-Mọi người đều mù quáng đi trên con đường đời của mình! Vì đố ai thấy chính xác con đường ấy! -Đến chặng cuối đường đời, hình dáng nó mới hiện lên rõ nét với những nỗi niềm hối tiếc khó nói được thành lời! -Và đời ta, ta không thể đánh giá đúng được mà phải để đời sau đánh giá! - Hiền-ác là hai giá trị tùy thuộc vào nhận thức nên rất dễ chuyển hóa thành nhau. Tuy nhiên chân lý tuyệt đối chỉ có một! -Cuộc sống chân-thiện-mỹ có vẻ như bản năng (!?), không thể bắt chước được!
------------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Vụ ám sát John Lennon vào tối ngày 8 tháng 12 năm 1980
là một trong những sự kiện đáng chú ý nhất của năm 1980 và là một trong
những vụ ám sát nổi tiếng nhất thế giới. Tính tới năm 2014, thủ phạm Mark Chapman hiện vẫn đang thụ án và đã bị từ chối mãn hạn tù 8 lần từ tòa án New York chủ yếu từ sự phản đối từ người vợ của John Lennon, Yoko Ono John Lennon bị ám sát trên đường về nhà riêng tại tòa nhà The Dakota, Manhattan, thành phố New York, Mỹ. Yoko Ono đứng ngay cạnh chồng khi John bị bắn. Cả 2 đều vừa từ phòng thu âm Record Plant Studio sau buổi ghi bài hát "Walking on Thin Ice". John qua đời tại Bệnh viện St. Luke's-Roosevelt khi báo cáo ghi "sốc do mất 80% lượng máu".
Đám tang của John Lennon được tổ chức ngày 10 tháng 12 năm 1980 và Ono quyết định giữ tro của anh thay vì chôn cất. Cái chết của John Lennon
là cái chết của một nghệ sĩ thu hút được nhiều sự quan tâm nhất của thế
giới từ trước tới nay, một phần là vì anh là một trong những người sáng
lập nhóm nhạc Beatles lừng danh.
John Lennon trước vụ ám sát
Chân dung John Lennon
John Lennon (trái) cùng The Beatles tại sân bay JFK, Mỹ trong chuyến lưu diễn năm 1964
John Winston Lennon sinh ngày 9 tháng 10 năm 1940 tại Liverpool, Anh. Bộc lộ tài năng âm nhạc từ nhỏ, John sáng lập ra ban nhạc The Quarrymen ở trường trung học, tiền thân sau này của tứ quái The Beatles huyền thoại của những năm 60-70. Sự thành công của The Beatles
là chìa khóa cho sự nổi tiếng của John khi anh vừa là thủ lĩnh, vừa là
người hát, người sáng tác, người chơi nhạc cụ và là người định hướng cho
ban nhạc. Sau khi The Beatles tan rã năm 1970 vì những khúc mắc liên quan tới Paul McCartney, John Lennon
bắt đầu sự nghiệp solo vô cùng thành công của mình. Hơn hết, John còn
là một nhà hoạt động hòa bình tích cực với những phong trào phản đối
chiến tranh và yêu chuộng tự do.
Năm 1969, John cưới nghệ sĩ Nhật Bản, Yoko Ono. John sau đó đổi tên thành John Ono Lennon. Sau thời kỳ The Beatles, Ono là nhà quản lý và là nguồn động viên lớn nhất cho sự nghiệp và cuộc đời của John Lennon. Hai người sau đó tới định cư tại Mỹ. Họ cùng thành lập ban nhạc Plastic Ono Band và thực hiện những dự án âm nhạc đình đám với sự tham gia của nhiều huyền thoại, trong đó có Mick Jagger, Eric Clapton, Bob Dylan và Elton John. Ono cũng sát cánh bên Lennon trong mọi hoạt động vì hòa bình của anh.
Lennon có hai con trai là Julian Lennon (với người vợ đầu tiên Cynthia Lennon) và Sean Ono Lennon (với Yoko Ono). Năm 2002, trong cuộc bầu chọn "100 người Anh vĩ đại nhất", Lennon được đứng vị trí số 8. Anh cũng có tên trong Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll. Năm 2004, tạp chí Rolling Stone xếp anh thứ 38 trong danh sách "100 nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại" và xếp ban nhạc The Beatles ở vị trí số 1Rolling Stone cũng xếp John Lennon ở vị trí số 5 trong danh sách "100 ca sĩ của mọi thời đại" .
Những buổi phỏng vấn cuối cùng
John Lennon và Yoko Ono
John Lennon có buổi phỏng vấn với tạp chí Rolling Stone vào ngày 5 tháng 12 năm 1980[6][7].
Trong cuộc phỏng vấn, John chia sẻ quan điểm của mình về những nhà phê bình âm nhạc của thời kỳ đó: "Các
nhà phê bình tự dựng lên ảo tưởng về những người nghệ sĩ, nó giống như
một kiểu tôn thờ thần tượng quá mức. Mà thực chất, nghệ sĩ cũng chỉ là
những người bình thường đang nỗ lực hết mình để chinh phục đỉnh cao mà
thôi... Bản thân tôi không thể một lần nữa leo lên đỉnh cao được."
Trớ trêu thay, câu trả lời phỏng vấn tiếp theo này của John Lennon
dường như là một lời cảnh báo trước cho những điều khủng khiếp sẽ xảy
ra: "Tất cả những gì họ muốn là những người hùng đã chết, như Sid Vicious, như James Dean.
Tôi không thích trở thành một người hùng được tưởng nhớ khi đã chết.
Tôi không bao giờ đòi hỏi phải có mọi câu trả lời cho những câu hỏi của
mình trong cuộc sống. Tôi chỉ viết ra trong những bài hát của mình và tự
trả lời các câu hỏi đó trung thực nhất có thế. Nhưng tôi vẫn tin vào
hòa bình, tình yêu và sự thấu hiểu lẫn nhau."
Tối ngày 6 tháng 12 năm 1980, John có buổi phỏng vấn nhỏ hơn tại New York’s Hit Factory. John nói với Radio 1 DJ Andy Peebles rằng anh cảm thấy an toàn và thoải mái trên đường phố New York
John Lennon của ngày 8 tháng 12
14h ngày 8 tháng 12 năm 1980, nhiếp ảnh gia Annie Leibovitz tới căn hộ của John và Yoko để chụp ảnh đôi vợ chồng cho tạp chí Rolling Stone. Leibovitz khẳng định bức ảnh sẽ được đưa lên trang bìa, song chỉ muốn một mình John: "Không ai muốn thấy Ono trên bìa cả" Tuy nhiên Lennon không đồng ý. 15h30', sau khi chụp hình xong, Leibovitz rời khỏi căn hộ.
Sau buổi chụp hình, John thực hiện buổi phỏng vấn cuối cùng với DJ Dave Shojin của đài RKO Radio Network. Tới 17h, vợ chồng John và Yoko rời khỏi The Dakota để tới phòng thu của Record Plant để thu âm ca khúc "Walking on Thin Ice"
Buổi tối thứ hai định mệnh
Động cơ của Mark Chapman
Chapman sinh ngày 10 tháng 5 năm 1955 tại Texas, Mỹ. Xuất thân trong một gia đình bố là phi công cho Không quân Hoa Kỳ và mẹ là y tá, Chapman có được sự giáo dục khá đầy đủ từ họ. Như đông đảo lượng khán giả thời bấy giờ, Chapman thần tượng The Beatles.
Tuy nhiên Chapman có tiền sử tâm thần không bình thường: năm 14 tuổi,
hắn từng tự bỏ nhà ra đi 2 tuần rồi từ đó bắt đầu sử dụng ma túy và các
loại chất gây nghiện. Năm 1975, Chapman tới Hawaii và quyết định tự tử song không thành. Năm 1979, hắn cưới một người phụ nữ Mỹ gốc Nhật.
Chapman luôn bị ám ảnh bởi tiểu thuyết Bắt trẻ đồng xanh, Tám mươi ngày vòng quanh thế giới và John Lennon.
Lời khai của Chapman
Sau khi thực hiện vụ ám sát và bị bắt, Chapman đã khai tất cả những âm mưu và kế hoạch ám sát John Lennon cho cảnh sát và các thẩm phán.
Chapman khai rằng hắn muốn giết John Lennon để được nổi tiếng. Trước mắt hắn, John Lennon
là một thần tượng, một người thành công, một người được cả thế giới
trọng vọng và ngưỡng mộ, còn hắn ta không có gì là nổi bật. Chapman nói:
Vì John Lennon "vĩ đại hơn Chúa Jesus (cuộc phỏng vấn của The Beatles năm 1966)" nên hắn giết John Lennon để khiến John là của riêng hắn Chapman còn xuyên tạc cả lời của ca khúc "Imagine" của John: "Imagine John Lennon dead." ("Cứ tưởng tượng rằng John Lennon chết")
Các giả thuyết khác
Dù Chapman đã tự thú mọi hành vi và kế hoạch trước tòa, và cũng chính vì lý do đó mà Yoko Ono không cho phóng thích hắn cho tới tận ngày nay, tuy nhiên lại có vài giả thuyết khác về động cơ gây án của Mark Chapman.
Cảnh sát đã quá nhanh chóng và dễ dàng bắt được hung thủ. Hai ngay trước khi xảy ra sự kiện này, Chapman đến New York
ở nhà của hội nam thanh niên cơ đốc giáo cách nơi ở Lennon 9 khu phố.
Trước và sau khi cảnh sát hỏi cung, hung thủ vẫn không khai ra động cơ
giết Lennon. Có người cho rằng Chapman bị mắc chứng bệnh Hysteria
cuồng loạn. Những kẻ mắc chứng bệnh này nếu mà bi kích động hay tâm
trạng hưng phấn là không thể kìm chế nổi hành vi của mình. Lennon quan
tâm đến chính trị hơn các thành viên khác trong ban nhạc The Beatles.
Những ca khúc cuối cùng của anh mang ý nghĩa chỉ trích xã hội. Lennon
còn là một nhân vật tích cực của phong trào hòa bình. Vì vậy anh nhiều
lần bị kẻ khác công kích và đe dọa tính mạng. Vào năm 1964, khi ban nhạc
biểu diễn ở Pháp, anh từng nhận được mảnh giấy sau sân khấu "9h tối nay ta sẽ giết ngươi". Đêm hôm đến New York,
Chapman đã thuê xe taxi đến làng Greenwich. Ngày hôm sau, hắn đôt ngột
rời hội thanh niên cơ đốc giáo, chuyển đến khách sạn Hilton. Ở đây, hắn
ăn một bữa thịnh soạn. Tối ngày thứ hai hắn nổ súng bắn chết Lennon. Với
những chi tiết này có người hoài nghi có kẻ thuê Chapman giết Lennon.
Ám sát
Cổng vào tòa nhà The Dakota, nơi John Lennon bị bắn
Chapman có kế hoạch ám sát John từ tháng 10 năm 1980. Hắn tới New York, nhưng phải quay lại Atlanta nên tới tận tháng 11, hắn mới trở lại Manhattan. Sau khi xem bộ phim Ordinary People, hắn đã về Hawaii, nói với vợ rằng hắn từng muốn ám sát John Lennon
song không còn ý định đó nữa. Tháng 12 năm 1980, hắn tới New York và
gặp một bác sĩ tâm lý và hắn tặng cho tên tài xế taxi cocain để đưa tới
tòa nhà The Dakota. Chapman khai đó là ý tưởng từ Bắt trẻ đồng xanh.
Ngày 8 tháng 12 năm 1980, Chapman quyết định phải ám sát được John Lennon. Hắn muốn thực hiện việc đó càng sớm càng tốt. Sáng ngày mùng 8, hắn đã xuất hiện ở The Dakota, song lúc đó John đã ra khỏi nhà. Sự chờ đợi lâu khiến hắn khó chịu, và dần dà thành đổi ý.
Tới chiều, Chapman mới quay lại tòa nhà. 17h05', Lennon cùng Ono ra khỏi The Dakota. Thấy John, Mark Chapman cố gắng tiến sát tới để xin chữ ký và muốn được chụp ảnh cùng. John nhiệt tình đồng ý và còn hỏi "Chỉ vậy thôi sao?" và Chapman mỉm cười. Paul Goresh, một fan hâm mộ cũng đến gặp John lúc đó, đã ghi lại bức ảnh nổi tiếng chụp lại khoảnh khắc ấy. Việc quá dễ tiếp cận John Lennon khiến Mark Chapman quyết định thực hiện vụ ám sát khi John trở lại The Dakota.
Tối ngày 8 tháng 12 năm 1980, mưa không to song rả rích. Ánh đèn từ
trong nhà John lọt qua của sổ trở lên mờ nhạt dưới trời mưa. Lúc này,
Đài truyền hình đang phát cảnh lúc chiều phỏng vấn Lennon do Đài truyền
hình San Fancisco thực hiện, anh đang mỉm cười nói với khán giả: "Chúng
ta hãy cùng nhau cảm ơn một điều rằng tất cả chúng ta đã vượt qua được
những năm tháng khó khăn của sự phân hoá trên toàn cầu, sống qua cuộc chiến tranh Việt Nam và vụ bê bối Watergate
cùng biết bao những biến động khác nữa. Chúng ta đã từng là những người
nổi danh vào những thập niên 60 nhưng thế giới nay đã hoàn toàn khác.
Nó đã thay đổi. Phía trước tôi là một tương lai chưa biết rồi sẽ ra sao
nhưng cho dù thế nào đi chăng nữa thì tôi vẫn luôn còn đây, chừng nào
còn có cuộc sống và hy vọng".
Sau cả ngày làm việc và thu âm, John và Ono rời phòng thu lúc trời đã tối để về nhà trên một chiếc xe hòm đen qua khu Manhattan về toà nhà The Dakota bên Central Park.
Xe dừng lại bên lề đường lúc 22h49'. John bước ra khỏi xe và tiến vào
cổng trước Yoko. Anh đang nghe một trong những bản nhạc của cô, "Walking on Thin Ice".
Khi anh bước vào lối cổng vòm dẫn tới cửa trước, anh nghe một giọng nói
vang lên từ trong bóng tối cách anh vài thước. Giọng nói hỏi: "Ông Lennon?" John quay lại và Mark Chapman
bắn 5 phát đạn từ khẩu P.38 vào lưng và hông của anh trong tầm bắn rất
gần. Một viên đạn trúng cửa sổ của tòa nhà, còn 4 viên còn lại găm thẳng
vào người John. Lúc đó là 22h50' ngày 8 tháng 12 năm 1980.
John lảo đảo bước lên 6 bậc thềm, tới lối vào và chúi qua khung cửa,
ngã vật xuống sàn ngay trong lối vào. Yoko gào lên và chạy tới chỗ anh,
quát tháo tay gác cổng đang bàng hoàng, bảo ông ta gọi xe cấp cứu.
