Thứ Ba, 7 tháng 2, 2017

TỰ PHẢN CÁCH MẠNG 8

-Cần khẳng định dứt khoát: đảng viên hoặc tin theo lý tưởng Cộng sản, hoặc tin theo ảo tưởng nhà Phật chứ đừng lập lờ ngụy biện!
-Nếu lưỡng lự, có nghĩa rằng chủ nghĩa Cộng sản không còn đáng tin nữa!
-Nực cười thay, giáo dục ngày nay dạy rằng: mục đích cuộc sống là danh lợi vị kỷ, muốn có danh lợi, thì phải vào Đảng, muốn "đầu xuôi đuôi lọt", thì phải lễ bái nhà Phật!
-xã hội suy đồi đến thế là cùng!
--------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)

                              Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến từ đâu ?

Chỉ có dưới chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Đất nước đã thời đại nào được vẻ vang, 
ấm no, hạnh phúc và văn hóa như thời đại này ?
Cho thần thánh...
... và cho người

Prime Minister Nguyen Tan Dung of Vietnam at Bodhgaya in 2014. Credit: MEA
“Đồng chí Phật” đã  nói gì với “đồng chí X” khi anh 3X đến thăm Bodhgaya ở Ấn Độ năm 2014? Ảnh: MEA
Lại thêm một quan chức cộng sản đi “hầu đồng”! Lốc Liếc Cách đây gần 2 tháng, ngày 9-10-2016, tờ báo Người Tiêu Dùng (NTD) đăng tải thông tin tố ông Phạm Văn Tác, một cán bộ mang hàm Vụ trưởng thuộc Bộ Y tế, đi “hầu đồng” tại đền Bảo Lộc, thành phố Nam Định. Bài báo cho biết cụ thể: Vào ngày 1-10-2016 ông Tác và người nhà đã đi 7 xe ô tô đến đền Bảo Lộc, mua lễ 110 triệu đồng, đặt lễ 80 triệu đồng để cầu thăng quan tiến chức. Trước đó, trong vòng 4 tháng, ông Tác đã có 16 lần “hầu đồng” cũng với mục đích trên. Thậm chí, tòa soạn báo NTD còn chứng minh được chuyện ông Tác mải mê hầu đồng đến nỗi quên cả… đi đái. Thông tin trên làm cho các nhà rân trủ mạng và đám kền kền phấn khởi đến phát rồ phát dại. Chả mấy khi chó đói gặp mồi, các anh chị ấy lại có cớ để mà tru tréo. Rằng thì là: Trong lúc ngành y tế nước nhà đang rất cần những chỉ đạo quyết liệt sát sao từ công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm ... cớ sao ông Vụ trưởng lại dành quá nhiều thời gian cho việc “hầu đồng”. Rằng thì là: Biết bao nhiêu bệnh viện đang cần chỉ đạo về công tác đào tạo cán bộ, biết bao thế hệ sinh viên ngành y đang trông chờ vào công tác định hướng việc làm, thế mà ông Vụ trưởng lại cứ mải mê cúng bái. Vậy những người làm công tác khoa học sẽ nghĩ sao? Rằng thì là: Ông Tác đường đường là một Vụ trưởng và là một Đảng viên mà lại có biểu hiện mê tín dị đoan? Rõ ràng vi phạm điều thứ 18 trong “Những điều đảng viên không được làm” rồi nhé! Thậm chí, nhân vụ này, một anh giảng viên ất ơ nào đó còn đòi khai trừ khỏi Đảng, cách chức và tước hàm giáo sư của ông… Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam. Vì sao? Vì ông Thịnh dám bảo: “Ông Tác có đi hầu đồng thì cũng như ông Francis Giáo hoàng, hồi tháng 11-2014 đã cầu nguyện tại một nhà thờ Hồi giáo đó thôi, có vấn đề quái gì đâu”. Vụ “ông Tác hầu đồng” còn đang nóng hổi, chưa kịp nguội. Thì... Bớ làng nước ơi, bớ các anh chị kền kền và rận trủ ơi, hôm 1-12-2016 vừa rồi, lại thêm một ông Vụ trưởng nữa đi “hầu đồng” đây này! Đó là ông Phạm Sanh Châu, Vụ trưởng một vụ thuộc Bộ Ngoại giao, ông này từng là Đại sứ Việt Nam tại Bỉ và Liên minh châu Âu (EU) từ 2011 đến 2014 nhé. Nếu ông Tác chỉ sử dụng xe ô tô để đến đền Bảo Lộc thì ông Châu cùng “người nhà” đi máy bay mới oách, mà lại sang tận Châu Phi để “hầu đồng”. Tiền mua vé cho “bầu đoàn thê tử” nhà ông Châu (có cả cô đồng đi theo) dĩ nhiên là do nhà nước chi ra, là tiền thuế của chúng ta đấy, các anh chị nhớ giùm cho. Nếu việc ông Tác “hầu đồng” là “ngoài giờ làm việc” và “chỉ là việc cá nhân, gia đình, không liên quan đến Bộ Y tế” thì cái nhà ông Châu này toàn đi “hầu đồng” trong giờ làm việc mà thôi. Thêm nữa, cứ xem việc ông Châu “bất chấp dư luận”, ngang nhiên “hầu đồng” giữa thanh thiên bạch nhật như thế, thì ta biết ông này nhẽ phải có “ô dù” che chắn từ Bộ Ngoại giao đến cấp cao hơn chứ “không phải dạng vừa đâu”, các anh chị ạ. Nếu ông Tác chỉ “hầu đồng” trung bình 4 lần trong một tháng thì ông Châu chắc chắn chăm chỉ hơn rất nhiều, dễ phải 20 lần/tháng. Chẳng những thế, ông Châu còn rủ rê, lôi kéo nhiều chức sắc khác, cả Tây cả ta, cùng đi “hầu đồng” với ông. Đó là các ông Ted Osius (Mỹ); ông Konstantin Vasilievich Vnukov (Nga); ông Sara Valdés Bolaro (Mexico); ông Jorge Rondon Uzcategui (Venezuela)... và thêm vài ông lãnh đạo của tỉnh Nam Định nữa đấy. Ông Châu dĩ nhiên là Đảng viên cộng sản các anh chị ạ. Ông này còn được Vương quốc Bỉ tặng Huân chương và đang nhắm đến cái ghế Tổng Giám đốc UNESCO. Thảo nào ông xăng xái tích cực việc “hầu đồng” đến thế, hẳn là để “cầu thăng quan tiến chức” đây mà! Giời đất ôi! Chỉ trong vòng chưa đầy hai tháng mà giới quan chức Việt lại có đến hai ông Vụ trưởng, Đảng viên liên tiếp đi “hầu đồng”! Lốc Liếc xin cấp báo đến quý anh chị kền kền và các nhà hoạt động rân trủ trong và ngoài nước để có tư liệu đặng kiếm chác và tiếp tục … la làng. Nói có sách, mách có chứng, dưới đây, Lốc liếc xin công bố các bằng chứng, gồm ảnh và cả videoclip: Rất mong các anh chị tiếp sức Lốc liếc tung tin này lên mạng, đặc biệt, nếu là các báo mạng phương Tây thì càng tốt. 1. Ông Châu (hàng đầu, bên trái) rủ rê lôi kéo nhiều chức sắc Tây và ta tham gia “hầu đồng” (2/2016): 2. Ảnh do chính ông Châu đăng trên facebook cá nhân (chắc là chưa kịp xóa). Ông Châu mặc áo dài khăn đóng ngồi giữa, đứng phía sau là thanh đồng: 3. Videoclip dưới đây sẽ là “bằng chứng” để quý anh chị thấy rõ quá trình “hầu đồng” của ông Châu diễn ra thế nào: Ngoài các anh chị kền kền và rân trủ, Lốc liếc cũng xin chân chỏng gọng mà gửi tin bài này đến các quý ông bà thuộc diện sau đây (để tùy nghi sử dụng): - Những đồng sự, đồng nghiệp muốn "cưa ghế" ông Châu, hoặc đã từng bị ông Châu “đì”, hoặc muốn “đì” ông Châu mà chưa tìm ra cơ hội; - Hoặc các bậc mày râu hàng xóm lâu nay vẫn ấm ức với đương sự về việc vợ “nó” dám trẻ hơn vợ mình hoặc TV nhà “nó” dám to hơn TV nhà mình những 3 inch...; - Hoặc các bậc quân tử thập niên trả thù chưa muộn, con cún nhà “nó” rượt cục cưng nhà mình cởi truồng chạy vãi kít há dễ quên sao? Vv... và …vv...

Đề nghị ghi rõ Link nguồn: http://www.trelangblog.com/2016/12/hot-hot-lai-them-mot-quan-chuc-cong-san.html
Lại thêm một quan chức cộng sản đi “hầu đồng”! Lốc Liếc Cách đây gần 2 tháng, ngày 9-10-2016, tờ báo Người Tiêu Dùng (NTD) đăng tải thông tin tố ông Phạm Văn Tác, một cán bộ mang hàm Vụ trưởng thuộc Bộ Y tế, đi “hầu đồng” tại đền Bảo Lộc, thành phố Nam Định. Bài báo cho biết cụ thể: Vào ngày 1-10-2016 ông Tác và người nhà đã đi 7 xe ô tô đến đền Bảo Lộc, mua lễ 110 triệu đồng, đặt lễ 80 triệu đồng để cầu thăng quan tiến chức. Trước đó, trong vòng 4 tháng, ông Tác đã có 16 lần “hầu đồng” cũng với mục đích trên. Thậm chí, tòa soạn báo NTD còn chứng minh được chuyện ông Tác mải mê hầu đồng đến nỗi quên cả… đi đái. Thông tin trên làm cho các nhà rân trủ mạng và đám kền kền phấn khởi đến phát rồ phát dại. Chả mấy khi chó đói gặp mồi, các anh chị ấy lại có cớ để mà tru tréo. Rằng thì là: Trong lúc ngành y tế nước nhà đang rất cần những chỉ đạo quyết liệt sát sao từ công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm ... cớ sao ông Vụ trưởng lại dành quá nhiều thời gian cho việc “hầu đồng”. Rằng thì là: Biết bao nhiêu bệnh viện đang cần chỉ đạo về công tác đào tạo cán bộ, biết bao thế hệ sinh viên ngành y đang trông chờ vào công tác định hướng việc làm, thế mà ông Vụ trưởng lại cứ mải mê cúng bái. Vậy những người làm công tác khoa học sẽ nghĩ sao? Rằng thì là: Ông Tác đường đường là một Vụ trưởng và là một Đảng viên mà lại có biểu hiện mê tín dị đoan? Rõ ràng vi phạm điều thứ 18 trong “Những điều đảng viên không được làm” rồi nhé! Thậm chí, nhân vụ này, một anh giảng viên ất ơ nào đó còn đòi khai trừ khỏi Đảng, cách chức và tước hàm giáo sư của ông… Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam. Vì sao? Vì ông Thịnh dám bảo: “Ông Tác có đi hầu đồng thì cũng như ông Francis Giáo hoàng, hồi tháng 11-2014 đã cầu nguyện tại một nhà thờ Hồi giáo đó thôi, có vấn đề quái gì đâu”. Vụ “ông Tác hầu đồng” còn đang nóng hổi, chưa kịp nguội. Thì... Bớ làng nước ơi, bớ các anh chị kền kền và rận trủ ơi, hôm 1-12-2016 vừa rồi, lại thêm một ông Vụ trưởng nữa đi “hầu đồng” đây này! Đó là ông Phạm Sanh Châu, Vụ trưởng một vụ thuộc Bộ Ngoại giao, ông này từng là Đại sứ Việt Nam tại Bỉ và Liên minh châu Âu (EU) từ 2011 đến 2014 nhé. Nếu ông Tác chỉ sử dụng xe ô tô để đến đền Bảo Lộc thì ông Châu cùng “người nhà” đi máy bay mới oách, mà lại sang tận Châu Phi để “hầu đồng”. Tiền mua vé cho “bầu đoàn thê tử” nhà ông Châu (có cả cô đồng đi theo) dĩ nhiên là do nhà nước chi ra, là tiền thuế của chúng ta đấy, các anh chị nhớ giùm cho. Nếu việc ông Tác “hầu đồng” là “ngoài giờ làm việc” và “chỉ là việc cá nhân, gia đình, không liên quan đến Bộ Y tế” thì cái nhà ông Châu này toàn đi “hầu đồng” trong giờ làm việc mà thôi. Thêm nữa, cứ xem việc ông Châu “bất chấp dư luận”, ngang nhiên “hầu đồng” giữa thanh thiên bạch nhật như thế, thì ta biết ông này nhẽ phải có “ô dù” che chắn từ Bộ Ngoại giao đến cấp cao hơn chứ “không phải dạng vừa đâu”, các anh chị ạ. Nếu ông Tác chỉ “hầu đồng” trung bình 4 lần trong một tháng thì ông Châu chắc chắn chăm chỉ hơn rất nhiều, dễ phải 20 lần/tháng. Chẳng những thế, ông Châu còn rủ rê, lôi kéo nhiều chức sắc khác, cả Tây cả ta, cùng đi “hầu đồng” với ông. Đó là các ông Ted Osius (Mỹ); ông Konstantin Vasilievich Vnukov (Nga); ông Sara Valdés Bolaro (Mexico); ông Jorge Rondon Uzcategui (Venezuela)... và thêm vài ông lãnh đạo của tỉnh Nam Định nữa đấy. Ông Châu dĩ nhiên là Đảng viên cộng sản các anh chị ạ. Ông này còn được Vương quốc Bỉ tặng Huân chương và đang nhắm đến cái ghế Tổng Giám đốc UNESCO. Thảo nào ông xăng xái tích cực việc “hầu đồng” đến thế, hẳn là để “cầu thăng quan tiến chức” đây mà! Giời đất ôi! Chỉ trong vòng chưa đầy hai tháng mà giới quan chức Việt lại có đến hai ông Vụ trưởng, Đảng viên liên tiếp đi “hầu đồng”! Lốc Liếc xin cấp báo đến quý anh chị kền kền và các nhà hoạt động rân trủ trong và ngoài nước để có tư liệu đặng kiếm chác và tiếp tục … la làng. Nói có sách, mách có chứng, dưới đây, Lốc liếc xin công bố các bằng chứng, gồm ảnh và cả videoclip: Rất mong các anh chị tiếp sức Lốc liếc tung tin này lên mạng, đặc biệt, nếu là các báo mạng phương Tây thì càng tốt. 1. Ông Châu (hàng đầu, bên trái) rủ rê lôi kéo nhiều chức sắc Tây và ta tham gia “hầu đồng” (2/2016): 2. Ảnh do chính ông Châu đăng trên facebook cá nhân (chắc là chưa kịp xóa). Ông Châu mặc áo dài khăn đóng ngồi giữa, đứng phía sau là thanh đồng: 3. Videoclip dưới đây sẽ là “bằng chứng” để quý anh chị thấy rõ quá trình “hầu đồng” của ông Châu diễn ra thế nào: Ngoài các anh chị kền kền và rân trủ, Lốc liếc cũng xin chân chỏng gọng mà gửi tin bài này đến các quý ông bà thuộc diện sau đây (để tùy nghi sử dụng): - Những đồng sự, đồng nghiệp muốn "cưa ghế" ông Châu, hoặc đã từng bị ông Châu “đì”, hoặc muốn “đì” ông Châu mà chưa tìm ra cơ hội; - Hoặc các bậc mày râu hàng xóm lâu nay vẫn ấm ức với đương sự về việc vợ “nó” dám trẻ hơn vợ mình hoặc TV nhà “nó” dám to hơn TV nhà mình những 3 inch...; - Hoặc các bậc quân tử thập niên trả thù chưa muộn, con cún nhà “nó” rượt cục cưng nhà mình cởi truồng chạy vãi kít há dễ quên sao? Vv... và …vv...

