Đằng nêu một số sự kiện minh chứng Hòa thượng Trí Quang làm tay sai cho Mỹ như sau :
“Năm 1964 nhân trận lụt lớn ở miền Trung, quân Giải phóng chuẩn
bị nhổ các đồn bót ngụy, Thượng tọa Trí Quang nêu khẩu hiệu “Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất Cứu lụt”. Cờ 5 màu dựng trên các canô, tàu
máy bay trực thăng cứu sạch bọn ngụy quân. Cũng năm 1964 nhân dân phẫn
nộ chính quyền quân phiệt ngụy, Mặt trận Giải phóng Miền Nam nêu khẩu
hiệu chống quân phiệt để đẩy mạnh Phong trào đô thị, Thượng tọa Trí
Quang lập Hội đồng Nhân dân Cứu quốc miền Trung đòi Chính phủ Dân sự,
gom hết quần chúng về phía mình và đạp xẹp khẩu hiệu của ta. Năm 1965 Mỹ
đổ quân trắng trợn xâm lược miền Nam Việt Nam, Mặt trận Giải phóng Miền
Nam đẩy mạnh phong trào Chiến tranh Cách mạng chống Mỹ xâm lược, Thượng
tọa Trí Quang nêu khẩu hiệu “Cầu nguyện Hòa bình” làm hạn chế cuộc đấu
tranh chống Mỹ của ta”.
Đọc các hành động thù ứng cứu người của Phật giáo trên đây, mới thấy
lòng từ bi cứu khổ thể hiện sự đồng hành cùng dân tộc của Phật giáo
trong những nghĩa cử trải dài hai nghìn năm lịch sử.
Và nay, một số người tự nhận là “quốc gia” lại quay đi quay lại một
dĩa hát cũ thời tranh chấp đã qua do những nhân vật lãnh đạo cao cấp như
ông bà Ngô Đình Nhu “chụp mũ” phong trào Phật giáo tranh đấu 1963 là
“Cộng sản”.
Không gì nghịch lý hơn, khi ta biết rằng, từ mùa hè năm 1955, chính
phủ Ngô Đình Diệm phát động chiến dịch “Tố Cộng và Diệt Cộng”. Điều 7
của Hiến pháp năm 1956 ghi rõ
“những hành vi có mục đích phổ biến
hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới
mọi hình thái đều trái với nguyên tắc ghi trong Hiến pháp”. Rồi
tiếp tới Đạo luật 10/59 ban hành tháng 5 năm 1959 tăng mức hình phạt cho
những ai liên hệ đến chủ nghĩa Cộng sản, đồng thời mở thêm một hệ thống
Tòa án Quân sự Lưu động để xử bị cáo. Trong thời gian từ năm 1954 đến
năm 1960 có 48,250 người bị bắt giam vì tội danh “cộng sản”.
Đã có một hệ thống diệt cộng bằng pháp luật như thế, thì tại sao
không đưa phong trào tranh đấu Phật giáo năm 1963 ra pháp đình xử tội
Cộng sản, nếu sự “chụp mũ” Phật giáo là Cộng sản có thật ?
Một số người viết bài hay trả lời phỏng vấn truyền hình ngày nay vẫn
ung dung tố giác Phật giáo là Cộng sản, họ không ngờ rằng chính họ đang
tố cáo lãnh đạo Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa là Cộng sản, nếu không là
dung dưỡng Cộng sản ? Pháp luật cả hai trào Cộng hòa đều đặt Cộng sản ra
ngoài vòng pháp luật, thì sao không mang chư Tăng giáo phẩm lãnh đạo
Phật giáo hay toàn phong trào Phật giáo ra tòa kết án ?
Miệng thì đồn thổi Phật giáo là Cộng sản, nhưng hành động thì không
dám áp dụng Đạo luật 10/59 để chứng minh lời tố cáo của mình là đúng ?
Chẳng những thế, còn mở cửa Hội trường Diên Hồng tại Saigon ngày
26-6-1963 đón tiếp Phái đoàn Phật giáo do Cố Thượng tọa Thích Thiện Minh
dẫn đầu. Phía chính quyền tiếp đón là Ủy ban Liên Bộ gồm có Phó Tổng
Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đình Thuần, và Bộ
trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương. Kết quả sau 3 ngày thương thảo là Bản
Thông cáo chung giữa Chính quyền và Phật giáo, nhằm giải quyết vấn đề
Phật giáo. Thế nhưng chính quyền đã nuốt lời không thực hiện cam kết.
Nên cuộc tranh đấu tiếp diễn đưa tới sự sụp đổ của nền Đệ nhất Cộng hòa.
Đọc kho tài lệu giải mật của Hoa Kỳ chẳng thấy dấu vết gì trong các
báo cáo mật về chư Tăng và Phong trào Phật giáo là Cộng sản, hay thi
hành chỉ thị Cộng sản.
Những người viết bài hạ nhục, mạ lỵ Phật giáo là Cộng sản lấy chứng cớ đâu làm luận điểm vu cáo ?
Tôi thấy rất thương tâm khi nghe trên Youtube lời ông Huỳnh Văn Lang
tố cáo Phật giáo là Cộng sản. Tôi nghĩ một người như ông không nên tố
bậy như thế. Ông là một nhân sĩ miền Nam, ông có đủ tất cả những chi
người đời ao ước, như tiền bạc, hạnh phúc, học hành, địa vị, chức tước.
Có lúc ông là Bí thư cho Tổng Thống Ngô Đình Điệm, từng giữ chức Bí thư
Liên Kỳ Bộ Nam Bắc Việt Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng. Quá đủ cho tham
vọng một đời người. Nay ông chụp mũ Phật giáo một cách vu vơ, không bằng
chứng, thì sự ác khẩu này chẳng mang lại thêm chút danh giá gì cho ông
Lang.
Ông vu hãm theo điệu gia trưởng, rằng
“Tôi ghét nhứt là cái láo” bởi vì Cộng sản là chúa láo. Tại sao các Thầy bắt chước láo như Cộng sản ? Tại sao Phật giáo bắt chước láo như Cộng sản ?
Tam đoạn luận của ông quá thô thiển và hỏng từ trứng nước.
Từ một nhận xét chủ quan, ông Huỳnh Văn Lang biến thành một nhận định
có tính phán xét. Do cung cách hoạt động tài chính và chính trị của
ông, thì ngoài chuyện đi săn, ông không còn thì giờ tìm hiểu lịch sử
Việt Nam và văn hóa dân tộc. Ông thuộc số người mà lịch sử Việt Nam chỉ
bắt đầu từ thế kỷ XVI, XVII. Nghĩa là không có các Vua Hùng cho đến các
triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê về sau.
Cách ăn nói và vận dụng “triết học” mà ông khá tự hào, cho thấy ông
thù ghét Phật giáo như một bệnh lý, mà ta thấy qua cuộc phỏng vấn của ký
giả Ngô Đình Vận trong Chương trình Văn hóa Nhân bản Lạc Việt. Nhân
nhắc lại Phong trào người Vượt Biển, ông Huỳnh Văn Lang tố cáo Thái Lan
là một nước
“vô cảm”. Ông Lang khẳng định :
“Phong trào Vượt Biển gồm có một triệu hai trăm nghìn người, 1/3
chết. Chết ở đâu ? Chết nhiều nhất là Vịnh Thái Lan. Tại sao Thái Lan là
nước 100% Phật giáo mà chỉ sản xuất ra những tên cướp, tên hãm hiếp,
giết người ? Tại sao một nước xa xôi như Pháp sản xuất một tàu đi cứu ?
Một nước ở kế bên lại vô cảm. Vậy mấy ông thầy chùa ở đâu ? Nước Thái vô
cảm !”
Đánh giá hàm hồ cho một quốc gia, một dân tộc theo Phật giáo như thế,
có còn là tư cách của một người Thiên chúa giáo đầy lòng bác ái và công
chính hay không ?
Ký giả Ngô Đình Vận là người rất mực cung kính ông Lang, có phần xem
ông Lang như thần tượng. Nhưng trước lời bình phẩm sai sự thật, Ông Vận
phải giải thích ngay :
“Cháu xin góp ý kiến vì cháu là người tị nạn. Cướp là ở các tỉnh
phía Nam Thái Lan giáp Mã Lai, họ theo Hồi giáo không theo Phật giáo.
Phật giáo chỉ ở các tỉnh phía Bắc, cách đối xử cũng khác qua lại giữa
dân chúng. Cháu nghĩ khi Bác nói tổng quát về nước Thái Lan như vậy cần
nghiên cứu kỹ dân số họ”.
Mỗi khi đề cập tới Phật giáo, ông Huỳnh Văn Lang tỏ ra mất hẳn lý trí
phân tích khoa học để sa đà theo thành kiến kỳ thị tôn giáo. Thử hỏi
một lãnh tụ Cần Lao như ông khi có chính quyền trong tay, thì quan điểm
tôn giáo của Nhà nước ấy sẽ tai hại như thế nào cho sự hòa hợp dân tộc ?
Công đồng Vatican là nỗ lực bao dung tôn giáo của Giáo triều La Mã
đầu thập niên 60. Nhưng ông Huỳnh Văn Lang vẫn chưa theo kịp, nên ông
tiếp tục nhìn Phật giáo theo luận điểm của Cố Alexandre de Rhodes qua
sách
“Phép giảng Tám ngày”, gọi đức Phật là “tên Mọi đen”, một “thằng nói láo”.
Cách đánh giá tuỳ tiện về Thái Lan của ông Huỳnh Văn Lang vô tình ông
đã bội ơn với chính người đồng bào của ông. Sau Hội nghị về Người Vượt
Biển của LHQ tại Genève năm 1979 mà chúng tôi (Cơ sở Quê Mẹ và Ủy Ban
Cứu Sống Người Vượt Biển) có tham dự, Thái Lan chấp nhận đón người Vượt
Biển trên lãnh thổ mình và cho phép tiếp xúc với Cao Ủy Nhân quyền LHQ
để làm thủ tục tới nước thứ ba. Thái Lan đã đón tiếp 159,975 (một trăm
năm mươi chín nghìn chín trăm bảy mươi lăm) người Vượt Biển. Trong khi
ấy, Singapore không đón tiếp người Vượt Biển. Mã Lai đuổi ra khỏi lãnh
thổ mình 58 nghìn người Vượt Biển.
Quốc gia Phật giáo Thái Lan “vô cảm” ở chỗ nào, thưa ông Huỳnh Văn Lang ?!
Điều ông Lang khen nước Pháp xa xôi đưa tàu ra Biển Đông vớt người
càng chứng tỏ ông không đọc báo hay theo dõi sự sống chết của người đồng
bào ông vào thập niên 70, 80. Phải chăng nước Pháp trong đầu óc ông là
Trưởng Nữ của Giáo triều Vatican nên được ông khen ?
Ông Huỳnh Văn Lang đã sai lầm vì thiếu hiểu biết và thông tin thời sự. Con Tàu
“Đảo Ánh Sáng”
đi vớt người ấy đã do sự xướng xuất và vận động của một Phật tử Việt
Nam sống tại Paris, thành viên của Cơ sở Quê Mẹ và Ủy ban Cứu Sống Người
Vượt Biển, với sự hậu thuẫn của gần 200 nhân sĩ, trí thức, chính giới,
nhà văn Pháp và quốc tế.
Nói chung, các bài đánh phá Phật giáo thường do thiếu hiểu biết, có
tiêu đích phục thù, hoặc nhẹ lòng bác ái. Theo kiểu bất chấp sự thực hay
lý luận, ông Huỳnh Văn Lang xem thường tha nhân khi phát ngôn tự thị
qua các cuộc phỏng vấn, còn có ông Tú Gàn, ba bốn chục năm qua, không
ngừng viết bài bôi nhọ Phật giáo. Ông Tú Gàn là cha đẻ hai chữ
“Phịa sử”
để gán cho những ai không tin vào cách viết sử hồ đồ và tự thị của ông.
Cách viết sử tố cáo Phật giáo là Cộng sản của ông Tú Gàn chứng tỏ ông
là
Chúa Phịa. Bởi ông chẳng có luận chứng, tư liệu gì chứng
minh. Toàn những lời nói hớt và dọa hơi. Ba, bốn chục năm viết lách, mà
tài liệu minh chứng chỉ được ông hứa cuội là sẽ công bố những tài liệu
của “Phòng Nhì Pháp”, của “tình báo Việt Nam Cộng hòa”. Nhưng chẳng bao
giờ được ông trưng dẫn. Như con nợ không tiền, hứa lèo để thoát thân.
Triều Thanh : Xin ông cho biết mục tiêu tranh đấu của Phật giáo năm 1963 là gì ? Nó có là mục tiêu chính trị hay lật đổ chính quyền ?
Võ Văn Ái : Cần hiểu một điều quan yếu, là cho đến nay,
Phật giáo chỉ đặt vấn đề tôn giáo với chính quyền. Chưa bao giờ đặt vấn đề chính trị với chính quyền.
Cho nên, mục tiêu tranh đấu của Phật giáo năm 1963 là mục tiêu thuần
túy tôn giáo. Sau vụ chính quyền cấm treo cờ Phật giáo, rổi nổ súng tại
Đài Phát thanh Huế gây chết chóc cho 8 Phật tử, ngày 10-5-1963 các cấp
lãnh đạo Phật giáo họp bàn tại Chùa Từ Đàm, và đưa ra Tuyên cáo 5 nguyện
vọng bào tồn Phật Pháp :
- Yêu cầu Chánh phủ VNCH thu hồi vĩnh viễn công điện triệt hạ Giáo kỳ của Phật giáo.
- Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một qui chế đặc biệt như các Hội Truyền giáo Thiên chúa đã ghi trong Dụ số 10.
- Yêu cầu Chánh phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo.
- Yêu cầu cho Tăng Ni Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo.
- Yêu cầu chánh phủ đền bồi xứng đáng cho những kẻ bị chết oan vô tội
trong đêm 15-4 Lễ Phật Đản và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bồi xứng
đáng.
Năm yêu sách cho cuộc tranh đấu bất bạo động của Phật giáo như ta vừa
đọc, thử hỏi có gì là chính trị hay âm mưu lật đổ chính quyền ?
Triều Thanh : Chính quyền giải quyết ra sao Năm Nguyện Vọng này ?
Võ Văn Ái : Giải quyết bằng sự cò ke, trì hoãn, bằng
sự gặp gỡ, thương thảo, ký thông cáo chung, rồi xé bỏ không thi hành,
khiến tình hình ngày càng thêm trầm trọng. Sau khi ông Ngô Đình Nhu tung
chiến dịch nước lũ vào đêm 20 tháng 8, tấn công các chùa trên toàn
quốc, bắt bớ Tăng Ni, thì coi như Phong trào tranh đấu Phật giáo tạm
thời chấm dứt. Từ đây, một sinh lực quần chúng mới xuất hiện, từ phong
trào học sinh, sinh viên các Đại học, và đặc biệt, là giới Tướng lĩnh
Quân lực VNCH làm cuộc đảo chính chấm dứt chế độ Đệ nhất Cộng hòa, thảm
sát hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu.
Triều Thanh : Có thể nói Phật giáo là động lực cho cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 ?
Võ Văn Ái : Không. Như đã nói cuộc tranh đấu Phật
giáo năm 1963 thuần túy tôn giáo. Việc lật đổ chế độ nhà Ngô là chủ
trương “thay ngựa giữa dòng” của Hoa Kỳ qua sự thừa hành của giới Tướng
lĩnh quân lực VNCH.
Triều Thanh : Sự thật ấy ai cũng biết. Nhưng tại sao
lại trở thành một chiến dịch dai dẳng đánh phá Phật giáo, đổ lên đầu
Phật giáo trách nhiệm lật đổ chế độ nhà Ngô, thảm sát hai ông Nhu Diệm,
và tố giác Phật giáo là Cộng sản ? Ông có thể giái thích bí ẩn lịch sử
này ?
Võ Văn Ái : Thói đời ai cũng muốn vơ hết hào quang
và công lao về cho phe mình khi thành công. Gặp lúc thất bại, thì họ lại
mất khí tiết để nhận lỗi, nên tìm những con dê tế thần đỡ đòn thay.
Phật giáo chính là con dê tế thần được lôi ra che giấu sự thất bại chính
trị của tầng lớp Nhà Nho Thiên Chúa giáo sau 9 năm cai trị.
Nay trong cơn thất thế, tha hương, có số người tiếc thương thời vàng
son những năm đầu của chế độ Đệ nhất Cộng hòa. Sự thật như thế nào ?
Thực tế lịch sử là Hoa Kỳ đổ tiền rừng bạc bể cho ông Diệm Chống Cộng thông qua
“Kế hoạch Năm năm” do Phái bộ Michigan State University (MSU) điều hành từ năm 1955.
Năm 1960 là năm bản lề sinh tử cho chế độ. Vì đó là năm kết toán
chính sách Chống Cộng theo “Kế hoạch 5 năm” của ông Diệm thành công hay
thất bại.
Cần nhớ trong năm năm đầu (1955-1960) Việt Cộng chưa có kế hoạch quy
mô đánh phá Miền Nam bằng vũ lực. Đó là giai đoạn người dân cảm thấy
thoải mái, mà 9 năm Kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc với trận Điện
Biên Phủ đưa tới sự chia cắt tổ quốc thành hai miền Nam Bắc tại Genève
năm 1954.
Đến giữa năm 1959, Đại hội Đảng Lao Động Việt Nam thông qua Nghị
Quyết 15 thống nhất đất nước, tức chủ trương dùng vũ lực xâm chiếm Miền
Nam, thì những khó khăn dồn dập đẩy chế độ Đệ Nhất Cộng hòa vào chân
tường với tất cả nhược điểm chính trị của nó. Và cũng là lúc, Hoa kỳ bắt
đầu thấy ra sự bất lực của chế độ trong công cuộc đấu tranh Chống Cộng,
nhất là Tổng Thống Diệm đã thất bại trong việc kết hợp nhân dân Miền
Nam.
Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu thường than
“Một thằng rất hiểu mình thì chỉ tính xỏ mình, một thằng muốn giúp mình thì chẳng hiểu mô tê chi cả”, theo lời dẫn của ông Đoàn Thêm, cựu Phụ tá Đổng lý Văn phòng Phủ Tổng Thống, viết trong sách
“Những Ngày Chưa Quên 1954 – 1963”
xuất bản tại Saigon năm 1969. Thằng này thằng kia nói đây là Pháp và
Mỹ, ý ông Nhu phê phán hai quốc gia từng viện trợ Việt Nam trong cuộc
chiến tranh Đông Dương.
Sự khôn khéo của tiền nhân chúng ta qua chính sách ngoại giao trung
thuận (allégeance/allegiance) đối với Trung quốc đã giữ vững thế độc lập
chính trị hằng bao thế kỷ, tránh xa thế ngoại thuộc. Nhưng chính sách
ngoại giao thời Đệ nhất Cộng hoà thì lại gặp khó từ Pháp cho đến Mỹ,
khiến Mỹ đã bất bình, chuyển từ bạn sang thù. Những chuyến đi đêm với
Bắc Việt ở giai đoạn cuối, qua việc ông Nhu gặp gỡ bí mật với Phạm Hùng,
hay tiếp tướng Trần Độ ngay tại Dinh Độc lập ở Saigon đã đẩy chế độ từ
vị trí được Hoa Kỳ đỡ đầu thành đối địch vào ngày 1 tháng 11 năm 1963.
Còn đối với nhân dân Miền Nam, bản chất lý luận của
Cần Lao Nhân vị
không thích hợp với tì tạng văn hóa truyền thống người Việt. Chính sách
Chống Cộng giao phó cho một tôn giáo Nhà nước, thay vì ra công trọng
đãi nhân tài Miền Nam cùng các giáo phái đã bám rễ vào đất đai Nam bộ,
để tiến hành kết hợp, khai triển thành liên minh dân tộc chống độc tài.
Lịch sử cho thấy chẳng ai nắm độc quyền nhân dân, khi chưa có chính
sách, kế hoạch mang lại ấm no, hạnh phúc, tự do và thanh bình cho họ.
Ba năm trước vụ Phật giáo bùng nổ, thì từ năm 1960, nỗi bất bình và
chống đối chế độ tràn lan trong các giới quần chúng Miền Nam. Những biểu
hiện báo hiệu ngày tàn của chế độ ngày càng lung lay, mà ta có thể thấy
qua vài ví dụ tiêu biểu sau đây :
- Ngày 9.1.1960, trong cuộc tiếp tân đầu năm Tổng Thống Diệm tiếp kiến
riêng Đại sứ Pháp chứng tỏ sự lạnh nhạt với Hoa Kỳ theo chính sách mới
ve vãn Cộng sản Bắc Việt ;
- Tết Canh Tý, nhật báo Tự Do của chế độ bỗng dưng đăng trên
trang bìa bức vẽ 6 con Chuột (mà độc giả dễ nhận ra các ông Diệm, Thục,
ông bà Nhu, Cẩn, Luyện) gặm nhắm trái Dưa Hấu Việt Nam. Toà soạn bị đập
phá, nhân viên toà soạn bị bắt ;
- Ngày 24.2.1960, Cố vấn Mỹ cho Tổng Thống Diệm về Cải Cách Điền Địa,
ông Wolf Ladejinsky, thảo luận với Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ về
tình trạng thiếu an ninh, Đảng Cần Lao lộng hành, và nạn tham nhũng ;
- Ngày 6.4.1960, Đại sứ Hoa Kỳ, ông Elbridge Durbrow than phiền với Tổng Thống Diệm về sự lộng hành của Đảng Cần Lao ;
- Ngày 26.4.1960, 18 Nhân sĩ Miền Nam họp báo tại Khách sạn Caravelle ở
Saigon công bố Kháng Thư phản đối chế độ độc tài và yêu sách mở cửa
chính trị. Những nhân sĩ như các ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan
Huy Quát, Trần Văn Đỗ, Trần Văn Tuyên, v.v… 11 người trong số họ từng
giữ chức Tổng trưởng hay Bộ trưởng thuộc Đệ Nhất Cộng hòa ;
- Ngày 30.5.1960, Đại sứ Hoa Kỳ Elbridge Durbrow yêu cầu Tổng Thống
Diệm thay đổi đường lối chính trị, nếu không sẽ cắt giảm viện trợ ;
- Ngày 1.8.1960, Ông Phan Khắc Sửu và một số nhân sĩ thuộc Mặt Trận Quốc gia Đoàn kết yêu cầu bãi bỏ quốc sách Khu Trù Mật ;
- Ngày 21.9.1960, Hội đồng An Ninh Quốc gia Hoa Kỳ họp phiên họp thứ
460, lấy quyết định yêu sách Tổng Thống Diệm mở rộng chính phủ ;
- Ngày 14.10.1960, Đại sứ Hoa Kỳ Elbridge Durbrow trao văn thư yêu cầu Tổng Thống Diệm thi hành chính sách cởi mở chính trị ;
- Ngày 11.11.1960, nhóm Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Nguyễn Triệu
Hồng và Vương Văn Đông làm cuộc đảo chính. Nhưng thất bại. Đến như ông
Đại sứ VNCH Trần Văn Chương tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, bố vợ ông Nhu,
cũng phải nhận định với Hoa Kỳ rằng chế độ Nhà Ngô là một chế độ độc tài
toàn trị.
Rồi còn cả vụ Sĩ quan Quân lực VCNCH thả bom Dinh Độc Lập. Nhưng mười
dẫn chứng tiêu biểu nhất vừa trình bày trên đây cho thấy Phật giáo
chẳng dính líu gì vào sự sụp đổ của nền Đệ nhất Cộng hoà. Mà chính bản
chất chế độ, đường lối và chính sách của hai ông Diệm Nhu đã đánh mất
lòng dân, khiến cho công cuộc Chống Cộng được Hoa Kỳ viện trợ thất bại.
Dân chán nản, mất lòng tin vì nạn hà khắc, lộng quyền và kỳ thị của chế
độ Nhà Ngô. Người bạn quốc tế bỏ tiền cho ông Diệm Chống Cộng, là Hoa
Kỳ, nay cũng thấy ông bất lực, nên đành kiếm người hữu hiệu thay thế.
Được hay không, lịch sử đã chứng minh.
Sau này, trong năm 1963, Hoa Kỳ đã từng kêu gọi Tổng Thống Diệm giải
quyết ôn hoà vấn đề Phật giáo. Nhưng Tổng Thống Diệm không đáp ứng, và
vẫn cho tiến hành vũ lực nhằm dập tắt yêu sách bình đẳng tôn giáo của
Tổng hội Phật giáo Việt Nam.
Cuộc kết toán “Kế hoạch 5 năm” của Phái bộ Michigan State University
xác nhận sự thất bại chính trị trong công cuộc Chống Cộng của Tổng Thống
Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Những người trung thành và ủng hộ ông
Diệm như Thượng Nghị sĩ Mansfield, nhưng khi được Tổng Thống Kennedy gửi
sang Việt Nam quan sát tình hình đầu tháng 12 năm 1962 cũng phải thất
vọng với ông Diệm khi viết bản Phúc trình Mansfield bằng câu hỏi tuyệt
vọng là
“Liệu ta có thể thắng Cộng sản với Diệm không ?”
Ông Diệm và ông Nhu đã vô cùng phẫn nộ bản Phúc trình này. Từ tháng 2
năm 1963 Hoa Kỳ gợi ý cho Đại sứ Nolting tiếp cận giới đối lập ở Saigon
để mở đầu chính sách độc lập với ông Diệm. Tiếp tới là Phúc trình
McNamara-Taylor, ngày càng cho thấy những dự án mà chế độ đề cao, tán
dương, như Ấp Chiến Lược, Khu Trù Mật, Dinh Điền, v.v… là những sự thất
bại phũ phàng.
Theo báo cáo của Đại sứ Cabot Lodge gửi Bộ Ngoại giao ngày 30 tháng 9
năm 1963 về cuộc gặp gỡ với Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ. Ông Thơ cho
biết tình hình Miền Nam đã quá trầm trọng. Từ thành thị tới nông thôn
dân chúng quá bất mãn. Ông Đại sứ muốn tham khảo thêm những người Việt
Nam tài giỏi, thì Phó Tổng thống cho biết những người tài giỏi đã trốn
ra nước ngoài hết rồi. Bàn sâu vấn đề chính trị, thì ông Thơ từ chối vì
ông không có tự do để nói thêm gì khác với ông Đại sứ.
Trên đe là áp lực Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách vô hiệu và sai lầm
của ông Diệm. Dưới búa là sự chống đối quyết liệt của toàn dân. Vụ Phật
giáo nổ ra chỉ vì chính sách kỳ thị và bất bình đẳng tôn giáo suốt 9 năm
trời. Nếu chế độ biết thương dân, và có chút khôn ngoan giải quyết yên
thắm theo cung cách dân chủ, thì đâu đến nỗi nào phải sa lầy và vong
thân ? Thế nhưng chế độ đã để cơ hội tuột khỏi tay mình, làm cho bi kịch
trở thành thảm kịch kết liễu vừa chế độ, vừa bản thân lãnh đạo chế độ
đó.
Ta có thể nói mà không sợ sai, là không vì Phật giáo mà Đệ nhất Cộng
hòa sụp đổ đưa tới cái chết thảm thương của ông Diệm và ông Nhu. Sự thất
bại đến từ bản thân một chế độ Gia Đình Trị, độc tài, tàn bạo với những
ai không tuân thủ ý thức hệ Cần Lao Nhân vị.
Bi kịch của chế độ là hệ quả thất bại trong cuộc bảo vệ tự do cho nhân dân Miền Nam, dù đã tiếp nhận đầy đủ viện trợ Hoa Kỳ.
Trong sách
“Những ngày chưa quên 1954 – 1963” ông Đoàn Thêm, vị Phụ tá Đổng lý Văn phòng của Tổng Thống Diệm, viết trong đoạn cuối sách mấy dòng buồn thảm sau đây :
“Ngày Quốc khánh 26 tháng 10 năm 1963, khi ông [Diệm] tiếp các
đoàn thể, mặt ông thoáng buồn ; bằng một giọng ai oán, ông nói mấy lời
mà nhiều người cho là gở :
“Chế độ này tuy còn nhiều khiếm khuyết cũng còn hơn nhiếu chế độ
khác. Người ta chê là độc tài, nhưng chỉ ngại còn nhũng thứ độc tài
khủng khiếp hơn… Tôi tiến thì theo tôi, tôi lùi thì bắn tôi, tôi chết thì trả thù cho tôi.
(…) “Nhiều bạn và tôi nghe hơi rợn. Tôi thấy như tinh thần ông bị
dao động quá nhiều vì sự rối ren, nên hóa ra ảm đạm. Người ta thường
nói : họa lai thần ám, hay cũng đúng nếu nói ngược lại : thần ám thì họa lai ?”
Phải chi ông Diệm đừng nói một câu như thế, dù ông chỉ lập lại câu
nói của một người Âu ở Phương Tây, chứ không là lòng dạ phát ngôn của tổ
tiên con Hồng cháu Lạc. Khiến cho thù hận chất chồng, máu xương thêm đổ
trên dải đất đã quá thương đau.
Triều Thanh : Xin cám ơn Cư sĩ Võ Văn Ái và xin hẹn quý thính giả ở Câu Chuyện Cuối Tuần vào thứ Sáu tuần tới, cũng vào giờ phát thanh này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét