Chuyển đến nội dung chính

CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 77/i (VŨ KHÍ CỔ ĐẠI)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 

                                                                Vũ khí cổ đại P9

Nghệ thuật quân sự thời cổ đại

14:57 | 23/08/2012

(Bqp.vn) - Thời cổ đại có nhiều cuộc chiến tranh, kéo dài. Cùng với việc xuất hiện chiến tranh, trên thực tế cũng đã nảy sinh nghệ thuật quân sự. Trải qua quá trình tích lũy kinh nghiệm lâu dài đã dần dần tổng kết, khái quát thành lý luận về chiến lược quân sự. Đây là lĩnh vực cao nhất của nghệ thuật quân sự, bao gồm cả việc chuẩn bị và tiến hành chiến tranh nói chung, chiến lược và chiến thuật nói riêng.
1. Chiến lược
Xuất phát từ những mục đích chính trị và tính toán đến tiềm lực của đất nước, nhiệm vụ cơ bản của chiến lược là: chuẩn bị lực lượng vũ trang, nghiên cứu đối phương, tổ chức các cuộc hành binh, xác định các phương thức tiến hành, các trận hội chiến quyết định.
Cùng với sự phát triển kinh tế, các nhà nước cổ đại được mở rộng hơn, số quân tăng lên, quy mô các hoạt động quân sự và thời gian các cuộc chiến tranh cũng tăng lên. Chiến lược phải giải quyết những nhiệm vụ mới liên quan đến việc trù hoạch và chuẩn bị sẵn trước khi gây chiến tranh như về số quân tham chiến, lương thực - thực phẩm, vũ khí... việc lựa chọn địa điểm và thời điểm hội chiến, xác định các đường tiến quân, các nơi chính để đột kích, các thủ đoạn hoạt động và chỉ đạo bộ đội.
Từ thế kỷ V trước công nguyên, nhiều Nhà nước cổ đại đã có nguồn nhân lực, vật lực như Ba Tư, Maxêđoan, Cáctagiơ, LaMã, Trung Quốc... cho phép thành lập quân đội đông tới 4 - 5 vạn, thậm chí vài chục vạn người và thủy quân có vài trăm chiến thuyền . Quy mô các hoạt động quân sự mở rộng cả không gian và thời gian. Trong các cuộc chiến tranh như vậy phải nghiên cứu kỹ đối phương, tính toán nguồn nhân lực và phương tiện cần thiết, đề ra các biện pháp nhằm bảo đảm an toàn hậu phương, bảo đảm an ninh các đường giao thông kéo dài. Quá trình tiến hành chiến tranh xuất hiện các phương thức và hình thức tác chiến mới như: bất ngờ thọc sâu vào đất nước đối phương, vây hãm và công thành; thực hành phong tỏa đường biển, cửa biển, đánh vào các đường giao thông, tiến hành các trận thủy chiến.
Việc tạo cớ phát động chiến tranh, lôi kéo liên minh, chia rẽ cô lập làm suy yếu đối phương... cũng được vận dụng, thể hiện rõ ở cuôi thời chiến quốc của Trung Quốc. Đến nửa cuối thế kỷ IV trước công nguyên, chiến tranh bước vào giai đoạn quyết định giữa liên minh 6 nước chống Tần, Tần Thủy Hoàng đã kết hợp đấu tranh quân sự với ngoại giao xảo quyệt, một mặt phá vỡ liên minh 6 nước, xúi giục họ đánh lẫn nhau, lôi kéo các nước ở xa đánh các nước ở gần và mở những cuộc tiên công quyết liệt, đẫm máu, cuối cùng tiêu diệt 6 nước, thống nhất Trung Quốc vào năm 221 trước công nguyên.
Nhiều dân tộc tiến hành chiến tranh chính nghĩa tự vệ như người Sythơ chống quân đội BaTư, các dân tộc Tây Á chống quân đội La Mã, Âu Lạc chống Tần đã vận dụng phương thức tác chiến du kích lâu dài, một phương thức tác chiến chiến lược để làm chuyển hóa dần lực lượng và khi tạo được thời cơ, chuyển sang phản công giành thắng lợi quyết định.
Thời cổ đại cũng đã đặt ra và giải quyết vấn đế bảo đảm an toàn cho đất nước mình và củng cố các vùng trọng yếu trên lãnh thổ đã đánh chiếm được. Chiến trường được chuẩn bị sẵn trước, xây dựng các tuyến phòng thủ mạnh trên biên giới quốc gia như Trung Quốc có Vạn lý trường thành, Rome đã xây dựng "Tuyến  lũy La Mã" trên lãnh thổ của đế quốc, Việt Nam có thành cổ Loa...
2. Chiến thuật
Chiến thuật, theo nghĩa ban đầu là bày binh bố trận và tiến hành giao chiến. Theo sự tăng thêm về số lượng, chất lượng quân đội, cải tiến vũ khí và tích lũy kinh nghiệm chỉ huy, các phương pháp chuẩn bị và tiến hành trận đánh của các quân đội cổ đại đã hình thành, phát triển.
Thời cổ đại, vũ khí sát thương là bạch khí, uy lực chủ yếu dựa vào sức cơ bắp của người và vật. Trận đánh được giải quyết bằng cuộc giáp chiến (đánh giáp lá cà) là chính. Muốn tạo ra sức mạnh phải khéo tổ chức, sắp xếp đội hình chiến đấu tạo ra sức mạnh tập thể để tiến công mạnh, phòng ngự vững. Do vậy, chiến thuật phát triển từ những cách sắp xếp bộ đội rất đơn giản và xung trận chính diện giữa hai bên nên các đội hình chiến đấu phức tạp hơn việc cơ động đội hình chiến đấu trên chiến địa. Ở những nước phương Đông cổ đại (Ai Cập, Trung Quốc, Ba Tư...), từ thiên niên kỷ 11 trước công nguyên, đã có những hình thức dàn trận đơn giản, các phương pháp cơ động; các khối quân đã tổ chức những đơn vị tiền vệ, các đội bảo vệ sườn và phía sau. Mở đầu trận đánh thường cho các đội xung kích hoặc xe chiến lao lên trước đánh lạc hướng hoặc làm dao động đội hình đối phương. Màn quyết định của trận đánh là cuộc giáp chiến của lực lượng chủ yếu - bộ binh trang bị gươm, giáo. Kỵ binh được sử dụng truy kích kết thúc trận đánh. Chỉ huy trận đánh bằng khẩu lệnh hoặc các tín hiệu nghe, nhìn (cờ, kèn, trống, chiêng, ánh lửa...). Một số quân đội đã chú ý đến tiếp cận bí mật, công kích bất ngờ, lập thế, nghi binh lừa địch, vận dụng cách đánh độc lập của lính cung nỏ cũng như phối hợp giữa lính cung nỏ, bộ binh gươm giáo với kỵ binh; kết hợp phòng ngự với tiến công.
Trong quân đội các quốc gia Hy Lạp cổ đại (Aten, Xpáctơ, Maxêđoan...), khi chiến đấu đội hình xiết chặt dày đặc thành một khối của bộ binh nặng có chiều sâu từ 8 - 16 hàng, có khi tới 25 hàng. Các chiến binh chĩa giáo về phía trước và che kín toàn bộ chính diện bằng dãy khiên mộc của mình. Nó như một bức tường dày tiến lên công kích đối phương từ chính diện hoặc đứng vững đẩy lùi công kích của đối phương.
Quá trình tích lũy kinh nghiệm lâu dài, người Hy Lạp tổ chức ra bộ binh hạng trung, vừa có khả năng công kích vừa có thể phân thành đội lẻ cơ động trên địa hình phức tạp để tập trung tại điểm quyết định.
Nửa sau thế kỷ IV trước công nguyên, Alếchxăngđơ, vua xứ Maxêđoan, đã phát triển chiến thuật lên mức cao thể hiện trong trận quyết định diệt quân Ba Tư ở Gapgamen năm 331 trước công nguyên. Trong trận đánh này, Alếchxăngđơ đã tập trung bộ binh và kỵ binh trang bị vũ khí hạng trung ở một bên sườn để tạo thành lực lượng đột kích mạnh. Sau khi kiềm chế đối phường ở chính diện, ông sử dụng lực lượng này cơ động giáng đòn quyết định vào bên sườn quân Ba Tư và giành thắng lợi. Ông cũng là người đầu tiên có tư tưởng dùng lực lượng dự bị. Như vậy, nguyên tắc phân bố lực lượng không đồng đều đã được phát triển và được bổ sung bằng cách cơ động, mạnh bạo.
Chiến thuật của quân đội La Mã có những thay đổi mới vào thế kỷ I trước công nguyên, đội hình chiến đấu triển khai thành 3 tuyến, tuyến 3 được sử dụng như lực lượng dự bị. Xêda đã vận dụng thành công trong trận Phácsan (năm 48 trước công nguyên) khi ông chỉ có 2,2 vạn quân nhưng đã đánh tan 4,5 vạn quân của Bombay.
Ở phương Đông, chiến thuật phát triển theo hướng sắp xếp thế trận (bày trận) và phương pháp cơ động lực lượng chuyển hóa thế trận (trận pháp) nhằm tạo ra thế đánh có lợi trước đối phương. Điển hình cho chiến thuật của các nước ở phương Đông cổ đại là Trung Quốc. Đội hình chiến thuật cơ bản của họ là "đội hình bát quái" và từ đội hình cơ bản này được cơ động chuyển hóa thành các thế trận mới tùy theo địa hình và đôi phương mà người chỉ huy điều khiển trận pháp. Trong nhiều trận đánh đã phản ánh chiến thuật của Trung Quốc hồi đó rất chú trọng đến lập thế, tạo thời, mưu mẹo, nghi binh lừa lọc.
Trong thủy quân, chiến thuật của trận đánh là sử dụng thuyền có mái chèo dàn thành hàng đánh đổ vỗ mặt. Thủ đoạn chiến đấu cơ bản là áp mạn công kích, bắn chất cháy sang đốt thuyền hoặc đâm phá thuyền đối phương.
(Bách khoa Tri thức Quốc phòng toàn dân)

Tôn Vũ và binh pháp của Tôn Tử

17:04 | 23/08/2012

(Bqp.vn) - Tôn Vũ (chưa rõ năm sinh) là nhà tư tưởng quân sự thời cổ, tướng nước Ngô cuối đời Xuân Thu (Trung Quốc), vốn là người nước Tề chạy loạn sang cư trú ở nước Ngô. Năm 512 trước công nguyên được Ngũ Tử Tư tiến cử, Tôn Vũ đã dâng lên vua Ngô 13 thiên binh pháp và được vua Ngô trọng dụng phong làm tướng quân. Ông đã cùng Ngũ Tử Tư phò tá vua Ngô, đề xuất mưu lược làm cho nước Ngô trở nên hùng mạnh. Năm 506 trước công nguyên, ông bày mưu cho vua Ngô đem 3 vạn quân đánh bại 20 vạn quân Sở bằng cách cho quân Ngô vu hồi kỳ tập vào vùng đông bắc nước Sở. Từ đó, nước Sở không còn khả năng tranh bá với nước Ngô nữa. Trong 30 năm phục vụ nước Ngô, Tôn Vũ đã làm cho nước Ngô từ một nước nhỏ, phá được nước Sỏ mạnh, uy hiếp các nước Tề, Tấn và bắt nước Việt phải thuần phục. Tác phẩm nổi tiếng “Binh pháp Tôn Tử” của ông được tôn là người thầy của binh gia trăm đời, là tác phẩm lý luận quân sự sâu sắc phản ánh tư tưởng quân sự thời cổ đại.
Binh pháp Tôn Tử
Bộ Binh pháp Tôn Tử được biên soạn thành sách vào khoảng năm 496 – 453 trước công nguyên. Khi yết kiến Hạp Lư, Tôn Vũ đã dâng cho vua Ngô 13 thiên binh pháp này. Mỗi thiên nhằm một chủ đề nhất định tạo thành một hệ thống tư tưởng hoàn chỉnh, được viết bằng cổ văn chữ Hán gồm hơn 5.900 chữ.
Giá trị to lớn của “Binh pháp Tôn Tử” trước hết chính là những quan điểm về chiến tranh, tác động của chiến tranh, bản chất của chiến tranh, mục đích của chiến tranh... ông khẳng định: “Chiến tranh là việc lớn của quốc gia, nó có quan hệ đến việc sống chết của nhân dân, việc mất còn của đất nước, không thể không suy xét một cách thận trọng”. Đây là sự đánh giá khá chính xác về vai trò chiến tranh trong đời sống xã hội loài người. Từ góc nhìn đó, “Binh pháp Tôn Tử” nêu mục đích chiến tranh là bảo tồn mình để giành chiến thắng. Người đánh trăm trận thắng cả trăm chưa thể kể là người tài giỏi nhất, không đánh mà buộc địch đầu hàng mới là người giỏi nhất. Để đạt mục đích đó, Tôn Tử đã chỉ ra năm nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh đó là: “Đạo, trời, đất, tướng, pháp”. “Đạo” là làm cho dân chúng thuận theo ýchí của quốc vương, sống chết vì quốc vương mà không sợ nguy hiểm. “Trời” là quy luật thay đổi về khí hậu, thời tiết như ngày đêm, mưa nắng, nóng lạnh. “Đất” là sự xa gần của vị trí địa lý, sự hiểm nguy, bằng phẳng của địa hình, sự rộng rãi hay chật hẹp, đâu là đất sống, đâu là đất chết. “Tướng” là những phẩm chất cần có của tướng soái, là sáng suốt, đáng tin cậy, nhân ái, dũng cảm, nghiêm túc. “Pháp” là các chế độ về biên chế quân đội, sắp xếp tướng soái và cung cấp hậu cần. Năm nhân tố này nói chung tướng soái đều biết, nhưng chỉ những người nhận thức sâu sắc những nhân tố này mới có thể đánh thắng. Cho nên, muốn so sánh nghiên cứu điều kiện của hai bên, tìm hiểu khả năng thắng bại, thì phải xem: Quốc vương bên nào được nhân dân ủng hộ nhiều hơn? Tài năng của tướng soái bên nào cao hơn? Quân đội bên nào thích ứng với thiên thời, địa lợi hơn? Pháp lệnh được quán triệt, chấp hành hơn? Thực lực quân sự bên nào mạnh hơn? Tố chất huấn luyện của quân lính bên nào tốt hơn? Thưởng phạt của bên nào nghiêm minh hơn? Căn cứ vào cách so sánh đó để phán đoán, thì sẽ dự kiến được ai thắng, ai thua.
Ngoài năm nhân tố cơ bản trên, “Binh pháp Tôn Tử” còn xác định: cần tạo thành một loại “thế” làm điều kiện bổ trợ để giành thắng lợi. Cái gọi là “thế” tức là hình thế được tạo thành dựa trên sự phán đoán tình huống, cơ biến linh hoạt, tránh điều hại, tìm điều lợi mà có. Dùng binh pháp tác chiến là một hành động đánh lừa đối phương, cho nên có năng lực tác chiến thì làm ra vẻ không có năng lực; muốn đánh thì làm ra vẻ không muốn đánh; muốn hành động ở gần thì làm ra vẻ hành động ở xa; muốn hành động ở xa thì làm ra vẻ muốn hành động ở gần. Dùng lợi nhỏ để nhử kẻ địch, nhân sinh hỗn loạn mà chiến thắng địch; kẻ thù có đầy đủ lực lượng thì phải phòng bị nó; kẻ địch có binh lực mạnh thì phải tránh xa nó; làm địch nổi giận để đánh bại nó; dùng lời lẽ nhún nhường để làm cho kẻ địch kiêu căng mà lơi lỏng; kẻ địch nhàn rỗi phải làm cho chúng mệt mỏi; kẻ địch đoàn kết phải tìm cách ly gián... Đánh vào nơi địch không chuẩn bị, ra quân lúc địch bất ngờ. Đó là bí quyết để giành thắng lợi của các nhà quân sự. Những điều đó chỉ có thể dùng ý mà hiểu, chứ không thể dùng lời mà truyền đạt được.
Bàn về tác chiến, “Binh pháp Tôn Tử” cho rằng: “Việc dụng binh quý thắng không quý lâu; người thiện chiến không gọi lính hai lần, không chở lương 3 lần” làm tiêu chuẩn và yêu cầu của thắng nhanh. Cuối cùng đề ra việc phải dùng lương thảo của địch, thắng địch mà mình ngày càng mạnh hơn là một thủ đoạn để giảm nhẹ chi phí nhân lực, vật lực, tài lực cho chiến tranh và để thực hiện được ý đồ “tốc chiến, tốc quyết”. Cho nên, tư tưởng quân sự của Tôn Tử khẳng định: Thượng sách của việc dụng binh là dùng mưu lược để thắng lợi, sau mới dùng đến ngoại giao đế giành thắng lợi, sau nữa mới dùng đến lực lượng quân sự để giành thắng lợi, hạ sách là đánh thành. Đánh thành là biện pháp bất đắc dĩ. Cho nên, người giỏi dùng binh tác chiến khuất phục quân đội địch mà không cần giao chiến, chiếm thành ốc của địch mà không cần cường công, hủy diệt đất nước địch mà không kéo dài ngày tháng, cần phải giỏi dùng mưu lược mà giành thắng lợi trong thiên hạ. Một quân đội như vậy không bị tổn thất đồng thời lại giành được thắng lợi to lớn, đó là nguyên tắc của “mưu công”. Để đạt được mục đích đó, cần phải biết được tình huống nào có thể tác chiến, tình huống nào không thể tác chiến: biết được cách căn cứ vào binh lực nhiều ít khác nhau mà vận dụng cách đánh khác nhau. Toàn quân trên dưới đoàn kết một lòng, dùng quân có chuẩn bị, ra quân đã sẵn sàng đế đối phó với địch không chuẩn bị. Cuối cùng, trong Thiên mưu công binh pháp, Tôn Tử rút ra một vấn đề có tính nguyên tắc cho mọi hoạt động tác chiến là muốn giành thắng lợi phải “biết mình, biết người trăm trận không nguy”.
“Binh pháp Tôn Tử” còn tiếp tục xác định những vấn đề có tính nguyên tắc trong chỉ đạo chiến lược, chiến thuật, trong vận dụng nghệ thuật quân sự đó là những vấn đề: So sánh lực lượng để quyết định hình thức tác chiến cho phù hợp, khiến cho mình ở vào thế không thể bị đánh bại. Đồng thời, trên cơ sở đó phát huy tính năng động, chủ quan tạo thành một loại “thế hiểm, tiết đoạn” để đánh thắng kẻ địch. Phải thực hiện được việc điều động địch chứ không để địch điều động mình. Hiểu rõ tung tích địch mà không để lộ tung tích mình. Tạo thành thế ta “thực” địch “hư”, và dùng phép “tránh thức, đánh hư” đế đạt được mục đích. Người biết căn cứ vào sự thay đổi của tình hình địch, biết vận dụng khả năng sẵn có của mình mà giành thắng lợi là “người dùng binh như thần”. Trong “Binh pháp Tôn Tử”, một số nguyên tắc chỉ huy tác chiến được xác định rất cụ thể: với quân địch có thể đánh vào khí thế của nó, vái tướng lĩnh của địch có thể làm lung lay quyết tâm của nó. Người giỏi dùng binh cần tránh nhuệ khí của địch, khi địch uể oải, mệt mỏi thì tấn công chúng. Đó là phương pháp đối phó với khí thế của địch, hay quân nghiêm chỉnh của ta đối phó với quân hỗn loạn của địch, lấy quân trấn tĩnh của ta đối phó với quân ồn ào của địch, lấy quân nhàn nhã của ta đối phó với quán mệt mỏi của địch, dùng phương pháp tiếp cận chiến trường của ta để đối phó với sự di chuyển từ xa tới của địch, lấy quân no đủ của ta mà đối phó vối quân đói khát của địch. Đó là phương pháp hạn chế chỗ mạnh của địch, khoét sâu chỗ yếu của chúng để tăng cường sức mạnh chiến đấu của phía ta. Không nên đón đánh quân địch có đội hình chặt chẽ, không nên tiến công quân địch có thế trận nghiêm chỉnh. Đó là phương pháp tác chiến cơ động, linh hoạt. Khi địch chiếm điểm cao thì không nên đón đánh, địch dựa lưng vào đồi núi thì không nên tấn công chính diện, quân địch giả vờ thua thì không nên truy kích. Quân địch gồm lực lượng tinh nhuệ thì không nên tấn công ngay. Quân địch nhử mồi thì không mắc lừa. Quân địch đã rút về nước thì không nên chặn đánh. Bao vây quân địch nên chừa một chỗ hở, quân địch đến bước đường cùng thì không nên truy bức. Đó là nguyên tắc chỉ huy tác chiến mà “Binh pháp Tôn Tử” đã đề cập.
“Binh pháp Tôn Tử” còn đề cập đến một số thủ đoạn tác chiến như hỏa công, dụng gián, hành quân và một vấn đề quan trọng khác được “Binh pháp Tôn Tử” đề cập và bàn tương đối kỹ, đó chính là vai trò của tướng lĩnh chỉ huy. Trong thiên “cửu biến”, Tôn Tử có nhấn mạnh việc dùng binh phải luôn luôn biến hóa. Người tướng thông hiểu về cái lợi của cửu biến là người biết dùng binh một cách tài tình, sáng tạo. Cho nên, làm tướng phải biết xem xét vấn đề một cách toàn diện, phải biết cái lợi, cái hại để dùng binh. Cuối cùng, Binh pháp chỉ ra: “người tướng soái nếu cứ khư khư vào bản ý của mình mà không linh hoạt thì sẽ rất nguy hiểm, rất có thể sẽ làm cho toàn quân tan vỡ, tướng soái bị giết”.
Qua những vấn đề cơ bản mà “Binh pháp Tôn Tử” trình bày có thể thấy đây là tác phẩm kinh điển, xuất sắc về quân sự, có ảnh hưởng rất sâu rộng tới quá trình phát triển lý luận quân sự sau này.
Trên nền tảng tư tưởng biện chứng chất phác, cái đáng trân trọng trong “Binh pháp Tôn Tử” là nắm toàn cục chiến tranh, chiến lược và chiến thuật để khái quát thành nguyênlý chung. Hệ thống các nguyên tắc trong “Binh pháp Tôn Tử” thống nhất trong một chỉnh thể và liên hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, muốn hiểu một cách cặn kẽ một nguyên tắc nào đó được đề cập không thể chỉ xem một đoạn, một chương mà phải xem toàn bộ tác phẩm mới có được nhận thức hoàn chỉnh và trọn vẹn. “Binh pháp Tôn Tử” có ảnh hưởng đối vối lịch sử tư tưởng quân sự, hoạt động quân sự. Nhiều nhà nghiên cứu lý luận quân sự sùng bái và ca ngợi Tôn Tử. Mao Nguyên Nhị, người Trung Quốc đời Minh đã từng nói: “Những người trước Tôn Tử, Tôn Tử không bỏ sót ai, những người sau Tôn Tử không ai bỏ qua được Tôn Tử”. Có thể nói, sự xuất hiện của “Binh pháp Tôn Tử” đã đem lại sự phát triển sâu rộng cho lý luận quân sự qua các thời đại. Ngay từ đời Đường, “Binh pháp Tôn Tử” đã du nhập vào Nhật Bản, Triều Tiên. Nhật Bản rất sùng bái “Binh pháp Tôn Tử” và gọi nó là “ông tổ của binh học phương Đông”, “binh thư số một của thời kỳ cổ đại”. Khoảng cuối thế kỷ XVII, “Binh pháp Tôn Tử” được truyền sang các nước châu Âu, châu Mỹ. Năm 1772, nó được dịch sang tiếng Pháp. Vào lúc đó, một tạp chí lý luận của Pháp đã viết: “Nếu các tướng lĩnh chỉ huy quân đội Pháp đều được đọc những tác phẩm ưu tú như cuốn “Binh pháp Tôn Tử” này thì là phúc cho nước Pháp. Người ta nói rằng Napôlêông khi bị đày ra đảo Xanhhêlen tình cờ được đọc “Binh pháp Tôn Tử” đã vỗ bàn khen và cảm thán nói: “Nếu ta sớm thấy được bộ binh pháp này thì ta không thể bị thất bại”.
Ở Việt Nam, “Binh pháp Tôn Tử” đã được trân trọng và đã được vận dụng sáng tạo trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Phép dùng binh của ông Tôn Tử tuy đã lâu đời nhưng những nguyên tắc của ông đến nay vẫn còn rất đúng. Những nguyên tắc dùng binh của Tôn Tử chẳng những đúng về quân sự, mà dùng về chính trị cũng rất hay”. Trong những năm chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền và những ngày đầu cách mạng mới thành công, Người đã viết 11 bài về cách dùng binh của Tôn Tử để huấn luyện cho dân chúng và bộ đội.
(Bách khoa Tri thức Quốc phòng toàn dân)

Ngô Khởi và binh pháp Ngô Khởi

17:02 | 23/08/2012

(Bqp.vn) - Ngô Khởi (khoảng năm 440 - 381 trước công nguyên) người nước Vệ (nay gần Định Đào, Sơn Đông, Trung Quốc) là nhà cải cách chính trị, tướng soái quân sự, đồng thời ông cũng là một nhà lý luận quân sự xuất sắc. Ông đã từng làm tướng của nước Lỗ, quận thú quận Tây Hà của nước Ngụy, làm lệnh doãn của nước Sở. Quách Mạt Nhược đánh giá: “Ngô Khởi là nhân vật vĩnh viễn không thể phai mờ trong lịch sử Trung Quốc... là nhà binh học, ông nổi tiếng ngang với Tôn Vũ, là nhà chính trị, ông nổi tiếng ngang với Thương Ưởng”.
Tác phẩm “Binh pháp Ngô Khởi” là tác phẩm xuất sắc về lý luận quân sự thời Trung Quốc cổ đại. Tuy hiện nay chỉ còn lưu truyền 6 thiên là: Đồ quốc, Liệu địch, Trị binh, Luận tướng, ứng biến và Lệ sĩ nhưng đã phản ánh sâu sắc tư tưởng quân sự thời cổ đại không kém gì “Binh pháp Tôn Tử”. Nội dung của “Binh pháp Ngô Khởi” đề cập đến là:
- Về chiến tranh (quan niệm về chiến tranh), Ngô Khởi đã đưa ra một ý kiến đúng đắn là với bất kỳ quốc gia nào cũng “cần trong thì sửa văn đức, ngoài thì lo võ bị”, không thể coi nhẹ mặt nào.
- Về nhân tố cơ bản quyết định thắng bại trong chiến tranh, “Binh pháp Ngô Khởi” đã kế thừa “Binh pháp Tôn Tử” và chỉ rõ: “Đạo là làm cho dân chúng thuận theo ý chí của quốc vương” và phát triển thêm “Trước hết cần giáo dục bách tính, gần gũi muôn dân. Không nên hành động trong bốn tình huống bất hòa: Trong nước không thống nhất ý chí, không thể xuất quân; nội bộ quân đội không đoàn kết, không thể ra trận; khi lâm chiến, trận thế không chỉnh tề, không thể ra đánh; hành động chiến đấu không phối hợp, không thể giành thắng lợi. Do đó, bậc vua sáng khi chuẩn bị đưa dân chúng vào chiến tranh trước hết phải đoàn kết họ lại. Dân chúng biết được nhà vua yêu quý tính mạng của họ, thương xót trước cái chết của họ, chuẩn bị chu đáo như thế thì khi dẫn họ đi chiến đấu họ sẽ tận lực lấy cái chết làm vinh, coi việc sợ chết thoái lui là sỉ nhục”.
“Binh pháp Ngô Khỏi” còn chỉ rõ: “đạo” dùng để khôi phục bản tính thiện lương của con người, “nghĩa” dùng để khiến người ta lập nên công nghiệp, “mưu”dùng để đạt điều lợi tránh điều hại, “yếu”dùng để củng cố, bảo toàn thành quả sự nghiệp. Nếu hành vi không hợp với “đạo”, cử động không hợp với “nghĩa” mà nắm quyền lẫn giữ chức cao thì sẽ tai họa vô cùng. Cho nên, bậc thánh nhân dùng “đạo” để vỗ yên thiên hạ, dùng “nghĩa” để trị lý quốc gia, dùng “lễ” để động viên dân chúng, dùng “nhân” để chăm sóc muôn dân. Bốn đức tốt đó nếu được phát huy thì đất nước hưng thịnh, nếu phế bỏ thì đất nước suy vong.
“Binh pháp Ngô Khởi” còn nêu lên một quan điểm mới: “Giành thắng lợi tương đối dễ dàng, củng cố thắng lợi mới là khó. Cho nên, nhờ nhiều lần thắng lợi mà giành được thiên hạ là ít có, do vậy mà mất nước thì nhiều hơn”. Điều này chứng tỏ Ngô Khởi đã nghiên cứu sâu sắc những bài học của nhiều cuộc chiến tranh trong các thời đại trước, cụ thể hóa quan điểm “thận chiến” và tư tưởng “chiến tranh cốt thắng, không cốt lâu” của “Binh pháp Tôn Tử”, về các nguyên tắc chiến lược, chiến thuật trong hai thiên “Liệu địch” và “ứng biến”,”Binh pháp Ngô Khởi” đã vận dụng yêu cầu “biết địch” của “Binh pháp Tôn Tử” vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể phân tích tình hình 6 nước Tần, Sở, Triệu, Tề, Yên, Hàn; căn cứ tình hình khác nhau để đề ra các biện pháp đối phó khác nhau. Tuy nhiên, những điều đề cập trong “Binh pháp Ngô Khởi” mới chỉ có tác dụng gợi ý về mặt nguyên tắc vì mới xuất phát từ nhận định khái quát, chưa xuất phát từ diễn biến có thể thiên biến vạn hóa trên chiến trường. Do đó, giá trị chỉ đạo thực tiễn còn có phần hạn chế.  Những đoạn phân tích về “tám trường hợp không cần qua bói toán cũng có thể đánh ngay” có giá trị chỉ đạo về tư tưởng tác chiến: Phải nắm vững thời cơ, khi địch đang ở vào hoàn cảnh khó khăn hoặc sơ hở thì không được ngần ngại, phải nhanh chóng quyết đoán tiến công tiêu diệt chúng. Ngoài ra, “Binh pháp Ngô Khởi” còn nêu cách xử trí trong một số tình huống cụ thể như tao ngộ chiến, cách đánh địch có thành lũy vững chắc, phương pháp tác chiến trong vùng núi, vùng đầm lầy... những điều đó có giá trị chỉ đạo tác chiến trong lịch sử phát triển quân sự của các dân tộc mà trước hết là của các dân tộc phương Đông. Ngày nay, những cách thức đó vẫn còn giá trị tham khảo trong tác chiến hiện đại.
- Về nguyên tắc luyện binh, chọn tướng và chế độ thưởng phạt.
Các thiên “Trị binh”, “Luận tướng”, “Lệ sĩ” đã đề xuất tương đối cụ thể các nguyên tắc luyện binh, chọn tướng và chế độ thưởng phạt cho các quân sĩ. “Binh pháp Ngô Khởi” còn nhấn mạnh việc huấn luyện kỹ năng chiến đấu cơ bản và ý thức chiến thuật cho binh sĩ; phân công, sử dụng binhsĩ theo đúng sở trường, sở đoản; nêu cao tinh thần nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh chỉ huy; tầm quan trọng của việc quy định thống nhất tín hiệu chỉ huy, liên lạc... về phẩm chất người làm tướng, “Binh pháp Ngô Khởi” đã phân tích mối quan hệ giữa “trí, tín, nhân, dũng, nghiêm” mà “Binh pháp Tôn Tử” đã nêu, đặc biệt nhấn mạnh đến”trí” và nêu lên năm yêu cầu cụ thể với người tướng cầm quân là: “lý, bị, quả, giới, ước”.
Ngô Tử viết những người gồm đủ văn võ mới có thể làm tướng. Biết khi cứng khi mềm mới có thể cầm quân tác chiến. Nói chung khi bàn về tướng, người ta chỉ nhìn về mặt dũng cảm. Nhưng dũng cảm mới chỉ là một trong những điều kiện của người làm tướng. Chỉ dũng cảm đơn thuần thì dễ khinh suất ứng chiến; khinh suất ứng chiến mà không tính toán lợi hại thì không thể làm tướng. Cho nên, có 5 điều mà người làm tướng cần chú ý: một  là “lý” hai là “bị”, ba là”quả”, bốn là “giới”, năm là “ước”. “Lý” tức là quản lý chỉ huy nhiều quân cũng như ít quân đều phải có quy củ. “Bị” là lúc nào cũng phòng bị nghiêm chỉnh như đang đôi diện với kẻ địch. “Quả” là khi lâm trận không nghĩ gì đến sinh mạng bản thân. “Giới” là tuy đã thắng trận nhưng vẫn thận trọng như lúc mới giao chiến, “ước” là mệnh lệnh gọn rõ không lôi thôi dài dòng. Khi nhận mệnh lệnh không thoái thác, đánh thắng địch rồi mới nói chuyện quay về. Đó là quy tắc mà người làm tướng cần tuân thủ.
Thiên”Lệ sĩ” chủ yếu luận bàn về việc luận công khen thưởng đối với người có công và gia đình họ.”Binh pháp Ngô Khởi” nêu rõ phải làm sao cho ban bố hiệu lệnh, mọi người vui vẻ chấp hành; ra quân đánh trận, mọi người vui vẻ tham chiến; xung phong hãm trận, mọi người vui vẻ xông vào chỗ chết. Những biện pháp để đạt tới điều đó trong “Binh pháp Ngô Khởi” đã đề cập đến những vấn đề luận công khen thưởng.
Có thể nói”Binh pháp Ngô Khởi” có giá trị rất lớn về mặt chỉ đạo hoạt động quân sự, là một tác phẩm lý luận quân sự cổ đại góp phần phát triển tư tưởng quân sự của Tôn Tử. Ưu điểm chủ yếu của “Binh pháp Ngô Khởi” là nêu lên được những nguyên tắc về xây dựng huấn luyện quân đội, về quan hệ quan binh và những thí dụ cụ thể về xử trí trong nhiều tình huống tác chiến khác nhau. Về tầm khái quát mang tính triết học quân sự, “Binh pháp Ngô Khởi” chưa đạt tới tầm của “Binh pháp Tôn Tử”. Về tính chất chiến tranh, “Binh pháp Ngô Khởi” tuy có nêu lên 5 loại nguyên cớ phát động chiến tranh và cách đối phó với 5 loại chiến tranh đó nhưng việc đế xuất vẫn chỉ dừng lại ở hiện tượng bên ngoài, không  đi sâu vào bản chất. Cách đối phó cũng chỉ thuần túy là suy đoán tự biện, rất khó tìm thấy một chứng cứ nào trong thực tiễn chiến tranh. Tuy nhiên, dù sao đi nữa, “Binh pháp Ngô Khởi” đã đóng góp một phần quan trọng trong sự phát triển tư tưởng quân sự thời cổ đại. Nó có giá trị nhất định để chúng ta trân trọng nghiên cứu và tham khảo.
(Bách khoa Tri thức Quốc phòng toàn dân)

Vũ khí hủy diệt hàng loạt thời cổ đại





So sánh giữa vũ khí hủy diệt trong sử thi Ấn Độ (India) và vũ khí hạt nhân hiện đại, người ta phát hiện nhiều nét tương đồng. Liệu các loại vĩ khí này có phải chỉ là trí tưởng tượng phong phú của người cổ đại không?Vũ khí hủy diệt hàng loạt thời cổ đại - ảnh 1
Sử thi Mahabharata (1000 - 500 Trước Công Nguyên) là tác phẩm sử thi lớn nhất của Ấn Ðộ, tập trung vào các cuộc xung đột quân sự, lý thuyết chiến tranh, và vũ khí huyền bí. Nó giải quyết mâu thuẫn và xung đột bằng cách sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt.

Chiến tranh hạt nhân thời cổ đại
Nếu nhìn vào Mahabharata, ta bắt gặp những câu như sau:
“Gurkha, bay nhanh và mạnh, ném một viên đạn duy nhất với quyền năng vũ trụ.
Cột lửa khói dựng, sáng như vạn mặt trời, vút lên với tất cả sự lộng lẫy.
Một tiếng sấm gầm, đốt toàn bộ cuộc chiến giữa Vrishnis và Andhakas thành tro bụi.
Xác chết bị cháy đến mức không thể nhận dạng.
Tóc và móng tay rời ra, gốm vỡ tan, những con chim trắng bệch…
Sau một vài giờ, tất cả lương thực bị nhiễm độc…
Ðể thoát khỏi ngọn lửa, người lính ném mình vào lòng suối, kỳ cọ thân thể và vũ khí”.
Nếu loại vũ khí hủy diệt này có thật, chúng ta không phải là thế hệ tiên tiến nhất.
Bạn vẫn còn nghi ngờ? Hãy đi sâu vào cuộc chiến tranh hạt nhân cổ đại này:
“Ðó là một vũ khí mạnh mẽ. Nó có thể phá hủy trái đất ngay lập tức.
 Một âm thanh kinh hoàng bùng nổ trong khói và lửa. Nó gieo rắc cái chết…”
(Sử thi Ramayana)
“Những tia lửa dày đặc tỏa ra như một vòi sen lớn, bắn khắp nơi, bao trùm kẻ thù…
Bóng tối u ám nhanh chóng giải quyết đội quân của Pandava.
Phương hướng của la bàn hỗn loạn trong bóng tối.
Gió khốc liệt thổi, tắm không gian trong bụi đất và sỏi đá.
Con chim cất giọng khàn điên cuồng… mọi thứ bị xáo trộn.
Mặt đất rung chuyển, bị đốt cháy bởi nhiệt độ tàn khốc của loại vũ khí này.
Những con voi bốc cháy, điên cuồng chạy tán loạn … 
Trên một diện tích rộng lớn, động vật vỡ nát trên mặt đất và chết.
Các mũi tên lửa rơi xuống như mưa, liên tục và quyết liệt.”
(Sử thi Mahabharata)
 “Khi ngày mai đến, Samva tạo ra tia sét, thiêu đốt toàn bộ con người trong chuộc chiến của Vrishnis và Andhakas thành tro bụi... Thực tế được báo cáo cho nhà vua. Ðau đớn bởi hậu quả khôn lường, hoàng đế nghiền sắt thành bột mịn, rải xuống biển.”
(Sử thi Mahabharata)Vũ khí hủy diệt hàng loạt thời cổ đại - ảnh 2

Mahabharata
So sánh với thực tế hiện đại, những gì được mô tả như tia sét sắt có thể là phóng xạ sắt (Iron-59). Có phải người cổ đại biết sử dụng Iron-59 như một vũ khí hạt nhân?
Rải bột sắt xuống biển là cách thức tốt nhất. Nước là lá chắn hiệu quả đối với bức xạ hạt nhân. Phần ba của sử thi Mahabharata cũng đề cập đến việc Vrishnis (hậu duệ của Yadu, con trai của Yayati) chọn chỗ ở gần biển. Ðiều này liệu có liên quan gì đó đến chuyện tránh bức xạ hạt nhân?
“Hỏa hoạn, ngọn lửa nghiêng về bên trái. Ðôi khi, chúng lóe lên tia lửa huy hoàng màu xanh và màu đỏ. Bầu trời dường như bị bao phủ bởi một thân hình người không đầu. Trong nhà bếp, thực phẩm lúc nhúc vô số các loại sâu bọ.”
(Sử thi Mahabharata)
Có thể, những câu văn này ám chỉ việc thực phẩm bị nhiễm độc.
Từ những phát hiện trên, thật khó để không nghi ngờ cuộc chiến trong Mahabharata là chiến tranh hạt nhân. Phải chăng, từ xa xưa, người Ấn Ðộ đã biết đến sự tồn tại của nguyên tử và năng lượng nguyên tử?
 Nỗi  lo sợ ám ảnh lịch sử
Luôn có một nỗi sợ hãi khủng khiếp trong quá khứ xa xôi. Các đế quốc, cả các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đây, có chung một nỗi lo sợ. Họ sợ nền văn hóa của mình sẽ bị xóa sổ hoàn toàn vì một loại vũ khí thần thánh nào đấy.
Sử thi của Ấn Ðộ vẫn còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, toàn bộ hồ sơ lịch sử của Nam Mỹ đã biến mất. Sợ hãi và các yếu tố khác xóa bỏ gần như tất cả lịch sử của con người 5.000 năm trước.
Nhìn rộng hơn vào kiến thức cổ đại, chúng ta có những phát hiện không ngờ. Trong văn bản cổ Agastrya Samhita của Ấn Ðộ, có hướng dẫn chế tạo pin điện chính xác. Theo truyền thuyết của Ý (Italia), Saint Benedict (448 - 548 Sau Công Nguyên, một vị thánh Cơ Ðốc Giáo (Khristos) nâng được một tảng đá nặng bảy người không khiêng nổi nhờ lực hấp dẫn.
Hoàng đế Thành Thang, Nhà Thương, Trung Quốc (lên ngôi năm 1766 Trước Công nguyên), từng ra lệnh chế tạo một cỗ xe bay và gặt hái thành công (?). Tuy nhiên, cỗ xe bay này bị phá hủy bởi sắc lệnh của triều đình. Nghe nói Vua Thành Thang sợ bí mật chế tạo có thể rơi vào tay kẻ xấu.
Thần Krishna và vũ khí hủy diệt hàng loạt CakraVũ khí hủy diệt hàng loạt thời cổ đại - ảnh 3
Arjuna
Thần Krishna trong Mahabharata được gọi là Ðấng Toàn Năng. “Krish” có nghĩa là “vị trí” và “Na” có nghĩa là “cao” hoặc là “cao nhất”. Thần Krishna ngự trên hành tinh thứ 20, Krishnaloka. Ông là người có vị trí cao nhất trong các vị thần.
Mahabharata là sử thi miêu tả cuộc chiến tranh thành Kurukshetra, giữa hai dòng họ Pandavas và Hastina (cả hai đều thuộc dòng dõi vua Bharata). Trong cuộc chiến này, có một chiến binh được dẫn bởi Thần Krishna, Arjuna. Chàng có họ hàng với cả hai bên tham chiến.
Krishna dạy cho Arjuna nghệ thuật tự vệ và cách an định tinh thần (Yoga). Tuy nhiên, ở đây, chúng ta không bàn về mối quan hệ giữa các vị thần và con người. Cái được chú ý là vũ khí hủy diệt mà Thần Krishna trao cho Arjuna, Cakra (còn có tên khác là Sudal Sana). Nó là sức mạnh đảm bảo chân lý được thực thi.
Cakra có tính năng phá hoại mạnh nhất. Khi nó phát nổ sẽ tạo ra một cột sáng cực nóng, đốt cháy cả bầu trời.
Trong lúc chiến tranh hỗn loạn, một anh em họ của Arjuna khởi động vũ khí hủy diệt có tên gọi là Barma Satara. Nó được cho là loại vũ khí có năng lượng cực mạnh.
Làm thế nào anh em họ của Arjuna khởi động Barma Satara? Sử thi không ghi lại. Còn Arjuna cần phải có sự đồng ý và hướng dẫn của Thần Krishna mới có thể khởi động Cakra.
Sự phát nổ của Barma Satara tạo ra lớp lớp các tia lửa nóng trên bầu trời. Arjuna phải cầu xin Thần Krishna cho phép bảo vệ Trái Ðất khỏi sức nóng khổng lồ. Dưới sự hướng dẫn của Thần Krishna, Arjuna làm chệch hướng làn sóng nhiệt lên trời. Làn sóng nhiệt khổng lồ tản rộng trong bán kính hàng chục km và cao mười dặm.
Các cấp độ của Cakra
Theo Thần Krishna, Cakra được chia thành ba cấp độ.
Cấp cao nhất là Sudal Sana, chưa từng được sử dụng. Nó là vũ khí bí mật độc quyền của Thần Krishna, có khả năng phá hủy hàng chục hành tinh một lúc.
Cấp thứ hai là Barma Satara. Nó được chia thành bảy cấp khác nhau. Barma Satara được sử dụng trong chiến tranh thành Kuruthesa là Barma Satara cấp năm.
Mức độ phá hoại của bốn cấp đầu không được nhắc tới.
Barma Satara cấp sáu tương đương với sự tàn phá của bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hiroshima, Nhật Bản.
Barma Satara cấp bảy được sử dụng với mục đích bảo vệ, rắc thuốc lên toàn thế giới.
Cấp thứ ba của Cakra được chia thành 11 mức khác nhau.
Kinh thánh tiếng Phạn (tiếng Ấn Ðộ cổ) đề cập nhiều đến việc các vị thần sử dụng vũ khí có sức mạnh hủy diệt tương tự như năng lượng hạt nhân. Tuy nhiên, chúng không được sử dụng như các vật liệu trần thế. Lợi thế của các loại vũ khí thần thánh này là nguồn năng lượng cực lớn. Nó được các thần sử dụng để kiểm soát, điều khiển nhân loại.
Người Ấn Ðộ cổ đại tin sấm sét là một phần nhỏ của Barma Satara, có thể xua đuổi ma quỷ và ngăn chặn mưa.
Thần chú Chakra
Ngoài Cakra, chúng ta nên quan tâm đến một vũ khí khác có sức mạnh tương đương trong Mahabharata. Ðó là Chakra.
Chakra là cách tấn công được kích hoạt thông qua thần chú, chỉ có thể phát huy công dụng nhờ vào thần chú.
Tiến trình bùng phát năng lượng hạt nhân cổ đại bằng thần chú được miêu tả như sau. Thứ nhất, đọc thần chú. Thứ hai, các thành phần của trái đất bị thay đổi, sóng nhiệt và tia sáng khổng lồ bắn vào không khí. Thứ ba, đám mây quang và nhiệt tập trung, hình thành một lớp dày trên bầu khí quyển của trái đất. Thứ tư, tia lửa tỏa ra từ đám mây quang, đâm vào trái đất, dẫn đến sự hủy diệt lớn. Thứ năm, tia lử kết hợp với gió và không khí, tạo ra đám cháy khổng lồ.
Thần chú Chakra phản công đuợc chia làm ba giai đoạn. Thứ nhất, đọc phần chú. Thứ hai, các tia lửa bị chặn lại giữa không trung. Cuối cùng, tia lửa và nhiệt tan biến hết.
Trong Mahabharata, Arjuna sử dụng thần chú Chakra để ngăn chặn tia lửa và làn sóng nhiệt thâm nhập vào Trái Ðất.
Blog.world-mysteries.com/TPO

Người Hy Lạp cổ đại từng sử dụng vũ khí sinh học trong chiến đấu

Người Hy Lạp cổ có thể được coi là một trong những người đầu tiên sử dụng vũ khí sinh học và tâm lý chiến.
vu-khi-sinh-hoc-va-tam-ly-chien-cua-nguoi-hy-lap-co-dai
Rắn hổ cát được người Hy Lạp dùng làm vũ khí thời cổ đại. Ảnh: Wikimedia Commons.
Ancient Origins hôm 2/1 đưa tin, các nhà nghiên cứu phát hiện ra một loài rắn biến mất gần một thế kỷ trên đảo Sicily, Italy, từng được dùng trong chiến tranh. Đây là một ví dụ sống động về chiến tranh sinh học và tâm lý ở thời cổ đại.
Nhóm nghiên cứu cho biết họ tìm thấy một số mẫu vật của loài rắn hổ cát Eryx jaculus ở tỉnh Agrigento, Sicily, Italy. Loài rắn này không có nọc độc và không phải loài bản địa ở Sicily. Theo các nhà khoa học, người Hy Lạp cổ đại đã đưa chúng tới đây.
Các chiến binh Hy Lạp sẽ ném những con rắn sang tàu đối phương trước khi tấn công, với mục đích gây ra sự rối loạn và tâm lý sợ hãi. Họ thường sử dụng rắn lục đã loại bỏ nọc độc. Ngoài ra, rắn hổ cát cũng được người Hy Lạp lựa chọn.
Đảo Sicily bị người Hy Lạp chiếm giữ từ năm 800 trước Công nguyên. Nơi các nhà nghiên cứu phát hiện mẫu vật rắn hổ cát ở khá gần khu vực diễn ra những trận chiến cổ đại.
Rắn hổ cát có thể dài tới 84 cm, nhưng chiều dài trung bình của loài này là 30 - 60 cm. Chúng sinh sống chủ yếu ở phía đông nam châu Âu, Hy Lạp, bán đảo Balkan, dãy Kavkaz, Trung Đông và Bắc Phi. Chúng được ghi nhận lần đầu tại Sicily vào năm 2006, nhưng gần đây, các nhà nghiên cứu mới xác nhận sự tồn tại của chúng. Họ tìm thấy 6 cá thể, trong đó có ba con còn sống, hai con chết trên đường và một con chết đuối.
Quân Hy Lạp không phải những người duy nhất biết sử dụng rắn trong chiến đấu. Vào thế kỷ 3 trước Công nguyên, tướng Hannibal xứ Carthage từng cho rắn độc vào hàng nghìn bình gốm khi hạm đội của ông bị vua Eumenes II bao vây. Trong tình thế bị áp sát, Hannibal ra lệnh ném các bình gốm này về phía tàu đối phương. Khi bình vỡ, những con rắn lao ra. Chúng không chỉ tấn công thủy thủ trên boong mà còn nhắm vào những người chèo thuyền bên dưới khoang tàu. Kết quả là quân của Hannibal giành được lợi thế và chiến thắng trong trận chiến tưởng chừng nắm chắc phần thua.
Theo Vnexpress

Những vũ khí nguy hiểm nhất thế giới cổ đại dưới đây được thiết kế khá đơn giản nhưng hiệu quả sử dụng khá cao.
1. Người xưa chế tạo ra rất nhiều vũ khí nguy hiểm nhất lịch sử và dễ dàng, thuận tiện cho người sử dụng. Người Hindu và Hồi giáo cổ đại không được phép mang theo vũ khí. Do vậy, họ đã tạo ra một thứ để bảo vệ bản thân nhưng không gây tử vong đó là Madu. Madu không được coi là vũ khí, được làm từ sừng linh dương Ấn Độ gắn vuông góc với nhau. +8
1. Người xưa chế tạo ra rất nhiều vũ khí nguy hiểm nhất lịch sử và dễ dàng, thuận tiện cho người sử dụng. Người Hindu và Hồi giáo cổ đại không được phép mang theo vũ khí. Do vậy, họ đã tạo ra một thứ để bảo vệ bản thân nhưng không gây tử vong đó là Madu. Madu không được coi là vũ khí, được làm từ sừng linh dương Ấn Độ gắn vuông góc với nhau.
Madu được coi là vũ khí hoàn hảo cho các cuộc tấn công bất ngờ từ phía sau. Cả người Hindu và Hồi giáo đều coi Madu chỉ được sử dụng để tự vệ. +8
Madu được coi là vũ khí hoàn hảo cho các cuộc tấn công bất ngờ từ phía sau. Cả người Hindu và Hồi giáo đều coi Madu chỉ được sử dụng để tự vệ.
2. Haladie là một trong những vũ khí nguy hiểm bậc nhất của Ấn Độ cổ đại. Nó được các chiến binh Rapjut của Ấn Độ thời đó sử dụng. +8
2. Haladie là một trong những vũ khí nguy hiểm bậc nhất của Ấn Độ cổ đại. Nó được các chiến binh Rapjut của Ấn Độ thời đó sử dụng.
Haladie gồm 2 lưỡi dao hơi cong gắn kết với nhau bởi một cán ở giữa. Vũ khí này cũng khá hiệu quả khi chặn các đòn tấn công. +8
Haladie gồm 2 lưỡi dao hơi cong gắn kết với nhau bởi một cán ở giữa. Vũ khí này cũng khá hiệu quả khi chặn các đòn tấn công.
3. Kakute là vũ khí có nguồn gốc từ Nhật Bản thời cổ đại. Là những chiếc nhẫn có gai nhọn, Kakute dường như không gây tác động lớn đối với người khác nhưng nó là vũ khí nguy hiểm nhất của các nữ ninja. Kakute thường có từ 1 - 3 gai nhọn. +8
3. Kakute là vũ khí có nguồn gốc từ Nhật Bản thời cổ đại. Là những chiếc nhẫn có gai nhọn, Kakute dường như không gây tác động lớn đối với người khác nhưng nó là vũ khí nguy hiểm nhất của các nữ ninja. Kakute thường có từ 1 - 3 gai nhọn.
Khi được sử dụng đúng thời điểm, nó có thể khiến nạn nhân tử vong nếu như người tấn công dùng Kakute đâm vào những điểm yếu trên cơ thể đối phương như: cổ, tim và cột sống. Đặc biệt, Kakute còn trở nên nguy hiểm hơn khi được tẩm thuốc độc khiến nạn nhân mất mạng mặc dù chỉ bị vũ khí này làm bị thương nhẹ. +8
Khi được sử dụng đúng thời điểm, nó có thể khiến nạn nhân tử vong nếu như người tấn công dùng Kakute đâm vào những điểm yếu trên cơ thể đối phương như: cổ, tim và cột sống. Đặc biệt, Kakute còn trở nên nguy hiểm hơn khi được tẩm thuốc độc khiến nạn nhân mất mạng mặc dù chỉ bị vũ khí này làm bị thương nhẹ.
4. Sodegarami được các nhân viên thực thi pháp luật Nhật Bản thời kỳ Edo sử dụng. Vũ khí này được thiết kế có rất nhiều đầu nhọn. Khi các nhân viên thực thi pháp luật sử dụng vũ khí này khi truy bắt tội phạm thì nó dễ bị cuốn vào áo nên không khiến phạm nhân tử vong hoặc bị thương quá nặng. +8
4. Sodegarami được các nhân viên thực thi pháp luật Nhật Bản thời kỳ Edo sử dụng. Vũ khí này được thiết kế có rất nhiều đầu nhọn. Khi các nhân viên thực thi pháp luật sử dụng vũ khí này khi truy bắt tội phạm thì nó dễ bị cuốn vào áo nên không khiến phạm nhân tử vong hoặc bị thương quá nặng.
Sodegarami cũng là vũ khí hiệu quả để ngăn việc samurai giết hại lẫn nhau. Bởi lẽ, vào thời xưa, samurai chỉ có thể bị giết bởi samurai. Do đó, để không lỡ tay giết hại samurai trong lúc ngăn cản trận đấu sinh tử của 2 samurai, nhân viên thực thi pháp luật thời kỳ Edo sử dụng Sodegarami. +8
Sodegarami cũng là vũ khí hiệu quả để ngăn việc samurai giết hại lẫn nhau. Bởi lẽ, vào thời xưa, samurai chỉ có thể bị giết bởi samurai. Do đó, để không lỡ tay giết hại samurai trong lúc ngăn cản trận đấu sinh tử của 2 samurai, nhân viên thực thi pháp luật thời kỳ Edo sử dụng Sodegarami.
Mọi thông tin góp ý và chia sẻ cho CHUYÊN MỤC và BÀI VIẾT , xin quý độc giả vui lòng gửi về hòm thư banbientap@tintuc.vn
Let's block ads! (Why?)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 156

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG I/30

KIẾP GIANG HỒ 4