Chapman điềm tĩnh vứt khẩu súng xuống đất và lạnh lùng theo dõi Yoko
đang lay gọi John và kêu cứu. "Ngươi có biết mình đã làm gì không?" người gác cổng của The Dakota thét lên. "Tôi vừa bắn John Lennon",
Chapman đáp lại một cách thản nhiên. Người thường trực ngay lập tức
quay số điện thoại gọi cảnh sát và nhanh chân đá tung khẩu súng của
Chapman đang nằm dưới đất ra xa. Lúc gục xuống, trên tay John vẫn là bản
thu âm "Walking in Thin Ice" của Yoko Ono.
Hai phút sau, một xe cảnh sát tới và hai cảnh sát dí Chapman vào
tường, vài thước cách chỗ John đang nằm trên vũng máu. Nhận thấy không
thể chờ xe cứu thương, một trong các sĩ quan cảnh sát đã chở John bằng
xe tuần tra và phóng tới bệnh viện gần nhất, Bệnh viện St.
Luke's-Roosevelt trên đường 58th. Tổ cấp cứu của bệnh viện đã được báo
trước bằng một cú truyền tin vô tuyến từ xe cảnh sát. Hơn 20 bác sĩ và y
tá đã chiến đấu để cứu John nhưng đó là một công việc không thể thực
hiện được: 23h15', John đã chết vì mất máu khi tới bệnh viện.
Bắt giữ và quyết định của tòa án
Tòa án sơ thẩm New York tại Đại lộ Madison, nơi tuyên án Mark Chapman
Chỉ 2' sau khi nhận được tin báo, cảnh sát New York đã tới ngay hiện trường. Mark Chapman vẫn thư thái hút thuốc và không hề có bất kỳ phản kháng nào trước lệnh bắt giữ của cảnh sát.
Hôm sau, trước cảnh sát New York, hắn bị thẩm vấn ngắn gọn 15', trước khi được chờ điều tra và đưa ra kết án ở tòa án thành phố. Ngày 18 tháng 12 năm 1980, Mark David Chapman thú nhận mọi hành vi tội ác trước các công tố viên và khẳng định hắn là thủ phạm duy nhất.
Mark Chapman hầu tòa lần đầu tiên vào ngày 29 tháng 1 năm 1981. Lần thứ hai vào ngày 22 tháng 6 và tới lần thứ 3 vào tháng 8, thẩm phán Edwards tuyên bố Chapman có nhiều vấn đề về thần kinh và tâm lý cần điều trị. Luật sư của gia đình Lennon giải thích với Chapman rằng cần phải trả giá cho "hành động tội ác cực kỳ nghiêm trọng trong quá khứ". Tòa án New York lý luận thêm: "Bắn John Lennon, ông Chapman đã làm tổn thương bà Yoko Ono
bởi bà này phải trực tiếp chứng kiến cảnh chồng mình bị giết. Trong
suốt quá trình thẩm vấn, ông Chapman nói hành động giết người là hệ quả
của việc tinh thần bị kích động quá mức. Cho dù điều này có thực đi
chăng nữa, Chapman vẫn không thể được tự do. Ân xá cho người này có thể
làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của luật pháp" Yoko Ono
không tới tham dự các phiên xử, song tuyên bố sẽ chỉ đồng ý kí vào đơn
làm chứng khi tòa tuyên án mức cao nhất đối với kẻ sát nhân. Với hàng
loạt tội danh nghiêm trọng, Mark Chapman bị tuyên án tù chung thân quản
thúc tại Trung tâm Phục hồi nhân phẩm Attica - một nhà tù nổi tiếng
nghiêm ngặt ở thành phố New York và chỉ được ân xá dưới sự chấp thuận từ
Yoko Ono Tuy nhiên, các thẩm phán yêu cầu Chapman phải được điều trị tâm lý trong vòng 20 năm và tối đa là 25 năm
Đơn xin kháng án của Mark Chapman
Năm 2000, sau 20 năm thụ án, Chapman có quyền xin ân xá lần đầu tiên. Trong bức thư hắn viết: "Tôi tin rằng anh ấy (John Lennon) sẽ độ lượng và muốn tôi trở thành một công dân tự do". Trong những bức thư xin ân xá lần thứ 2 và thứ 3, Chapman cũng chỉ đưa ra lý lẽ tương tự, và tất nhiên, tòa án New York đều không thể chấp nhận được lý do quá ngớ ngẩn đó.
Những người thân của người nghệ sĩ thiên tài chưa nguôi cơn giận. Trả lời phỏng vấn trước phiên tòa ân xá năm 2004, Yoko Ono kịch liệt phản đối việc ân xá cho Chapman: "Tôi lo lắng cho sự an toàn của mình và 2 người con trai của John là Julian và Sean. Nếu Chapman được trả tự do, tính mạng chúng tôi có thể bị đe dọa". Một người em gái cùng cha khác mẹ của John Lennon cũng lên tiếng phản đối việc ân xá: "Tất
cả chúng tôi, kể cả Yoko, đều viết vào hồ sơ của tòa án rằng chưa thể
trả tự do cho Chapman dù ông ấy đã ở tù gần 25 năm. Quyết định cuối cùng
thuộc về tòa án nhưng tôi nghĩ rằng, trả tự do cho Chapman có thể khiến
tính mạng của cả ông ấy và chúng tôi bị đe dọa. Tòa án nên xem xét đến
yếu tố này trước khi quyết định".
Chapman từng viết: "Có một dòng điện cảm xúc chạy trong máu tôi.
Hoàn toàn không có sự giận dữ. Một sự trống rỗng bao trùm. Trong đầu
tôi, sự im lặng chết chóc lan tỏa. Im lặng, lạnh lùng và trống rỗng cho
đến khi John bước tới. Ông ấy nhìn tôi và bước đi. Trong đầu tôi bỗng
vang lên câu lệnh: "Hành động! Hành động! Hành động!". Câu nói đó lặp đi lặp lại và chỉ chịu kết thúc sau khi khẩu súng trong tay tôi rung lên." Thực tế, sau khi sát hại John Lennon,
Chapman không hề có ý định biến khỏi hiện trường hoặc chống cự, đó là
những hành động chỉ có ở một kẻ sát nhân tâm thần. Thế nhưng, những chi
tiết này không mảy may giúp ích cho nỗ lực đến với thế giới tự do của
Chapman.
Các quan tòa New York
cũng đã nghiên cứu rất kỹ hồ sơ ngồi tù của Chapman. Trong suốt thời
gian thụ án, tù nhân đặc biệt này đã hoàn tất một khóa học về luật và
kinh tế. Hắn luôn tỏ ra ăn năn, hối cải và có nhiều đóng góp tích cực
cho nhà tù .
Nhìn hắn xuất hiện trước tòa, ít ai nghĩ rằng hắn từng là kẻ đã sát hại
một tượng đài âm nhạc thế giới. Nếu giết một người khác chứ không phải
Lennon của The Beatles huyền thoại, có lẽ Mark Chapman đã được ân xá từ rất lâu.
Năm 2004, trong bức thư gửi lên tòa án New York,
Chapman trình bày rằng hắn bắn Lennon vì muốn trở nên nổi tiếng, vì hắn
không là gì của xã hội; nhưng sau khi ám sát Lennon, thậm chí hắn còn
không còn được một cuộc sống như trước, vì thế hắn mong muốn được ân xá
để làm người công dân.
Có một thực tế là rất nhiều fan cuồng của John Lennon đã tuyên bố sẽ giết Mark Chapman
nếu có cơ hội. Ở Attica, Chapman cũng được bố trí trong một khu riêng
biệt và mỗi lần hắn được về thăm gia đình, gã tù nhân đặc biệt luôn được
hộ tống bởi một nhóm bảo vệ. Chapman vẫn viết đơn xin ân xá 2 năm/lần
song chưa từng được chấp thuận.
Phản ứng của The Beatles
Paul McCartney
Buổi sáng ngày 9 tháng 12, Paul bật dậy khi nghe tin Lennon bị ám sát bên ngoài căn hộ The Dakota.
Buổi tối ngày mùng 9 đó, khi Paul bước ra khỏi phòng thu trên đường
Oxford, một đám đông phóng viên bao quanh chờ đợi. Khi được hỏi về phản
ứng của mình về cái chết của Lennon, Paul trả lời: "Tôi thực sự bị sốc, đây là một tin tức tồi tệ." Paul cũng nói rằng anh đã ngồi ở studio cả ngày vì không muốn về nhà. Sau đó, anh nói thêm "Đó là một trở ngại sao? (It's a drag? Isn't it?)" Khi lời nói này được công bố, từ drag
của Paul bị chỉ trích và mọi người lại rộ lên về một mối bất hòa dai
dẳng của cặp John và Paul. Trong một cuộc phỏng vấn tiếp theo, Paul đính
chính lại rằng anh không hề có ý thiếu tôn trọng mà chỉ vì đơn giản là
anh không biết nói gì hơn sau khi thực sự buồn và sốc vì cái chết của
John.
Năm 1984,
Paul kể lại rằng buổi tối hôm đó (sau khi biết tin dữ) anh đã trở về
nhà và xem TV cùng với các con. Và anh đã khóc cả buổi tối. Paul cũng kể
rằng cú điện thoại cuối cùng với John diễn ra ngay trước khi Lennon và
Yoko phát hành album Double Fantasy.
Nói về John, Paul nói: "Một gã thiên tài, có đi khắp thế giới cũng không tìm được một tay như thế."
Chính Paul McCartney là người đề cử John Lennon vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll năm 1994 trong sự hoan nghênh nhiệt liệt từ Yoko Ono và người hâm mộ
George Harrison
George Harrison bị sốc khá lớn khi nghe tin về cái chết của John. Song với tính cách của "Beatle trầm lặng" (the quiet Beatle),
Harrison chủ yếu thể hiện bằng việc tham gia nhiệt tình ủng hộ mọi hoạt
động tưởng nhớ về Lennon chứ không có bất kể tuyên bố hay phát biểu
nào.
Ám ảnh về vụ ám sát John Lennon còn thêm sâu sắc với Harrison khi cuối năm 1999, George bị một kẻ tâm thần tương tự dùng dao tấn công tại nhà riêng của ông tại Henley-on-Thames.
Dù bị trọng thương và bất tỉnh ngay tức khắc, song nhờ có sự giúp đỡ
của vợ, tên sát nhân bị khống chế và George được đưa tới bệnh viện kịp
thời. Harrison thoát khỏi tử thần, tuy nhiên anh phải nằm viện 3 tháng
và từ đó ít tiếp xúc với báo chí và các dự án âm nhạc cho tới khi qua
đời vì ung thư phổi năm 2001.
Ringo Starr
Ringo Starr là người hoạt động tích cực nhất để tôn vinh John Lennon sau khi anh bị ám sát. Trong mọi hoạt động tưởng niệm, Ringo luôn đứng ra là người đại diện cho The Beatles để phát biểu và anh luôn nhắc tới John (tới năm 1993, mọi xung đột giữa Paul McCartney với Yoko Ono mới kết thúc và tới tận lúc đó, Paul mới trở lại là người phát ngôn chính thức của The Beatles).
Hoạt động tưởng niệm
Tháng 6 năm 1981, 3 thành viên còn lại của The Beatles tái hợp trong bài hát "All Those Years Ago" (sáng tác George Harrison) nói về những hồi tưởng về thủ lĩnh của họ. Paul còn có thu âm một bài hát riêng "Here Today" để tưởng nhớ John. Năm 1995, 3 thành viên The Beatles hoàn thành việc thu âm bài hát "Free as a Bird" từ một bản thu cassette từ năm 1978 của John. Videoclip bài hát ghi lại quá trình hoạt động của The Beatles đi cùng với cuộc đời của John Lennon. Năm 1997, bài hát được trao giải Grammy cho trình bày xuất sắc nhất (dưới tên The Beatles).
Năm 1995, Paul McCartney, George Harrison và Ringo Starr cho ra mắt bộ album The Beatles Anthology gồm các cảnh quay, hậu trường và cả những bài hát chưa thu của nhóm. Bộ album 3 phần được phát hành đầy đủ trong năm 1996. Đây chính là bộ album duy nhất kể về những điều chưa từng biết về John Lennon và The Beatles
trước và sau khi tan rã (1970). Theo Paul, album là sự hồi tưởng về
những vinh quang và cuộc đời của John, người thủ lĩnh bạc mệnh của ban
nhạc.
Đánh giá của báo chí
Bức ảnh chụp vợ chồng Lennon ngày 8 tháng 12 bởi Annie Leibovitz được chọn làm ảnh bìa của tạp chí Rolling Stone số tháng 1 năm 1981.
Trong ngày 9 tháng 12, tin tức về vụ ám sát John Lennon xuất hiện trên tất cả các trang nhất của các báo ở Mỹ và châu Âu. Các đài phát thanh và đài truyền hình cũng nhanh chóng hoàn thành tin tức bằng việc đưa tin trong bản tin sáng sớm. Tờ Time viết rất ngắn gọn "When the Music Died" trong số báo ra ngày 22 tháng 12 năm 1980 với chân dung John Lennon vẽ bằng màu ở trang bìa Tổng thống Mỹ lúc đó là Jimmy Carter cũng gửi lời chia sẻ tới Yoko Ono qua một bức thư tới gia đình Lennon. Tổng thống kế nhiệm ông, Ronald Reagan sau đó cũng gửi những lời chia buồn tới Ono (khi John bị ám sát, kết quả bầu cử tổng thống Mỹ năm 1980 đã ngã ngũ vào cuối tháng 11 và Reagan chắc chắn sẽ trở thành Tổng thống Mỹ vào năm 1981) và khẳng định: "John không là người Mỹ song John là niềm tự hào với nước Mỹ, và là niềm tự hào của toàn nhân loại."
Theo kết quả điều tra của kênh âm nhạc VH1 từ các nhân vật tên tuổi ở Anh và Mỹ,
vụ ám sát John Lennon được coi là sự kiện gây sốc nhất trong âm nhạc.
Vụ ám sát đã đứng đầu danh sách 100 thảm hoạ tồi tệ nhất trong lịch sử
nhạc Rock và Pop. Tờ Q đánh giá John Lennon là nghệ sĩ vĩ đại nhất của lịch sử từng bị ám sát. Rolling Stone gọi cái chết của John là "điều không thể bù đắp".
Nhiều báo coi vụ ám sát John Lennon là một trong những vụ ám sát chấn động nhất lịch sử thế giới
Truy điệu và tưởng nhớ
Lễ truy điệu John Lennon
Dòng người hâm mộ đưa tiễn John Lennon phía ngoài nghĩa trang Ferncliff
John Lennon được truy điệu tại nghĩa trang Ferncliff, Hastdale, New York ngày 10 tháng 12 năm 1980. Lễ tang có sự góp mặt của rất nhiều nhân vật nổi tiếng, từ thị trưởng thành phố New York và các nhân vật tên tuổi của nước Mỹ tới các con người ảnh hưởng vô cùng lớn tới sự nghiệp của anh như The Beatles, The Rolling Stones, Eric Clapton, Bob Dylan, Frank Sinatra, Elton John, George Martin,... Vợ cũ của John, Cynthia và con trai Julian Lennon cũng có mặt. Tại tang lễ, khoảng hơn 225.000 người cùng với khoảng 7.000 nhân viên an ninh đã tới quanh nghĩa trang.
Tuy nhiên, Yoko Ono quyết định hỏa táng John thay vì chôn cất nên lễ truy điệu chỉ mang tính tượng trưng[35][36]. Lý do nào khiến Ono quyết định hỏa thiêu John vẫn còn là bí ẩn. Ono nói bà sẽ viết hết về John và The Beatles
trong cuốn tự truyện phát hành năm 2015. Song đã có nhiều suy đoán,
rằng Ono làm vậy vì John Lennon đã từng viết về việc hỏa táng trong ca
khúc của mình (ca khúc "Please Freeze Me"?),
có suy đoán rằng Ono không muốn rằng mộ của John sau này sẽ bị đào bới,
v.v. Cũng chính vì việc này mà nhiều người hâm mộ John đã chỉ trích gay
gắt Yoko Ono
MacDougal, người đã có mặt tại buổi hỏa táng, viết trong cuốn sách Những ngày cuối của John Lennon,
cho biết rằng khuôn mặt của John đã vô cùng thanh thản và bình tĩnh cho
đến khi anh được đưa vào lò hỏa thiêu. Sau đó, đột nhiên nó biến thành
một "nụ cười đau đớn rùng rợn", đầy những nếp nhăn
Phản ứng của người hâm mộ và đồng nghiệp
Bức tường John Lennon ở Praha, Cộng hòa Séc
Tin tức về cái chết của John Lennon được đưa lên ngay trong chương trình tối ngày 8 tháng 12. Howard Cosell, phóng viên đài ABC, huyền thoại môn bóng đá Mỹ, từng phỏng vấn John năm 1974 cũng trên MNF, là người thông báo thông tin với đại chúng trong giờ nghỉ giữa 2 hiệp của trận đấu bóng đá tối thứ hai giữa Miami Dolphins và New England Patroits
"Chúng tôi phải nói với các bạn điều này. Cho dù đây chỉ là một
trận bóng đá, bất kể ai thắng ai bại. Một bi kịch vừa xảy ra, được khẳng
định từ ABC News. John Lennon, ở bên ngoài căn hộ ở phía Tây thành phố
New York, người có lẽ là nổi tiếng nhất trong nhóm Beatles, đã bị bắn
hai phát đạn từ sau lưng, và chết trên đường đến bệnh viện Roosevelt."
Yoko đã phải nhờ truyền hình mong muốn họ không phát tin John bị ám sát vì sợ Sean sẽ bị sốc. Ono nói: "John chưa hề chết. Anh ấy luôn yêu quý toàn thể nhân loại. Xin hãy làm điều tương tự với anh ấy. Yoko và Sean"
Trong buổi phỏng vấn năm 2006, Ono xúc động nhớ lại: "Chúng
tôi trở về từ phòng thu và tôi gợi ý là chúng tôi nên đi ăn tối trước
khi trở về nhà nhưng John lại muốn về nhà và gặp Sean trước giờ đi ngủ
của nó. Và thế là điều tồi tệ đó xảy ra".
Ước tính có khoảng 200 người đã tới Bệnh viện St. Luke's-Roosevelt
ngay lúc đó để thắp nến và cầu nguyện, và đám đông trở thành hơn 1000
người vào sáng hôm sau. Tuy nhiên mọi chuyện đã quá muộn khi John đã qua
đời không bao lâu sau khi tới bệnh viện. Ít nhất có 2 người tự sát sau
khi nghe tin về cái chết của Lennon
Báo chí vào cuộc và chỉ trong ngày 9 tháng 12 năm 1980, cả Bắc Mỹ và toàn châu Âu đã nhận được tin về cái chết của John. Từ nước Anh, sau The Beatles, The Rolling Stones và The Who đều gọi đó là "một mất mát ghê gớm". Elton John gọi đó là cái chết lớn nhất sau sự ra đi của Elvis Presley. Eric Clapton quyết định bỏ dở kế hoạch thu âm album để tới New York ngay lập tức.
Ở Liverpool,
quê hương John và The Beatles, hàng nghìn người đổ ra đường trong ngày
thứ tư, 10 tháng 12, để hát và thắp nến cầu nguyện cho John Lennon.
Ngày chủ nhật 14 tháng 12 năm 1980, chừng ba mươi ngàn người đã tham dự lễ tưởng niệm John tại Công viên trung tâm thành phố New York.
Yoko Ono đặt hoa tại Strawberry Fields năm 2005
Năm 1991, John Lennon được trao giải Grammy Thành tựu trọn đời. Yoko Ono và con trai của họ, Sean Ono Lennon, là những người tới buổi lễ và nhận giải thưởng . Năm 1994, nhân ngày có lệnh ngừng bắn với Georgia, nước cộng hòa Abkhazia đã cho phát hành bộ tem in hình John Lennon và Groucho Marx thay vì hình 2 lãnh tụ Vladimir Lenin và Karl Marx. 20 năm sau ngày Lennon bị ám sát, Chủ tịch Fidel Castro khánh thành bức tượng John Lennon bằng đồng ở một công viên ở thủ đô La Habana. Năm 2000, bảo tàng John Lennon mở cửa ở thành phố Saitama, Nhật Bản (đóng cửa vào tháng 9 năm 2010) Cùng năm 2000, sân bay thành phố Livepool được đổi tên thành sân bay John Lennon Liverpool. Một tiểu hành tinh phát hiện năm 1983 được đặt theo John Lennon (4147 Lennon). Ngày 9 tháng 12 năm 2006, một tấm bia tưởng niệm John được dựng thành phố Puebla, México. Ngày 9 tháng 12 năm 2007, một công trình tưởng niệm John mang tên Tháp Imagine Hòa bình được dựng ở đảo Viðey, Iceland và vẫn được thắp sáng từ ngày 9 tháng 10 tới 8 tháng 12 hằng năm.
30 năm sau vụ ám sát, tạp chí Rolling Stone mới công bố đầy đủ hết tất cả buổi phỏng vấn cuối cùng với John Lennon, thực hiện bởi Jonathan Cott ngày 5 tháng 12 năm 1980 trong một ấn phẩm đặc biệt dành riêng cho John, phát hành đúng ngày 8 tháng 12 năm 2010.
Ấn phẩm đặc biệt cũng dành thêm những chi tiết cho những bài viết trước
và sau vụ ám sát và những bài phỏng vấn John trong năm 1980 cùng với những video, những album gắn liền với John và The Beatles. Trong ấn phẩm có cả những bài hát tưởng nhớ John và cả những bài hát của Yoko Ono tặng tới John. Yoko Ono nói vào ngày 8 tháng 12 năm 2010: "Trong
ngày tưởng nhớ bi kịch xảy ra với John, hãy cùng tôi bày tỏ tình yêu
sâu sắc và sự tôn trọng đối với anh ấy. 40 năm ngắn ngủi trong cuộc đời
mình, anh ấy đã trao tặng thế giới này quá nhiều thứ. Cả thế giới thật
may mắn khi được biết đến John, đến ngày hôm nay, chúng tôi vẫn còn học
được rất nhiều điều từ anh. Chúng tôi yêu anh, John".
Strawberry Fields
Khảm đá Imagine tại Strawberry Fields
Năm 1985, chính quyền thành phố New York quyết định lấy một góc của Công viên trung tâm thành phố, đối diện toà nhà The Dakota thành nơi tưởng niệm John Lennon. Công viên là nơi John vẫn thường đi dạo. Khu vực đó được đặt tên là Strawberry Fields – lấy tên từ sáng tác nổi tiếng của John cho The Beatles, "Strawberry Fields Forever". Chỉ là một khoảng không gian rất nhỏ, song Strawberry Fields
nhận được sự quan tâm của đông đảo người hâm mộ. Rất nhiều quốc gia đã
gửi mọi loại cây và hoa tới trồng ở khu vực tưởng niệm. Những loại cây
được tặng đều là những loại cây quý và có thể dễ dàng nhận ra từ nhiều
góc trong công viên. Hơn hết, thành phố Napoli của Italia gửi tặng một bức khảm bằng đá ở trên có ghi Imagine - tên của bài hát nổi tiếng của John Lennon. Strawberry Fields là địa danh tưởng niệm John Lennon nổi tiếng nhất thế giới. Ước tính có khoảng 2-3 triệu lượt khách tới Strawberry Fields mỗi năm. Hằng năm, rất nhiều người hâm mộ tới đặt hoa, ảnh, guitar và vô vàn đồ vật liên quan tới John đặt tại đây. Khu vực Imagine luôn là khu vực thu hút nhiều người tới nhất. Năm 2010, trong dịp kỉ niệm 30 năm ngày mất của John, bất chấp giá rét, khoảng 600 người hâm mộ đã ở quanh khu vực Imagine suốt đêm để hát và thắp nến tưởng nhớ John.
17h05': Vợ chồng John Lennon ra khỏi tòa nhà The Dakota để tới phòng thu. John kí tặng lên bìa đĩa của một thanh niên to lớn; đó chính là Mark Chapman. 17h25': John và Yoko tới phòng thu. 22h30': Vợ chồng Lennon rời trường thu về nhà ăn tối. 22h48': Vợ chồng Lennon về tới trước cửa Dakota Forum. 22h50':"Xin chào ông Lennon!". Chapman lên tiếng gọi
khi John vừa xuống xe, và lập tức nã liền năm phát đạn vào John. John bị
trọng thương nhưng anh vẫn cố lê được sáu bước chân về phía cửa phòng
thường trực, thều thào nói "Tôi bị bắn rồi" và gục ngã ngay trước mắt vợ. 22h52': Chiếc xe cảnh sát đầu tiên đã tới. Chapman ngoan ngoãn
đầu hàng mà không có một phản kháng nào. Một người cảnh sát lập tức
khiêng John lên xe và cùng Yoko đưa ngay đến bệnh viện cấp cứu gần nhất. 23h15':John Lennon qua đời khi tới Bệnh viện St. Luke's-Roosevelt do mất quá nhiều máu.
Nguồn: John Lennon & The Beatles
John Lennon - người nghệ sĩ tài hoa của nền âm nhạc thế giới
Những năm đầu tiên
Ca sĩ kiêm nhạc sĩ nổi tiếng John Winston Lennon sinh ngày
09/10/1940 tại thành phố Liverpool, Anh. Từ khi lên 4, do hôn nhân của
cha mẹ tan vỡ, John Lennon chủ yếu sống với dì Mimi. Tuy không sống
cùng nhưng mẹ ông, bà Julia, là người đã dạy Lennon cách chơi đàn
banjo, đàn piano và là người mua tặng Lennon cây đàn guitar đầu tiên.
Năm 1958, bà Julia qua đời trong một vụ tai nạn xe hơi. Cái chết của bà
là nỗi đau buồn lớn nhất trong cuộc đời của John Lennon.
John Lennon - Ảnh: tumblr.com
Khi còn là một đứa trẻ, John lennon rất nghịch ngợm nên thường gặp
phải nhiều rắc rối. Ông thích vẽ các nhân vật kỳ quái hay những người
què quặt. Các thầy cô tin rằng John Lennon có khả năng thi đậu vào các
trường đại học chuyên về nghệ thuật vì ông luôn bộc lộ năng khiếu trong
lĩnh vực này. Thành lập ban nhạc The Beatles
Sự bùng nổ của ông vua nhạc rock Elvis Presley đã truyền cảm hứng
cho cậu bé 16 tuổi John Lennon thành lập ban nhạc skiffle mang tên
Quarrymen. John Lennon lần đầu gặp Paul McCartney trong một buổi lễ
được tổ chức tại nhà thờ vào ngày 06/07/1957. Ông sớm mời Paul
McCartney gia nhập nhóm, từ đó hai người đã tạo thành một trong những
bộ đôi sáng tác thành công nhất trong lịch sử âm nhạc.
1 năm sau đó, McCartney đã giới thiệu George Harrison với John
Lennon. Một người bạn khác học cùng trường nghệ thuật với Lennon là
Stuart Sutcliffe đã cùng với George Harrison gia nhập nhóm. Vì còn thiếu
một tay trống, năm 1960 Pete Best đã trở thành thành viên chơi trống
của ban nhạc.
Quarrymen chính thức đổi tên thành The Beatles vào năm 1960 tại
Liverpool, Anh. Với vai trò là quản lý mới, Brian Epstein đảm bảo cho
nhóm một bản hợp đồng với hãng thu âm nổi tiếng EMI. Lúc này, tay trống
mới của nhóm là Ringo Starr thay thế cho Pete Best. Tháng 10/1962, nhóm
phát hành đĩa đơn đầu tiên "Love Me Do", đạt vị trí thứ 17 trên bảng xếp hạng UK Singles Chart.
Ban nhạc The Beatles - Ảnh: musicradar.com
Tiếp theo, nhóm ra mắt single thứ 2 "Please Please Me", đứng
đầu các bảng xếp hạng âm nhạc ở Anh. The Beatles tiếp tục chứng minh
vị trí số 1 của mình với các đĩa đơn đình đám khác như "She Loves You" và "I Want To Hold Your Hand".
Năm 1962, Lennon kết hôn với Cynthia Powell. Cặp đôi có một cậu con
trai tên là Julian, được đặt theo tên của mẹ Lennon. Tuy nhiên, đến năm
1968, Lennon và vợ ly hôn. Vào ngày 20/03/1969, Lennon tái hôn với nữ
nghệ sĩ người Nhật Bản Yoko Ono. Sự tan rã của ban nhạc The Beatles
The Beatles chịu cú sốc lớn khi người quản lý Epstein đột ngột qua
đời vào ngày 27/08/1967 do sử sụng thuốc ngủ quá liều. Từ đó, ban nhạc
hoạt động dưới sự phụ trách của McCartney. Bộ phim Magical Mystery Tour do chính The Beatles sản xuất bị chỉ trích gay gắt, nhưng bản soundtrack do Lennon hát "I Am The Walrus" lại nhận được sự thành công vang dội.
Bộ phim Magical Mystery Tour không đạt được thành công về
mặt thương mại, The Beatles tìm đến thiền sư Maharishi Mahesh Yogi của
Ấn Độ để nghe ông giảng về Thiền siêu Việt. Nỗ lực tiếp theo của nhóm
là thành lập công ty Apple Corps Ltd. nhưng lại thiếu mất sự quản lý,
điều hành chuyên nghiệp.
Cũng trong thời gian này, chuyện kết hôn của Lennon và Ono đã gây ra
những căng thẳng nghiêm trọng trong nội bộ nhóm. Năm 1969, Lennon và
Ono thành lập Plastic Ono Band và phát hành đĩa đơn “Give Peace a Chance”.
Lennon chính thức rời khỏi The Beatles vào tháng 09/1969 ngay sau khi nhóm hoàn thành album phòng thu Abbey Road. Thông tin nhóm tan rã được giữ bí mật cho đến khi McCartney tuyên bố rời khỏi nhóm vào tháng 04/1970. Sự nghiệp solo
Không lâu sau khi The Beatles tan rã, Lennon phát hành album solo đầu tay mang tên John Lennon/Plastic Ono Band. Năm 1971, ông tiếp tục ra album Imagine
rất thành công về mặt thương mại và nhận được nhiều lời khen từ giới
phê bình. Ca khúc chủ đề của album này đã trở thành bài thánh ca cho
các phong trào chống chiến tranh lúc bấy giờ.
Lennon và Ono di chuyển đến Mỹ vào tháng 09/1971 nhưng liên tục bị
chính quyền Nixon đe dọa trục xuất. Lennon nói rằng ông bị đuổi ra khỏi
nước Anh vào năm 1968 do sử dụng cần sa nhưng nguyên nhân chính là do
ông đã lên án mạnh mẽ cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam.
John Lennon và Yoko Ono - Ảnh: wikipedia.org
Năm 1972, trong khi vẫn tiếp tục chiến đấu với cơ quan lưu trú để
được ở lại Mỹ, Lennon đã tham gia biểu diễn ở Madison Square Garden,
thành phố New York nhằm quyên góp tiền ủng hộ trẻ em khuyết tật và tiếp
tục kêu gọi hòa bình. Năm 1973, hôn nhân của ông và Ono tan vỡ. Lennon
chuyển đến sống ở Los Angeles, California. Ông tiếp tục phát hành các
album mới như Mind Games (1973), Walls and Bridges (1974) và Rock 'n' Roll (1975). Trong thời gian này, Lennon hợp tác bới David Bowie và Elton John.
Lennon và Ono tái hợp vào năm 1974, họ có với nhau một đứa con trai
tên Sean khi Lennon 35 tuổi. Ngay sau đó, Lennon quyết định tạm ngưng
sự nghiệp âm nhạc để tập trung vào vai trò làm chồng, làm cha. Cái chết bi thảm
Năm 1980, Lennon trở lại với âm nhạc bằng việc ra mắt album Double Fantasy với bản hit "(Just Like) Starting Over".
Buồn thay, chỉ vài tuần sau khi album phát hành, Lennon bị một người
hâm mộ loạn trí bắn ngay trước nhà của mình ở thành phố New York. Ông
qua đời tại bệnh viện Roosevelt vào ngày 08/12/1980 ở tuổi 40.
Cái chết bi thảm của John Lennon đã để lại sự tiếc thương vô vàng
đối với người hâm mộ trên toàn thế giới. Với những đóng góp của mình
cho nền âm nhạc, Lennon được vinh danh tại Songwriters Hall of Fame vào
năm 1987 và Rock and Roll Hall of Fame vào năm 1994.
Mỹ Hằng
Theo biography.com
Yoko Ono, nguồn cảm hứng bất tận của John Lennon (kỳ 1): Nàng thơ bị ghét bỏ
(Thethaovanhoa.vn) - Từ
khi gặp nhau, John Lennon không rời Yoko Ono và cùng nhau họ làm mọi
thứ, từ viết nhạc cho tới hoạt động vì hòa bình. John bỏ người vợ đầu
Cynthia và nghỉ chơi luôn cả hội bạn cũ Beatles cũng chỉ vì Yoko, tình
yêu đích thực của ông.
Bé
nhỏ, luôn ẩn mình sau mái tóc đen dày và dài rất châu Á, Yoko không
phải là một phụ nữ đẹp. Bà không thể đẹp bằng Pattie Boyd, vợ của George
Harrison, người ở cùng ban nhạc với John. Nhưng cuộc hội ngộ của John
và Yoko là duyên kỳ ngộ giữa 2 tâm hồn nghệ sĩ đồng điệu. Một
người là ca sĩ, nhạc sĩ vĩ đại, còn một người là nghệ sĩ, họa sĩ theo
trường phái avant-garde (tiên phong). Họ đều là những người luôn làm mọi
thứ theo cách khác biệt. Gặp nhau nhờ trí tưởng tượng Đó là năm 1966. Triển lãm Những bức vẽ và tác phẩm dang dở của
Yoko được mở ở phòng tranh Indica tại London. Chủ phòng tranh, John
Dunbar, đã dẫn John đến xem triển lãm và giới thiệu ông với tác giả,
người hơn ông 7 tuổi. Theo
lời kể của John được ghi lại trong tập bài phỏng vấn All We Are Saying
của David Sheff, John đã gặp Yoko qua nghệ thuật trước khi gặp mặt trực
tiếp. Ông đứng trước tác phẩm sắp đặt là một chiếc búa kèm lời yêu cầu
người xem: “Hãy dùng búa để đóng đinh vào tác phẩm”.
John
Lennon và Yoko Ono trong bộ phim tài liệu Bed Peace (Chiếc giường hòa
bình) năm 1969 phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.
Khi
John đề nghị được đóng đinh thì Yoko bước đến và khước từ, vì ngày hôm
sau triển lãm mới khai mạc. Lúc đó, Dunbar xen ngang và nói với Yoko về
John: “Anh ta là một triệu phú. Anh ta có thể mua tác phẩm này đấy”. Nhưng
Yoko vẫn kiên quyết giữ tác phẩm không tì vết trước ngày khai mạc.
Thuyết phục qua lại, Yoko nhượng bộ: “Thôi được, anh có thể đóng 1 cái
đinh với giá 5 shilling”. John nói: “Tôi sẽ đưa cho cô 5 shilling tưởng
tượng và đóng 1 cái đinh tưởng tượng”. "Đó
là lúc chúng tôi thực sự gặp nhau” – John nói với David Sheff - “Mắt
chúng tôi gặp nhau, cô ấy nhận ra điều đó (sự đồng điệu), tôi nhận ra
điều đó và chuyện là như thế”. “Tưởng tượng” là từ John đã nói về cuộc
gặp gỡ, sau này trở thành tên một trong những bài hát nổi tiếng nhất của
ông là Imagine. Tưởng tượng cũng là âm hưởng chính trong các sáng tác của Yoko thời kỳ đó. Cuộc
gặp gỡ định mệnh tác động lớn đến đâu với John? “Hội chiến hữu cũ đã
trở thành dĩ vãng” – ông nói - “Tôi gặp Yoko giống như bạn gặp người phụ
nữ đầu tiên của đời mình. Bạn rời bỏ các quán bar, bạn không thiết chơi
bóng đá và bi-a nữa. Bạn biết cảm giác “Chuông đám cưới rung lên và hội
bạn cũ tan rã”. Tôi chưa từng có cảm giác đó cho đến khi gặp Yoko”. Được và mất khi ở bên nhau “Yoko mất gì khi đến với John?” là câu hỏi lâu nay ít nhận được sự quan tâm. Cần
biết rằng từ những năm 1960, Yoko đã bắt đầu có những tác phẩm trình
diễn, kiểu chui vào những chiếc túi đen lớn ngồi nhìn khán giả, quỳ trên
sân khấu và đập đầu xuống sàn diễn, hay quỳ trên sân khấu và để khán
giả cầm kéo cắt xẻo trang phục. Với những màn trình diễn đó, Yoko đã đi
trước thời đại khoảng 30 năm. Có thể xem bà là một nghệ sĩ với tầm vóc
không hề xoàng.
Yoko Ono (ngoài cùng bên phải) cùng cả ban nhạc The Beatles trong những năm cuối.
Nhưng
sau khi kết hôn với John vào năm 1968, trong cuộc hôn nhân nổi tiếng
bậc nhất lịch sử âm nhạc, dù trở nên cực kỳ giàu có, Yoko lại mất đi rất
nhiều. Bà không còn là một nghệ sĩ có sự nghiệp độc lập nữa. Đó là một
mất mát kéo dài cả cuộc đời. Chưa
hết, về sau Yoko bị coi như nữ nghệ sĩ kỳ cục đến từ Nhật Bản xa xôi,
đã cướp đi một trong những huyền thoại vĩ đại nhất của nhạc rock từ tay
người hâm mộ và ban nhạc của ông. Khi
họ đến với nhau, cả thế giới chẳng đồng ý. John đang sống bên vợ
Cynthia Lennon, là thành viên của một ban nhạc với ảnh hưởng khổng lồ.
Vấn đề là John cùng Cynthia không có một tình yêu lớn. Với Beatles, cuộc
chia ly đã diễn ra ngấm ngầm từ trước đó, sau rất nhiều biến động. Tài
năng của mỗi cá nhân trong ban nhạc bộc lộ ngày càng mạnh, khiến họ khó
có thể đứng chung hàng ngũ như trước. Yoko
không may mắn khi vô tình là tác nhân lộ liễu nhất dẫn tới những tan
rã, khi John công khai đưa bà đến phòng thu. Người ta nói rằng đó là
bằng chứng cho thấy Yoko "phá đám". Nhưng thực ra tách khỏi ban nhạc là ý
muốn của John, và đưa Yoko theo cùng là cách thể hiện ý muốn đó. Sau khi Beatles tan rã, album đầu tiên của John mang tên John Lennon/Plastic Ono Band đã đem đến cho người hâm mộ những bài ca kinh điển như Mother, Working Class Hero, God và Isolation. Album tiếp theo đó có Jealous Guy và đặc biệt là Imagine, với dấu ấn sâu đậm của Yoko. Imagine và Blowin' in the Wind của Bob Dylan đươc coi là 2 khúc ca bất hủ của phong trào phản chiến và nhân quyền toàn thế giới. John
có thể khiến sự nghiệp nghệ thuật của Yoko bị lu mờ, nhưng bù lại, ông
đã sáng tạo ra bà như một nàng thơ huyền thoại. Cùng nhau, họ trở thành 2
nhà hoạt động vì hòa bình và nhân quyền có sức ảnh hưởng lớn hàng đầu
thế giới. Yoko
hết lần này đến lần khác trở thành nàng thơ của John, từ khi họ gặp gỡ
cho đến hết phần còn lại của cuộc đời, như một nguồn cảm hứng bất tận,
không dừng lại ở buổi ban đầu.
Nỗi oan "phá đám” The Beatles Yoko
Ono bị ghét bỏ trong suốt mấy thập kỷ qua vì “tội danh” còn gây tranh
cãi: kéo John khỏi các đồng đội trong Beatles. Nhưng chính John và Paul
McCartney đều đã lên tiếng minh oan cho bà.
John từng nói trong
một cuộc phỏng vấn hồi năm 1972: “Cuộc chia rẽ trong âm nhạc đã bắt đầu
trước đó rất lâu kể từ khi những người phụ nữ nhảy vào.
Còn Paul
đến tận năm 2013 mới thừa nhận: “Hoàn toàn không thể đổ lỗi cho Yoko.
Khi cô ấy xuất hiện, đó cũng là lúc John phải rời đi. John đơn giản là
mệt mỏi vì sự ganh đua trong ban nhạc và muốn theo con đường riêng. Yoko
là người đã tạo cảm hứng và mang đến cho John lòng can đảm để làm điều
đó”.
Song những lời này chưa đủ để gột sạch tiếng xấu cho Yoko,
bởi nhiều người hâm mộ Beatles đã in sâu trong tâm khảm nỗi ác cảm đối
với bà.
Mi Ly Thể thao & Văn hóa
Yoko Ono, nguồn cảm hứng bất tận của John Lennon (Kỳ 2 & hết): Sự bất công đằng sau 'Imagine' vĩ đại
(Thethaovanhoa.vn) - John
và Yoko gặp nhau năm 1966, gắn bó với nhau đến khi John bị ám sát vào
năm 1980. Nhưng tình yêu của họ không chết mà thực ra đã hóa thành bất
tử vì âm nhạc. Hai
nhạc sĩ vĩ đại của Beatles là Paul McCartney và John Lennon đều ghi dấu
ấn bản thân bằng một tác phẩm không mang giai điệu đặc trưng của ban
nhạc. Với Paul, đó là Yesterday bất hủ. Với John, không thể là gì khác ngoài Imagine. Ông sáng tác bài hát nổi tiếng nhất của mình vào năm 1971, hai năm sau khi ban nhạc tan rã. 22 dòng chữ và niềm tin cao quý Imagine
là một ca khúc có nhiều tầng lớp nghĩa. Với hàng triệu người yêu nhạc
có trái tim lãng mạn, đây là khúc ca tuyệt vời về hòa bình, tự do, sự
hòa thuận và đồng lòng của toàn nhân loại. Còn nếu nhìn từ góc độ giai
cấp, một số người cho rằng bài hát mang tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản,
chủ nghĩa xã hội, phi tôn giáo và chống lại nước Mỹ.
Ảnh
hưởng của Yoko Ono với The Beatles đầy phức tạp, vừa tích cực vừa tiêu
cực, nhưng với John Lennon, bà là nguồn sáng tạo vô giá
Hiếm có ca khúc nào mà nhiều thế hệ, không chỉ say đắm giai điệu, mà còn thuộc lòng lời bài hát như Imagine. Lời bài hát được tạp chí Rolling Stone
gọi là “22 dòng chữ nói lên niềm tin cao quý và rõ rệt về sức mạnh của
một thế giới đoàn kết lại, vì mục tiêu chung là hàn gắn và thay đổi
chính nó”. Qua
bài hát, John đã bày tỏ lòng mong muốn một thế giới không thiên đường,
không địa ngục, không quốc gia, không tôn giáo, không tài sản, không có
những thứ buộc người ta phải sống hay chết vì nó, không lòng tham và
cũng không đói khát. Những lời này đã khiến ông trở thành một nhà tư
tưởng vĩ đại. Hơn cả một nàng thơ Nhưng
thật bất công khi trong suốt 43 năm qua, thế giới đã dồn hết vào John
lòng ngưỡng mộ vì sự vĩ đại đó. Có một thực tế nhiều người biết, nhưng
không hiểu sao thường bị bỏ quên, là trong Imagine
có một phần đóng góp to lớn của Yoko, không chỉ như nàng thơ. Yoko là
người có tác động rất lớn đến ca từ và ý tưởng của bài hát. Trong tập thơ Grapefruit (Cây bưởi) của Yoko năm 1964, bà đã viết những câu thơ bắt đầu bằng chữ “imagine” (tưởng tượng). Về sau, lời bài hát của ca khúc Imagine
cũng được viết như vậy. Chỉ có điều, trong nghệ thuật của Yoko chưa in
đậm tư tưởng “cả thế giới là một” mà chỉ có John là người thể hiện tư
tưởng đó mạnh mẽ qua Imagine, với phần nhạc lay động lòng người.
Nhờ sự nổi tiếng của bài hát, Imagine đã không còn đơn thuần là một từ tiếng Anh
Yoko có thể coi như người đồng sáng tác của Imagine chứ không chỉ là nàng thơ. Chính John sau này cũng thừa nhận điều đó. Cuốn All We Are Saying
của David Sheff trích lời ông: “Tôi vẫn còn ích kỷ và gia trưởng khi
không thừa nhận đóng góp của cô ấy”. John cũng khẳng định, đúng ra bài
hát phải được ghi là “của John Lennon và Yoko Ono”. MV
(video ca nhạc) của ca khúc này cũng là một biểu tượng, với từng phân
cảnh đã trở nên quen thuộc với công chúng trong hàng chục năm qua. Đầu
MV là cảnh John và Yoko bước đi quay lưng về phía máy bay. Một người đội
mũ như cao bồi, một người mặc trang phục giống phụ nữ Ấn Độ. Đó là hình
ảnh của hòa bình. Sau
đó họ bước vào khu vườn rồi vào nhà, biến mất. John hiện ra, hát bên
cây đàn piano trắng. Trong khi ông hát, Yoko mở các cánh cửa chớp cho
ánh sáng dần tràn vào căn phòng. Đó là ánh sáng của sự thật, tự do, sự
thức tỉnh. Bản quyền các bài hát hậu Beatles của John đều thuộc sở hữu của Yoko. Trong đó, Imagine
nhận được rất nhiều lời đề nghị hát lại (cover). Nhưng Yoko cho biết,
nhiều nhạc sĩ, ca sĩ muốn bỏ câu hát: “Và cũng không có tôn giáo nào
cả”. Bà khước từ tất cả vì muốn không muốn bất cứ thay đổi nào làm sứt
mẻ tác phẩm của John.
Ngoài
Imagine, Yoko Ono còn là nguồn cảm hứng cho nhiều ca khúc khác. Với
riêng John, có các bài do ông hát Dear Yoko, I’m Losing You, Oh Yoko! và
The Ballad of John and Yoko do Beatles hát. Các bài hát đều thể hiện
tình yêu sâu đậm của John dành cho Yoko, cả nỗi tuyệt vọng mỗi khi không
được gần bên nhau.
Mi Ly Thể thao & Văn hóa
Những nàng thơ huyền thoại - Bài 1: Nữ hoàng của Montparnasse
Phunuonline:Tượng
trưng cho lý tưởng thuần khiết, “nàng thơ” luôn ngự trị cùng huyền
thoại về những nghệ sĩ lỗi lạc. Nàng có thể là một nữ thần, một người
tình, người vợ; được ca ngợi như nguồn cảm hứng bất tận, góp phần tạo
nên những tác phẩm bất hủ. Những nàng thơ của huyền thoại gợi nhớ đến
các bóng hồng phía sau các tuyệt tác nghệ thuật.
Cuộc phiêu lưu cay đắng
1901, Alice Prin chào đời đầy kịch tính: người mẹ đơn thân sinh ra cô
ngay trên đường phố Burgundy - Pháp. Để sinh nhai, mẹ Alice gửi cô cho
bà ngoại chăm sóc, đến Paris làm việc. Những đồng tiền ít ỏi của mẹ
không đủ trang trải cuộc sống, Alice phải bỏ học, sớm ra đời, phụ việc
cho hàng xóm, chạy việc cho nhà in, thậm chí cả trộm cắp vặt từ các quầy
bán thực phẩm. Mới 14 tuổi, cô gái nhỏ đã phải làm người mẫu khỏa thân
cho các nghệ nhân điêu khắc để khỏi chết đói. Bị “phơi nhiễm” với
******** (tính dục) quá sớm, Alice Prin hình thành tính cách phóng túng,
lẳng lơ. Việc này đã gây xích mích với mẹ Alice, bà sỉ nhục cô là “con
điếm” và đuổi cô khỏi nhà.
Không nhà, không nghề nghiệp, không học vấn, bị lợi dụng thể xác, bám
lấy đời bằng những mánh lới học được trên hè phố, Alice Prin là thí dụ
điển hình của thân phận phụ nữ nghèo tại Pháp những năm 1900. Lang bạt
trên đường phố Paris, cô ngủ trong nhà kho; tắm rửa trong những quán cà
phê hay bar rượu. Cuộc phiêu lưu đó đã dẫn Alice đến Montparnasse...
Một tác phẩm nhiếp ảnh của Man Ray chụp Alice Prin, tựa đề: Noire et blanche (Đen Trắng), 1926
Nữ hoàng của Montparnasse
Nước Pháp những năm 1920 là nơi hội tụ của những nghệ sĩ lớn. Mỗi tối,
họ thường tập trung về quán bar Le Jockey để chiêm ngưỡng một cô đào vô
cùng gợi cảm. Với họ, cô không chỉ là một ca sĩ biểu diễn thông thường.
Cô gái này không thèm tìm cách ăn theo vẻ đẹp kiêu kỳ mà người thời đó
ưa chuộng, mà khoe sự quyến rũ bằng cơ thể gợi cảm và làn da trắng nõn.
Alice Ernestine Prin, lúc này đã hơn 20 tuổi, được mệnh danh là “Kiki de
Montparnasse” - Nữ hoàng của Montparnasse, kẻ cuốn hút cả đàn ông lẫn
phụ nữ; là người tình và nàng thơ huyền thoại của toàn bộ giới nghệ sĩ
Paris.
Danh tiếng của Kiki đến từ tính cách và tài năng của cô nhiều hơn là từ
vẻ đẹp. Nữ hoàng Montparnasse sở hữu một giọng hát thanh khiết, biểu
diễn từ những bài ballad mỹ miều đến những bài hát vui đùa tiêu khiển.
Cô cũng là người có khiếu kể chuyện bẩm sinh với kho chuyện đời gần như
vô tận; chưa kể cô còn học được nhiều về hội họa từ các nghệ sĩ vây
quanh mình. Sự quyến rũ phóng túng, tính khí thẳng thắn, thậm chí sẵn
sàng ăn miếng trả miếng với bất kỳ ai tìm cách chống lại mình, biến Kiki
thành một phụ nữ vô cùng thú vị với những kẻ hâm mộ cô. Sự lôi cuốn của
Kiki nằm ở tính cách đi ngược với lối sống khép kín, gọi dạ bảo vâng mà
nữ giới thời đó được dạy dỗ. Có thể nói, Alice Ernestine Prin là người
phụ nữ độc lập đầu tiên của thế kỷ XX, tự vượt qua mọi trở ngại của xã
hội để đạt được thành công.
Vào những năm cuối thập kỷ 1920, Kiki đã có thể tự mở quán rượu riêng,
với tên gọi Chez Kiki. Một bàn đặc biệt tại quán Le Dome danh tiếng được
vĩnh viễn đặt riêng cho vị nữ hoàng này. Năm 1927, triển lãm tranh do
Kiki vẽ được bán sạch. Cuốn sách tự truyện của Kiki, Giáo dục của người
mẫu Pháp, bị cấm tại Mỹ vì quá dâm dục. Những tin đồn, giai thoại về cô
tràn lan khắp Paris và Kiki lại thích thú hưởng thụ chúng. Trung tâm văn
hóa nghệ thuật của Pháp, của thế giới, gần như xoay quanh một người đàn
bà duy nhất.
Một tấm hình của Man Ray chụp chân dung Kiki de Montparnasse
Nàng thơ của Paris
Montparnasse trở thành ngôi nhà tinh thần của Kiki, nơi giới nghệ sĩ đón
chào vẻ đẹp và tài năng của cô. Kiki trở thành bạn thân và nguồn cảm
hứng của nhiều nghệ sĩ danh tiếng, những người mà thông qua hội họa,
điêu khắc và nhiếp ảnh đã lưu giữ vẻ đẹp vĩnh cửu của Alice Prin trong
tác phẩm của họ, từ nhiều góc nhìn. Cụ thể như bức họa Jeune Femme au
Decollette của Moise Kisling cho thấy một Kiki dịu dàng ngước nhìn với
đôi mắt long lanh, thì bức họa Kiki Nude của Per Krogh lại cho thấy một
vẻ đẹp xác thịt vô cùng gợi cảm.
Trong danh sách dài dằng dặc những tên tuổi nghệ sĩ theo đuổi mình, Kiki
luôn dành một chỗ ưu ái cho Emmanuel Radnitzky (thường gọi là Man Ray),
nhiếp ảnh gia người Mỹ. Man Ray được xem là một trong những nhà tiên
phong kiệt xuất nhất của xu hướng nghệ thuật siêu thực (Surrealism). Ông
khám phá những khía cạnh tiềm thức trong cả hội họa và nhiếp ảnh. Trong
suốt những năm 1920, Kiki là người tình và nàng thơ của Man Ray, là cảm
hứng cho nhiều tác phẩm nổi bật của ông.
Trong cuộc tình sáu năm, Man Ray không những tạo ra hàng trăm tác phẩm
về Kiki mà còn góp phần “thiết kế” nên hình ảnh của nữ hoàng này. Theo
đúng nghĩa đen, Man Ray tự tay kiến tạo khuôn mặt của Kiki như một bức
họa. Có lúc ông cạo bớt lông mày của cô, có lúc vẽ chúng lại, với nhiều
màu sắc khác nhau. Mí mắt dày cuốn hút của Kiki có thể được vẽ với màu
đồng hôm nay, có thể nhuộm màu xanh quyền quý hôm khác, rồi lại chuyển
sang màu bạc hoặc ngọc bích trong một ngày khác nữa.
Một trong những tuyệt tác ấn tượng nhất của Man Ray là tấm ảnh Le Violon
D’Ingres (Cây đàn violon của Ingres), thể hiện tấm lưng trần của Kiki
với hai chữ “f” vẽ hai bên eo. Tác phẩm ca ngợi những đường cong gợi cảm
của Nữ hoàng xứ Montparnasse, ẩn chứa tuyên bố người đẹp này, với vẻ
đẹp của mình, đã trở thành một công cụ của nghệ thuật. Không gì có thể
khẳng định vị trí của nàng thơ này hơn thế.
Man Ray trước một tấm chân dung của Alice Prin, năm 1954
Khi hoa tàn
Nhưng, những gì đẹp đẽ của nàng thơ vĩ đại này lại nhanh chóng lụi tàn.
Mối tình với Man Ray chấm dứt khi ông tuyên bố đi theo một nàng thơ
khác. Năm 1940, chiến tranh ập đến buộc Kiki rời khỏi Paris để trốn phát
xít Đức. Rời khỏi vương quốc Montparnasse, dường như Kiki không còn
sinh khí. Không còn ai bảo trợ cho lối sống phóng đãng, không còn là
trung tâm của sự ngưỡng mộ, Alice Ernestine Prin lụi tàn trong nghiện
ngập. Huyền thoại của Paris ra đi năm 1953, ở tuổi 51. Những người mến
mộ đã giúp chôn cất cô tại Montparnasse, nơi duy nhất Alice từng tìm
thấy hạnh phúc.
Trong đoạn mở đầu cho cuốn hồi ký về nàng thơ vĩ đại Kiki, Ernest
Hemingway viết: “Cô đã thống trị thời kỳ hưng thịnh của Montparnasse hơn
cả Nữ hoàng Victoria từng thống trị thời đại Victoria”. Cái chết của
Kiki cũng chấm dứt thời kỳ Montparnasse là trung tâm nghệ thuật và văn
hóa Pháp.
XUÂN HẠO
(theo Phunuonline)
Những nàng thơ huyền thoại - Bài 2: Bà hoàng của chủ nghĩa siêu thực
15:55 24/12/2013
(Thế giới) -
PN - “Nữ thần của sự quỷ quyệt, kẻ hám tiền và tình dục”, “cô dâu của
quỷ” - là cách người ta gọi Elena Ivanovna Diakonova - cũng chính là một
nàng thơ độc đáo, đã truyền cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ lỗi lạc; nhân
vật then chốt của trào lưu nghệ thuật siêu thực (Surréalism) và Dada.
Đặc biệt, từ sau khi gặp Dalí, nhà hội họa siêu thực huyền thoại, bà đã
thực sự khắc sâu dấu ấn của mình vào lịch sử của nghệ thuật.
Diakonova và Dalí bên cạnh một tác phẩm siêu thực của ông Những mối tình kỳ lạ và tai tiếng
Elena
Ivanovna Diakonova (1894-1982) sinh tại Kazan, Nga. Biệt danh Gala được
mẹ bà đặt cho, ám chỉ sự ăn mừng, lễ hội. Trùng hợp, cuộc đời Gala luôn
ngập chìm trong tiệc tùng.
Ốm yếu, 18 tuổi Gala đã phải vào bệnh
viện vì bệnh lao ngày càng trầm trọng. Tại viện nghỉ dưỡng Clavadel,
Thụy Sĩ, cô gái Nga cô đơn tình cờ làm bạn với chàng trai trẻ Eugène
Grindel và nhanh chóng cảm mến nhau. Cả hai ra viện năm 1914. Trước khi
trở lại Pháp, Grindel đã cầu hôn Gala, nhưng phải đến năm 1917, Gala mới
rời Nga, đến Pháp kết hôn với Eugène, lúc này đã trở thành một nhà thơ
xuất chúng có nghệ danh là Paul Eluard.
Paul Eluard được xem là
một trong những người đi đầu của trào lưu nghệ thuật siêu thực và Dada.
Tư tưởng của ông vượt ra khỏi suy nghĩ thông thường, phá vỡ những ràng
buộc xã hội, đã dẫn đến lối sống vô cùng phóng túng của cặp đôi Gala và
Paul Eluard trong cộng đồng nghệ sĩ. Đam mê tình dục vô độ, Gala khiến
Paul Eluard phải chấp nhận mối tình tay ba với Max Ernst, một họa sĩ lớn
của trường phái siêu thực và Dada. Gala trở thành chủ đề trong nhiều
tác phẩm của Paul, Ernst và nhiều nghệ sĩ siêu thực khác.
Năm
1929, trong một chuyến nghỉ hè ở Cadaqués, Gala gặp Salvador Dalí, một
họa sĩ gốc Tây Ban Nha trẻ tuổi. Dalí bị hút hồn bởi vẻ đẹp và cá tính
của Gala, dù bà lớn hơn ông đến 10 tuổi. Gala, với trực giác vô cùng
nhạy bén, cũng bị cuốn hút bởi một Dalí đầy tiềm năng trở thành một
huyền thoại. Cả hai chia sẻ ham muốn quyền lực, tiền bạc và sự nổi
tiếng. Một trong những mối tình kỳ lạ nhất, tai tiếng nhất trong lịch sử
nghệ thuật bắt đầu.
Gala Dalí trêu bộ ria mép cong độc đáo của Dalí Kiến tạo một Dalí thần thánh
Những
tưởng trong giới nghệ sĩ vốn phóng túng và đầy scandal, mối tình kỳ lạ
của Gala trác táng và Dalí lập dị sẽ không kéo dài bao lâu, nhưng có vẻ
như họ được sinh ra để ở bên nhau, để Gala làm nàng thơ và người quản lý
kinh doanh của Dalí đến cuối đời. Dalí tôn thờ Gala như một nữ thần,
xem bà như chỗ dựa duy nhất. Tinh thần vốn không ổn định, ông cho rằng
nếu không có Gala thì “Dalí thần thánh” sẽ trở nên điên loạn.
Cặp
đôi này lấy nhau năm 1934, nhưng chỉ làm nghi lễ đăng ký kết hôn vì giáo
hội Thiên chúa không chấp thuận cho Gala ly hôn với Paul Eluard. Trước
khi gặp gỡ Gala, Dalí vốn chưa bao giờ quan hệ với phụ nữ do mắc chứng
ngại tình dục. Nhưng, khi đến với Gala, người đàn bà vốn ham muốn tình
dục gần như không giới hạn, Dalí lại tìm thấy nguồn cảm hứng kỳ lạ. Dalí
chấp nhận một cuộc hôn nhân “mở”, để cho Gala có rất nhiều người tình,
và chính việc đó càng tạo cảm hứng nghệ thuật cho nhà họa sĩ siêu thực
này.
Sức cuốn hút của Gala không phải là huyền thoại duy nhất về
bà, mà khả năng kinh doanh của bà cũng thành giai thoại. Gala không chỉ
là người đứng phía sau việc buôn bán các tác phẩm của Dalí, mà còn giúp
ông định hướng phong cách nghệ thuật theo sát các xu hướng siêu thực và
làm giàu từ chúng. Trong những năm 1930, Dalí tự hào là một kẻ hoang
tưởng, đến thập kỷ 60, ông là tông đồ của tình dục đa hình - ca ngợi
những vẻ đẹp gợi cảm nằm ngoài tình dục thông thường. Trong vòng bốn
thập kỷ, nhà hội họa với chòm râu cong độc đáo này thực sự thống trị hội
họa siêu thực.
Dù nhan sắc Gala phai dần theo năm tháng, nhưng
Dalí vẫn luôn vẽ bà như một nữ thần gợi cảm trong các bức họa của mình.
Bức The Madonna of Port Lligat (1949) là một trong những tuyệt tác như
thế, mô tả Gala như Đức mẹ Maria với chúa Jesus sơ sinh ngồi trong lòng,
đã làm kinh ngạc Giáo hoàng khi Dalí trình nó lên giáo hội Vatican. Nhờ
thế, Giáo hoàng đã đưa ra một ngoại lệ, cho phép Dalí và Gala cưới nhau
trong một hôn lễ Thiên chúa giáo.
Giàu có từ việc bán các bức họa
của mình, Gala và Dalí sống rất xa hoa, vương giả, điều hiếm thấy trong
giới hội họa, vốn chuộng sự ẩn dật và khiêm tốn. Vào năm 1974, tài sản
của Dalí trị giá lên đến 32 triệu USD. Nhưng, nếu Gala là người góp phần
tạo nên tên tuổi huyền thoại của Dalí, thì cũng chính bà là người hủy
diệt ông. Hủy diệt Dalí
Sự ham muốn giàu
sang của Gala đã đẩy Dalí ra khỏi giới nghệ thuật. Gala muốn Dalí chớp
lấy mọi thời cơ để biến tài năng của ông thành sản phẩm, vì thế Dalí
không chỉ vẽ tranh mà còn phải nhúng cọ vẽ những thứ lặt vặt như trang
trí cửa sổ bán hàng, hay bán chữ ký để các nhà buôn in lên bất kỳ hình
ảnh nào nhằm kiếm lợi. Giới nghệ sĩ đã khai trừ Dalí ra khỏi trào lưu
nghệ thuật siêu thực vì cho rằng các “tác phẩm” rẻ tiền của ông sỉ nhục
giá trị của họ. Dalí, trong một thời gian dài, đã gặp nhiều khó khăn để
có thể tạo ra những tuyệt tác thật sự, ngoại trừ các bức ông vẽ Gala.
Thói
ăn chơi và ham muốn tình dục của Gala cũng góp phần đày đọa Dalí. Khi
đã giàu lên, Gala lại tiếp tục “tuyển” người tình từ giới nghệ sĩ. Bà
chọn những chàng nghệ sĩ trẻ đẹp nhất, tài năng nhất và thường xuyên
chuyển rất nhiều tiền cho họ. Lối sống xa hoa của đôi vợ chồng này cũng
là miếng mồi ngon cho nhiều kẻ ăn bám, bòn rút tiền của họ. Dalí thậm
chí còn mua cho Gala cả một lâu đài mang tên Pubol, ở gần quê nhà ông,
nhưng ông chỉ có thể ghé thăm nếu có thư mời của Gala. Đây là chốn ăn
chơi trác táng của Gala với những người tình. Vào những năm cuối cùng
của cuộc tình Dalí - Gala, nhà họa sĩ siêu thực đã quá mệt mỏi và kiệt
quệ nên dần căm ghét Gala. Tiệc tàn
Người
ta thường miêu tả Gala như một nữ thần bất tử. Oái ăm thay, Gala lại mất
trước cả Dalí, khi ra đi vào năm 1982, ở tuổi 87. Những tưởng sau bao
năm tháng bị Gala hành hạ, Dalí hẳn phải ít nhiều nhẹ nhõm, nhưng chỉ
vài ngày sau khi Gala chết, người ta tìm thấy Dalí ngã gục, co quắp
trong cơn hoảng sợ tột độ. Dù căm ghét Gala, nhưng Dalí không thể sống
thiếu bà. Trong 5 năm cuối đời, ông sống vật vã như một kẻ bị bại liệt
cả tinh thần và thể chất, nhiều lần tìm cách tự sát. Năm 1989, họa sĩ
thiên tài Salvador Dalí - kẻ hoang tưởng, vị vua của hội họa siêu thực,
gục ngã vì bệnh tật và bảy năm sống thảm hại sau cái chết của Gala.
Mối
tình của nàng thơ Gala và Dalí không phải là một giai thoại lãng mạn và
hạnh phúc, nhưng hiếm có cặp đôi nào hợp nhau đến thế. Nàng thơ Gala đã
giúp Dalí biến những giấc mơ huyền ảo nhất thành những tuyệt tác mà đến
tận ngày nay vẫn còn làm ta sững sờ. XUÂN HẠO Kỳ tới: Mối tình tay ba của Pop và Rock
Lần cập nhật cuối: 24/11/2014
Những nàng thơ huyền thoại - Bài 3: Pop - Rock và mối tình tay ba
19:30 27/12/2013
(Thế giới) -
PN - Pattie Boyd là người phụ nữ đã tạo cảm hứng cho hai nhạc sĩ lỗi lạc
nhất thế kỷ XX: George Harrison của nhóm nhạc Pop The Beatles và Eric
Clapton - “Vị thần” của nhạc Rock. Bị khóa giữa mối tình tay ba được xem
là tiếng tăm nhất trong lịch sử âm nhạc, Pattie là chủ đề của ba bài
tình ca đẹp nhất từng được sáng tác. Chưa bao giờ có người đàn bà nào
được theo đuổi đến vậy, nhưng cũng không mấy ai bị hắt hủi như thế. Câu
chuyện về người đẹp có đôi mắt nai quyến rũ là câu chuyện của niềm đam
mê và sự phản bội.
Mối tình với The Beatles
Patricia
Anne Boyd (ảnh) sinh năm 1944 tại Anh, trong một gia đình khá giả. Cô
trải qua thời thơ ấu tại Kenya (châu Phi) và trở lại Anh khi đã trưởng
thành. Đôi mắt xanh tròn ngây thơ, chiếc răng cửa tinh nghịch và vóc
dáng quyến rũ đã nhanh chóng đưa Patricia lên sàn catwalk. 19 tuổi,
Patricia - được gọi là Pattie Boyd, đã là một người mẫu thành công,
nhiều lần chiếm lĩnh trang bìa tạp chí Vogue và làm người mẫu thời trang
cho Ossie Clark. Được làm việc với nhiều nhà nhiếp ảnh danh tiếng,
Pattie cũng trở nên yêu thích môn nghệ thuật này.
Năm 1964, nhờ
một vai diễn quảng cáo nhỏ, Pattie Boyd giành được một vai trong bộ phim
A Hard Day’s Night của nhóm nhạc The Beatles. Thời điểm này, cơn sốt
Beatlemania đã chiếm lĩnh Anh Quốc và châu Âu, đang gây bão tố tại Mỹ.
Đi đến đâu John Lennon, Paul McCartney, George Harrison và Ringo Starr
cũng được hàng ngàn người hâm mộ gào thét tên họ. Nhưng, Pattie Boyd đã
hút hồn những siêu sao này. Pattie Boyd kể lại, George Harrison có đôi
mắt nâu mơ mộng và mái tóc hạt dẻ, là người đàn ông đẹp nhất cô từng
gặp; những lời đầu tiên người đàn ông đó nói với cô là: “Cưới anh nhé?”.
Câu nói nửa đùa, nửa thật đó đã khởi đầu tất cả.
Pattie Boyd
không giống những cô gái hâm mộ The Beatles khác, cô có dáng vẻ của một
“con bồ câu ngây thơ”, hiền lành, có học, không ham muốn danh tiếng hay
tiền tài. Pattie lại không mấy hứng thú với âm nhạc. Dù vậy, sau khi
được Brian Epstein, người quản lý The Beatles “duyệt”, Pattie Boyd lên
xe hoa với George Harrison. Đó là vào năm 1966, Pattie 22 tuổi, bắt đầu
trở thành "nàng thơ" của những huyền thoại.
Ba năm sau, 1969,
George viết bài hát Something (Cái gì đó) miêu tả sức cuốn hút của
Pattie Boyd: “Có cái gì đó trong cách mà em đi. Cuốn hút tôi hơn bất kỳ
người tình nào…”. Pattie nghĩ bài hát đó thật đẹp, nhưng không ngờ đó sẽ
là bài hát thành công nhất trong sự nghiệp của George Harrison, với hơn
150 phiên bản khác nhau. Frank Sinatra cũng xưng tụng ca khúc này là
bài tình ca tuyệt vời nhất lịch sử âm nhạc. George còn sáng tác I Need
You (1965) và For You Blue (1970), những bài nhạc Pop nổi tiếng lấy cảm
hứng từ Pattie Boyd.
21/1/1966, Pattie Boyd và George Harrison cưới nhau, Paul McCartney làm phù rể
Pattie Boyd và George Harrison Pattie, Pop và Rock
Thành
công về mọi mặt, The Beatles bắt đầu rơi vào lối sống xa xỉ. George và
Pattie dọn đến căn hộ khổng lồ Friar Park, nơi những rạn nứt bắt đầu.
George bị trầm cảm, liên tục sử dụng ma túy và rượu. Vây quanh ông là
những cô gái trẻ đẹp, “vợ lẻ” của ông - theo lời ông nhẫn tâm nói với
Pattie Boyd. Trong lúc tình cảm giữa George và Pattie dần nguội lạnh,
một người đàn ông khác bắt đầu theo đuổi Pattie Boyd: Eric Clapton, bạn
thân và cũng là đồng nghiệp với George Harrison, một trong những nhạc sĩ
nhạc Rock xuất sắc nhất thời đó. Những câu chữ graffiti Clapton is God
(Clapton là thượng đế) xuất hiện khắp đường phố London, cho thấy danh
tiếng của Eric Clapton như thế nào.
Eric liên tục gửi những bức
thư nồng thắm đến Pattie Boyd, nhưng luôn bị từ chối. Pattie Boyd kể, có
lần Eric và George, những tay chơi guitar tuyệt vời, đã “đấu guitar”
với nhau tại nhà George, hệt như các kỵ sĩ ngày xưa đấu thương, để tranh
giành tình cảm của cô. Eric Clapton thậm chí còn dọa, nếu cô không chấp
nhận tình cảm của mình, ông sẽ lao vào nghiện ngập. Và, ông đã sử dụng
ma túy, kéo theo cả người tình của mình là Paula - em gái của Pattie
Boyd, người rất giống cô.
Một đêm, tại căn hộ ở South Kensington,
Eric Clapton thổ lộ mối tình của mình với Pattie Boyd bằng ca khúc Layla
- một bài hát cảm động, mô tả mối tình đơn phương vô vọng của ông. Khi
bài hát này đi vào lịch sử âm nhạc, Pattie Boyd cũng xiêu lòng. Năm
1979, Pattie Boyd đồng ý kết hôn với Eric Clapton.
Pattie Boyd và Eric Clapton Hắt hủi
Những
ngày đầu của cuộc hôn nhân Eric Clapton - Pattie Boyd khá đẹp. Pattie
lại một lần nữa là nàng thơ truyền cảm hứng cho bài tình ca huyền thoại
Wonderful Tonight. Eric Clapton ngẫu hứng sáng tác bài này khi ngồi chờ
Pattie Boyd.
Trước khi đến với Eric, Pattie buộc ông phải cai
nghiện và không bao giờ được sử dụng ma túy, Eric đã cai nghiện hoàn
toàn, nhưng lại quay sang rượu chè. Trong giới nhạc sĩ, không mấy ai có
tửu lượng “kinh dị” như Eric Clapton, uống ít nhất hai chai Brandy một
ngày. Tính bộc trực và thô lỗ của Eric cộng với chất cồn đã khiến Pattie
nhiều phen kinh hãi. Sống trong nỗi sợ hãi và căng thẳng thường trực,
Pattie Boyd bị cuốn vào “cơn lũ” rượu chè và ma túy để tìm quên, một
điều mà bà chưa bao giờ ngờ tới.
Những cuộc “phiêu lưu” tình ái
của Eric cũng làm Pattie đau khổ. Trong số các nàng thơ của loạt bài
này, có lẽ Pattie Boyd là người ngọt ngào và vị tha nhất. Pattie nhiều
lần chịu đựng những cuộc tình lăng nhăng của George Harrison, rồi lại
đến Eric Clapton. Pattie nghĩ, trong giới nghệ sĩ, những cuộc tình chóng
vánh như vậy không có ý nghĩa bằng tình yêu bất diệt. Nhưng, Pattie
Boyd đã sững sờ khi Eric vui mừng báo tin ông đã phải lòng một người mẫu
Ý, người đang mang thai đứa con trai của ông. Đó là vào năm 1986,
Pattie Boyd, ở tuổi 42, vẫn chưa thể sinh cho Eric một đứa con, dù đã
thử thụ tinh ống nghiệm. Thấy Eric rạng rỡ chuẩn bị đón chào đứa con
trai đầu tiên, Pattie cũng xuôi lòng. Bà tìm cách thích nghi với đứa con
ngoài giá thú. Nhưng thực sự, Pattie không thể cứu vãn nổi cuộc hôn
nhân của mình. Bà và Eric ly hôn năm 1989.
Năm 1991, đứa con trai
của Eric Clapton gặp tai nạn, qua đời, Pattie quay về xoa dịu nỗi đau
của ông. Năm 2001, đến lượt bà khóc thương George Harrison mất vì bệnh
ung thư. Từ sự yêu thích nhiếp ảnh, bà tung ra cuốn tự truyện Wonderful
today, kể lại mối tình tay ba huyền thoại của mình. Cuốn sách nhanh
chóng trở thành tác phẩm bán chạy nhất thời đó.
Pattie Boyd cho
rằng, trong suốt cuộc đời bà, dù bao lần được ca ngợi bằng những ca khúc
bất hủ, cuối cùng bà cảm thấy những ông chồng nhạc sĩ của mình đã viết
nên những ca khúc đó cho họ nhiều hơn là cho bà. Họ đã theo đuổi hình
tượng một nữ thần hoàn hảo không có thật, để rồi cuối cùng hắt hủi người
bằng xương bằng thịt đã tạo cảm hứng thật sự cho họ. XUÂN HẠO Kỳ tới: Người đàn bà bị hiểu lầm
Những nàng thơ huyền thoại - Bài 4: Người đàn bà bị hiểu lầm
16:10 29/12/2013
(Thế giới) -
PN - Là vợ góa của ca sĩ John Lennon - thành viên nhóm nhạc huyền thoại
The Beatles, Yoko Ono cũng là một nghệ sĩ tài năng không thua kém chồng.
Nhưng, làm vợ John Lennon, Yoko Ono đã chịu nhiều đau khổ: bị người hâm
mộ căm ghét, kết tội bà làm tan rã nhóm The Beatles.
Lennon và Yoko Ono tại Công viên trung tâm New York, 1973 Mối tình định mệnh
Sinh
ngày 18/2/1933, Yoko Ono là con đầu trong một gia đình quý tộc Nhật
Bản. Sống vào thời nước Nhật bị tàn phá bởi chiến tranh, Yoko đã sớm bộc
lộ tài năng nghệ thuật. Những năm 1950, gia đình Yoko Ono chuyển đến
New York. Tại đây, bà trải qua hai cuộc hôn nhân không mấy hạnh phúc. Bà
làm quen với nghệ thuật sắp đặt và nghệ thuật biểu diễn, dần trở thành
một nghệ sĩ tiên phong với những ý tưởng mới.
Các tác phẩm của
Yoko có xu hướng siêu thực, thử thách giới hạn của các ràng buộc xã hội
và luôn tìm cách tương tác với người xem, buộc người xem phải có đầu óc
mở mới hiểu được ý nghĩa. Thời đó, phong cách nghệ thuật của Yoko còn
quá mới, ít người cảm nhận được nên bà thường bị chê cười. Tuy vậy, hoạt
động nghệ thuật của Yoko trong nhóm nghệ sĩ Fluxus đã tạo được sự chú ý
trong giới trí thức Anh.
Một đêm mùa đông năm 1966, tại show
triển lãm nghệ thuật ở London, bà đã gặp mối tình sét đánh của đời mình:
John Lennon - nhạc sĩ lỗi lạc người Anh, biểu tượng của nền văn hóa
đương đại, thành viên chủ chốt của nhóm nhạc huyền thoại The Beatles.
Trong buổi triển lãm, Yoko bước tới, đưa John tấm thiệp ghi một chữ duy
nhất: “Breath” (Thở). Hai tâm hồn đầy sáng tạo này hút vào nhau một
cách tự nhiên. Cuộc gặp gỡ đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của Yoko Ono
và John Lennon. Sau khi cả hai ly hôn với cuộc hôn nhân trước đó, John
và Yoko cưới nhau năm 1969 tại Gibraltar, khởi đầu cho sự ra đời của
hàng loạt tuyệt tác nghệ thuật.
John Lennon và Yoko Ono Đánh thức John Lennon
John
Lennon xem Yoko Ono là người phụ nữ đã cứu rỗi linh hồn mình, biểu
tượng ông từng nhắc đến trong ca khúc Lucy in the Sky with Diamonds. Ông
xem Yoko Ono còn quan trọng hơn cả những bài hát để đời, danh vọng hay
tiền tài. Tuy nhiên, những người hâm mộ The Beatles lại có ác cảm với
Yoko Ono. Xu hướng nghệ thuật trừu tượng của Yoko Ono làm nhiều fan cho
rằng bà chỉ là một nghệ sĩ giả tạo. Họ đặt cho bà biệt danh “Dragon
lady” (Con rồng cái) và luôn dè bỉu, miệt thị khiến bà cứ bị ám ảnh.
Sự
chỉ trích của giới hâm mộ không làm cặp vợ chồng mới cưới lùi bước trên
con đường nghệ thuật. Ngay sau lễ cưới, thay cho tuần trăng mật, họ
triển khai tour diễn vòng quanh thế giới mang tên “Bed-in”. Yoko và John
thực hiện một cuộc biểu tình nho nhỏ, hai người chỉ nằm trên giường
khách sạn, mời giới truyền thông vào phỏng vấn. Bằng cách này, họ truyền
tải thông điệp: “Give peace a chance” (Hãy cho hòa bình một cơ hội).
Chính câu nói này đã tạo cảm hứng cho bài hát cùng tên, nhanh chóng trở
thành bài hát biểu trưng của phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam
tại Mỹ. Toàn bộ chuỗi sự kiện của tour diễn này được ghi lại trong album
Ballad of John & Yoko (Bản ballad của John và Yoko), một trong
những album nhạc đầu tiên của hai người.
John Lennon nhiệt tình
hưởng ứng nhiều buổi trình diễn nghệ thuật theo phong cách tiên phong
(avant-garde) của Yoko Ono, nhưng lại dần xa lánh nhóm The Beatles. Có
vẻ như ca sĩ danh tiếng này đã chán chường với nhóm Beatles huyền thoại
và Yoko Ono là cánh cửa giúp ông tìm tòi những ý tưởng sáng tác mới. Các
tác phẩm của bộ đôi này kêu gọi hòa bình, khám phá những tiếng gọi sâu
thẳm của bản năng và đặc biệt ca ngợi mối tình của họ, trong đó có các
bản tình ca Woman, Jealous Guy, I Want You (She’s So Heavy). Cái kết của The Beatles
John
Lennon coi trọng Yoko đến mức thường xuyên dẫn bà đến các buổi tập của
nhóm Beatles, và Yoko không ngần ngại đóng góp ý kiến cho họ. Tuy nhiên,
đối với các thành viên khác của Beatles, điều này vi phạm quy ước không
cho phép bạn gái hay vợ tham gia vào chuyện sáng tác của nhóm, nên đã
gây ra rạn nứt trong nhóm. Oằn dưới sức nặng của xung đột cá nhân và
nhiều rắc rối khác, nhóm nhạc được xem là vĩ đại nhất lịch sử đã tan rã
năm 1970. Tin The Beatles tan rã làm tan vỡ trái tim hàng triệu người
hâm mộ, hầu hết đổ lỗi cho Yoko Ono - nàng thơ của John Lennon. Cơn sóng
giận dữ, ghét bỏ Yoko Ono thậm chí đã chạm đến mức kỳ thị chủng tộc và
miệt thị phụ nữ.
Quá mệt mỏi trước sức ép dư luận, Yoko Ono tìm
cách rời khỏi vị trí “Mrs. Lennon” mà bà xem là còn khó hơn cả làm vợ
chính trị gia. Yoko bỏ ra sống riêng. John Lennon phải cầu xin hết lời.
Năm 1975, sau nhiều lần sẩy thai và trị liệu khó khăn, cuối cùng Yoko, ở
tuổi 42, cũng đã sinh được cậu con trai Sean Taro Ono Lennon, vào đúng
sinh nhật John. Đứa bé là cả thế giới với John Lennon. Ông tạm dừng sự
nghiệp sáng tác, dành phần lớn thời gian bên hai mẹ con Yoko. Gia đình
Lennon hạnh phúc hơn bao giờ hết.
Năm 1980, John Lennon bắt đầu
sáng tác lại. Bài (Just Like) Starting Over (Giống như khởi đầu lại tất
cả) trong album Double Fantasy, ra mắt trong sự vui mừng chào đón của
người hâm mộ. Trả lời phỏng vấn, John Lennon thổ lộ, Yoko Ono là nguồn
động lực lớn nhất của ông: “Tôi là người nổi tiếng hơn, là kẻ phải biết
nhiều hơn, nhưng cô ấy đã dạy cho tôi tất cả những gì tôi biết”.
Những
tưởng John và Yoko sẽ tiếp tục tạo nên những tuyệt tác âm nhạc mới,
nhưng một sự kiện nghiệt ngã đã xảy ra vào ngày 8/12/1980. Trên đường về
căn hộ của mình ở Dakota, New York, John Lennon dừng lại ký tên tặng
Mark David Chapman - một người hâm mộ, và tên này đã nhẫn tâm bắn vào
ông bảy phát đạn, giết chết một trong những huyền thoại nhạc Pop lỗi lạc
nhất mọi thời đại. Ông ngã xuống, tay vẫn còn giữ album Walking on thin
ice của vợ mình. Ngày 14/12 năm đó, theo yêu cầu của Yoko Ono, mười
phút tĩnh lặng để tưởng niệm John Lennon đã được tổ chức lúc 14g. Hàng
triệu người hâm mộ trên toàn thế giới đã tham gia tưởng nhớ người ca sĩ
vì hòa bình và tình yêu.
John và Yoko cùng con trai Sean, New York, 1975 40 năm giận hờn
40
năm đã qua từ khi The Beatles tan rã. Yoko Ono đã đi khắp thế giới tiếp
tục sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình và quyền bình đẳng con người; đồng
thời vẫn sáng tác nhiều tác phẩm nghệ thuật với phong cách riêng của
bà. Ngày nay, trường phái nghệ thuật của Yoko đã được công nhận, ảnh
hưởng mạnh mẽ đến nhiều dòng nhạc Pop mới như New Wave, các loại hình
nghệ thuật biểu diễn, sắp đặt và cả phim ảnh. Nhưng với Yoko, cuộc đời
bà đã “đóng băng” từ khi John Lennon ra đi. Bà vẫn sống tại căn nhà ở
New York, nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm với John.
Chỉ có một điều, đến
tận ngày nay Yoko vẫn phải chịu sự căm ghét của giới hâm mộ. Trong một
tuyên bố hồi tháng 5/2013, Sir Paul McCartney, từng là thành viên của
nhóm Beatles, đã lên tiếng kêu gọi tha thứ cho Yoko Ono. Chẳng những
khẳng định Yoko không phải là yếu tố quyết định làm tan rã The Beatles,
McCartney còn bày tỏ sự biết ơn bà đã giúp John Lennon tìm thấy cảm hứng
sáng tạo mới. Tuyên bố này kết thúc cuộc xung đột giữa McCartney và
Yoko Ono trong suốt thời gian qua. Ở tuổi 80, Yoko Ono cho biết, bà cũng
bày tỏ sự biết ơn với McCartney: “Trong không khí thù địch mà thế giới
này tạo ra cho chúng tôi, sự tha thứ của ông ấy không dễ nói lên chút
nào”. XUÂN HẠO Bài 5: Sức cuốn hút tuyệt đối
Những nàng thơ huyền thoại - Bài 5 : Sức hút tuyệt đối
15:50 31/12/2013
(Thế giới) -
PN - “It girl” là định nghĩa ám chỉ một cô gái có sức hút tuyệt đối, sự
hấp dẫn không thể diễn tả bằng lời. Edie Sedgwick là một trong những cô
gái như thế. Dù vậy, cuộc đời cô là một hành trình mà danh vọng song
hành với bi kịch. Nhiều người xem Edie là một cô gái giàu có bất hạnh,
nhưng với Andy Warhol và Bob Dylan, cô là một nàng thơ, là siêu sao tóc
vàng định nghĩa vào vẻ đẹp của những năm 1960.
Andy Warhol đắm đuối trước nhan sắc của Edie Sedgwick Tuổi thơ bão tố
Edie
Sedgwick (1943-1971) có một tuổi thơ đầy bão tố. Tên thật của cô là
Edith Minturn Sedgwick. Sinh ra trong một gia đình giàu có ở California -
Mỹ, những tưởng tuổi thơ của cô sẽ rất êm đềm, nhưng Edie và anh chị
em của mình lại bị bỏ mặc cho vú nuôi, phải sống trong một môi trường
biệt lập. Khuôn phép của một gia đình quyền quý đã gây áp lực nặng nề,
khiến những đứa trẻ của gia đình Sedgwick có tính tình lập dị và mắc các
chứng bệnh thần kinh.
Ở tuổi thiếu niên, Edie mắc chứng rối loạn
ăn uống, sức khỏe suy sụp, nhiều lần phải nhập viện. Năm 16 tuổi, Edie
bị buộc vào viện Silver Hill. Khi ra viện, Edie phát hiện mình có thai,
phải phá bỏ. Quá trình điều trị buộc Edie sử dụng nhiều thuốc ngủ và
thuốc an thần, dẫn đến thói nghiện ngập sau này của cô. Mùa thu 1963,
Edie vào học nghệ thuật tại trường đại học danh tiếng Cambridge. Một
Edie ở tuổi 20 sở hữu vẻ đẹp mê hoặc, cộng với tính cách sôi động, đã
nhanh chóng quy tụ một lượng lớn bạn bè hâm mộ. Một năm sau, Edie
Sedgwick đã trở thành ngôi sao trong giới thượng lưu, giao du rộng rãi
và là người mẫu nổi tiếng. Cô quyết tâm trở thành một cái gì đó có ý
nghĩa, vượt ra khỏi khuôn khổ của gia đình.
Năm 1964, Edie đau đớn
vì cái chết của người anh Minty, đã tự tử sau một thời gian bị các
chứng tâm thần hành hạ. Năm sau, lại đến người anh khác - Bobby, chết
trong một tai nạn giao thông. Nhưng, mất mát dường như không làm nản
lòng Edie, cô chộp ngay cơ hội đầu tiên để đạt được danh vọng. Cơ hội đó
mang tên Andy Warhol. “Siêu sao” của Warhol
Ngành
nghệ thuật những năm 1960 gần như đồng nghĩa với cái tên Andy Warhol.
Ông là người tiên phong của xu hướng nghệ thuật Pop-art. Như một phản
ứng chống lại sự trừu tượng khó hiểu của các xu hướng nghệ thuật siêu
thực trước đó, Pop-art của Andy đưa những hình ảnh, biểu tượng quen
thuộc, phổ biến trong cuộc sống vào nghệ thuật. Andy mở một xưởng nghệ
thuật mang tên “Factory” (Nhà máy) và tìm kiếm các “siêu sao” làm chủ đề
cho các tác phẩm của mình.
Edie Sedgwick
Một
ngày, Edie Sedgwick được giới thiệu với Andy Warhol. Ông choáng ngợp
trước vẻ đẹp quý phái của cô. Andy nhận ra Edie Sedgwick chính là hình
mẫu hoàn mỹ của một nhân vật sở hữu vẻ đẹp sang trọng, biểu tượng của vẻ
đẹp vật chất mà Pop-art ca ngợi. Ông muốn “đóng khung” vẻ đẹp tự nhiên
của Edie Sedgwick vào các tác phẩm điện ảnh của mình. Thế là một trong
những mối quan hệ nghệ thuật tiếng tăm nhất của thời hậu chiến tranh thế
giới thứ hai bắt đầu.
Sự hiện diện của Edie Sedgwick đã làm chói
lòa màn ảnh. Những thước phim của Andy Warhol khai thác dáng vẻ năng
động kỳ lạ của Edie, làn da trắng mờ ảo, những cử chỉ, biểu hiện nhỏ
nhặt như thể có hàng triệu chi tiết biểu cảm trên cơ thể cô. Người xem
giật mình trước cách đi đứng, điệu bộ, cách cười nói, phong cách và cá
tính vừa đời thường, vừa duyên dáng, quý phái của Edie. Vẻ đẹp đó đã
mang lại cho cô biệt danh “It girl” - cô gái có sức cuốn hút tuyệt đối
không thể diễn tả bằng lời, một biệt danh chỉ được đặt cho vài người phụ
nữ trong lịch sử. Edie xuất hiện trong hàng loạt phim cả dài lẫn ngắn
của Andy và các đồng nghiệp của ông, trong đó có Factory Girl, Poor
Little Rich Girl, Horse, Match Girl, The Chelsea Girls và Ciao!
Manhattan (Tạm biệt! Manhattan) - bộ phim kể về cuộc đời trắc trở của
Edie.
Cuộc phiêu lưu với nghệ thuật đẩy danh tiếng Edie Sedgwick
lên đỉnh cao một cách ngoạn mục. Chỉ trong vài tháng, cụm từ “Andy và
Edie” đã trở thành câu nói cửa miệng giới trẻ hâm mộ. Cô xuất hiện trên
trang bìa tạp chí thời trang Vogue và được đặt biệt danh “Youthquaker”
(Tạm dịch: “Kẻ gây chấn động giới trẻ”). Phong cách của Edie, với áo
khoác da báo, đồ bó đen, cơ thể mảnh mai đã trở thành hình ảnh được các
cô gái trẻ thời đó thần tượng, nó định nghĩa cho cả xu hướng thời trang
của thế kỷ XX và vẫn còn ám ảnh các nhà thiết kế ngày nay. Bạn bè bảo,
Edie đang trên đường trở thành một huyền thoại như người đẹp Marilyn
Monroe.
Andy Warhol (dưới) và Edie Sedgwick, New York, 1965 Sao băng
Sau
một thời gian trong giới nghệ thuật, Edie gặp gỡ Bob Dylan - nhạc sĩ
đồng quê lừng danh. Bob Dylan, cũng như bao người trước đó, nhanh chóng
bị mê hoặc trước vẻ quyến rũ của Edie Sedgwick. Ông mời Edie tham gia
vào các tác phẩm của mình. Bob Dylan viết những ca khúc như Just Like A
Woman (Như một người phụ nữ), Like a Rolling Stone (Như một tảng đá lăn)
và Leopard-Skin Pill-Box Hat (Mũ da báo) để ca ngợi Edie. Cô cũng tìm
thấy một niềm say mê mới từ nhạc sĩ tài ba này. Bob Dylan cho rằng Andy
Warhol, người chỉ muốn nắm bắt vẻ đẹp bùng cháy dữ dội của Edie, sẽ
không màng đến việc ngăn cản thói nghiện ngập của Edie. Dylan đã lầm!
Thói nghiện ngập của Edie vốn có từ trước, nhưng đó vẫn là lý do Bob
Dylan luôn trách cứ Andy Warhol.
Cuối cùng thì mối hợp tác nghệ
thuật Andy - Edie cũng kết thúc. Edie Sedgwick không chịu nổi ý nghĩ
Andy Warhol suốt ngày chỉ quay phim cuộc sống đời thường của cô. Chính
cô cũng không hiểu được ẩn dụ của Andy Warhol. Edie muốn trở thành một
diễn viên thực thụ chứ không chỉ dựa vào con người thật của mình. Trong
một lần tranh cãi giữa Edie và Andy Warhol, lúc cảm thấy bị phản bội,
Andy đã tiết lộ về cuộc hôn nhân của Bob Dylan với một người đàn bà
khác. Tin này làm tan vỡ trái tim Edie, vì cô đã có cảm tình với Bob
Dylan. Sau khi rời bỏ Andy Warhol, cô lại lao vào nghiện ngập, trải qua
nhiều mối tình chóng vánh, không hạnh phúc. Ngay cả mối tình với Bobby
Neuwirth, bạn thân nhất của Bob Dylan, dù Edie thú nhận là người duy
nhất cô từng yêu thương thật sự, cũng sớm kết thúc. Cuộc đời Edie xuống
dốc dữ dội, cô liên tục ra vào viện tâm thần, phải trị liệu sốc điện,
một việc cũng được ghi lại trong bộ phim Ciao! Manhattan. Ciao! Edie
Năm
1971, sau năm tháng nằm viện, Edie trở lại cuộc sống và lấy chồng là
Michael Post, một anh chàng tử tế. Edie chưa bao giờ từ bỏ ước muốn
chinh phục Hollywood nên chuẩn bị quay lại với sự nghiệp minh tinh của
mình. Tối 15/11/1971, sau buổi trình diễn nghệ thuật, cô bị một khán giả
nữ chỉ trích về thói nghiện ngập, nên về nhà trong tâm trạng bất an.
Sáng hôm sau, chồng cô tìm thấy vợ mình nằm chết lạnh. Bác sĩ kết luận
cô đã dùng thuốc quá liều và chết ngạt trên gối của mình. Một ngôi sao
đã tắt.
Với nhiều người, Edie có lẽ chỉ là một cô gái nhà giàu,
tiêu xài hoang phí và không có gì đáng kể. Thật sự, cô là một nhân vật
đầy bi kịch. Bản thân cô là biểu tượng của sự khao khát tình yêu để bù
đắp cho những thiếu thốn từ gia đình, một hiện tượng phổ biến trong văn
hóa Mỹ. Dưới cái nhìn của nhiều nghệ sĩ, cuộc đời của Edie Sedgwick như
một buổi trình diễn nghệ thuật và cô là một tuyệt tác. XUÂN HẠO Bài cuối: Mối tình của nghệ thuật
Những nàng thơ huyền thoại - Bài cuối: Mối tình của nghệ thuật
PN - Cái kết của những nàng thơ trong lịch sử hiếm khi có hậu vì họ
thường là những mỹ nhân bất lực trước sự đưa đẩy của số phận, phụ thuộc
vào các nghệ sĩ. Nhưng, Patti Smith lại hoàn toàn khác. Bà là bạn, người
tình và đối tác nghệ thuật với nhà nhiếp ảnh tài hoa Robert
Mapplethorpe. Robert được xem là “Ông hoàng bóng tối” của giới nghệ
thuật New York, thì Patti cũng là “mẹ đẻ” của nhạc Punk Rock. Huyền
thoại về cặp tình nhân nghệ thuật này có một cái kết ngọt ngào.
Chân dung Patti Smith, 1969
Cuộc gặp gỡ tình cờ
Sinh
ra tại Chicago, Mỹ, Patricia Lee Smith là chị cả trong một gia đình bốn
anh chị em. Khi còn nhỏ, Patricia thường bối rối tìm cách định nghĩa
chính mình, chỉ đến khi làm quen với nghệ thuật, cô mới tìm được lối
thoát. Patricia có niềm yêu thích đặc biệt hội họa và thơ ca, học Khoa
Nghệ thuật tại Trường Đại học Glassboro và mơ ước trở thành một giáo
viên nghệ thuật. Nhưng, môi trường sư phạm không hợp với Patricia. Năm
1967, cô rời trường đại học, mang theo tham vọng trở thành một nhà thơ
với cái tên Patti Smith. Cô chuyển đến New York sống, thực hiện giấc mơ
gia nhập hàng ngũ của những huyền thoại.
Dấn
thân vào xã hội nghệ sĩ trong một thành phố lạ lẫm, không đồng xu dính
túi, cô gái Patti chưa đầy 21 tuổi phải sống dựa vào bạn bè nghệ sĩ.
Nhưng, cũng chính trong giới nghệ sĩ nghèo khó đó, Patti tìm được cơ hội
phát triển tài năng của mình. Từ đó dẫn đến cuộc gặp gỡ định mệnh của
Patti với người mà cô xem là nhân vật quan trọng nhất đời mình: Robert
Mapplethorpe.
Cuộc gặp gỡ đầu tiên của cặp tình
nhân nghệ sĩ huyền thoại diễn ra hết sức tình cờ: Khi đang tìm nhóm bạn,
Patti gặp một chàng trai nằm ngủ trong một căn phòng. Mảnh khảnh, mái
tóc xoăn bù xù, nhìn chàng như “cậu bé chăn cừu”. Chàng trai có tên
Robert Mapplethorpe chợt tỉnh dậy, nở nụ cười với Patti. Chính lúc ấy,
cô biết rằng họ được dành cho nhau.
Lần thứ hai
họ gặp lại nhau trong hiệu sách Patti đang làm việc. Trước đó, trong cửa
tiệm có một chiếc vòng cổ Ba Tư mà Patti rất thích nhưng không có tiền
mua. Robert bước vào, bỏ cả tiếng đồng hồ để xem xét những món hàng
trong tiệm. Cuối cùng, trước sự ngạc nhiên của Patti, anh muốn mua chính
chiếc vòng mà cô thích. Patti kể lại: “Trong lúc gói chiếc vòng đó,
không hiểu sao tôi đã nói: Đừng tặng nó cho bất kỳ cô gái nào ngoài em”.
Robert trả lời “Không đâu”. Cuộc tình của hai nghệ sĩ đầy tài năng ấy
đã bắt đầu như thế.
Nàng và chàng thơ
Patti
và Robert dọn về ở với nhau trong một căn hộ ở Brooklyn, New York. Họ
trở thành nguồn cảm hứng và động lực cho nhau trong sáng tác. Có thể
nói, Patti là nàng thơ của Robert và Robert cũng là “chàng thơ” của
Patti. Họ ảnh hưởng sâu sắc đến nhau trên con đường định hình xu hướng
nghệ thuật của mình.
Trong khi Robert còn chưa
xác định được môn nghệ thuật nào để lập nghiệp thì Patti là người chu
cấp kinh phí cho cả hai. Như bao đôi lứa khác, họ chia sẻ cho nhau các
câu chuyện về mình. Hóa ra, Patti và Robert đều khá nhiều điểm chung: cả
hai đều cùng sinh năm 1946, đều xuất thân nghèo khó nhưng đầy tài năng.
Robert là đứa con được cưng chiều từ nhỏ, trong khi Patti vốn vào đời
sớm. Patti kể lại: “Robert như một đứa trẻ ngoan tìm cách học thói hư,
trong khi tôi như một đứa con hư tìm cách học làm điều tử tế”.
Patti Smith và Robert và Mapplethorp
Được
Patti khích lệ, Robert thử nghiệm với nhiếp ảnh và rất thành công với
các chủ đề tình dục, đau đớn, máu me. Trong những năm 1970, những tác
phẩm nhiếp ảnh trắng đen xoay quanh các chủ đề tình dục của Robert
Mapplethorpe đã làm dấy lên làn sóng tranh cãi về các chủ đề cấm kỵ của
nghệ thuật. Robert nhanh chóng được gán cho biệt danh “Ông hoàng bóng
tối”. Thơ của Patti thì ngày càng chỉn chu hơn và hướng dần về âm nhạc.
Cô chọn thể loại thơ biểu diễn làm chủ đạo. Năm 1971, một buổi đọc thơ
huyền thoại của Patti tại nhà thờ St. Mark đã làm giới nghệ sĩ xôn xao.
Cặp đôi Patti và Robert đã thúc đẩy lẫn nhau để trở thành những nghệ sĩ
thành công.
Nhưng, Robert đã thể hiện mình là
người có tham vọng tiền tài và danh tiếng. Nhà nhiếp ảnh trẻ lao vào
giao du với các nhân vật giàu có, vừa tìm cách bán các tác phẩm của mình
vừa leo lên các bậc thang địa vị xã hội. Thậm chí, anh còn kiếm thêm
tiền bằng cách bán mình cho giới đồng tính thượng lưu. Nhưng với Patti,
vốn là một nghệ sĩ khiêm tốn, cô không thích sự hào nhoáng cũng như lối
sống mà Robert đang tìm kiếm. Patti và Robert chia tay, dù vẫn giữ quan
hệ bạn bè.
Chỉ là con trẻ
Từ
đó, Patti Smith đi theo con đường của riêng mình và trở thành một huyền
thoại trong văn hóa nghệ thuật những năm 1970. Cô pha trộn chất trữ
tình của thơ ca và năng lượng hoạt náo của nhạc Rock. Patti lập một nhóm
nhạc và biểu diễn bài Piss Factory, được xem là bản nhạc Punk Rock đầu
tiên. Patti Smith trở thành một trong những nhà tiên phong của nhạc Punk
Rock sôi động tại New York. Không ai có thể ngờ cô gái vốn xuất thân từ
một gia đình gốc Ailen mộ đạo như Patricia lại trở thành huyền thoại
nhạc Rock. Danh tiếng của Patti Smith vang dội đến tận mãi năm 1980, khi
cô phải lòng và kết hôn với tay chơi guitar của nhóm MC5 Fred “Sonic”
Smith. Hơn 17 năm sau đó, Patti sống ẩn dật, né tránh dư luận, chăm lo
cho gia đình của mình.
Năm 1989, Robert
Mapplethorpe chết vì bệnh AIDS. Chấn động với tin Robert ra đi, Patti
viết tập thơ The Coral Sea (Biển san hô), kể lại tình yêu họ đã dành cho
nhau và nghệ thuật. Đau khổ đã thúc đẩy bà quay trở lại với nhạc Rock
bằng hàng loạt album thành công vang dội. Năm 2007, cái tên Patti Smith
được ghi nhận vào Rock and Roll Hall of Fame, danh sách những vĩ nhân đã
cống hiến cho nhạc Rock and Roll. Để kỷ niệm mối tình của mình và
Robert Mapplethorpe, Patti Smith xuất bản tập thơ/tự truyện mang tên
Just Kids (Chỉ là con trẻ) vào năm 2010. Just Kids kể về tình yêu thơ
ngây và niềm say mê nghệ thuật mà hai ngôi sao này đã chia sẻ.
Trong
vòng bốn thập kỷ, Patti Smith là người tiên phong của xu hướng nhạc
Punk, đem vẻ đẹp tuyệt mỹ của thơ ca vào những bản nhạc mạnh mẽ của
Rock. Mối tình và cuộc hợp tác nghệ thuật của Patti Smith và Robert
Mapplethorpe là câu chuyện huyền thoại trong giới nghệ thuật. Nhưng,
Patti không chỉ tạo cảm hứng cho Robert, bà còn là “nàng thơ” của cả một
thế hệ, truyền cảm hứng cho các hoạt động nghệ thuật suốt hai thập kỷ
1970-1990.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét