CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 237
(ĐC sưu tầm trên NET)
Đêm 22/10/1967, Manfred Ramminger, điệp viên thuộc cơ quan tình báo Liên Xô (KGB) tại Tây Đức, lợi dụng sương mù và sơ hở của lính canh để đột nhập vào căn cứ không quân Neuburg. Ramminger cùng lái xe Josef Linowski và phi công Wolff-Diethard Knoppe vào kho đạn, đánh cắp thành công một tên lửa AIM-9 đời mới. Họ đặt nó lên xe cút kít và đẩy tới chiếc ôtô đỗ bên ngoài căn cứ.
Video: Globe and Mai
Số phận điệp viên Nga phản bội đế quốc Áo-Hung trong Thế chiến I
Sự phản bội của trùm tình báo Alfed Redl khiến Áo - Hung trả giá đắt trong Thế chiến I, đẩy đế quốc này tới cảnh tan rã.
Đại tá Alfred Redl. Ảnh: Wikipedia.
|
Thế chiến I từng chứng kiến cuộc chiến tranh bí mật, không tiếng súng
nhưng đầy khốc liệt giữa các cơ quan tình báo. Việc Nga tuyển mộ thành
công và khai thác nhiều thông tin từ trùm phản gián Alfred Redl đã gián
tiếp đẩy đế quốc Áo - Hung vào cảnh suy tàn, theo War History.
Alfred Redl sinh năm 1864 tại thị trấn Lviv, thuộc tỉnh Galicia của Áo,
ngày nay thuộc lãnh thổ Ukraine. Dù lớn lên trong gia đình nghèo, ông
vẫn theo đuổi nghiệp sĩ quan, vốn chỉ dành cho tầng lớp quý tộc. Nhờ sự
bảo trợ của hoàng đế Áo - Hung Franz Joseph, ông được nhận vào và tốt
nghiệp loại xuất sắc Trường quân sự Vienna, cơ sở đào tạo sĩ quan danh giá của Áo.
Thể hiện sự hứng thú với nước Nga, Redl nhanh chóng trở thành người đứng
đầu phòng phụ trách khu vực Nga thuộc cơ quan tình báo Bộ Tổng tham mưu
quân đội Áo - Hung.
Tuy nhiên, cơ quan tình báo Đế quốc Nga phát hiện Redl là người đồng
tính và bắt đầu hăm dọa, cũng như trả tiền để ép ông hợp tác và cung cấp
thông tin. Năm 1902, Redl có thể đã chuyển bản sao kế hoạch tác chiến
của Áo - Hung cho Nga.
Tướng von Gieslingen, cấp trên của Redl, giao cho ông nhiệm vụ điều tra bản kế hoạch tác chiến bị mất. Redl
thỏa thuận giao nộp một số điệp viên cấp thấp để giữ an toàn và tiếp
tục làm việc cho tình báo Nga. Việc này giúp ông củng cố vị trí vững
chắc, khi được quân đội Áo xem là người làm việc rất hiệu quả.
Năm 1907, Redl trở thành cục trưởng Cục phản gián và tiến hành
cuộc cách mạng trong kỹ thuật do thám. Ông trở thành người đầu tiên sử
dụng camera và máy ghi âm để phục vụ hoạt động gián điệp.
Redl đã xây dựng cơ sở dữ liệu vân tay chi tiết, nhằm lưu giữ thông tin
về những người đáng chú ý với tình báo Áo - Hung. Ông là người giúp cải
thiện đáng kể năng lực của cơ quan này, nhưng cũng đóng vai trò lớn
trong sự sụp đổ của nó.
Được thăng hàm đại tá quân đội Áo - Hung, Redl cũng trở thành điệp viên hàng đầu của Nga và được trả công hậu hĩnh sau một loạt điệp vụ thành công, giúp ông ta hưởng thụ cuộc sống xa hoa.
Redl đã báo trước cho Nga kế hoạch chi tiết về cuộc xâm lược Vương
quốc Serbia năm 1914 sau vụ thái tử Áo Franz Ferdinand và vợ bị ám sát.
Nhờ thông tin từ Redl và Nga, quân đội Serbia đã đẩy lùi đợt tấn
công đầu tiên. Đây được xem là thất bại lớn của đế quốc Áo - Hung, bởi
họ có ưu thế vượt trội cả về quân số và công nghệ so với đối thủ.
Hiện trường vụ ám sát thái tử Ferdinand khơi mào Thế chiến I. Ảnh: New Historian.
|
Redl cũng tiến hành chiến dịch thông tin giả, cung cấp đánh giá
sai lệch về sức mạnh quân đội Nga cho quân đội và chính quyền Áo - Hung.
Ngược lại, Nga nắm được mọi kế hoạch tấn công và phân bố lực lượng tác
chiến của đối thủ.
Không lâu sau cuộc xâm lược Serbia, thiếu tá Maximilian Ronge, học trò
của Redl, bắt đầu nghi ngờ chính người đào tạo mình. Ronge kiểm tra các
lá thư nghi vấn và phát hiện một phong bì chứa lượng tiền lớn được
chuyển tới người có tên là Nikon Nizetas
Ronge cho nhiều mật vụ theo dõi người nhận bức thư, nhưng họ nhanh
chóng mất dấu khi người đàn ông bí ẩn leo lên một chiếc taxi sau khi
nhận thư.
Ronge khi trở thành chỉ huy lực lượng tình báo Áo - Hung. Ảnh: War History.
|
Tuy nhiên, các mật vụ Áo - Hung gặp may khi chiếc taxi trở về địa điểm
cũ sau khi trả khách. Lái xe đưa họ tới khách sạn Klomser, nơi người đàn ông bí ẩn vừa xuống. Khi ngồi trên xe, họ tìm thấy một chiếc vỏ đựng dao nhíp.
Tới khách sạn, họ yêu cầu người quản lý thông báo với những người
trong khách sạn về chiếc vỏ đựng dao nhíp và đề nghị người đánh mất
xuống sảnh nhận lại. Khi một người khách xuống nhận, các mật vụ lập tức
nhận ra đại tá Redl.
Conrad von Hotzendorf, tổng tham mưu trưởng quân đội Áo, tức giận đến
mức yêu cầu được gặp Redl ngay lập tức. Sau cuộc gặp, von Hotzendorf bỏ
lại một khẩu súng lục và để Redl ở một mình. Cảm thấy nhục nhã và muốn
tránh bị đồng đội cũ thẩm vấn, Redl tự sát vào ngày 25/5/1913.
Sự phản bội của Redl khiến Áo - Hung phải trả giá đắt trong Thế chiến I,
cũng như dẫn tới sự tan rã của đế quốc này sau hiệp ước Saint Germain
năm 1919.
Duy SơnĐánh cắp tên lửa Mỹ, điệp viên Liên Xô gửi về Moscow qua bưu điện
Một điệp viên KGB đột nhập căn cứ không quân Mỹ ở Đức, đánh cắp tên lửa AIM-9 đời mới và gửi về Moscow qua đường bưu điện.
Mẫu tên lửa K-13 được sao chép từ AIM-9.
Trong thập niên 1960, Nga sản xuất tên lửa không đối không R-3S (K-13A) dựa trên mẫu AIM-9B của Mỹ trang bị cho các tiêm kích MiG-21. Tuy
nhiên, các trận không chiến ở Trung Đông cho thấy vũ khí này đã trở nên
lạc hậu trước những biến thể AIM-9 mới do Mỹ phát triển. Một điệp viên
Liên Xô đã giúp nước này theo kịp đối thủ nhờ một nhiệm vụ táo bạo, cùng
cách vận chuyển tên lửa ít ai nghĩ tới, theo War is Boring.Đêm 22/10/1967, Manfred Ramminger, điệp viên thuộc cơ quan tình báo Liên Xô (KGB) tại Tây Đức, lợi dụng sương mù và sơ hở của lính canh để đột nhập vào căn cứ không quân Neuburg. Ramminger cùng lái xe Josef Linowski và phi công Wolff-Diethard Knoppe vào kho đạn, đánh cắp thành công một tên lửa AIM-9 đời mới. Họ đặt nó lên xe cút kít và đẩy tới chiếc ôtô đỗ bên ngoài căn cứ.
Quả đạn dài 2,9 m rất cồng kềnh. Ramminger phải đập vỡ kính sau ôtô và
che phần tên lửa nhô ra bằng thảm. Để tránh bị cảnh sát để ý, ông dùng
một miếng vải đỏ để đánh dấu phần thò ra bên ngoài theo luật.
Sau khi về tới nhà mà không gặp vấn đề gì, Ramminger kiên nhẫn tháo tung
quả đạn AIM-9 thành từng phần. Ông giữ lại ngòi nổ, sau đó trao cho
người liên lạc của mình. Cuối cùng, Ramminger đóng gói tất cả bộ phận
vào một chiếc hộp, trước khi mang tới bưu điện và gửi nó qua đường thư
tín hàng không tới Moscow. Để tránh gặp vấn đề với hải quan, Ramminger
kê khai bên trong bưu kiện là "hàng xuất khẩu chất lượng thấp".
Tên lửa R-13M, được phát triển từ bản mẫu do Ramminger đánh cắp. Ảnh: Wikipedia.
|
Do quả tên lửa AIM-9 nặng gần 100 kg, ông đã phải trả 78,25 USD phí
chuyển hàng. Sơ suất trong dịch vụ vận chuyển khiến bưu kiện của
Ramminger đi từ Đức tới Pháp rồi Đan Mạch, sau đó quay trở lại Đức,
trước khi tới được Moscow chậm 10 ngày so với dự kiến.
Việc sở hữu quả đạn này giúp các nhà khoa học Liên Xô phát triển thành
công tên lửa đối không R-13M với hiệu suất cải thiện đáng kể. Quả đạn
R-13M có thể tấn công mục tiêu từ phía trước, thay vì chỉ giới hạn tấn
công từ phía sau như các mẫu K-13 trước đó.
Liên Xô sau đó bắt đầu phát triển các dòng tên lửa đối không tầm gần
hiện đại hơn như R-60 và R-73, có nhiều tính năng vượt trội hơn cả những
vũ khí cùng thời của Mỹ và phương Tây. Bản thân Ramminger và các phụ tá
bị cơ quan phản gián Đức bắt giữ vào cuối năm 1968 và bị kết án tù 4
năm.
Việt Hòa
'Đội quân ma' giăng bẫy điệp viên phát xít Đức của Liên Xô
Chiến dịch Scherhorn thành công tới mức khi kết thúc Thế chiến II, Đức vẫn tưởng họ có một đội quân vũ trang hơn 2.000 người trên lãnh thổ Liên Xô.
Kế hoạch phản gián quy mô lớn đã khiến Đức mất hàng chục điệp viên. Ảnh: Bashny.
|
Năm 1941, điệp viên Alexander Demyanov của Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD), lực lượng cảnh sát mật của Liên Xô,
trong vai một kẻ đào ngũ đã phát hiện một mạng lưới gián điệp bí mật
của Đức ngay trong lòng Liên Xô, từ đó giúp Moscow lên kế hoạch xây dựng
một "đội quân ma" đánh lừa phát xít suốt nhiều năm, theo War History.
Demyanov đóng vai là một điệp viên hai mang, cung cấp thông tin
tình báo cho Đức từ trong lòng Liên Xô, áp dụng chiến thuật nghi binh
khiến hàng chục điệp viên Đức rơi vào bẫy. Từ kết quả này, nhà
lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin yêu cầu NKVD tiến hành chiến dịch phản
gián quy mô lớn có tên "Scherhorn" (mật danh khi đó là chiến dịch
Berezino) từ tháng 8/1944 đến tháng 5/1945.
Một "đội quân ma" do trung tướng Pavol Sudoplatov đứng đầu được thành lập, đóng quân tại một "trại lính Đức" ngay trong lòng Liên Xô để dụ đối phương điều điệp viên đến phối hợp hành động và hỗ trợ.
Mật vụ Liên Xô chọn trung tá Heinrich Scherhorn, tù binh Đức bị
bắt giữ vào tháng 6/1944, để đóng vai chỉ huy trại lính giả và duy trì
liên lạc với bộ chỉ huy Đức.
Tháng 8/1944, chiến dịch Berezino bắt đầu với việc Max (mật danh
của Demyanov) bắn tin cho tình báo Đức, nói rằng một nhóm vũ trang 2.500
thành viên của mạng lưới điệp viên Scherhorn đang bị Hồng quân Liên Xô
bao vây dọc sông Berezina.
Đại tá Đức Hans-Heninrich Worgitzsky nghi ngờ, đoán rằng đây là
hoạt động phản gián của Liên Xô. Tuy nhiên, sĩ quan Gehlen, liên lạc
viên tin tưởng Max, thúc giục ông này tiến hành kế hoạch giải cứu.
Otto Skorzeny, người đứng đầu đội cận vệ SS, đã cử một nhóm biệt kích Đức xâm nhập lãnh thổ Liên Xô bằng oanh tạc cơ Heinkel He 111 để thực hiện chiến dịch giải
cứu. Các binh sĩ Hồng quân Liên Xô mặc quân phục Đức đã đợi sẵn và dẫn
lực lượng này đến trại. Khi bước vào lều của Scherhorn, tất cả lính Đức
đều bị mật vụ NKVD bắt giữ.
Nhóm lính biệt kích bị ép tham gia chiến dịch phản gián, sau đó báo cáo
rằng nhiệm vụ đã thành công và cần thêm quân chi viện. Skorzeny nhanh
chóng điều thêm 3 đội đặc nhiệm đến hỗ trợ. Tất cả đều bị tóm gọn tại
địa điểm do điệp viên Liên Xô thông báo.
Otto Skorzeny giao nhiệm vụ cho biệt kích Đức đến giải cứu Scherhorn. Ảnh: Wikipedia.
|
Chiến dịch phản gián tiếp diễn cho đến khi phản ứng của Đức bắt đầu chậm
dần. NKVD chỉ thị cho Scherhorn liên lạc với Đức thông báo nhiệm vụ
giải cứu đã thành công, nhưng không thể trở về Đức do số lượng thương
vong leo thang. Đáp lại, bộ chỉ huy Đức thông báo đang điều máy bay đến
sơ tán những người bị thương và đưa họ đến sau phòng tuyến Đức. Hành
động này có nguy cơ làm phá sản kế hoạch của Liên Xô.
Để duy trì vỏ bọc, mật vụ NKVD dàn dựng một trận giao tranh nhỏ trong
đêm giữa lính của Scherhorn và Hồng quân Liên Xô khi các máy bay Đức
chuẩn bị hạ cánh. Trong lúc giao tranh hỗn loạn, đèn trên đường băng bị
tắt khiến cho máy bay Đức không thể hạ cánh. Nhờ đó bí mật về chiến dịch
này vẫn được duy trì.
Trong nhiều tháng, cả Gehlen và Skorzeny đã làm theo những gì Liên Xô
sắp đặt, khiến các chỉ huy Đức tin rằng 2.000 lính phe mình vẫn bị mắc
kẹt trong lãnh thổ đối phương. Skorzeny ra lệnh cho Scherhorn chia nhỏ
lực lượng đi qua Ba Lan để đến nơi an toàn. Tuy nhiên, kế hoạch này cũng
không thành công do Sudoplatov đã đập tan đường dây điệp viên hỗ trợ
của Đức ở Ba Lan.
Biện pháp hỗ trợ duy nhất quân Đức có thể làm là thả hàng tiếp tế và
lương thực cho nhóm vũ trang. Trong suốt chiến dịch, phát xít Đức đã
điều 39 chuyến bay cùng 12 điệp viên và 12 thiết bị liên lạc vô tuyến
đến hỗ trợ nhóm của Scherhorn. Số biệt kích Đức bị bắt lớn đến mức NKVD
có nguy cơ mất kiểm soát do chiến dịch leo thang vượt xa dự đoán. Dù
vậy, liên lạc vô tuyến giữa Đức và điệp viên Liên Xô vẫn diễn ra trong
nhiều tháng.
Cuối cùng, sự hỗ trợ của Đức cũng bắt đầu suy giảm. Tháng 1/1945, lực
lượng Đức vẫn ở cách xa đội quân của Scherhorn, trong khi không quân Đức
nhanh chóng cạn kiệt nguồn lực. Scherhorn lúc này vẫn tiếp tục gửi yêu
cầu giúp đỡ nhưng không có phản hồi.
Tháng 3/1945, Scherhorn được phát xít Đức vinh danh là anh hùng dân tộc
vì các nỗ lực khi bị giam cầm trong lãnh thổ Liên Xô, thậm chí ông ta
còn được trao Huân chương Hiệp sĩ.
Khi Thế chiến II đến hồi kết cũng là lúc chiến dịch phản gián của Liên Xô hạ màn. Cho
đến đầu tháng 5/1945, Đức vẫn duy trì liên lạc với Scherhorn, hy vọng
nhóm vũ trang hơn 2.000 lính của ông ta vẫn còn sống mà không hề biết
rằng đó là "đội quân ma" chưa từng tồn tại.
Duy Sơn
Ba cơ quan tình báo quyền lực của Nga
Nga duy trì ba cơ quan tình báo lớn với mạng lưới điệp viên trải khắp trong và ngoài nước để bảo đảm an ninh và lợi ích cho Moscow.
Chiến dịch giải cứu con tin gây tiếng vang của đặc nhiệm Liên Xô năm 1985
Đội đặc nhiệm Alfa được cho là đã thi hành chính sách "ăn miếng trả miếng" với nhóm khủng bố bắt cóc con tin ở Lebanon.
Các sĩ quan đặc nhiệm Alfa dưới thời Liên Xô. Ảnh: Reddit.
|
Đêm 20/9/1985, các tay súng thuộc Tổ chức Giải phóng Hồi giáo (ILO)
trung thành với nhóm phiến quân Hezbollah bắt cóc 4 nhà ngoại giao Liên
Xô ở thủ đô Beirut của Lebanon. Để giải quyết cuộc khủng hoảng, Ủy ban
An ninh Quốc gia (KGB), cơ quan tình báo nổi tiếng thời Liên Xô, đã áp
dụng chiến thuật đối phó mạnh tay chưa từng có, buộc nhóm khủng bố phải
thả hết con tin sau thời gian rất ngắn, theo War is Boring.
ILO dọa hành quyết từng nhà ngoại giao Liên Xô một nếu Moscow
không gây áp lực buộc dân quân thân Syria ngừng pháo kích khu vực phía
bắc thành phố cảng Tripoli của Lebanon, vốn nằm trong tay phiến quân cực
đoan thân Iran.
Ban đầu, Liên Xô mở một số kênh đàm phán với nhóm ILO với hy vọng
các nhà ngoại giao sẽ được trả tự do an toàn. Nhưng mọi thứ thay đổi khi
ILO hành quyết con tin đầu tiên chỉ hai ngày sau khi đưa ra yêu sách.
Đó là lúc lãnh đạo Liên Xô từ bỏ chính sách đàm phán và đưa KGB
vào cuộc. KGB bắt đầu điều tra về tổ chức khủng bố đứng sau vụ bắt cóc
và phát hiện ra đây là một nhóm thân Hezbollah.
Đội đặc nhiệm Alfa của KGB được đưa tới Lebanon và thi hành chính
sách "không đàm phán với khủng bố", thực hiện những hành động "ăn miếng
trả miếng" quyết liệt nhất để buộc ILO phải thả con tin.
Bài huấn luyện bắn vào người thật của đặc nhiệm Alfa Nga
Hoạt động thực tế của nhóm Alfa tại Lebanon vẫn còn gây tranh cãi. Theo
một nguồn tin, KGB đã tận dụng mạng lưới điệp viên dày đặc tại Trung
Đông để xác định gia đình của những kẻ bắt con tin. Các sĩ quan Alfa sau
đó bắt cóc một người thân của kẻ đứng đầu ILO, cắt tai người này và gửi
tới cho ông ta. Nguồn tin khác khẳng định nhóm Alfa bắt anh trai của
một kẻ bắt cóc, sau đó gửi hai ngón tay về gia đình qua đường bưu điện.
"Câu chuyện được kể nhiều nhất là nhóm Alfa bắt khoảng 12 người Shiite,
trong đó có người thân của lãnh đạo Hezbollah. Đặc nhiệm KGB hành quyết
một người trong số đó, nhét bộ phận sinh dục của nạn nhân vào miệng rồi
gửi thi thể tới tổng hành dinh Hezbollah. Họ gửi kèm bức thư đe dọa số
phận tương tự với 11 người còn lại, nếu các nhà ngoại giao Liên Xô không
được thả", nhà sử học Matthew Levitt cho biết.
Dù các câu chuyện có nhiều chi tiết khác nhau, kết quả vẫn chỉ có một. Việc ba con tin được thả nhanh chóng sau khi nhóm đặc nhiệm Alfa xuất hiện tại Lebanon là điều mà các lực lượng giải cứu con tin tinh nhuệ của Mỹ cũng chưa từng làm được.
Chính sách đối phó khủng bố để giải cứu con tin của đặc nhiệm KGB
trong chiến dịch này gây tiếng vang và sức răn đe đến mức không có nhà
ngoại giao Liên Xô và Nga nào bị các nhóm khủng bố bắt cóc cho tới năm
2006.
Nhóm sĩ quan Alfa Nga sau buổi huấn luyện. Ảnh: Pinterest.
|
Lực lượng đặc nhiệm Alfa được thành lập từ năm 1974, ngày nay có tên
chính thức là "Cục A thuộc Trung tâm Đặc nhiệm FSB", là đơn vị chống
khủng bố tinh nhuệ trực thuộc KGB trước đây và Cơ quan An ninh Liên bang
Nga (FSB) từ năm 1995.
Nhiệm vụ chính của Alfa là ngăn ngừa và phản ứng trước các hành động bạo
lực tại khu vực công cộng, cũng như tác chiến bí mật trong lãnh thổ Nga
và nước ngoài. Cơ cấu tổ chức của Alfa không được công bố, nhưng đơn vị
này được cho là nhận mệnh lệnh trực tiếp từ các lãnh đạo cao nhất của
Nga.
Tử Quỳnh
Những vỏ bọc của điệp viên Nga khiến Mỹ bất lực
Quan chức Mỹ cho rằng điệp viên Nga có nhiều chiến thuật hoạt động, khiến Washington không đủ sức theo dõi toàn bộ mạng lưới gián điệp.
Lãnh sự quán Nga tại Seattle bị đóng cửa do lo ngại gián điệp. Ảnh: Reuters.
|
Tổng thống Mỹ Donald Trump hôm 26/3 ra lệnh trục xuất 60 nhà ngoại giao
bị cho là nhân viên tình báo Nga, nhằm đáp trả vụ đầu độc cựu gián điệp
hai mang Sergei Skripal và con gái ở Anh. Nhà Trắng cũng ra lệnh đóng
cửa lãnh sự quán Nga tại thành phố Seattle do lo ngại hoạt động do thám,
bởi nó nằm gần một căn cứ hải quân Mỹ.
Tuy nhiên, nhiều quan chức Mỹ nhận định việc trục xuất 60 nhà ngoại giao
Nga khó lòng gây thiệt hại cho mạng lưới gián điệp của nước này tại Mỹ.
Nhiều khả năng điệp viên Nga đã xâm nhập sâu vào các công ty, trường
học và thậm chí là cơ quan chính phủ Mỹ để hoạt động dưới những vỏ bọc
hoàn hảo rất khó bị phát hiện, theo Reuters.
Các cơ quan tình báo Nga được cho là vẫn tận dụng tối đa vỏ bọc của nhân
viên đại sứ quán và lãnh sự quán, phương pháp cũng được tình báo Mỹ áp
dụng tại nhiều quốc gia khác.
Tuy nhiên, ngoài chiến thuật truyền thống này, tình báo Nga còn sử dụng
nhiều phương thức hoạt động khác như tuyển mộ người Nga nhập cư, thành
lập công ty bình phong, triển khai điệp viên dưới vỏ bọc du khách ngắn
ngày tới Mỹ, chiêu mộ người Mỹ làm việc cho Nga và xâm nhập mạng máy
tính để đánh cắp dữ liệu.
Các quan chức Mỹ cho biết tình báo Nga từng nhắm vào các lập trình viên
làm việc tại tập đoàn Microsoft ở Seattle bởi sản phẩm của công ty này
được sử dụng trên rất nhiều ứng dụng. Microsoft từ chối bình luận về
thông tin này.
Năm 2010, tòa án Mỹ ra lệnh trục xuất Alexey Karetnikov, điệp viên 23
tuổi người Nga làm việc tại bộ phận thử nghiệm mã lập trình tại cơ sở
của Microsoft ở Richmond.
"Trước kia, Moscow chỉ có một cách làm việc. Giờ đây họ đã áp dụng hàng
nghìn phương án khác nhau", một cựu quan chức cấp cao trong chính quyền
Mỹ mô tả về phương thức hoạt động của tình báo Nga dưới thời Tổng thống
Vladimir Putin, người từng là trung tá tình báo Liên Xô.
Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) thường xuyên theo dõi hoạt động và giám
sát liên lạc giữa những người bị nghi là điệp viên nước ngoài. Tuy
nhiên, sự hiện diện ngày càng lớn của người Nga ở Mỹ cùng sự phổ biến
của các phương thức liên lạc mã hóa trên mạng đã gây khó khăn cho hoạt
động phản gián của FBI.
Washington cho rằng Moscow có hơn 100 điệp viên dưới vỏ bọc nhà ngoại
giao hoạt động ở Mỹ trước vụ trục xuất. Tuy nhiên, một quan chức giấu
tên khẳng định con số thực tế còn cao hơn nhiều, do Mỹ không muốn để lộ
số lượng nhân viên tình báo Nga đang bị giám sát. "Con số thực tế thường
thay đổi, nhưng trung bình là 150 người", quan chức này tiết lộ.
Đặc vụ FBI theo dõi mục tiêu. Ảnh: FBI.
|
"Chúng tôi có hệ thống phản gián rất, rất tốt. Có nhiều người trong FBI
chịu trách nhiệm theo dõi điệp viên nước ngoài và họ làm rất tốt công
việc của mình", ông Robert Litt, cựu cố vấn cho giám đốc Tình báo Quốc
gia Mỹ, tuyên bố.
Tuy nhiên, Mỹ cần ít nhất 10 đặc vụ FBI và cảnh sát để theo dõi một điệp
viên Nga trong vòng 24 giờ. Họ phải giám sát hàng loạt cửa ra vào và
thang máy trong khu vực, liên tục chú ý sự thay đổi về trang phục và
phương tiện đi lại, thậm chí là kiểu tóc của mục tiêu.
Trong các vụ trục xuất trước, điệp viên Nga bị yêu cầu rời khỏi Mỹ
thường giao nhiệm vụ cho những người ở lại hoặc "kẻ ngoài vòng pháp
luật", thuật ngữ chỉ những gián điệp nằm vùng lâu năm và không để lộ sự
liên hệ với chính phủ Nga.
Một chiến thuật của Nga là triển khai lượng lớn nhân viên ngoại giao
cùng lúc, trong đó chỉ có một hoặc hai sĩ quan tình báo, khiến FBI khó
nhận dạng và theo dõi mục tiêu thực sự.
Quan chức tình báo Mỹ cho rằng sau khi trục xuất hàng loạt nhân
viên ngoại giao Nga nghi hoạt động tình báo, Mỹ đang đối diện nguy cơ
không xác định được điệp viên mới mà Nga cử đến là ai. "Đôi khi biết
được họ là ai để theo dõi sẽ tốt hơn", quan chức này nói.
Tử Quỳnh
Những vũ khí điệp viên Liên Xô từng sử dụng
Điệp viên Liên Xô sở hữu nhiều vũ khí cỡ nhỏ, dễ che giấu trong quá trình hoạt động tình báo ở nước ngoài.
Ảnh: Buzzfeed
Nhận xét
Đăng nhận xét