Đề nghị ghi rõ Link nguồn: http://www.trelangblog.com/2016/12/hot-hot-lai-them-mot-quan-chuc-cong-san.html

            Nhóm CB Đảng viên Hà Nội công khai bày trò cúng bái - tuyên truyền mê tín dị đoan

"Bỏ ngoài tai" lệnh cấm, xe biển xanh vẫn tung tăng đi lễ chùa?

Chính trị - Xã hội

(PL+) - Bất chấp lệnh cấm dùng xe công làm việc riêng, nhưng những ngày đầu năm mới, xe công biển xanh vẫn nhộn nhịp đi lễ đền, chùa.

Những ngày đầu xuân năm mới, hàng ngàn người, xe tấp nập đi lễ chùa dâng hương cầu xin phúc lộc.
Những chiếc xe công được sử dụng với mục đích sử dụng để đi công tác tại các cơ quan công quyền. Nhưng ở đâu đó vẫn còn những “người đứng đầu” các cơ quan, đơn vị đã dùng xe “biển xanh” để đi lễ chùa.
Sáng ngày 16/2 (tức mùng 9 Tết Bính Thân), tại bãi trông giữ xe trước cổng chùa Vạn Niên (Lạc Long Quân - Tây Hồ - Hà Nội), xuất hiện một chiếc xe biển xanh mang BKS: 80B 83…đậu tại bãi trông giữ xe, bên lề đường.
Theo quan sát của PV Pháp luật Plus, ngay tại lối ra vào cổng chùa Vạn Niên, chiếc xe này nằm "chình ình" ngay dưới lòng đường hơn một tiếng đồng hồ mà không thấy chủ nhân chiếc xe này ra điều khiển.
Một số khách đến chùa và đi đường khi nhìn thấy chiếc xe này đều nhìn với anh mắt tò mò, hoài nghi. 
  Chiếc xe công biển xanh được dùng để đi lễ tại chùa Vạn Niên (Tây Hồ - Hà Nội). Ảnh: Như Trường.
Chiếc xe công biển xanh được dùng để đi lễ tại chùa Vạn Niên (Tây Hồ - Hà Nội). Ảnh: Như Trường.
  Chiếc xe đỗ dưới lòng đường hơn một tiếng đồng hồ mà không thấy chủ nhân chiếc xe này ra điều khiển. Ảnh: Như Trường.
Chiếc xe đỗ dưới lòng đường hơn một tiếng đồng hồ mà không thấy chủ nhân chiếc xe này ra điều khiển. Ảnh: Như Trường.
Tiếp theo đó, đến sáng ngày 18/2 (tức ngày 11Tết Bính Thân), tại bãi trông giữ xe trước cổng đền Quán Thánh (Ba Đình – Hà Nội), xuất hiện ba chiếc xe biển xanh mang BKS: 80A. 009..BKS: 80A. 01…BKS: 80A. 012…đậu tại bãi trông giữ xe, trước cổng đền.
Chiếc xe công biển xanh gửi trong bãi trông giữ ôtô trước cổng đền Quán Thánh (Ba Đình – Hà Nội). Ảnh: Như Trường.
Chiếc xe công biển xanh gửi trong bãi trông giữ ôtô trước cổng đền Quán Thánh (Ba Đình – Hà Nội). Ảnh: Như Trường.
Cũng giống như chiếc xe công biển xanh xuất hiện tại bãi trông giữ xe trước cổng chùa Vạn Niên (Lạc Long Quân - Tây Hồ - Hà Nội).
Ba chiếc xe biển xanh đỗ tại cổng đền Quán Thánh cũng nằm "chình ình" ngay dưới lòng, lề đường hơn một tiếng đồng hồ mà không thấy chủ nhân chiếc xe này ra điều khiển.
   Hai chiếc xe biển xanh nằm chình ình dười lòng đường trước cổng đền Quán Thánh. Ảnh: Như Trường.
 Hai chiếc xe biển xanh nằm chình ình dười lòng đường trước cổng đền Quán Thánh. Ảnh: Như Trường.
Việc dùng xe công để làm việc tư xảy ra phổ biến, đặc biệt trong mùa lễ hội, gây lãng phí và rất phản cảm trong mắt nhân dân.
Chính phủ đã có quy định cụ thể về việc dùng xe công nhưng dường như nhiều vị lãnh đạo vẫn “chưa hiểu” và cố ý  dùng mang đi lễ chùa để “góp vui”.
Trước đó, Thủ tướng chính phủ đã có chỉ thị nghiêm cấm cơ quan, đơn vị nhà nước dùng xe công đi lễ chùa, cấm công chức dùng xe công vào việc riêng.
Theo đó Thủ tướng cũng từng yêu cầu xử lý nghiêm các cơ quan, đơn vị có xe công đi lễ chùa bị báo chí nêu. Tuy nhiên nhìn vào thực tế, đặc biệt trong mùa lễ hội thì hình như chỉ thị trên đang bị phớt lờ.
Như Trường

Đảng viên và tín ngưỡng Phật giáo

(PGVN)

Qua một số quan điểm trên đây, là người đảng viên Đảng Cộng sản, đứng trong đội ngũ tiên phong, đòi hỏi mỗi cá nhân trong công tác nhiệm vụ của mình cùng sự tín ngưỡng, mến mộ Phật giáo cần chuyên tâm sâu sắc với từng vai trò mà mình tham gia. 

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước ta tiến hành cải cách mở cửa đã hơn 30 năm, bộ mặt xã hội, cơ sở hạ tầng ngày một phát triển, nền kinh tế có những chuyển biến rõ rệt… Trong khí thế đổi thay đó, Phật giáo Việt Nam cũng khoác lên mình chiếc áo mới mẻ, chùa chiền các nơi được xây dựng, trùng tu khang trang đẹp đẽ, số lượng phật tử, người tín mộ Phật giáo ngày một tăng lên với đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi thành phần trong các tầng lớp khác nhau. Trong đó có sự đóng góp sức lực, vật chất không nhỏ của những cán bộ, công chức, đảng viên Đảng Cộng sản có tín ngưỡng, mến mộ đạo Phật.

Những hình ảnh đảng viên, cán bộ, công chức tín ngưỡng, mến mộ Phật giáo hiện nay không còn là điều mới mẻ so với xã hội trước kia. Điều đó phản ảnh đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, thông qua các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quản lý. Thể hiện cách nhận thức về tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời có sự thay đổi phù hợp với sự phát triển xã hội và đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, khẳng định chính sách luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi công dân trong xã hội.
 
Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước ta thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp qua từng giai đoạn, từng thời kỳ khác nhau như Nghị quyết số 24/NQ - TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới, đã ghi dấu son về sự đổi mới đường lối, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo, xác định:… Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”; Quy định số 123 - QĐ/TW của Bộ Chính trị quy định một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo ngày 28/9/2004 cũng là một chính sách nổi bật, phù hợp xu thế nhằm nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng, tính cấp thiết của công tác phát triển đảng viên là người có đạo, tạo ra sự phấn khởi trong đảng viên và quần chúng ưu tú trong các tôn giáo; Hướng dẫn số 40 - HD/BTCTW ngày 8/4/2005 của Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn thực hiện Quy định số 123 - QĐ/TW “Một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo” v…v….

Các chủ trương, chính sách đó hoàn toàn đúng đắn, phù hợp lòng dân bởi một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, sự xuất hiện của Phật giáo là một dạng văn hóa có tính lịch sử với đặc thù riêng. Trải qua hàng nghìn năm phát triển qua bao thăng trầm, Phật giáo trở thành một trong ba tôn giáo lớn nhất của thế giới và là tôn giáo có lượng tín đồ, người kính ngưỡng lớn nhất tại nước ta hiện nay, có được sự đón nhận rộng khắp như vậy đương nhiên có tính hợp lý và ý nghĩa thiết thực trong đời sống của tôn giáo này.

Thứ hai, trong đời sống chính trị tại Việt Nam, chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tín ngưỡng về chính trị, còn sự sùng kính, mến mộ, tín ngưỡng đối với Phật giáo lại được hiểu như giá trị trực quan và thế giới quan về cuộc sống, tinh thần của con người. Các kinh điển Phật giáo ngoài giá trị thực tiễn trong học thuyết còn có tác dụng tích cực lên cách hành xử của con người với xã hội, của con người với con người, thúc đẩy phát huy sức sáng tạo, chân, thiện, mỹ của mỗi người dân trong đời sống hàng ngày, tạo môi trường sống hài hòa, ngày một tươi đẹp hơn.

“Phật pháp bất ly thế gian giác”, luôn đề cao lòng từ bi, nhân ái, gắn bó với dân tộc Việt Nam bằng tinh thần cứu khổ, cứu nạn của đức Phật. Giáo lý Phật giáo quan niệm con người cần có lòng từ, bi, hỉ, xả, đây là nhân tố chủ yếu giúp phát triển tâm từ bi, hạnh cứu khổ, định hướng hoạt động của Phật giáo cho con người và vì con người, nếu mỗi vị cán bộ lãnh đạo, mỗi một đảng viên sống trọn vẹn với tâm hạnh đó thì những tệ nạn, sự xa rời quần chúng, thờ ơ nỗi đau của dân thường… không còn xảy ra trong hiện thực hàng ngày. Triết lý tốt đẹp đó không khác nhiều so với lý tưởng của Đảng, của Nhà nước Việt Nam vì ấm no, hạnh phúc của mọi người dân. Như tại Báo cáo Chính trị của Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Bảo đảm an sinh xã hội… trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương”. Nét đồng điệu trên cũng là một trong những cơ sở then chốt, là cơ duyên để Phật giáo phát triển, đồng hành cùng với dân tộc Việt Nam, thể hiện tinh thần nhập thế hành đạo, phát huy truyền thống “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân” của cha ông ta.

Thứ ba, Phật giáo Việt Nam trải qua hàng nghìn năm hòa hợp với văn hóa xã hội, đã hình thành nên một hệ thống đặc sắc, rõ nét, phù hợp với nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Thế giới quan Phật giáo nhà Phật được coi như là một học thuyết hay triết học nghiên cứu, suy xét về vũ trụ, con người, nhân sinh quan của Phật giáo Việt Nam xây dựng trên thế giới quan ấy luôn chứa đựng những nét nhân bản, nhân văn cao cả. Phật giáo Việt Nam trong khoảng hơn 2000 năm phát triển đã xây dựng cho mình truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc, là thành tố quan trọng chung dựng nên nền văn hóa Việt Nam, mà như Hoà thượng Thích Đức Nghiệp, trong bài "Hồ Chủ tịch, một biểu trưng nhân bản Việt Nam" đã ghi lại lời khẳng định của Bác Hồ với một nhà báo nước ngoài: "Nhà nước chúng tôi luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng, Phật giáo Việt Nam với dân tộc gắn bó như hình với bóng, tuy hai mà một”.

Có người cho rằng, đã là đảng viên thì không được tín ngưỡng tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng theo yêu cầu bắt buộc hoặc không chính thức, nhưng tại Việt Nam qua thời kỳ giữ nước, xây dựng đất nước, có biết bao sự đóng góp xương máu, sức lực của các cá nhân, tăng ni phật tử, của những người được cho là tín ngưỡng chủ nghĩa duy tâm. Thời thế hội nhập, mở cửa cũng đã thay đổi những định kiến đó, sự truyền bá, giao lưu tư tưởng văn hóa, tôn giáo đôi khi còn nhanh hơn cả sự phát triển về kinh tế. Do vậy, yêu cầu cởi mở đối với vấn đề tín ngưỡng Phật giáo nói riêng và tôn giáo nói chung trong tình hình hiện nay là điều cần thiết, là kết quả tất yếu của sự phát triển thời đại mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã sớm nắm bắt và có chính sách, chủ trương điều chỉnh phù hợp.

Mặc dù như vậy, là một đảng viên tín ngưỡng tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng không vì thế mà gạt bỏ những quy định, yêu cầu khắt khe đối với những điều đảng viên không được làm, trong đó điều 18 quy định rõ đảng viên không được “Mê tín, hoạt động mê tín (đốt đồ mã, hành nghề đồng cốt, thầy cúng, thầy bói). Lập đền, miếu, nơi thờ tự của các tôn giáo trái phép; ủng hộ hoặc tham gia tôn giáo bất hợp pháp; tham gia các tổ chức do tôn giáo lập ra chưa được cấp có thẩm quyền cho phép. Lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi vì mục đích cá nhân.

Là đảng viên nếu không học tập chăm chỉ, hiểu thấu đáo sẽ dễ sa vào sự mê tín mơ hồ không hay biết, nói không chừng sẽ bước vào con đường phủ định chủ nghĩa Mác Lênin, như vậy sẽ không còn là một người đảng viên chân chính nữa.

Nói như vậy, không có nghĩa rằng người đảng viên vì lo sợ mà từ bỏ quyền, né tránh tự do tín ngưỡng của mình, đảng viên Đảng Cộng sản chân chính có thể tín ngưỡng Phật giáo theo ý mình mong muốn nhưng luôn luôn phải thức tỉnh lý trí bản thân trong việc vấn đề nhận biết rạch ròi giữa niềm tin Phật giáo một cách chánh tín, có khoa học. Do đó, đảng viên cần:

1. Nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng: luôn học tập để có kiến thức cơ bản về thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học; nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo; quán triệt và trung thành với tôn chỉ, mục đích, Cương lĩnh đường lối chính trị của Đảng; chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo.

2. Không làm trái chính sách Đảng và pháp luật Nhà nước; không ngộ nhận, cả tin vào các giáo lý mà phai mờ hoặc xem nhẹ thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học; không sa vào mê tín, hủ tục và phải có thái độ kiên quyết; dứt khoát đấu tranh với các hiện tượng đó.

3. Không né tránh dấu hiệu lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng; là tấm gương cho quần chúng noi theo; phối hợp với quần chúng, với những tín đồ khác cùng thực hiện, tuân thủ chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong đời sống và các hoạt động xã hội.

Qua một số quan điểm trên đây, là người đảng viên Đảng Cộng sản, đứng trong đội ngũ tiên phong, đòi hỏi mỗi cá nhân trong công tác nhiệm vụ của mình cùng sự tín ngưỡng, mến mộ Phật giáo cần chuyên tâm sâu sắc với từng vai trò mà mình tham gia. Vừa tăng cường nhận thức quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về tín ngưỡng Tôn giáo, về chủ nghĩa duy vật biện chứng để làm nền tảng tư tưởng trong mọi hoạt động của bản thân trên các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực tôn giáo, đồng thời vừa tham gia sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo làm tốt đời, đẹp đạo, phân tích, làm rõ giá trị nhân sinh quan từ - bi - hỉ - xả của nhà Phật, nhìn nhận Phật giáo dưới góc độ khoa học, là một triết học mang lợi ích nhân sinh, góp phần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, làm tốt quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân với Tổ quốc và Đạo pháp.

Nguyễn Thắng 
Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 5/2016

Phật và Bác ta…

Việt Hoàng
 

“… cứ “tí-sửu-dần-mòn” rồi đến lúc nào đó các phật tử họ không còn nhận ra được là đi chùa thắp hương thờ Phật hay thờ Bác nữa, và như thế là Bác sống muôn năm …”

- Bố ơi! Từ Tết này trở đi con không đi chùa nữa.- Sao vậy?
- Hôm vừa rồi con đi chùa với mấy đứa bạn. Con thấy trong chùa bây giờ thờ cả ông Hồ Chí Minh nữa. Thế là thế nào hở bố?
- Bố cũng có nghe nói vậy. Con thấy thế nào?
- Con thấy không ổn bố à! Theo con hiểu thì chùa là để thờ Đức Phật, cũng như nhà thờ là để thờ Chúa Giê-su vậy. Cho Bác mình “ngồi” vào đó con thấy nó khiên cưỡng quá!
- Bác là anh hùng dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới, bác được nhân dân “phong” thánh sống thì ngồi đâu mà chả được?
- Con không tranh luận với bố về Bác, cứ cho là lời bố nói đúng đi nữa thì việc Bác ngồi vào chùa cũng không ổn, anh hùng dân tộc Việt Nam đâu chỉ có Bác? Việt Nam ta với lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước đã xuất hiện biết bao nhiêu anh hùng dân tộc, nếu tất cả các anh hùng đó đều ngồi hết vào chùa thì lấy đâu ra chỗ? Con thấy, thường thì các anh hùng dân tộc được xây Đền và được xem như Thành Hoàng Làng chẳng hạn! Bác đã có cái Lăng to đùng nằm giữa Thủ đô rồi còn gì!
- Con nói cũng có lý! Nhưng đây là do ý nguyện của nhân dân và đã được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đồng ý.
- Chuyện bảo rằng Bác được nhân dân phong thánh theo con là nói lấy được. Muốn biết điều gì đó có phải là ý nguyện của nhân dân hay không thì phải “trưng cầu dân ý” mới biết được chứ? Nói khơi khơi như vậy khó thuyết phục lắm bố à! Chuyện “thỉnh” Bác vào chùa “ngồi” nếu là quyết định của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thì cũng cần có văn bản được toàn thể các Hòa thượng, chư tăng, phật tử đồng ý mới được chứ? Mà theo con biết thì làm gì có cái văn bản như vậy đâu?
- Thế con không thấy phương châm của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là “Đạo pháp-Dân tộc-Chủ nghĩa xã hội” đấy sao?
- Con không phải là phật tử và cũng không hề muốn xúc phạm đến các bậc tăng lữ tài cao đức rộng; nhưng con thấy mục tiêu thứ ba của Giáo Hội Phật Giáo có cái gì đó không ổn, đó là “chủ nghĩa xã hội”. Phật pháp và Cộng sản có cái gì ăn nhập với nhau đâu ạ? Con cũng thấy việc Bác ngồi vào trong chùa là báng bổ Phật và cả... Bác nữa!
- Sao con lại nói vậy?
- Đạo Phật đã có cách đây 2500 năm, trong khi đó chủ nghĩa cộng sản mới có khoảng 100 năm. Đồng hành với nhau thế nào được? Mà chủ trương của cộng sản là tiêu diệt tôn giáo. Từ Stalin đến Bác Mao, Bác Hồ đều cho đập phá các nhà thờ, chùa chiền. Ông “giáo chủ” đầu tiên của Đạo Mác đã nói rõ là “Tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng”, mà đã là “thuốc phiện” thì phải tẩy chay, tiêu diệt. Bác mình dù gì cũng là giáo chủ của Đạo Mác tại Việt Nam, như vậy ông “giáo chủ” của Đạo Mác lại ngồi cùng Phật Tổ một chổ e rằng cả hai ông đều không hài lòng, như vậy chả là xúc phạm cả Phật lẫn Bác hay sao?
- Cái đó con nói cũng có cái đúng, Đảng cộng sản có ưa gì mấy ông Thầy chùa đâu. Không những ngày xưa mà bây giờ vẫn vậy. Nhưng “thời thế, phải thế” con ạ, nếu không mang Bác vào chùa đặt mà xây riêng một cái đền, hay cái động gì đó để hoằng dương Đạo Mác thì cũng khó. Ai người ta vào? Đảng viên chỉ có 3 triệu người mà hầu hết có còn ai tin vào cộng sản nữa đâu? Đành cho Bác ngồi ké vào chùa vậy!
- Tại sao Đảng ta không mang Bác vào nhà thờ đặt luôn cho hết lượt ạ?
- Không được con à. Nhà thờ có những qui định rất nghiêm khắc và chặt chẽ và họ còn có Tòa thánh Vaticăng nữa chứ, đời nào họ để yên cho mình làm việc đó. Trong khi đó thì Đạo Phật lại “rộng lượng” hơn, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam lại nằm trong Mặt trận cho nên Đảng đề nghị lẽ nào họ lại từ chối? Mà con có biết không? Phật tử rất đông và cả những người không phải là phật tử nhưng vẫn đi chùa càng đông hơn nữa, cứ “tí, sửu, dần mòn” rồi đến lúc nào đó các phật tử họ không còn nhận ra được là đi chùa thắp hương thờ Phật hay thờ Bác nữa, và như thế là Bác sống muôn năm... và Đảng ta cũng sẽ sống muôn năm. Một công đôi việc, vừa ít tốn kém lại còn hoằng dương được Đạo Mác nữa. Con thấy Đảng ta có tài tình và sáng tạo không?
- Thật là “quái” hết chỗ nói. Ông nào nghĩ ra được cách này rất xứng đáng được nhận chức “giáo chủ” Đạo Mác.
- Thì bố đã bảo với con, Đảng ta còn sống dài dài nhờ các kiểu “ké” và “quá giang” mà lại...
- Thưa bố, vẫn chưa hết đâu ạ. Con thì chưa thấy nhưng mấy đứa bạn con đều nói rằng bây giờ các sư sãi của nhà Phật đều ăn mặn cả, không những thịt chó mà bất cứ thịt gì họ cũng đều xơi tuốt, lại còn rượu bia tu ừng ực như bố con mình vậy?
- Anh thấy lạ lắm à?
- Vâng! Theo con giới tu sĩ vốn được người dân kính trọng bởi vì họ đã từ bỏ những ham muốn rất đời thường của người trần tục, để trở nên thanh khiết và mọi người đều xem họ như là sợi dây nối giữa người thường với thánh thần, với thượng đế. Nếu họ cũng phàm tục như chúng ta thì việc gì chúng ta lại kính trọng họ? Con thật không hiểu nổi!
- Có gì đâu mà không hiểu. Không phải sư nào cũng vậy cả đâu. Sư cũng có hai loại sư: “sư ta” và “sư địch”. Sư địch thì họ đâu có ăn mặn. Còn sư “ta” là những người làm công tác Phật Giáo, họ đều là những đảng viên trung kiên, đã được bồi dưỡng đầy đủ về lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhiệm vụ của họ là dẫn dắt Giáo Hội Phật Giáo đi theo con đường của Đảng, nhà chùa cũng chỉ là nơi làm việc như mọi cơ quan khác mà thôi. Đạo Mác là theo chủ nghĩa duy vật, vì vậy đâu có cấm ăn nhậu.
- Trời đất! Thế này thì con cũng xin đi tu...
- Anh đừng có mà mơ! Loại “phản động” như anh còn lâu mới được “đi tu” nhé, đi tù thì có...
-???
Việt Hoàng
05/01/2008 - ThongLuan
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2420

“Đạo pháp tộc chủ nghĩa xã hội” – Biến thái của Phật giáo Việt Nam hiện tại

Bởi   /   January 9, 2016  /   Comments Off on “Đạo pháp tộc chủ nghĩa xã hội” – Biến thái của Phật giáo Việt Nam hiện tại

Phật Giáo  |  Tuệ Sỹ


tăngsumucoiPhật giáo chỉ tồn tại như một bộ phận của Đảng, và lãnh đạo Phật giáo chỉ là cán bộ của Đảng và Nhà Nước.

Lời dẫn của Tuệ Sỹ: Bài tham luận này được viết đã lâu. Nguyên đề là “Văn minh tiểu phẩm,” chỉ là bài tham luận có tính chuyên đề. Bỗng nhiên nó mang tính thời sự. Ban đầu người viết không có ý định phổ biến rộng rãi, mà chỉ giới hạn trong một số thức giả đọc để suy ngẩm về quá khứ và tương lai.

Tuy nhiên, nay nó được cho phổ biến, vì trong mấy tuần vừa qua, Nhà Nước đã vận dụng bộ máy tuyên truyền khổng lồ và độc quyền, từ diễn đàn Quốc hội, cho đến các cuộc họp một số phường quận; từ Hội đồng chứng minh, Giáo hội trung ương, cho đến các ban Đại diện Phật giáo quận; bằng các phương tiện phát thanh, truyền hình, báo chí; mục đích là xác định lại lập trường “trước sau như một” của Đảng CSVN đối với Phật giáo, và cũng xác định sự hiện hữu duy nhất của Phật giáo qua đại diện hợp pháp là Giáo hội Phật giáo Việt Nam, mà thực chất là một tổ chức chính trị của Đảng, thực hiện đúng sách lược tôn giáo theo chỉ thị của Lenin: “đảng phải thông qua tôn giáo để tập hợp quần chúng.”

Chính điều đó xác định rõ nhiệm vụ lịch sử của Giáo hội Phật giáo Việt nam như là công cụ bảo vệ Đảng, đúng như lời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trước đây đã tuyên bố: Phật giáo Việt nam là chỗ dựa cho người Cộng sản Việt nam làm cách mạng.

Những tuyên truyền và tuyên bố như trên chỉ được nghe và nhìn từ một phía. Vì vậy tôi cho phổ biến lại bài này; không xem đây là chân lý lịch sử, nhưng là sự thực được nhìn theo chủ quan của một cá nhân. Dù sao, nhìn sự việc từ một khía cạnh khác sẽ cho thấy rõ thêm vấn đề. Chân lý cuối cùng tùy thuộc người đọc; tùy thuộc trình độ tư duy, thành kiến xã hội, hay quyền lợi vật chất.

Trước khi giới thiệu bản văn, nhân tiện tôi ghi thêm một vài sự kiện có tính lịch sử gần nhất, để người đọc có thêm cảm hứng suy luận.
Tôi nói sự kiện lịch sử gần nhất, là muốn nói ngay đến sự xuất hiện của Pháp sư Thích Trí Độ lần đầu tiên tại miền Nam sau ngày Cộng sản chiến thắng. Trên lễ đài chiến thắng, gồm các lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hàng cao nhất. Pháp sư thay mặt Phật giáo miền Bắc, mà trên cương vị người chiến thắng, là chính thức đại diện toàn thể Phật giáo Việt Nam. Đó là vị Pháp sư, mà miền Nam gọi là Đại lão Hòa thượng; Ngài bận chiếc áo sơ-mi cụt tay như các cán bộ cao cấp khác của Đảng và Nhà Nước.
Sự thực như vậy rất rõ: Phật giáo không tồn tại nữa ở Miền Bắc, mà chỉ tồn tại như một bộ phận của Đảng và lãnh đạo Phật giáo chỉ là cán bộ của Đảng và Nhà Nước.
Ở miền Nam, theo báo cáo của Trần Tư, tài liệu của Bộ Nội vụ phổ biến năm 1996, bấy giờ chỉ có “khoảng 2.5 triệu tín đồ.” Nhưng do nhu cầu lịch sử, nói theo lý luận của Đảng, nghĩa là chưa xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nên tôn giáo như thuốc phiện ru ngủ vẫn còn có nhiệm vụ lịch sử của nó; do nhu cầu lịch sử nên Đảng thừa nhận tồn tại tín ngưỡng Phật giáo.
Tín ngưỡng, chứ không phải tôn giáo. Bởi vì, tin và thờ bình vôi, cây đa, ông Táo, ông Địa, là tín ngưỡng, chứ không phải tôn giáo. Đảng tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhưng chỉ cho phép tin một số hiện tượng. Ngoài ra là mê tín, hoặc duy tâm mang tính phản động thì triệt để bài trừ.
Năm 1980, tôi được anh Võ Đình Cương mời họp thảo luận về văn hoá Phật giáo tại tòa soạn Giác ngộ, tại đó, đại diện Mặt trận Thành phố HCM đến dự, và đề nghị (thực chất là ra lệnh): nhiệm vụ văn hoá Phật giáo là bài trừ mê tín; do đó phải xét lại trong Phật giáo những gì không thuần tuý thì phải dẹp bỏ. Thí dụ, Quan Âm, Địa Tạng có thuần tuý Phật giáo hay không?
Tôi phản ứng: đó là đức tin tồn tại ít nhất hơn 2 nghìn năm, trên một phạm vi châu Á rộng lớn; do đó không ai có quyền xét để dẹp bỏ. Tin hay không, đó là quyền tự do cá nhân. Nhưng dẹp bỏ thì không ai có quyền.
Ngay sau 1975, nhiều tượng Phật lộ thiên bị giựt sập. Gây chấn động lớn nhất là giựt tượng Quan Âm tại Pleiku. Viện hóa đạo đã có những phản ứng quyết liệt, và đích thân Hòa thượng Đôn Hậu mang tài liệu phản đối ấy ra báo cáo Thủ Tướng Phạm Văn Đồng.
Hoà thượng kể lại cho tôi nghe, sau khi chuyển hồ sơ vi phạm chính sách tôn giáo lên Thủ tướng; hôm sau Hòa thượng được một Đại tá bên Bộ Nội vụ gọi sang làm việc. Sau khi nghe Đại tá lên lớp chính trị, Hòa thượng nói: “Bởi vì Thủ tướng có nhờ tôi sau khi vào Nam trở ra Bắc, báo cáo Thủ tướng biết tình hình Phật giáo trong đó. Vì vậy tôi báo cáo những vi phạm để Chính phủ có thể kịp thời sửa chữa, ngăn chận cán bộ cấp dưới không để vi phạm. Nếu Thủ tướng không muốn nghe thì thôi. Còn viêc lên lớp chính trị như thế này, đối với tôi (Hòa thượng) thì xưa quá rồi.”
Dù sao, phản ứng ấy cũng làm chùn tay những đảng viên cuồng tín Mác xít, và tự kiêu về chiến thắng với khẩu hiệu nhan nhãn các đường phố lúc bấy giờ: “Chủ nghĩa Mác Lê-nin bách chiến bách thắng muôn năm!” Nghĩa là, không thể tự do hoành hành như trong những năm sau 1954 trên đất Bắc.
Ở đây, chúng ta phải đặt câu hỏi: sau 1975, nếu không có Phật giáo miền Nam, cùng với thái độ cương quyết của các vị lãnh đạo Giáo hội Thống nhất, Phật giáo Việt Nam sẽ thoi thóp đến lúc nào rồi đứt hơi luôn, với đà tự kiêu chiến thắng 1975 và với ảo tưởng về thành trì xã hội chủ nghĩa bách chiến bách thắng của Liên-Xô?
Năm 1982 là cột mốc lớn cho Phật giáo Việt Nam, với lời tuyên bố của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Đảng không dại gì mà dựa lưng vào chỗ mình chưa nắm chắc. Do đó, bằng mọi giá phải cải tạo Phât giáo miền Nam, giống như cải tạo xã hội chủ nghĩa theo phương thức tịch thu tư liệu sản xuất và đưa các chủ tư bản đi lao động cải tạo.
Đảng biết chắc, tuy gặp phải chống đối quyết liệt của lãnh đạo Phật giáo, nhưng với bạo lực chuyên chính trong tay, sẽ phải cải tạo thành công. Trước hết, sự bức tử đối với Thượng tọa Tâm Hoàn, Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Bình định, năm 1975, gây kinh sợ không ít cho những ai cưỡng lại ý chí của Đảng.
Kinh hoàng nhất là cái chết của Thượng Tọa Thiện Minh năm 1978, trong trại giam K4, Bộ Nội vụ. Đó là thời gian tôi được giam cùng trại với Hòa thượng Thiện Minh, nhưng hoàn toàn cách ly. Chỉ biết rõ, khi nghe tiếng Hòa thượng trả lời thẩm vấn ở phòng hỏi cung kế cận.
Tất cả điều đó củng cố cho tuyên bố của ông Mai Chí Thọ, bấy giờ là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố HCM, nói thẳng với Hòa thượng Trí Thủ, bấy giờ là Viện trưởng Viện hóa đạo: “Các thầy chỉ có hai con đường, theo hoặc chống. Các thầy theo, chúng tôi tạo điều kiện cho sinh hoạt. Các thầy chống, chúng tôi còn đủ xe tăng thiết giáp đó.” Hòa thượng trả lời: Không theo cũng không chống. Nhưng, đối với Đảng, không có con đưòng thứ ba.
Ý chí của đảng là một chuyện. Nhưng những người Phật giáo cũng nên tự đặt câu hỏi: Ban Liên lạc Công giáo Yêu nước cũng hoạt động rất tích cực, nhưng không đưa được Hội đồng Giám mục vào trong Mặt trận Tổ quốc. Trong khi, rất nhanh chóng, Phật giáo trở thành một bộ phận của đảng Cộng sản Việt Nam. Tại sao?
Từ ngày thành lập đến nay, Giáo hội thành thành viên Mặt trận đó đã làm những gì? Làm nhiều lắm, vì chùa chiền đồ sộ thêm lên. Như lời Hòa thượng Thanh Tứ phát biểu mới đây trong buổi lễ khai giảng của trường Phật học Trung cấp tỉnh Bình Định.
Hòa thượng nói: “Phật giáo thời Lý rất thạnh. Nhưng không bằng nay. Vì nay cơ sở của ta to lớn hơn.” Ấy là, theo như lời Hòa thượng nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bài phát biểu: nhờ chính sách của Đảng. Đó là sự thực không thể chối cãi. Nhưng cần nói cho rõ thêm, Việt Nam chúng ta bây giờ tiến bộ hơn thời Hồng Bàng gấp vạn lần.
Thời Lý, nước Việt Nam chỉ từ Thanh Hóa trở ra Bắc, chỉ hơn 1/3 lãnh thổ hiện nay. Như vậy thì cơ sở hiện nay nhất định phải to lên rồi. Nhưng cái to hơn ấy của lịch sử bốn nghìn năm văn hiến lại chưa bằng một phần nhỏ của Thái Lan chỉ hơn 8 thế kỷ định cư.
Và cũng nhờ chính sách của Đảng, nếu chính sách đó trước sau như một, nghĩa là như Phật giáo miền Bắc trước 1975, thì không biết ngày nay các Hòa thượng khi xuất hiện trước công chúng sẽ khoác tăng bào, hay cũng chỉ bận áo sơ mi cán bộ như Pháp sư Trí Độ trước đây?
Trên toàn miền Bắc, cho đến 1975, có trên dưới 300 “ông sư, bà vải.” Đến 1996, theo báo cáo Bộ Nội vụ của Trần Tư, “Hiện nay Phật giáo ở miền Bắc có khoảng 3.000 tăng ni, tín đồ phần đông là ông già (bà già là chủ yếu –nguyên văn).
Số cao tăng tiêu biểu hầu hết đã già yếu không còn khả năng hoạt động. Số tăng ni trẻ trình độ văn hoá cũng như lý luận về Phật giáo thấp, không đủ sức làm nhiệm vụ tranh thủ Phật giáo miền Nam và hoạt động quốc tế.” Giáo hội Phật giáo Việt Nam phục vụ cho cái gì, theo báo cáo đó đã quá rõ.
Ngoài cơ sở “to lớn hơn thời Lý” ra, còn thêm được những gì để vượt hơn Phật giáo miền Nam trước 1975? Nói về báo và tạp chí, được mấy phần trăm? Chỉ một tờ Giác Ngộ duy nhất cho cả nước.
Cũng là tờ báo hoằng pháp. Nhưng cũng thường xuyên ca ngợi vinh quang của Đảng, và giúp Nhà nước phổ biến kế hoạch sinh đẻ, tuyên truyền đường lối của Đảng chống NATO. Những lời Phật dạy cao siêu cũng chỉ đủ thêm vài chấm đỏ cho vinh quang của đảng và đường lối sáng suốt của đảng trên chính trường quốc tế.
Ngoài tờ Giác Ngộ ra, với ba cơ sở giáo dục cao cấp, tương đương đại học, nhưng đã có công trình gì đáng kể?
Vậy thì, qua hơn 20 năm hoạt động, trong tư cách là một bộ phận của đảng, Giáo hội PGVN đã làm thêm được gì cho văn hoá Phật giáo VN so với những gì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đã làm trước 1975?
Trong khi cả khu vực, và kể luôn cả nước Việt Nam đều tiến bộ, theo chừng mực nào đó, mà Phật giáo Việt Nam chưa lấy lại được thế đứng của nó trong lòng văn hoá dân tộc như trước đó, vậy thì đảng hỗ trợ PGVN tiến theo hướng nào?
Bề ngoài, cũng còn có mặt đáng nói khác, đó là giáo dục. Trước hết, bao nhiêu cơ sở Trung học Bồ đề, và các Viện Đại học: một Vạn Hạnh, và một Phương Nam, của Phật giáo miền Nam, nay biến đi đâu mất? Nói là biến, vì hầu hết các tăng ni sinh, kể cả những vị đang học tại các trường cao cấp Phật học, không biết các cơ sở giáo dục này là cái gì, dạy những gì trong đó. Chính vì vậy mà họ chỉ biết Phật giáo Việt Nam tiến bộ vì chùa to Phật lớn.
Các tăng ni sinh này được đào tạo để làm gì? Không thấy họ được đưa về các địa phương để giảng pháp cho Phật tử. Cũng không có cơ sở văn hoá nào để họ phục vụ. Hầu hết, học xong, trở về chùa, làm nghề thầy cúng hoặc thầy bói. Tất nhiên cũng có nhiều thầy cô vẫn tìm cách mở các khoá học Phật pháp, nhưng cũng chỉ giới hạn trong một số tỉnh thành lớn, nhất là Thành phố HCM.
Ngay như Huế, được xem là kinh đô của Phật giáo miền Nam, hầu như các thầy chỉ đi cúng và đăng đàn chẩn tế, hoặc lập đàn chay phá cửa địa ngục cho cô hồn đi chơi, chẳng có buổi giảng kinh nào đáng kể.
Còn cái trường gọi là cao cấp Phật học, hay Học viện Phật giáo Hồng đức, sau khi Hòa thượng Thiện Siêu tịch rồi, không còn thầy cô nào đủ sức dịch cho xuôi một trang luận Câu-xá, thì lấy chữ đâu mà giảng dạy kinh luận cho tăng ni sinh trình độ cao đẳng, đại học?
Nhìn chung, Phật giáo chỉ đang phục vụ nhiều nhất cho người giàu. Còn quần chúng tại các vùng sâu xa, vì họ thiếu phước, kiếp trước ít tu, nên nay chẳng mấy khi được nghe các thầy cô thuyết pháp. Còn lập đàn chẩn tế và phá cửa địa ngục cho ông bà cha mẹ siêu thăng, đốt vàng mã thật nhiều cho ông bà có tiền tiêu và có xe hơi nhà lầu, dưới âm phủ, thì họ không đủ tiền.
Tóm lại, nếu nói Phật giáo Việt Nam hiện tại chẳng có tiến bộ gì thì không đúng. Vì cơ sở chúng ta hiện nay đồ sộ hơn trước, kể cả miền Nam trước 1975 chứ không cần so sánh xa xôi lùi cho đến đời Lý như Hòa thượng Thích Thanh Tứ.
Ngoài việc xây dựng chùa to Phật lớn, Phật giáo hiện tại đã đóng góp gì cho gia tài văn hoá, tư tưởng của dân tộc, ngoài sứ mệnh được giao phó là rao truyền chính sách sáng suốt của Đảng quang vinh? Còn chuyện tìm một vị trí của Phật giáo Việt nam, dù chỉ khiêm tốn thôi, trong thế giới hiện đại, là điều mộng tưởng xa vời.
Gần đây, các trường Phật học tại Saigon sợ tăng ni sinh nghe thêm những nguồn thông tin không phù hợp với sự tuyên truyền một chiều vừa độc quyền vừa độc đoán của Nhà nước, nên vừa cảnh cáo, vừa khuyên răn: hãy quên đi quá khứ mà lo chăm học cho hiện tại.
Quên đi quá khứ hận thù, để sống trong tình cảm dân tộc bao dung, đó là điều cần phải học. Nhưng quên đi những thành tựu quá khứ gần nhất, chỉ cách đây chưa đầy 30 năm, để rồi so sánh sự tiến bộ của ta ngày nay với thời đại Hồng Bàng, hay với thời Lý như Hòa thượng Thanh Tứ, thế thì bản chất của nền giáo dục Phật học ấy là gì?
Có phải các thầy muốn dạy tăng ni sinh quên đi những hy sinh gian khổ của Thầy Tổ đã tạo ra di sản ngày nay, do vậy họ sẽ nhận thức dễ dàng rằng những gì chúng ta đang thừa hưởng ngày nay là nhờ công ơn Đảng và Nhà nước?
Lời hăm của các thầy có giá trị “hàn mặc dy luân” của những nhà giáo dục. Chính vì thế tôi cho phổ biến bài tham luận này, mà trước đó tôi cho là ý kiến cá nhân nên giới hạn người đọc. Bây giờ tôi vẫn xem đây chỉ là quan điểm cá nhân. Nhưng tôi cho phổ biến để các thầy có cơ sở kiểm chứng những thành tựu mà Nhà nước đã giúp Phật giáo Việt Nam.
Tất nhiên, tôi nhận mọi trách nhiệm trước pháp luật, và trên hết, trước lương tâm của một con người còn tin tưởng giá trị làm người.
Già Lam 10-11- 2003.
Tuệ Sỹ
thichtuesy





Thích Tuệ Sỹ (Ảnh: Internet)

[*] Bài viết được đăng lại dưới sự đồng ý của Sài Gòn Báo. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của các tác giả.
“Câu Chuyện Cuối Tuần” là một đề mục của Đài Phật giáo Việt Nam phát thanh về trong nước, trình bày vấn đề Phật Pháp & Thời luận phát thanh mỗi thứ sáu hàng tuần, do ký giả Triều Thanh phụ trách.
Hôm nay xin mời bạn đọc theo dõi bài 1 và bài 2 Cư sĩ Võ Văn Ái nói về “Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến từ đâu”, chép lại từ cuộc phỏng vấn của Triều Thanh qua 2 chương trình Đài hôm thứ sáu 28-10-2016 và thứ sáu 4-11-2016 :
2016-1104z

Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến từ đâu ?

Bài 1


Triều Thanh : Thưa ông Võ Văn Ái, với tất cả sự xáo trộn nát tan xẩy ra cho phong trào Phật giáo Việt Nam sau khi chế độ Xã hội Chủ nghĩa xích hóa toàn bộ Việt Nam sau năm 1975, đặc biệt với tổ chức quy mô và đại biểu, mang danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), ngày nay có số người đánh lên dấu hỏi : Phải chăng sự thống nhất của Phật giáo đã bị rã tan, phân hóa, chia rẽ tới tận cùng của sự giải thể một phong trào có tính thống nhất và lịch sử ?
Võ Văn Ái : Nếu hiểu thống nhất là sự chồng chất của những con số người mang thẻ hội viên, con số khuynh hướng các bộ phái, thì quả thực thể thống nhất bị khuấy tan theo chủ trương chống tôn giáo và phi tôn giáo của người Cộng sản vô thần phương Tây.
Nhưng chữ thống nhất trong danh xưng GHPGVNTN không mang nghĩa số lượng, mà mang nghĩa phẩm chất của đạo Phật Việt ? Số lượng có thể tan rã, chia xé, tranh chấp. Nhưng phẩm chất thì không. Phẩm chất là tiến trình thăng hoa, từ thấp đến cao, từ thủ cựu vươn lên tiến bộ để thích nghi thời đại trong mục tiêu cứu người của Phật giáo.
Triều Thanh : Như vậy, phẩm chất của hai chữ thống nhất qua danh xưng GHPGVNTN nghĩa là gì, xin ông giải thích rõ hơn ?
Võ Văn Ái : Trước hết ta cần biết danh xưng GHPGVNTN đến từ đâu, và lúc nào ? Đọc sử ta biết cách đây mười thế kỷ, thời Đinh, vua ban chức Tăng Thống cho Quốc sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu. Có Tăng Thống tức có sự tập trung đông đảo của chư Tăng, có sự hiện diện của tổ chức tăng đoàn và giáo hội.
Thế nhưng mười thế kỷ sau, dưới thời Pháp thuộc, Dụ số 10 do vua Bảo Đại ký, đặt Phật giáo vào quy chế hiệp hội, hội đoàn, chứ không là tôn giáo. Thời ấy, chỉ riêng Công giáo được hiện hữu như một giáo hội tôn giáo. Dụ số 10 tiếp tục áp dụng đối với Phật giáo dưới thời Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Không may cho Phật giáo và dân tộc, là có sự kỳ thị tôn giáo, và bất bình đẳng tôn giáo suốt 9 năm nhà Ngô chấp chính dưới thời Đệ nhất Cộng hòa. Đây là một thực tế lịch sử, chứ không là nhận định theo từng quan điểm. Khiến cho hàng vạn Phật tử trở thành nạn nhân của sự đày đọa tại các khu Dinh điền hoặc thông qua Ban Tuyên giáo Cộng giáo Tiến hành, hàng trăm Phật tử bị thủ tiêu, và khoảng hai nghìn bị bắt buộc bỏ đạo Phật tại miền Trung.
Tình trạng kỳ thị này được Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Pháp chủ Giáo hội Tăng già Trung phần, báo động qua thư gửi Tổng thống Ngô Đình Diệm và Quốc hội Đệ nhất Cộng hòa ngày 20 tháng 2 năm 1962, kèm theo hồ sơ 50 trang ghi rõ chi tiết những cá nhân, những Khuôn hội Phật giáo bị kỳ thị và các kẻ chủ động thảm sát Phật tử tại các tỉnh Tuy Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, v.v… Thư gửi bằng đường bưu điện, và được một vị Dân biểu Phật giáo đưa đến tận tay Tổng thống Diệm.
Trong thư, có đoạn Hòa thượng Thích Tịnh Khiết viết rằng :
“Kính thưa Tổng Thống,
“Chúng tôi nghĩ rằng dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa do Tổng thống lãnh đạo, nền tự do tín ngưỡng đã được Hiến Pháp minh định, được Tổng Thống và Quốc hội nhiều lần xác nhận, thế mà những hành động bất công được nuôi dưỡng ở hạ tầng, đi ngược lại chủ trương của Chính phủ, chia rẽ khối Đại Đoàn kết của toàn dân. Nỗi bất bình oan ức của hàng hội hữu tín đồ Phật giáo chúng tôi không xiết tả.
“Chính sách Di Dân tốt đẹp đang bị lợi dụng và thi hành một cách hết sức lệch lạc, Hiến pháp đang bị vi phạm. Những sự kiện trên sẽ đem lại hậu quả vô cùng tai hại cho đường lối của Chính phủ dù sự lãnh đạo sáng suốt của Tổng Thống (…) Kính mong Tổng Thống công minh xét đoán gấp những nguyện vọng khẩn thiết trên cho hàng Phật tử chúng tôi”.
Tiếc thay, thư khẩn thiết và hồ sơ minh chứng của Phật giáo không được Tổng Thống Diệm hay Quốc hội hồi âm, cứu xét. Đưa tới giọt nước làm tràn ly vào tháng 5 năm 1963, khi Phật giáo không thể làm gì khác hơn là mở đầu cuộc đấu tranh tự vệ nhắm mục tiêu yêu sách bình đẳng tôn giáo. Việc sau đó ai cũng biết, không cần thiết đi sâu vào chi tiết của 6 tháng vận động qua phản ứng tự vệ của Phật giáo đồ.
Trên kia tôi nhắc Dụ số 10 như đầu mối kỳ thị tôn giáo tại Việt Nam. Đồng thời hiểu thêm sự kiện Phong trào Chấn hưng Phật giáo từ những năm 20 đầu thế kỷ XX, các tổ chức Phật giáo lần lượt ra đời từ Nam Trung Bắc, tất cả đều phải mang danh xưng Hội đoàn như Hội Nghiên cứu Phật học, Hội Lưỡng Xuyên Phật học ở miền Nam, Hội Phật học Trung kỳ, Hội An Nam Phật học ở miền Trung, Hội Phật giáo Bắc kỳ ở miền Bắc, v.v… Mãi tới tháng 5 năm 1951, Phật giáo toàn quốc Bắc Trung Nam quyết tâm tiến tới việc thống nhất Phật giáo họp nhau tại Chùa Từ Đàm Huế với 3 tập đoàn Tăng Già và 3 tập đoàn Cư sĩ, nhưng danh xưng vẫn nằm trong quy chế Hiệp hội : gọi là Tổng hội Phật giáo Việt Nam, là chủ lực và tiền thân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Cuộc đấu tranh đòi hỏi bình đẳng tôn giáo chấm dứt vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 qua cuộc đảo chánh của giới quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sang thời Đệ nhị Cộng hoà, Dụ số 10 mới bị bãi truất đối với Phật giáo.
Một Đại hội Phật giáo toàn quốc ở phía Nam được tổ chức tại Chùa Xá Lợi, Saigon, từ ngày 31 tháng 12 năm 1963 đến ngày 4 tháng giêng 1964, danh xưng giáo hội của Phật giáo mới được chính thức ra đời, với tên GHPGVNTN cùng bản Hiến chương đầu tiên của Giáo hội nói rõ lập trường nhân loại và dân tộc của Phật giáo với quá trình lịch sử hai nghìn năm.
Chữ thống nhất trong danh xưng GHPGVNTN, hiển nhiên là sự quy tụ hòa hài tại Đại hội của 11 tổ chức, bộ phái của Phật giáo thời bấy giờ.
Nhưng ý nghĩa chính và công trình của chữ thống nhất trong danh xưng, là thống nhất hai trường phái chính yếu của Phật giáo thế giới. Đó là truyền thống Bắc tông, cũng gọi là Đại Thừa (Mahayana), và Nam tông tức Nguyên Thủy (Theravada), có lúc gọi là Tiểu thừa (Hinayana).
Đây là nỗ lực đặc thù của Phật giáo Việt Nam thống nhất giáo lý Phật Đà trong việc Tịnh Phật quốc độThành tựu chúng sinh, chưa hề xẩy ra cho Phật giáo trên thế giới trước đây.
Đồng thời, ở điều 5, chương 3 của Hiến chương GHPGVNTN quy định “thành phần của GHPGVNTN gồm Tăng sĩ và Cư sĩ thuộc Bắc tông và Nam tông chấp nhận bản Hiến chương này”, cho ta thấy nỗ lực thống nhất tứ chúng (bao gồm hai giới Tăng, Ni, và hai giới Nam Cư sĩ và Nữ cư sĩ), đạo và đời. Từ đó, giới Cư sĩ không còn bị xem khinh, nếu không là kỳ thị, phát khởi từ thời Phật giáo tu viện hai nghìn năm trước, hay thành kiến luân lưu trong một số Phật tử ngày nay.
Triều Thanh : Ông có thể cho biết ảnh hưởng cuộc đấu tranh tự vệ của Phật giáo năm 1963 với sự ra đời của một tổ chức hoàn chỉnh GHPGVNTN có mang lại ảnh hưởng gì trong đời sống cận đại Việt Nam giữa hai miền Nam Bắc ?
Võ Văn Ái : Nói cho dễ hiểu và tổng quát, thì trong bối cảnh bị xâm lược, chiến tranh thế giới, rồi chiến tranh huynh đệ Việt Nam làm điêu linh xã hội, thì ảnh hưởng cận đại căn bản là tâm tư người Phật tử Việt Nam biến thành thái độ chính trị để rộ nở ra trong văn học nghệ thuật. Đỉnh mốc ảnh hưởng Phật giáo trong lòng dân tộc rõ nét nhất từ 1963 trở đi. Một sinh thức mới phi nhị tướng cũng gọi là bất nhị (Non duality) xuất hiện trong văn học và tư tưởng nhằm hóa giải cuộc khủng hoảng tư tưởng của Tây phương, mà tranh cãi ý thức hệ hoá thân bằng chiến tranh như tiền đề sụp đổ của nền văn minh Tây phương mà ta đang chứng kiến trong thế kỷ XXI này.
Trên phương vị dân tộc, thì biến động Phật giáo năm 1963 là tiếng sét thức tỉnh giới lý thuyết gia mác-xít ở miền Bắc.
Triều Thanh : Có chuyện ấy sao ? Ông có thể khai triển cuộc diện mới mẻ này ?
Võ Văn Ái : Một nhà ngoại giao thời ấy, Giám đốc Vụ Đông Nam Á Bộ Ngoại giao Pháp, tiết lộ cho tôi biết, thoạt đầu khi biến động Phật giáo Huế bộc phát tháng 5 năm 1963, thì Hà Nội vẫn mơ tưởng và đánh giá như một phong trào đô thị tự phát “chống Mỹ Diệm” do Xứ ủy Miền Nam của Đảng Cộng sản, là Mặt trận Giải phóng Dân tộc Miền Nam thúc đẩy.
Nhưng sau 3 tháng quan sát, thì Hà Nội mới giật mình tỉnh thức trước một phong trào quần chúng Phật giáo lớn rộng không nằm trong tầm tay ảnh hưởng hay giật dây của Đảng, tức Mặt trận, và họ tỏ ra khá lo ngại.
Trong đấu tranh chính trị, nhận thức người Cộng sản thường khởi sự bằng sự nghiên cứu cơ bản đối tượng, để phác hoạch sự đối trị.
Cho đến thời gian ấy, các bài nghiên cứu ở miền Bắc về Phật giáo chỉ quanh quẩn trên lĩnh vực văn học, thi ca, tư liệu lịch sử. Đột nhiên, lý thuyết gia của chế độ xuất hiện, lên vũ đài nghiên cứu nhằm đánh giá một lực lượng quần chúng có tầm vóc chính trị ở miền Nam, là phong trào Phật giáo, mà Hà Nội bắt đầu thấy nguy cơ đối đầu trong tương lai với nhà nước Cộng sản.
Lý Thuyết gia này là ông Trần Văn Giàu. Bài viết ký tên thật hoặc qua các bút danh Gió Nồm, MN, Tầm Vu. Ông đăng một loạt bài về Phật giáo trên báo Nghiên cứu Lịch sử dưới các tựa đề bám sát cuộc đấu tranh của Phật giáo Miền Nam từng tháng một, để lèo lái lý luận nhằm “chứng minh” Mặt Trận Giải Phóng Dân tộc Miền Nam “lãnh đạo” cuộc đấu tranh của Phật giáo. Thực tế, Phật giáo chẳng ăn nhập gì với chủ trương hay ảnh hưởng Cộng sản của Mặt trận hay Bắc Việt.
Theo dõi thời sự cuộc đấu tranh của Phật giáo ở miền Nam năm 1963, ông tviết một bài dài mang tên “Phong trào đô thị, phong trào Phật giáo, Đàn áp dã man của Mỹ Diệm” đăng trên báo Nghiên cứu Lịch sử, sau in vào bộ sách “Miền Nam Giữ Vững Thành Đồng” (tập II, phát hành tại Hà Nội ngày 6.10.1966). Dù mưu mô “cột” Phật giáo với Mặt trận, nhưng một câu viết của ông Giàu trong bài này cho thấy sự thất bại của Mặt Trận trong việc tiếp cận trịch thượng, nhưng chẳng được Phật giáo để ý qua tiết lộ của ông Giàu :
“Những lời kêu gọi, những điều hướng dẫn của Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ngày 14 tháng 5 và ngày 22 tháng 8 [năm 1963]chưa có điều kiện (chúng tôi nhấn mạnh) để hàng ngũ Tổng Hội Phật Giáo [Việt Nam] nhận thức được tầm quan trọng và thưc hiện một cuộc thống nhất hành động chống kẻ thù chung” (Miền Nam Giữ Vững Thành Đồng, tập II, tr. 360).
Hai thiên khảo cứu quy mô, nhưng lêch lạc về lý luận, của ông Trần Văn Giàu mang tựa đề dài “Phong trào Chấn hưng Phật giáo” và các vấn đề tư tưởng Triết học mà phong trào ấy đã nêu lên ở nước ta trong thời kỳ lịch sử giữa hai cuộc chiến tranh thế giới” đăng trên hai số báo Nghiên cứu Lịch sử số 139 (tháng 7 và 8 năm 1971), và số 140 (tháng 9 và 10 năm 1971). Sau này, đưa in vào sách “Hệ ý thức Tư sản và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử” ấn hành tại Hà Nội ngày 30.3.1975.
Sự giật mình tỉnh thức trước một tôn giáo có đóng góp văn hiến và đồng hành cùng dân tộc suốt hai nghìn năm lịch sử Việt Nam, nay mới được người Cộng sản vội vàng học tập, tìm hiểu, và đánh giá. Dẫn nhập bài viết, ông Giàu nói lên một sự trạng mà từ người Cộng sản đến ngưới Quốc gia ít khi nghĩ tới. Ông Giàu nhận thức :
“Không thể không chú ý rằng, trong thời gian lịch sử này, các giáo phái là yếu tố khá nổi bật của cục diện xã hội, của thời thế, lắm khi còn to hơn là một đảng phái chính trị.
“Thuở đó, tại xứ ta, ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương ra thì không có chính đảng nào có thể so sánh được với các giáo phái chính về mặc số lượng quần chúng, hệ thống tổ chức, và hoạt động tư tưởng.
“Hoạt động của các giáo phái đặc biệt là của Phật giáo lúc này, đặt ra nhiều vấn đề tư tưởng triết học và kích thích nhiều cuộc tranh luận về lý thuyết còn hơn là các hoạt động của các chính đảng tư sản hay tiểu tư sản”.
Triều Thanh : Xin cám ơn Cư sĩ Võ Văn Ái và xin hẹn quý thính giả ở Câu Chuyện Cuối Tuần vào thứ Sáu tuần tới, cũng vào giờ phát thanh này.

Bài 2


Triều Thanh : Thưa ông Võ Văn Ái, trong bài 1 trước đây, ông đưa ra khám phá mới mẻ, mà ông gọi Biến động Phật giáo năm 1963 là tiếng sét thức tỉnh giới lý thuyết gia mác-xít miền Bắc về tiềm lực dân tộc mà họ tưởng rằng chỉ có thể tìm thấy ở thủ đô Cộng sản Mạc Tư Khoa. Xin ông khai triển sự thức tỉnh này ?
Võ Văn Ái : Thức tỉnh là đưa trạng thái u mê về lại với trí tuệ sáng suốt để hòa đồng phục vụ nhân loại. Người Cộng sản không thức tỉnh theo lối này. Vì mỗi người Cộng sản đều mang trong đầu một bục công an, khiến họ ngày đêm đi tìm kẻ địch như kẻ đi săn thú. Kẻ địch yếu họ giết nhanh, kẻ địch mạnh mà họ mới khám phá, họ nghiên cứu, tìm hiểu ưu khuyết của địch để có đối án trừng trị, thanh toán.
Khi tôi nói Hà Nội thức tỉnh là diễn tả tình trạng bất ngờ, thảng thốt thấy từ lòng đất tổ Việt Nam vọt lên một tiềm lực Phù Đổng là Phật giáo.Tiềm lực Phật giao khác hẳn vơi các xung lực khác trên sân khấu chính trị Việt Nam, là Phật giáo đặt quyền lợi dân tộc trên mọi quyền lợi chính trị, phe đảng, bè nhóm. Vì tất cả các xung lực chính trị này rồi sẽ qua đi như bóng mây, hạt móc. Chỉ có dân và dân tộc là tồn tại trong sự trăn trở giác ngộ. Do đó, mà hai nghìn năm qua, Phật giáo không đi với bất cứ triều đại, chế độ, quyền lực chính trị nào, mà chỉ đồng hành cùng dân tộc mà thôi.
Trong bài trước tôi nhắc tới sự xuất hiện của ông Trần Văn Giàu, một lý thuyết gia thượng thặng của chế độ Mác- xít Việt Nam, qua các bài theo dõi cuộc tranh đấu từng tháng một tại miền Nam năm 1963 để cố “gán ghép” vào sự lãnh đạo của Mặt Trận Giải phóng. Ngay vào lúc mà hoạt động của Mặt Trận đang xuống dốc trong lòng quần chúng Miền Nam. Đặc biệt, sự thiên vị thấy rõ qua thiên khảo cứu dài về “Phong trào Chấn hưng Phật giáo” đầu thế kỷ XX, đăng trên báo Nghiên cứu Lịch sử năm 1971, sau đưa vào sách “Hệ Ý thức Tư sản và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử” phát hành tại Hà Nội tháng 3 năm 1975.
Bài nghiên cứu của ông Giàu có chất lượng, vì ông biết dùng vốn triết học thu tập những năm ông du học ở Pháp (1928) rồi sau qua thụ giáo chủ nghĩa Cộng sản tại Trường Đại học Phương Đông ở Mạc Tư Khoa (1931). Nhưng triết học ông am hiểu là Duy vật Sử quan, nên ông thiếu căn bản triết học tỉ giảo. Đối với Phật giáo ông còn mù tịt hơn, như khi ta đọc những đoạn ông so sánh và giải thích hết sức sơ cơ về Niết Bàn hay Duy thức học. Ông đánh đồng tâm lý học với khoa học.
Tích cực nhất của bài ông Giàu nghiên cứu Phong trào Chấn hưng Phật giáo là ông thấy được một đồ biểu hết sức hấp dẫn của một phong trào có lý luận, có tư tưởng, có tổ chức, và có hướng tiến khai dân trí. Ông phát lộ những bài viết của giới trí thức Phật giáo đưa lên báo thời bấy giờ, từng làm kinh ngạc giới trí thức hay tôn giáo phương Tây trong xã hội thời đó.
Ông Giàu nhận định trong phần kết luận thiên khảo cứu :
“Ở nước ta, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, sự hoạt động của các tôn giáo mang một tính chất chính trị ngày càng đậm nét, và mang một tính chất tư tưởng có ảnh hưởng ngày thêm nhiều đến chính trị. Trong toàn bộ hoạt động của các tôn giáo thì sự chấn hưng Phật giáo là một cuộc hoạt động có chiều sâu tư tưởng nhất, chẳng những vì các Phật tử, các nhà Phật học chịu khó trở lại kinh điển Phật giáo, đặt và bàn nhiều triết học [mà] nước ta xưa nay ít khi bàn”.
Nhận định khá chính xác, nhưng khi nêu các nguyên nhân nẩy sinh “Phong trào Chấn hưng Phật giáo” thì ông lại đánh mất con người nghiên cứu để hiện hình thành nhà tuyên truyền cho chế độ. Hai lý do ông nêu bật, là Phật giáo phản ứng trước sự ra đời rầm rộ của đạo Cao Đài những năm 1925 – 1926, làm cho Phật giáo mất tín đò, nên Phật giáo phải chấn hưng. Hai là, xin trích lời ông : “Những năm 1930 – 1931 nổi lên ở khắp Việt Nam một cao trào cách mạng quần chúng do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo làm điên đảo thực dân Pháp và rung động triều đình Huế. Trong tình hình này, Pháp thấy có thể (…) sử dụng vũ khí tinh thần để đấu tranh chống lại cách mạng trên mặt trận tư tưởng, ý thức. Vì vậy Thống đốc Nam Kỳ cho Com-mi Chấn đứng ra chủ trương “Hội Nghiên cứu Phật học” và tờ tạp chí Từ Bi Âm ra đời năm 1931”.
Triều Thanh : Điều này có đúng theo lịch sử không ?
Võ Văn Ái : Hiển nhiên sai. Ông Giàu muốn lập lờ với cái gọi là “Xô viết Nghệ Tĩnh” ở vùng Thanh – Nghệ mà người Cộng sản hãnh tiến tuyên truyền, song vốn không có thật. Thực tế, sự xôn xao ồn động nhất từ Việt Nam sang tới Pháp thời gian 1930 – 1931, không là Đảng Cộng sản Đông Dương, mà là việc xử từ hình 13 đồng chí Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học.
Còn Phong trào Chấn hưng Phật giáo thì đã được Tổ Khánh Hòa ở Nam bộ xướng xuất từ năm 1920, lập thư xã, thỉnh ba Tạng kinh, dịch ra quốc ngữ, lập trường đào tạo Tăng tài, phát hành tạp chí Pháp Âm. Phong trào chấn hưng ở Nam Bộ năm 1920 này đã ảnh hưởng đến Trung Bộ trong cùng thời gian. Ở Bình Định, Tổ Phước Huệ cũng xướng xuất Chấn hưng Phật giáo tại chùa Thập Tháp và Long Khánh. Sau này Tổ Phước Huệ được thỉnh ra Huế làm chủ giảng năm 1931 tại Sơn Môn Học Đường Trúc Lâm, là nơi do Hòa thượng Giác Tiên và Cư sĩ Lê Đình Thám chủ động mở đạo tràng giảng giải kinh nghĩa.
Tuy ông Trần Văn Giàu có nhắc tới ảnh hưởng ngài Thái Hư Đại sư trong Phong trào chấn hưng Phật giáo tại Việt Nam. Nhưng ông không thấy tầm quan trọng và nghĩa lý giác ngộ chính yếu của công trình chấn hưng. Thời ấy, các vị Cao tăng và Cư sĩ Việt Nam nhờ đọc tạp chí Hải Triều Âm bên Trung quốc mà noi gương chấn hưng Phật giáo. Cuộc Cách mạng Tân Hợi, năm 1912, của ông Tôn Dật Tiên bên Trung quốc, kéo theo phong trào Canh tân Phật giao Trung quốc do các ngài Đế Nhàn Quán Tông, Viên Ảnh và Thanh niên Tăng Thái Hư đề xướng, lập các Hội Phật học và xuất bản tạp chí Hải Triều Âm. Công lao ngài Thái Hư Đại sư rất lớn, ngài chủ xúy 3 cuộc Cách mạnh Phật giáo, là Cách mạng Giáo lý, Cách mạng Giáo chế và Cách mạng Giáo sản. Các chuyến xuất ngoại thuyết trình đã đưa tới việc thành lập các Hội Phật học tại Pháp, Anh, Mỹ, Nhật, v.v… thành một trào lưu quốc tế trong nhiệm vụ Phật hóa xã hội. Tại Trung quốc còn có sự xuất hiện mới mẻ trong lịch sử hoằng dương chánh pháp của Phật giáo, là phong trào Cư sĩ lâm do các Cư sĩ giỏi giáo lý thuyết giảng để giáo dục quần chúng Phật tử. Vì tệ nạn thời ấy, đầy dẫy giới Tăng lữ không biết đọc kinh sách, không được chí thành tu học, họ chỉ biết cúng kiến với phù chú mê tín để sinh nhai.
Triều Thanh : Ngoài những điều tuyên truyền hay lý luận phản Phật giáo của ông Trần Văn Giàu, bài nghiên cứu về Phong trào Chấn hưng Phật giáo của ông ấy lập luận như thế nào ?
Võ Văn Ái : Hiển nhiên là lập luận theo quan điểm Mác-xít. Nhưng cái khôn và là thủ thuật của ông Giàu, là ông trích dẫn những bài viết hay sách in phê phán Phật giáo của những trí thức có tiếng tăm làm lá chắn cho mục tiêu ông đánh đổ Phật giáo. Ông sử dụng bốn người : Sư Thiện Chiếu, Hải Triều Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn An Ninh hay Phan Văn Hùm. Hai ông Nguyễn An Ninh và đặc biệt Phan Văn Hùm vốn có cảm tình và đề cao Phật giáo, tuy nhiên, sở học Phật giáo của họ chưa thâm sâu, lại tả khuynh, nên khi phân tích, họ hay quy chiếu lý luận xã hội của Marx hay Tây phương để so sánh, ngộ nhận tư tưởng Phật giáo.
Hải Triều Nguyễn Khoa Văn là một người Cộng sản viết bài Phong trào Phật giáo Phục hưng trên báo Tràng An về sau cũng viết trên báo Ánh Sáng công kích Phong trào Chấn hưng Phật giáo. Hải Triều cho rằng : “Rốt cùng và trên thực tế thì Chấn hưng Phật giáo chỉ là một cách nhồi sọ, một âm mưu của chính phủ [Pháp].
Trên tạp chí Viên Âm của Phật giáo Huế số 13, phát hành ngày 13-8-1935, Cư sĩ Xuân Thanh đã bác bỏ lập luận “chụp mũ” trên đây của người Cộng sản Hải Triều cùng 3 nguyên nhân chấn hưng Phật giáo mà Hải Triều cho là vì “lòng tự ái dân tộc”, vì “lòng khát vọng một lý tưởng để theo”, và vì “nạn kinh tế khủng hoảng”, rồi Xuân Thanh đưa ra 3 nguyên nhân khác trong mục tiêu chấn hưng Phật giáo :
“Một là “vì sự tiến hóa của trí thức người xứ ta về mặt luân lý” ; hai là “vì khoa học tuy đánh đổ cái mê tín nhưng tự mình không có năng lực để tạo thành hạnh phúc cho nhân loại” ; và ba là “vì phải có một đạo lý vững vàng làm cho khoa học phục tùng để đào tạo đức tính của loài người”.
Thậm chí Hải Triều còn bài bác mục tiêu Cứu khổ của đạo Phật, khi lý luận hồ đồ rằng : “Đạo Phật nói cứu khổ nhưng đạo Phật nhất định không phải là đạo có thể cứu khổ cho loài người, đừng kỳ vọng vào nó mà thất vọng”. Hải Triều khẳng định :
“Một tôn giáo tự nhận cái trọng trách cứu đời mà sau 2500 năm, người đời còn phải kỳ cục tìm xem người xưa nói gì ! Nếu loài người có thể chịu khó chờ đạo Phật cứu, thì e cũng không có thì giờ mà chờ”.
Tìm xem người xưa nói gì, với học tập kinh điển là hai động thái khác nhau. Học tập kinh sách là quán chiếu nghĩa lý kinh, cốt mở mang trí tuệ bát nhã nhằm giác ngộ bản thân, đồng thời phát huy lòng từ bi cứu độ người. Không học y khoa thì làm sao thành bác sĩ để cứu chữa bệnh nhân ?
Những câu viết khẳng quyết của người Cộng sản Hải Triều vào những năm 30, thì nay ta có thể kiểm chứng phong trào Cộng sản đại đồng, tạo thiên đường trên hạ giới, đã thất bại thảm não như thế nào ? ! Trong khi con đường giác ngộ và cứu khổ của Phật giáo vẫn uy nghi phát triển trên toàn cầu.
Thực tế, là những người Cộng sản như Trần Văn Giàu, Hải Triều Nguyễn Khoa Văn, chưa hề hiểu chữ Khổ của Phật giáo, tiếng Phạn là Dukkha, trong Tứ Diệu Đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật tại Vườn Nai, thành Ba La Nại. Chữ Khổ mà người Cộng sản tâm niệm chỉ mang nghĩa xã hội, thường tục, đại biểu cho sự thất bại cướp giật miếng ăn và địa vị đặc quyền đặc lợi thông qua chủ trương đấu tranh giai cấp, bạo hành và chiến tranh.
Triều Thanh : Còn trường hợp Sư Thiện Chiếu mà ông Trần Văn Giàu trích dẫn thì sao ?
Võ Văn Ái : Sư Thiện Chiếu là một thanh niên Tăng đầy nhiệt huyết và có khả năng lý luận. Trong cuộc luận chiến với thành phần bảo thủ chống Phật giáo trên lý thuyết hay trong thực tiễn chấn hưng, các bài viết của Sư là cây bút sắc bén. Sư là một trong những vị tăng trẻ tiên phong theo Tổ Khánh Hòa trong Phong Trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam bộ từ năm 1920.
Có thể nói Sư Thiện Chiếu thấm nhuần tư tưởng canh tân của ngài Thái Hư Đại sư qua tạp chí Hải Triều Âm hơn một số người khác, và dùng lý luận của Hải Triều Âm khai thông thời thế. Nhưng do con người Sư thiên về hành động, lại nóng vội, không có người hướng dẫn Phật Pháp thâm sâu, nên bị giới Cộng sản thời ấy ảnh hưởng, thúc đẩy, biến lòng yêu nước thành con cờ vong bản quốc tế, sa đà theo lý thuyết nhị nguyên Tây phương của trò chơi tranh chấp Duy Tâm – Duy Vật.
Sư Thiện Chiếu là một tay lý luận, có học thuật. Nhưng sở trường này đã hoá ra sở đoản khi đi theo Cộng sản. Sư bị ngốc hoá, trở thành con người vô dụng kể từ thời Sư hoàn tục giữa thập niên 30 thế kỷ trước cho tới những năm tháng phục vụ Việt Minh rồi Việt Cộng qua hai cuộc chiến thừa sai. Thiện Chiếu chẳng để lại công trình hay trước tác gì so với thời thanh niên theo Phật.
Chủ nghĩa Cộng sản tiêu diệt trí thức và nhân tài dân tộc.
Năm 1936, Sư Thiện Chiếu phát hành sách “Tại sao tôi cảm ơn đạo Phật” là ngày Thiện Chiếu bỏ Phật ra đi. Ông viết một cách đau lòng rằng :
“Bây giờ đối với cái chương trình quyết định trước kia, đã lãnh đạm đi rồi. Kinh làm biếng xem, đầu hết muốn cạo ! Bởi thấy kinh tế càng khủng hoảng nặng nề ; người ta càng lầm than, càng đói khổ. Do nguyên nhân gì gây ra ? lấy phương pháp nào cứu chữa ? Chớ Phật giáo đã không phải là phương thuốc cứu khổ duy nhất nữa rồi”.
Thâm độc hơn, Sư Thiện Chiếu công kích thẳng tới giáo điển nền tảng của Phật giáo, như phủ nhận luật Nhân quả, mà Sư cho rằng thua luật Nhân quả của khoa học. Còn Niết Bàn thì sư cho là “sự láo dóc”.
Trần Văn Giàu trích dẫn và khai thác triệt để sách “Tại sao tôi cảm ơn đạo Phật” của Thiện Chiếu nhằm đánh đổ Phật giáo, để đề cáo cái praxis / thực tiễn hành động Cộng sản.
Triều Thanh : Tại sao qua những trích dẫn của ông Trần Văn Giàu, có khi đề cao phong trào Phật giáo, đồng thời lại chỉ trích giáo lý “phi tư tưởng” của Phật giáo. Xem có vẻ mâu thuẫn, ông có nghĩ như vậy không ?
Võ Văn Ái : Tất cả những người Cộng sản đều là con người hai mặt. Sự xung khắc hai mặt này làm cho họ mất nhân tính. Trong nghiên cứu Phật giáo, ông Giàu thấy được những điều xưa nay ông chưa hề biết, khiến ông bất thần ngạc nhiên và lo ngại cho tiền đồ chủ nghĩa của ông. Nhưng con người chế độ của một gã tuyên truyền cố hữu, ngăn cản ông Giàu bước qua lằn ranh thức tỉnh để đổi thay. Bi kịch của người Cộng sản là bỏ gần hết đời người làm tên nô lệ ý thức, rồi phần đời còn lại lúc già, ngồi nuối tiếc mình đã bị lừa, nhưng ngậm miệng chẳng dám nói ra.
Ta đã thấy ông đề cao hết mực Đảng Cộng sản Đông Dương những năm 30 đầu thế kỷ XX “làm điên đảo thực dân Pháp và rung động triều đình Huế”. Nhưng ông Giàu lại quên một thực tế đồng hành cùng dân tộc trong mọi biến động lớn nhỏ của lịch sử.
Chưa ai quên vào những năm 1925, 1926, trong số thính giả đi hoan hô Nguyễn An Ninh, Phan Chu Trinh diễn thuyết ở trụ sở Bắc Kỳ Ái hữu tại Saigon, có sự tham gia của hàng chục cái đầu cạo bóng của chư Tăng Phật giáo. Và hôm đi rước ông Bùi Quang Chiêu ở Pháp về, cũng có hơn 20 Tăng sĩ trẻ. Có người chất vấn : “Ai xui Thầy chùa đi biểu tình” ?, thì Tăng sĩ này đã viết một bài trên báo trả lời rằng : “Thuyết Từ bi cứu khổ của Phật Tổ xui Phật tử tham gia nhũng cuộc vận động yêu nước thương dân chớ không ai xúi cả”.
Nói về số lượng người, thì tuy ông Giàu đề cao Đảng Cộng sản Đông Dương hoạt động “kinh thiên động địa” những năm 30, nhưng chẳng thấy ông cung cấp một số liệu đảng viên nào. Trong khi ấy, An Nam Phật Học Hội ra đời tại Huế năm 1931, và theo báo cáo tại Đại hội Phật giáo tháng 8 năm 1938 ở chùa Từ Đàm cho biết đến cuối năm 1937, số hội viên là 3000, các tỉnh ở Trung bộ, kể cả các tỉnh ở Tây nguyên, đều có Tỉnh hội Phật giáo.
Ở ngoài Bắc, Bắc Kỳ Phật Giáo hội ra đời năm 1935, theo báo cáo của vị Hội trưởng Nguyễn Năng Quốc cho biết sau một năm hoạt động, hội đã có 2000 Tăng Ni và 10 nghìn hội viên.
Thế nhưng ông Trần Văn Giàu im lặng trước sự phát triển của Phong trào Chấn hưng Phật giáo, mà chắc chắn số người tham gia vượt quá xa số đảng viên Cộng sản. Đây ta chỉ đề cập tới con số là chuyện thứ yếu thôi. Chưa đặt vấn đề tinh thần và sự phát triển khai dân trí cũng như bước lên đường Giác ngộ bản thân, trừ phá vô minh hay các chính sách ngu dân.
Triều Thanh : Xin cám ơn Cư sĩ Võ Văn Ái và xin hẹn quý thính giả ở Câu Chuyện Cuối Tuần vào thứ Sáu tuần tới, cũng vào giờ phát thanh này.
PARIS, ngày 29.11.2016 (PTTPGQT) – “Câu Chuyện Cuối Tuần” là một đề mục của Đài Phật giáo Việt Nam phát thanh về trong nước, trình bày vấn đề Phật Pháp & Thời luận phát thanh mỗi thứ sáu hàng tuần, do ký giả Triều Thanh phụ trách.
Hôm nay xin mời bạn đọc theo dõi bài 3 và cũng là bài kết thúc, Cư sĩ Võ Văn Ái nói về “Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến từ đâu, cùng những hệ luỵ chụp mũ tuỳ tiện”, chép lại và bổ sung từ cuộc phỏng vấn của Triều Thanh qua chương trình Đài hôm thứ sáu 18-11-2016. Bài 1Bài 2 đã phát thanh trên chương trình thừ sáu 28-10-2016, và thứ sáu 4-11-2016 và đăng tải trên Thông cáo Báo chí phát hành ngày 4-11-2016 :
logo-cau-chuyen-cuoi-tuan

Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
đến từ đâu, cùng những hệ luỵ chụp mũ tuỳ tiện
Bài 3

Triều Thanh : Thưa ông Võ Văn Ái, trong những năm gần đây, cứ vào khoảng tháng 10 người ta thấy trên mạng rất nhiều bài tôn vinh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Không chỉ tôn vinh, nhớ tiếc hay cầu hồn cho vị tổng thống, mà nhắm chỉ vào Phật giáo để hạch tội, xem như kẻ thù truyền kiếp của chế độ Đệ nhất Cộng hòa. Ông nghĩ sao về hiện tượng này ? So chiếu trên phương diện lịch sử những phê phán như vậy có đúng không ?
Võ Văn Ái : Tôi nghĩ rằng người dân thuộc bất cứ chính kiến hay tôn giáo nào đều được quyền tưởng niệm, tôn vinh các nhân vật lãnh đạo đất nước. Nhưng lợi dụng tôn vinh một người, rồi đem cả hàng triệu Phật giáo đồ ra xỉ vả, xử tội, kết án thì đấy là chuyện bất thường, nếu không nói phi pháp.
Triều Thanh : Vì sao phi pháp ?
Võ Văn Ái : Chúng ta là người Việt theo chế độ dân chủ, thì mọi sự phải xử lý thông qua pháp luật, chứ không thể đem tư ý vào việc luận tội. Nay không còn quốc gia như trước, thì các nhà khảo cứu có thể góp công suy tìm sự thật, viết thành sách chứng minh. Tiếc thay, hiện tình cộng đồng không theo hướng đó, mà có số người nghiêng về phía phục thù, tố giác thiếu bằng chứng. Không thể đem ý kiến chủ quan hồ đồ phán xét. Vụ tranh đấu Phật giáo năm 1963, không còn là chuyện mới xẩy ra hôm qua. Tính đến nay là đã 53 năm. Thời gian khá đủ, tư liệu ngày càng dồi dào với những nhân chứng, đặc biệt các tài liệu của Hoa Kỳ được giải mật mang lại nguồn sáng soi rọi vào một giai đoạn lịch sử tối tăm của đất nước ta.
Thiển kiến tôi một người có lương tri, chịu nghiên cứu, tìm hiểu, chịu khó đọc các tài liệu dồi dào như thế, không thể nào lên tiếng tố cáo những điều chỉ có thật trong khối óc tưởng tượng của họ, nhưng không hề có trong thực tế.
Triều Thanh : Đa số những bài viết còn tố giác một số chư Tăng lãnh đạo và phong trào tranh đấu Phật giáo năm 1963 là Cộng sản. Là người trong cuộc, ông phân tích như thế nào lời tố giác ấy ?
Võ Văn Ái : Phật giáo bị chụp mũ, không còn là chuyện lạ. Lạ là chụp hai ba thứ mũ khác nhau lên một đầu người ! Phía Cộng sản, như tôi trình bày ở các bài trước, đã gán cho Phong trào Chấn hưng Phật giáo từ những năm 20 thế kỷ trước là “âm mưu của chính phủ Pháp”. Họ làm như Phật giáo đồ, theo nền tín ngưỡng trí tuệ chẳng biết làm gì khác để phát huy đạo Phật của mình, ngoài việc làm đầy tớ cho thực dân Pháp !
Sang thời đệ nhất và đệ nhị Cộng hòa, thì ông Trần Bạch Đằng, biệt danh Tư Ánh, thuộc Trung ương Cục Miền Nam và chỉ huy vùng Saigon – Chợ Lớn dưới thời chiến tranh Mỹ Việt, thì báo cáo cấp trên rằng Hòa thượng Trí Quang, linh hồn của Phật giáo miền Trung, là “loại CIA chiến lược”. Ông Trần Bạch Đằng nêu một số sự kiện minh chứng Hòa thượng Trí Quang làm tay sai cho Mỹ như sau :
“Năm 1964 nhân trận lụt lớn ở miền Trung, quân Giải phóng chuẩn bị nhổ các đồn bót ngụy, Thượng tọa Trí Quang nêu khẩu hiệu “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Cứu lụt”. Cờ 5 màu dựng trên các canô, tàu máy bay trực thăng cứu sạch bọn ngụy quân. Cũng năm 1964 nhân dân phẫn nộ chính quyền quân phiệt ngụy, Mặt trận Giải phóng Miền Nam nêu khẩu hiệu chống quân phiệt để đẩy mạnh Phong trào đô thị, Thượng tọa Trí Quang lập Hội đồng Nhân dân Cứu quốc miền Trung đòi Chính phủ Dân sự, gom hết quần chúng về phía mình và đạp xẹp khẩu hiệu của ta. Năm 1965 Mỹ đổ quân trắng trợn xâm lược miền Nam Việt Nam, Mặt trận Giải phóng Miền Nam đẩy mạnh phong trào Chiến tranh Cách mạng chống Mỹ xâm lược, Thượng tọa Trí Quang nêu khẩu hiệu “Cầu nguyện Hòa bình” làm hạn chế cuộc đấu tranh chống Mỹ của ta”.
Đọc các hành động thù ứng cứu người của Phật giáo trên đây, mới thấy lòng từ bi cứu khổ thể hiện sự đồng hành cùng dân tộc của Phật giáo trong những nghĩa cử trải dài hai nghìn năm lịch sử.
Và nay, một số người tự nhận là “quốc gia” lại quay đi quay lại một dĩa hát cũ thời tranh chấp đã qua do những nhân vật lãnh đạo cao cấp như ông bà Ngô Đình Nhu “chụp mũ” phong trào Phật giáo tranh đấu 1963 là “Cộng sản”.
Không gì nghịch lý hơn, khi ta biết rằng, từ mùa hè năm 1955, chính phủ Ngô Đình Diệm phát động chiến dịch “Tố Cộng và Diệt Cộng”. Điều 7 của Hiến pháp năm 1956 ghi rõ “những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với nguyên tắc ghi trong Hiến pháp”. Rồi tiếp tới Đạo luật 10/59 ban hành tháng 5 năm 1959 tăng mức hình phạt cho những ai liên hệ đến chủ nghĩa Cộng sản, đồng thời mở thêm một hệ thống Tòa án Quân sự Lưu động để xử bị cáo. Trong thời gian từ năm 1954 đến năm 1960 có 48,250 người bị bắt giam vì tội danh “cộng sản”.
Đã có một hệ thống diệt cộng bằng pháp luật như thế, thì tại sao không đưa phong trào tranh đấu Phật giáo năm 1963 ra pháp đình xử tội Cộng sản, nếu sự “chụp mũ” Phật giáo là Cộng sản có thật ?
Một số người viết bài hay trả lời phỏng vấn truyền hình ngày nay vẫn ung dung tố giác Phật giáo là Cộng sản, họ không ngờ rằng chính họ đang tố cáo lãnh đạo Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa là Cộng sản, nếu không là dung dưỡng Cộng sản ? Pháp luật cả hai trào Cộng hòa đều đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, thì sao không mang chư Tăng giáo phẩm lãnh đạo Phật giáo hay toàn phong trào Phật giáo ra tòa kết án ?
Miệng thì đồn thổi Phật giáo là Cộng sản, nhưng hành động thì không dám áp dụng Đạo luật 10/59 để chứng minh lời tố cáo của mình là đúng ? Chẳng những thế, còn mở cửa Hội trường Diên Hồng tại Saigon ngày 26-6-1963 đón tiếp Phái đoàn Phật giáo do Cố Thượng tọa Thích Thiện Minh dẫn đầu. Phía chính quyền tiếp đón là Ủy ban Liên Bộ gồm có Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đình Thuần, và Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương. Kết quả sau 3 ngày thương thảo là Bản Thông cáo chung giữa Chính quyền và Phật giáo, nhằm giải quyết vấn đề Phật giáo. Thế nhưng chính quyền đã nuốt lời không thực hiện cam kết. Nên cuộc tranh đấu tiếp diễn đưa tới sự sụp đổ của nền Đệ nhất Cộng hòa.
Đọc kho tài lệu giải mật của Hoa Kỳ chẳng thấy dấu vết gì trong các báo cáo mật về chư Tăng và Phong trào Phật giáo là Cộng sản, hay thi hành chỉ thị Cộng sản.
Những người viết bài hạ nhục, mạ lỵ Phật giáo là Cộng sản lấy chứng cớ đâu làm luận điểm vu cáo ?
Tôi thấy rất thương tâm khi nghe trên Youtube lời ông Huỳnh Văn Lang tố cáo Phật giáo là Cộng sản. Tôi nghĩ một người như ông không nên tố bậy như thế. Ông là một nhân sĩ miền Nam, ông có đủ tất cả những chi người đời ao ước, như tiền bạc, hạnh phúc, học hành, địa vị, chức tước. Có lúc ông là Bí thư cho Tổng Thống Ngô Đình Điệm, từng giữ chức Bí thư Liên Kỳ Bộ Nam Bắc Việt Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng. Quá đủ cho tham vọng một đời người. Nay ông chụp mũ Phật giáo một cách vu vơ, không bằng chứng, thì sự ác khẩu này chẳng mang lại thêm chút danh giá gì cho ông Lang.
Ông vu hãm theo điệu gia trưởng, rằng “Tôi ghét nhứt là cái láo” bởi vì Cộng sản là chúa láo. Tại sao các Thầy bắt chước láo như Cộng sản ? Tại sao Phật giáo bắt chước láo như Cộng sản ?
Tam đoạn luận của ông quá thô thiển và hỏng từ trứng nước.
Từ một nhận xét chủ quan, ông Huỳnh Văn Lang biến thành một nhận định có tính phán xét. Do cung cách hoạt động tài chính và chính trị của ông, thì ngoài chuyện đi săn, ông không còn thì giờ tìm hiểu lịch sử Việt Nam và văn hóa dân tộc. Ông thuộc số người mà lịch sử Việt Nam chỉ bắt đầu từ thế kỷ XVI, XVII. Nghĩa là không có các Vua Hùng cho đến các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê về sau.
Cách ăn nói và vận dụng “triết học” mà ông khá tự hào, cho thấy ông thù ghét Phật giáo như một bệnh lý, mà ta thấy qua cuộc phỏng vấn của ký giả Ngô Đình Vận trong Chương trình Văn hóa Nhân bản Lạc Việt. Nhân nhắc lại Phong trào người Vượt Biển, ông Huỳnh Văn Lang tố cáo Thái Lan là một nước “vô cảm”. Ông Lang khẳng định :
“Phong trào Vượt Biển gồm có một triệu hai trăm nghìn người, 1/3 chết. Chết ở đâu ? Chết nhiều nhất là Vịnh Thái Lan. Tại sao Thái Lan là nước 100% Phật giáo mà chỉ sản xuất ra những tên cướp, tên hãm hiếp, giết người ? Tại sao một nước xa xôi như Pháp sản xuất một tàu đi cứu ? Một nước ở kế bên lại vô cảm. Vậy mấy ông thầy chùa ở đâu ? Nước Thái vô cảm !”
Đánh giá hàm hồ cho một quốc gia, một dân tộc theo Phật giáo như thế, có còn là tư cách của một người Thiên chúa giáo đầy lòng bác ái và công chính hay không ?
Ký giả Ngô Đình Vận là người rất mực cung kính ông Lang, có phần xem ông Lang như thần tượng. Nhưng trước lời bình phẩm sai sự thật, Ông Vận phải giải thích ngay :
“Cháu xin góp ý kiến vì cháu là người tị nạn. Cướp là ở các tỉnh phía Nam Thái Lan giáp Mã Lai, họ theo Hồi giáo không theo Phật giáo. Phật giáo chỉ ở các tỉnh phía Bắc, cách đối xử cũng khác qua lại giữa dân chúng. Cháu nghĩ khi Bác nói tổng quát về nước Thái Lan như vậy cần nghiên cứu kỹ dân số họ”.
Mỗi khi đề cập tới Phật giáo, ông Huỳnh Văn Lang tỏ ra mất hẳn lý trí phân tích khoa học để sa đà theo thành kiến kỳ thị tôn giáo. Thử hỏi một lãnh tụ Cần Lao như ông khi có chính quyền trong tay, thì quan điểm tôn giáo của Nhà nước ấy sẽ tai hại như thế nào cho sự hòa hợp dân tộc ?
Công đồng Vatican là nỗ lực bao dung tôn giáo của Giáo triều La Mã đầu thập niên 60. Nhưng ông Huỳnh Văn Lang vẫn chưa theo kịp, nên ông tiếp tục nhìn Phật giáo theo luận điểm của Cố Alexandre de Rhodes qua sách “Phép giảng Tám ngày”, gọi đức Phật là “tên Mọi đen”, một “thằng nói láo”.
Cách đánh giá tuỳ tiện về Thái Lan của ông Huỳnh Văn Lang vô tình ông đã bội ơn với chính người đồng bào của ông. Sau Hội nghị về Người Vượt Biển của LHQ tại Genève năm 1979 mà chúng tôi (Cơ sở Quê Mẹ và Ủy Ban Cứu Sống Người Vượt Biển) có tham dự, Thái Lan chấp nhận đón người Vượt Biển trên lãnh thổ mình và cho phép tiếp xúc với Cao Ủy Nhân quyền LHQ để làm thủ tục tới nước thứ ba. Thái Lan đã đón tiếp 159,975 (một trăm năm mươi chín nghìn chín trăm bảy mươi lăm) người Vượt Biển. Trong khi ấy, Singapore không đón tiếp người Vượt Biển. Mã Lai đuổi ra khỏi lãnh thổ mình 58 nghìn người Vượt Biển.
Quốc gia Phật giáo Thái Lan “vô cảm” ở chỗ nào, thưa ông Huỳnh Văn Lang ?!
Điều ông Lang khen nước Pháp xa xôi đưa tàu ra Biển Đông vớt người càng chứng tỏ ông không đọc báo hay theo dõi sự sống chết của người đồng bào ông vào thập niên 70, 80. Phải chăng nước Pháp trong đầu óc ông là Trưởng Nữ của Giáo triều Vatican nên được ông khen ?
Ông Huỳnh Văn Lang đã sai lầm vì thiếu hiểu biết và thông tin thời sự. Con Tàu “Đảo Ánh Sáng” đi vớt người ấy đã do sự xướng xuất và vận động của một Phật tử Việt Nam sống tại Paris, thành viên của Cơ sở Quê Mẹ và Ủy ban Cứu Sống Người Vượt Biển, với sự hậu thuẫn của gần 200 nhân sĩ, trí thức, chính giới, nhà văn Pháp và quốc tế.
Nói chung, các bài đánh phá Phật giáo thường do thiếu hiểu biết, có tiêu đích phục thù, hoặc nhẹ lòng bác ái. Theo kiểu bất chấp sự thực hay lý luận, ông Huỳnh Văn Lang xem thường tha nhân khi phát ngôn tự thị qua các cuộc phỏng vấn, còn có ông Tú Gàn, ba bốn chục năm qua, không ngừng viết bài bôi nhọ Phật giáo. Ông Tú Gàn là cha đẻ hai chữ “Phịa sử” để gán cho những ai không tin vào cách viết sử hồ đồ và tự thị của ông. Cách viết sử tố cáo Phật giáo là Cộng sản của ông Tú Gàn chứng tỏ ông là Chúa Phịa. Bởi ông chẳng có luận chứng, tư liệu gì chứng minh. Toàn những lời nói hớt và dọa hơi. Ba, bốn chục năm viết lách, mà tài liệu minh chứng chỉ được ông hứa cuội là sẽ công bố những tài liệu của “Phòng Nhì Pháp”, của “tình báo Việt Nam Cộng hòa”. Nhưng chẳng bao giờ được ông trưng dẫn. Như con nợ không tiền, hứa lèo để thoát thân.
Triều Thanh : Xin ông cho biết mục tiêu tranh đấu của Phật giáo năm 1963 là gì ? Nó có là mục tiêu chính trị hay lật đổ chính quyền ?
Võ Văn Ái : Cần hiểu một điều quan yếu, là cho đến nay, Phật giáo chỉ đặt vấn đề tôn giáo với chính quyền. Chưa bao giờ đặt vấn đề chính trị với chính quyền. Cho nên, mục tiêu tranh đấu của Phật giáo năm 1963 là mục tiêu thuần túy tôn giáo. Sau vụ chính quyền cấm treo cờ Phật giáo, rổi nổ súng tại Đài Phát thanh Huế gây chết chóc cho 8 Phật tử, ngày 10-5-1963 các cấp lãnh đạo Phật giáo họp bàn tại Chùa Từ Đàm, và đưa ra Tuyên cáo 5 nguyện vọng bào tồn Phật Pháp :
  1. Yêu cầu Chánh phủ VNCH thu hồi vĩnh viễn công điện triệt hạ Giáo kỳ của Phật giáo.
  2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một qui chế đặc biệt như các Hội Truyền giáo Thiên chúa đã ghi trong Dụ số 10.
  3. Yêu cầu Chánh phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo.
  4. Yêu cầu cho Tăng Ni Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo.
  5. Yêu cầu chánh phủ đền bồi xứng đáng cho những kẻ bị chết oan vô tội trong đêm 15-4 Lễ Phật Đản và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bồi xứng đáng.
Năm yêu sách cho cuộc tranh đấu bất bạo động của Phật giáo như ta vừa đọc, thử hỏi có gì là chính trị hay âm mưu lật đổ chính quyền ?
Triều Thanh : Chính quyền giải quyết ra sao Năm Nguyện Vọng này ?
Võ Văn Ái : Giải quyết bằng sự cò ke, trì hoãn, bằng sự gặp gỡ, thương thảo, ký thông cáo chung, rồi xé bỏ không thi hành, khiến tình hình ngày càng thêm trầm trọng. Sau khi ông Ngô Đình Nhu tung chiến dịch nước lũ vào đêm 20 tháng 8, tấn công các chùa trên toàn quốc, bắt bớ Tăng Ni, thì coi như Phong trào tranh đấu Phật giáo tạm thời chấm dứt. Từ đây, một sinh lực quần chúng mới xuất hiện, từ phong trào học sinh, sinh viên các Đại học, và đặc biệt, là giới Tướng lĩnh Quân lực VNCH làm cuộc đảo chính chấm dứt chế độ Đệ nhất Cộng hòa, thảm sát hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu.
Triều Thanh : Có thể nói Phật giáo là động lực cho cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 ?
Võ Văn Ái : Không. Như đã nói cuộc tranh đấu Phật giáo năm 1963 thuần túy tôn giáo. Việc lật đổ chế độ nhà Ngô là chủ trương “thay ngựa giữa dòng” của Hoa Kỳ qua sự thừa hành của giới Tướng lĩnh quân lực VNCH.
Triều Thanh : Sự thật ấy ai cũng biết. Nhưng tại sao lại trở thành một chiến dịch dai dẳng đánh phá Phật giáo, đổ lên đầu Phật giáo trách nhiệm lật đổ chế độ nhà Ngô, thảm sát hai ông Nhu Diệm, và tố giác Phật giáo là Cộng sản ? Ông có thể giái thích bí ẩn lịch sử này ?
Võ Văn Ái : Thói đời ai cũng muốn vơ hết hào quang và công lao về cho phe mình khi thành công. Gặp lúc thất bại, thì họ lại mất khí tiết để nhận lỗi, nên tìm những con dê tế thần đỡ đòn thay. Phật giáo chính là con dê tế thần được lôi ra che giấu sự thất bại chính trị của tầng lớp Nhà Nho Thiên Chúa giáo sau 9 năm cai trị.
Nay trong cơn thất thế, tha hương, có số người tiếc thương thời vàng son những năm đầu của chế độ Đệ nhất Cộng hòa. Sự thật như thế nào ?
Thực tế lịch sử là Hoa Kỳ đổ tiền rừng bạc bể cho ông Diệm Chống Cộng thông qua “Kế hoạch Năm năm” do Phái bộ Michigan State University (MSU) điều hành từ năm 1955.
Năm 1960 là năm bản lề sinh tử cho chế độ. Vì đó là năm kết toán chính sách Chống Cộng theo “Kế hoạch 5 năm” của ông Diệm thành công hay thất bại.
Cần nhớ trong năm năm đầu (1955-1960) Việt Cộng chưa có kế hoạch quy mô đánh phá Miền Nam bằng vũ lực. Đó là giai đoạn người dân cảm thấy thoải mái, mà 9 năm Kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc với trận Điện Biên Phủ đưa tới sự chia cắt tổ quốc thành hai miền Nam Bắc tại Genève năm 1954.
Đến giữa năm 1959, Đại hội Đảng Lao Động Việt Nam thông qua Nghị Quyết 15 thống nhất đất nước, tức chủ trương dùng vũ lực xâm chiếm Miền Nam, thì những khó khăn dồn dập đẩy chế độ Đệ Nhất Cộng hòa vào chân tường với tất cả nhược điểm chính trị của nó. Và cũng là lúc, Hoa kỳ bắt đầu thấy ra sự bất lực của chế độ trong công cuộc đấu tranh Chống Cộng, nhất là Tổng Thống Diệm đã thất bại trong việc kết hợp nhân dân Miền Nam.
Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu thường than “Một thằng rất hiểu mình thì chỉ tính xỏ mình, một thằng muốn giúp mình thì chẳng hiểu mô tê chi cả”, theo lời dẫn của ông Đoàn Thêm, cựu Phụ tá Đổng lý Văn phòng Phủ Tổng Thống, viết trong sách “Những Ngày Chưa Quên 1954 – 1963” xuất bản tại Saigon năm 1969. Thằng này thằng kia nói đây là Pháp và Mỹ, ý ông Nhu phê phán hai quốc gia từng viện trợ Việt Nam trong cuộc chiến tranh Đông Dương.
Sự khôn khéo của tiền nhân chúng ta qua chính sách ngoại giao trung thuận (allégeance/allegiance) đối với Trung quốc đã giữ vững thế độc lập chính trị hằng bao thế kỷ, tránh xa thế ngoại thuộc. Nhưng chính sách ngoại giao thời Đệ nhất Cộng hoà thì lại gặp khó từ Pháp cho đến Mỹ, khiến Mỹ đã bất bình, chuyển từ bạn sang thù. Những chuyến đi đêm với Bắc Việt ở giai đoạn cuối, qua việc ông Nhu gặp gỡ bí mật với Phạm Hùng, hay tiếp tướng Trần Độ ngay tại Dinh Độc lập ở Saigon đã đẩy chế độ từ vị trí được Hoa Kỳ đỡ đầu thành đối địch vào ngày 1 tháng 11 năm 1963.
Còn đối với nhân dân Miền Nam, bản chất lý luận của Cần Lao Nhân vị không thích hợp với tì tạng văn hóa truyền thống người Việt. Chính sách Chống Cộng giao phó cho một tôn giáo Nhà nước, thay vì ra công trọng đãi nhân tài Miền Nam cùng các giáo phái đã bám rễ vào đất đai Nam bộ, để tiến hành kết hợp, khai triển thành liên minh dân tộc chống độc tài.
Lịch sử cho thấy chẳng ai nắm độc quyền nhân dân, khi chưa có chính sách, kế hoạch mang lại ấm no, hạnh phúc, tự do và thanh bình cho họ.
Ba năm trước vụ Phật giáo bùng nổ, thì từ năm 1960, nỗi bất bình và chống đối chế độ tràn lan trong các giới quần chúng Miền Nam. Những biểu hiện báo hiệu ngày tàn của chế độ ngày càng lung lay, mà ta có thể thấy qua vài ví dụ tiêu biểu sau đây :
  • Ngày 9.1.1960, trong cuộc tiếp tân đầu năm Tổng Thống Diệm tiếp kiến riêng Đại sứ Pháp chứng tỏ sự lạnh nhạt với Hoa Kỳ theo chính sách mới ve vãn Cộng sản Bắc Việt ;
  • Tết Canh Tý, nhật báo Tự Do của chế độ bỗng dưng đăng trên trang bìa bức vẽ 6 con Chuột (mà độc giả dễ nhận ra các ông Diệm, Thục, ông bà Nhu, Cẩn, Luyện) gặm nhắm trái Dưa Hấu Việt Nam. Toà soạn bị đập phá, nhân viên toà soạn bị bắt ;
  • Ngày 24.2.1960, Cố vấn Mỹ cho Tổng Thống Diệm về Cải Cách Điền Địa, ông Wolf Ladejinsky, thảo luận với Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ về tình trạng thiếu an ninh, Đảng Cần Lao lộng hành, và nạn tham nhũng ;
  • Ngày 6.4.1960, Đại sứ Hoa Kỳ, ông Elbridge Durbrow than phiền với Tổng Thống Diệm về sự lộng hành của Đảng Cần Lao ;
  • Ngày 26.4.1960, 18 Nhân sĩ Miền Nam họp báo tại Khách sạn Caravelle ở Saigon công bố Kháng Thư phản đối chế độ độc tài và yêu sách mở cửa chính trị. Những nhân sĩ như các ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Trần Văn Đỗ, Trần Văn Tuyên, v.v… 11 người trong số họ từng giữ chức Tổng trưởng hay Bộ trưởng thuộc Đệ Nhất Cộng hòa ;
  • Ngày 30.5.1960, Đại sứ Hoa Kỳ Elbridge Durbrow yêu cầu Tổng Thống Diệm thay đổi đường lối chính trị, nếu không sẽ cắt giảm viện trợ ;
  • Ngày 1.8.1960, Ông Phan Khắc Sửu và một số nhân sĩ thuộc Mặt Trận Quốc gia Đoàn kết yêu cầu bãi bỏ quốc sách Khu Trù Mật ;
  • Ngày 21.9.1960, Hội đồng An Ninh Quốc gia Hoa Kỳ họp phiên họp thứ 460, lấy quyết định yêu sách Tổng Thống Diệm mở rộng chính phủ ;
  • Ngày 14.10.1960, Đại sứ Hoa Kỳ Elbridge Durbrow trao văn thư yêu cầu Tổng Thống Diệm thi hành chính sách cởi mở chính trị ;
  • Ngày 11.11.1960, nhóm Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Nguyễn Triệu Hồng và Vương Văn Đông làm cuộc đảo chính. Nhưng thất bại. Đến như ông Đại sứ VNCH Trần Văn Chương tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, bố vợ ông Nhu, cũng phải nhận định với Hoa Kỳ rằng chế độ Nhà Ngô là một chế độ độc tài toàn trị.
Rồi còn cả vụ Sĩ quan Quân lực VCNCH thả bom Dinh Độc Lập. Nhưng mười dẫn chứng tiêu biểu nhất vừa trình bày trên đây cho thấy Phật giáo chẳng dính líu gì vào sự sụp đổ của nền Đệ nhất Cộng hoà. Mà chính bản chất chế độ, đường lối và chính sách của hai ông Diệm Nhu đã đánh mất lòng dân, khiến cho công cuộc Chống Cộng được Hoa Kỳ viện trợ thất bại. Dân chán nản, mất lòng tin vì nạn hà khắc, lộng quyền và kỳ thị của chế độ Nhà Ngô. Người bạn quốc tế bỏ tiền cho ông Diệm Chống Cộng, là Hoa Kỳ, nay cũng thấy ông bất lực, nên đành kiếm người hữu hiệu thay thế. Được hay không, lịch sử đã chứng minh.
Sau này, trong năm 1963, Hoa Kỳ đã từng kêu gọi Tổng Thống Diệm giải quyết ôn hoà vấn đề Phật giáo. Nhưng Tổng Thống Diệm không đáp ứng, và vẫn cho tiến hành vũ lực nhằm dập tắt yêu sách bình đẳng tôn giáo của Tổng hội Phật giáo Việt Nam.
Cuộc kết toán “Kế hoạch 5 năm” của Phái bộ Michigan State University xác nhận sự thất bại chính trị trong công cuộc Chống Cộng của Tổng Thống Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Những người trung thành và ủng hộ ông Diệm như Thượng Nghị sĩ Mansfield, nhưng khi được Tổng Thống Kennedy gửi sang Việt Nam quan sát tình hình đầu tháng 12 năm 1962 cũng phải thất vọng với ông Diệm khi viết bản Phúc trình Mansfield bằng câu hỏi tuyệt vọng là “Liệu ta có thể thắng Cộng sản với Diệm không ?”
Ông Diệm và ông Nhu đã vô cùng phẫn nộ bản Phúc trình này. Từ tháng 2 năm 1963 Hoa Kỳ gợi ý cho Đại sứ Nolting tiếp cận giới đối lập ở Saigon để mở đầu chính sách độc lập với ông Diệm. Tiếp tới là Phúc trình McNamara-Taylor, ngày càng cho thấy những dự án mà chế độ đề cao, tán dương, như Ấp Chiến Lược, Khu Trù Mật, Dinh Điền, v.v… là những sự thất bại phũ phàng.
Theo báo cáo của Đại sứ Cabot Lodge gửi Bộ Ngoại giao ngày 30 tháng 9 năm 1963 về cuộc gặp gỡ với Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ. Ông Thơ cho biết tình hình Miền Nam đã quá trầm trọng. Từ thành thị tới nông thôn dân chúng quá bất mãn. Ông Đại sứ muốn tham khảo thêm những người Việt Nam tài giỏi, thì Phó Tổng thống cho biết những người tài giỏi đã trốn ra nước ngoài hết rồi. Bàn sâu vấn đề chính trị, thì ông Thơ từ chối vì ông không có tự do để nói thêm gì khác với ông Đại sứ.
Trên đe là áp lực Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách vô hiệu và sai lầm của ông Diệm. Dưới búa là sự chống đối quyết liệt của toàn dân. Vụ Phật giáo nổ ra chỉ vì chính sách kỳ thị và bất bình đẳng tôn giáo suốt 9 năm trời. Nếu chế độ biết thương dân, và có chút khôn ngoan giải quyết yên thắm theo cung cách dân chủ, thì đâu đến nỗi nào phải sa lầy và vong thân ? Thế nhưng chế độ đã để cơ hội tuột khỏi tay mình, làm cho bi kịch trở thành thảm kịch kết liễu vừa chế độ, vừa bản thân lãnh đạo chế độ đó.
Ta có thể nói mà không sợ sai, là không vì Phật giáo mà Đệ nhất Cộng hòa sụp đổ đưa tới cái chết thảm thương của ông Diệm và ông Nhu. Sự thất bại đến từ bản thân một chế độ Gia Đình Trị, độc tài, tàn bạo với những ai không tuân thủ ý thức hệ Cần Lao Nhân vị.
Bi kịch của chế độ là hệ quả thất bại trong cuộc bảo vệ tự do cho nhân dân Miền Nam, dù đã tiếp nhận đầy đủ viện trợ Hoa Kỳ.
Trong sách “Những ngày chưa quên 1954 – 1963” ông Đoàn Thêm, vị Phụ tá Đổng lý Văn phòng của Tổng Thống Diệm, viết trong đoạn cuối sách mấy dòng buồn thảm sau đây :
“Ngày Quốc khánh 26 tháng 10 năm 1963, khi ông [Diệm] tiếp các đoàn thể, mặt ông thoáng buồn ; bằng một giọng ai oán, ông nói mấy lời mà nhiều người cho là gở :
“Chế độ này tuy còn nhiều khiếm khuyết cũng còn hơn nhiếu chế độ khác. Người ta chê là độc tài, nhưng chỉ ngại còn nhũng thứ độc tài khủng khiếp hơn… Tôi tiến thì theo tôi, tôi lùi thì bắn tôi, tôi chết thì trả thù cho tôi.
(…) “Nhiều bạn và tôi nghe hơi rợn. Tôi thấy như tinh thần ông bị dao động quá nhiều vì sự rối ren, nên hóa ra ảm đạm. Người ta thường nói : họa lai thần ám, hay cũng đúng nếu nói ngược lại : thần ám thì họa lai ?”
Phải chi ông Diệm đừng nói một câu như thế, dù ông chỉ lập lại câu nói của một người Âu ở Phương Tây, chứ không là lòng dạ phát ngôn của tổ tiên con Hồng cháu Lạc. Khiến cho thù hận chất chồng, máu xương thêm đổ trên dải đất đã quá thương đau.
Triều Thanh : Xin cám ơn Cư sĩ Võ Văn Ái và xin hẹn quý thính giả ở Câu Chuyện Cuối Tuần vào thứ Sáu tuần tới, cũng vào giờ phát thanh này.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét