KÝ ỨC CHÓI LỌI 91/n
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hồi ký: Trung đoàn Một thời chiến trận 37 + 38 + 39
Xe tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập 11h30 ngày 30-4-1975
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử - bản hùng ca bất diệt
Cách đây hơn 41 năm, với cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa
Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã
kết thúc thắng lợi cuộc trường kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bắc -
Nam sum họp một nhà, đất nước trọn niềm vui.
Ngay từ ngày 25/3/1975, Nghị quyết của
Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã khẳng định thời cơ chiến lược đã đến,
phải tập trung nhanh nhất lực lượng, phương tiện để giải phóng miền Nam
trước mùa mưa. Chiến dịch giải phóng thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn được Bộ
Chính trị quyết định mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Từ
đầu tháng 4 năm 1975, quân dân ta sống trong những ngày hào hùng và sôi
động nhất của lịch sử dân tộc. Cả dân tộc ta ra quân trong một mùa Xuân
lịch sử với tinh thần “đi nhanh đến, đánh nhanh thắng” và khí thế “thần
tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
Ngày 9/4,
ta tiến công vào thị trấn Xuân Lộc, một căn cứ phòng thủ trọng yếu của
địch bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông Bắc. Ngày 16/4, quân ta phá vỡ phòng
thủ Phan Rang. Ngày 21/4, quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy, cửa ngõ vào
Sài Gòn từ hướng Đông Bắc đã được mở. Ngay từ khi mất Xuân Lộc, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức.
Chiến dịch Hồ Chí Minh
Bản đồ tái hiện Chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh, kết thúc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước.
Đúng
17h ngày 26/4, quân ta được lệnh nổ súng mở màn chiến dịch, 5 cánh quân
từ các hướng vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài tiến vào thành phố Sài
Gòn. Ngày 28/4, các trận địa pháo của ta nã đạn vào sân bay Tân Sơn
Nhất. Rạng sáng 29/4, tất cả các cánh quân đồng loạt tổng công kích vào
trung tâm thành phố, đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch.
Sáng 30/4/1975, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 đánh chiếm Sân bay Tân Sơn Nhất.
Đánh chiếm Dinh Độc lập
10h45p
ngày 30/4, 4 xe tăng của ta húc đổ cánh cổng Dinh Độc lập, bắt sống
toàn bộ Ngụy quyền Sài Gòn. Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn Dương Văn Minh
tuyên bố đầu hàng không điều kiện và ra lệnh cho quân Ngụy đầu hàng.
Vào lúc 11h30 cùng ngày, lá cờ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Phủ Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn
báo hiệu sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ngày
2/5/1975, những địa phương cuối cùng của miền Nam được giải phóng.
Xe tăng quân giải phóng húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975.
Ý nghĩa lịch sử
Cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với trận mở màn Buôn Ma
Thuột và Chiến dịch Tây Nguyên, tiếp đó là Chiến dịch Huế - Đà Nẵng,
cuối cùng là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã hoàn toàn thắng lợi trong
gần 2 tháng liên tục và kiên cường chiến đấu (từ 18/3/1975 đến
2/5/1975). Đó là chiến thắng vẻ vang nhất trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, đánh dấu thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn cuộc kháng chiến
chống Mỹ, là sự kiện trọng đại trong lịch sử dân tộc, một sự kiện có tác
động lớn đến tình hình thế giới.
Trải qua 21
năm tiến hành chiến tranh, 5 đời Tổng thống Mỹ điều hành 4 kế hoạch
chiến lược thực dân mới và tiến hành chiến tranh xâm lược, đế quốc Mỹ
từng bước leo thang biến cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thành cuộc
chiến tranh có quy mô lớn nhất trên thế giới kể từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai. Quân dân miền Nam với quyết tâm, ý chí thắng Mỹ với thế
trận chiến tranh nhân dân đã lần lượt đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược
của chúng mà Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là chiến thắng vĩ đại nhất
quyết định số phận của cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Nhân dân Sài Gòn nô nức xuống đường mừng chiến thắng.
Chiến
thắng mùa Xuân năm 1975 đã đập tan hơn 1 triệu quân Ngụy, lật đổ hoàn
toàn chế độ Ngụy quyền tay sai của Mỹ ở miền Nam, cố vấn Mỹ phải rời
khỏi miền Nam, Tổng thống Ngụy quyền Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu
hàng không điều kiện. Chiến thắng đó đã giải phóng nhân dân miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc và tay sai.
Đại
thắng mùa Xuân năm 1975 đánh dấu kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ,
đồng thời kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ
quốc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của đế quốc Pháp - Mỹ và chế độ
phong kiến, rửa sạch nỗi nhục và nỗi đau mất nước hơn 1 thế kỷ của dân
tộc Việt Nam.
Chủ nghĩa thực dân cũ, chủ nghĩa
thực dân mới và thế lực phản động tay sai là nguyên nhân chia cắt đất
nước. Thực dân Pháp chia nước ta thành 3 kỳ trong xứ Đông Dương 5 kỳ
thuộc Pháp, xóa tên Việt Nam trên bản đồ thế giới. Đế quốc Mỹ và Ngụy
quyền Ngô Đình Diệm chia cắt đất nước thành 2 miền Nam - Bắc với vĩ
tuyến 17. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã xóa bỏ mọi ranh giới chia cắt
đất nước, đất nước đã được thống nhất về mặt lãnh thổ, đó là điều kiện
thuận lợi để hai miền Nam - Bắc thống nhất đất nước về mặt nhà nước và
thống nhất trên các lĩnh vực khác.
Đường lối
cách mạng dân chủ nhân dân của Đảng là mục tiêu của cách mạng, là niềm
tin của dân tộc, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp tạo điều kiện
cho miền Bắc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đại thắng
mùa Xuân năm 1975 lật đổ chế độ đế quốc và tay sai, mở đường cho sự hoàn
thành trọn vẹn sự nghiệp cách mạng dân chủ nhân dân, xóa bỏ giai cấp
phong kiến và giai cấp tư sản ở miền Nam.
Đất
nước không còn bóng giặc ngoại xâm, chế độ Ngụy quyền tay sai đã bị lật
đổ, Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là một sự kiện trọng đại trong lịch sử
dân tộc, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước độc lập, thống nhất
trong cả nước và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là một trong những thắng
lợi vĩ đại nhất, một trong những chiến công hiển hách nhất của lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc, Chiến dịch Hồ Chí Minh - trận kết thúc cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước- cùng với trận Bạch Đằng (1288), Chi Lăng
(1427), Đống Đa ( 1789), Điện Biên Phủ (1954) đã cắm một cột mốc vinh
quang chói lọi trong quá trình đi lên của lịch sử nước ta, tô đậm truyền
thống kiên cường bất khuất của dân tộc ta trong công cuộc chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc.
Tình đoàn kết gắn bó
keo sơn của ba dân tộc Đông Dương được thể hiện sâu sắc trong quá trình
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên một chiến trường thống nhất
nhằm chống một kẻ thù chung với cùng một mục tiêu là giải phóng dân tộc.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 không những mở ra bước ngoặt mới của lịch
sử dân tộc và còn tạo thời cơ lớn cho nhân dân Campuchia giải phóng đất
nước ngày 17/4/1975, cho nhân dân Lào giành độc lập ngày 2/12/1975.
Đối
với đế quốc Mỹ, thất bại ở miền Nam năm 1975 là thất bại của một cuộc
chiến tranh hao người tốn của nhất, là thất bại to lớn và nặng nề nhất
trong lịch sử 200 năm của đế quốc Mỹ, thất bại đó đã tác động sâu sắc
tới nội tình nước Mỹ, làm suy giảm uy tín và vị trí của Mỹ trên trường
quốc tế.
Đối với thế giới, Đại thắng mùa Xuân
năm 1975 đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất vào các lực lượng cách mạng
của tên đế quốc đầu sỏ, phá vỡ phòng tuyến ngăn chặn phong trào giải
phóng dân tộc và sự mở rộng của chủ nghĩa xã hội ở khu vực Đông Nam Á,
góp phần làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ.
Thắng
lợi mùa Xuân năm 1975 đã quyết định sự giải thể của khối quân sự SEATO
do Mỹ cầm đầu tháng 9 năm 1975, góp phần đem lại hòa bình, an ninh và sự
hòa hợp của khu vực Đông Nam Á.
Đại thắng mùa
Xuân năm 1975 nói riêng và cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung không chỉ
là thắng lợi riêng của dân tộc Việt Nam mà còn là thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội, phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Thắng
lợi đó đã góp phần tăng cường sức mạnh của chủ nghĩa xã hội, thu hẹp
trận địa của chủ nghĩa đế quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển.
Đại
thắng mùa Xuân năm 1975 là nguồn cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng
dân tộc, phong trào dân chủ tiến bộ trên thế giới, tiếp tục chứng minh
một chân lý của thời đại ngày nay là: Một dân tộc kiên quyết chống chủ
nghĩa đế quốc có đường lối lãnh đạo đúng đắn, có sự đồng tình giúp đỡ
của quốc tế thì nhất định sẽ giành được thắng lợi dù phải đương đầu với
tên đế quốc đầu sỏ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, quân và dân ta đã thực hiện được ý nguyện của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: Nhân dân hai miền Nam - Bắc đã sum họp một nhà. Trong
cuộc đọ sức giữa ý chí Việt Nam và sức mạnh quân sự Mỹ, mặc dù phải
chiến đấu gian khổ, hy sinh nhiều người, nhiều của, nhưng tinh thần và ý
chí của nhân dân Việt Nam quyết tâm giành độc lập dân tộc và thống nhất
nước nhà đã toàn thắng. Chiến thắng oanh liệt đó mãi là niềm tự hào của
mỗi thế hệ người dân Việt Nam, là động lực tinh thần to lớn để chúng ta
kiên định, vững bước trên con đường mà Đảng, Bác Hồ kính yêu và nhân
dân ta đã chọn: Độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; tiếp tục
công cuộc đổi mới, CNH-HĐH, xây dựng và phát triển đất nước, sánh vai
với bạn bè thế giới như Bác Hồ kính yêu vẫn hằng mong muốn.
Theo Báo Nghệ An
Trận đánh lớn nhất cuộc đời Tướng Giáp
Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 là chiến dịch quân sự lớn nhất của quân
đội nhân dân Việt Nam dưới sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973, Mỹ buộc phải rút
quân về nước, tình hình chiến trường miền Nam bắt đầu diễn biến theo
chiều hướng có lợi cho ta. Năm 1974, để nắm vững tình hình thực tế chiến
trường và có quyết sách đúng đắn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Tư lệnh
trưởng Đoàn 559 Đồng Sĩ Nguyên và chính ủy Đặng Tính đã vượt hàng trăm
cây số đi thăm bộ đội Trường Sơn trên đường mòn Hồ Chí Minh và kiểm tra
sự chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy dự kiến vào mùa xuân
1975.
Hội nghị Bộ chính trị ngày 31/3/1975 nhận định, thời cơ để Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam thống nhất đất nước đã đến. "Từ giờ phút này trận quyết chiến cuối cùng của quân dân ta đã bắt đầu".
Đầu tháng 3/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đồng ý với đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược.
Đại tướng đã xin ý kiến của Bộ chính trị và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn chí mạng vào hệ thống phòng ngự của VNCH tại Buôn Mê Thuột. Sau thắng lợi vang dội tại Buôn Mê Thuột, Đại tướng đã nhân đà thắng lợi này trực tiếp ra lệnh Trung tướng Lê Trọng Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày.
Chính ông đề xuất và ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh và chỉ định
Đại tướng Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Trần Văn
Trà làm Phó Tư lệnh, chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của 20 sư đoàn
đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn.
Ngày 1/4/1975, chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu được chuẩn bị
theo tư tưởng chỉ đạo "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng" với tốc
độ "một ngày bằng 20 năm". Mệnh lệnh chỉ đạo nổi tiếng của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp trong chiến dịch Hồ Chí Minh là: “Thần tốc, thần tốc hơn
nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới
mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng. Đây là một
mệnh lệnh mà tính chất chính trị cao hơn tính chất quân sự, là liều
thuốc động viên tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ cả nước dồn hết
sức lực chiến đấu cho trận quyết chiến cuối cùng.
Chiến dịch Hồ Chí Minh chính là chiến dịch quân sự lớn nhất trong lịch sử của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tham gia chiến dịch là 5 cánh quân chủ lực với tổng quân số 250.000 quân, 20.000 dân quân du kích địa phương, 180.000 dân công phục vụ chiến dịch.
Chiến dịch đã huy động một số lượng trang bị vũ khí hạng nặng lớn nhất từ trước đến nay bao gồm: 265 xe tăng và 127 xe thiết giáp, 241 pháo xe kéo, 88 pháo mang vác, hơn 400 pháo cao xạ cùng hàng ngàn xe vận tải các loại chở hàng hóa và bộ đội ra chiến trường.
Trước sức mạnh tấn công vũ bão của 5 cánh quân chủ lực cùng sự nổi
dậy của dân quân du kích địa phương, quân lực VNCH nhanh chóng bị đánh
bại.
Chiến dịch quân sự lớn nhất lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam nhưng lại có thời gian diễn ra nhanh nhất chỉ trong vòng 4 ngày từ ngày 26-30/4/1975.
Chiến dịch Hồ Chí Minh tuy Đại tướng Võ Nguyên Giáp không trực tiếp chỉ huy như những chiến dịch quân sự lớn trước đây nhưng chính ông là người phác thảo kế hoạch và chọn hướng tấn công chiến lược. Việc chọn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược của Đại tướng được xem là một quyết định lịch sử.
Tây Nguyên gần với tuyến vận tải chiến lược đường mòn Hồ Chí Minh nên rất thuận lợi trong công tác đảm bảo hậu cần cho chiến dịch quân sự quy mô lớn, địa hình rừng núi tạo thuận lợi cho việc ngụy trang che dấu lực lượng tạo thế bất ngờ.
Chiến thuật nghi binh hiệu quả đã khiến địa điểm chiến lược Buôn Mê
Thuột bị đánh tan một cách nhanh chóng tạo nên "hiệu ứng domino" khiến
toàn bộ hệ thống phòng ngự trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên bị sụp đổ
hoàn toàn.
Sự thất bại tại Tây Nguyên đã tạo nên một lỗ hỗng lớn trong tuyến phòng ngự của quân lực VNCH. Chiến thắng tại Tây Nguyên đã tạo nên những đột biến lớn trên chiến trường mở đầu cho sự thất bại và tan rã toàn diện của VNCH tại miền Nam Việt Nam, dẫn đến sự chấm dứt 21 năm kháng chiến chống Mỹ chỉ trong 55 ngày.
Chiến dịch Hồ Chí Minh tiếp tục ghi đậm dấu ấn tài chỉ huy quân sự tài ba của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chiến dịch này cho thấy tầm nhìn vĩ mô của một nhà hoạch định chiến lược quân sự lỗi lạc không chỉ của Việt Nam mà của cả thế giới. Có thể nói rằng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chính là con người của những trận đánh lớn tạo nên những bước ngoặt trong lịch sử đấu tranh dựng nước-giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Ông đã ra đi về cõi vĩnh hằng, để lại trong lòng người dân Việt Nam niềm tiếc thương vô hạn. Dân tộc Việt Nam hôm nay và cả những thế hệ mai sau mãi mãi ghi nhớ công lao của người anh hùng giải phóng dân tộc -cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Hội nghị Bộ chính trị ngày 31/3/1975 nhận định, thời cơ để Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam thống nhất đất nước đã đến. "Từ giờ phút này trận quyết chiến cuối cùng của quân dân ta đã bắt đầu".
Đầu tháng 3/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đồng ý với đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược.
Đại tướng đã xin ý kiến của Bộ chính trị và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn chí mạng vào hệ thống phòng ngự của VNCH tại Buôn Mê Thuột. Sau thắng lợi vang dội tại Buôn Mê Thuột, Đại tướng đã nhân đà thắng lợi này trực tiếp ra lệnh Trung tướng Lê Trọng Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày.
Hướng tấn công của 5 cánh quân trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. |
Chiến dịch Hồ Chí Minh chính là chiến dịch quân sự lớn nhất trong lịch sử của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tham gia chiến dịch là 5 cánh quân chủ lực với tổng quân số 250.000 quân, 20.000 dân quân du kích địa phương, 180.000 dân công phục vụ chiến dịch.
Chiến dịch đã huy động một số lượng trang bị vũ khí hạng nặng lớn nhất từ trước đến nay bao gồm: 265 xe tăng và 127 xe thiết giáp, 241 pháo xe kéo, 88 pháo mang vác, hơn 400 pháo cao xạ cùng hàng ngàn xe vận tải các loại chở hàng hóa và bộ đội ra chiến trường.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Quân ủy trung ương đang theo dõi diễn biến của chiến dịch Hồ Chí Minh. |
Chiến dịch quân sự lớn nhất lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam nhưng lại có thời gian diễn ra nhanh nhất chỉ trong vòng 4 ngày từ ngày 26-30/4/1975.
Chiến dịch Hồ Chí Minh tuy Đại tướng Võ Nguyên Giáp không trực tiếp chỉ huy như những chiến dịch quân sự lớn trước đây nhưng chính ông là người phác thảo kế hoạch và chọn hướng tấn công chiến lược. Việc chọn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược của Đại tướng được xem là một quyết định lịch sử.
Tây Nguyên gần với tuyến vận tải chiến lược đường mòn Hồ Chí Minh nên rất thuận lợi trong công tác đảm bảo hậu cần cho chiến dịch quân sự quy mô lớn, địa hình rừng núi tạo thuận lợi cho việc ngụy trang che dấu lực lượng tạo thế bất ngờ.
Việc chọn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 của tướng Giáp được xem là một quyết định tạo nên tính lịch sử cho chiến dịch quân sự lớn nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam. |
Sự thất bại tại Tây Nguyên đã tạo nên một lỗ hỗng lớn trong tuyến phòng ngự của quân lực VNCH. Chiến thắng tại Tây Nguyên đã tạo nên những đột biến lớn trên chiến trường mở đầu cho sự thất bại và tan rã toàn diện của VNCH tại miền Nam Việt Nam, dẫn đến sự chấm dứt 21 năm kháng chiến chống Mỹ chỉ trong 55 ngày.
Chiến dịch Hồ Chí Minh tiếp tục ghi đậm dấu ấn tài chỉ huy quân sự tài ba của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chiến dịch này cho thấy tầm nhìn vĩ mô của một nhà hoạch định chiến lược quân sự lỗi lạc không chỉ của Việt Nam mà của cả thế giới. Có thể nói rằng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chính là con người của những trận đánh lớn tạo nên những bước ngoặt trong lịch sử đấu tranh dựng nước-giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Ông đã ra đi về cõi vĩnh hằng, để lại trong lòng người dân Việt Nam niềm tiếc thương vô hạn. Dân tộc Việt Nam hôm nay và cả những thế hệ mai sau mãi mãi ghi nhớ công lao của người anh hùng giải phóng dân tộc -cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Trận chiến nào mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh?
24/04/2017 05:05 GMT+7
Chiến
dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam
Việt Nam trong Cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, và cũng
là chiến dịch cuối cùng của cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tán thành đề xuất
của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng
tấn công chiến lược, xin ý kiến Bộ Chính trị và cử Đại tướng Văn Tiến
Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn "điểm huyệt" vào hệ thống phòng ngự của
Việt Nam Cộng hòa tại Buôn Mê Thuột.
Chính ông,
nhân đà thắng trận Buôn Mê Thuột, trực tiếp ra lệnh Trung tướng Lê Trọng
Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Chính ông đề xuất và ra
quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong đó Đại tướng Văn Tiến Dũng
làm Tư lệnh, Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Trọng Tấn, Trung
tướng Lê Đức Anh làm Phó Tư lệnh, chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của
20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn.
Bạn có nhớ trận chiến nào mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh?
Trận đánh mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh của Khu Trung Nam bộ
Cập nhật: 11:02, 10/03/2017 (GMT+7)
Nhân
kỷ niệm 42 năm Ngày Chiến thắng Ngã Sáu (10-3-1975 - 10-3-2017) - trận
đánh mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử của Khu Trung Nam bộ, chúng
tôi đã tìm gặp những cựu chiến binh (CCB) đã từng trực tiếp tham gia
trận đánh để ghi lại những khoảnh khắc, dấu ấn của trận đánh lịch sử
này.
Trung tướng Nguyễn Văn Thạnh, nguyên Phó Chính ủy Quân khu 8 bồi hồi
nhớ lại: “Chuẩn bị Chiến dịch mùa khô 1974 - 1975, Bộ Tư lệnh Quân giải
phóng miền Nam quyết định cho Quân khu 8 được thành lập sư đoàn chủ lực
đầu tiên của Khu Trung Nam bộ, lấy phiên hiệu là Sư đoàn Bộ binh 8 (gọi
tắt là Sư đoàn). Lúc đó, tôi được điều về làm Chính ủy Sư đoàn. Chưa đầy
1 tháng sau khi thành lập, Sư đoàn tổ chức trận đánh đầu tiên vào chi
khu Kinh Quận, nằm trên kinh Dương Văn Dương. Sau 1 tuần chiến đấu liên
tục, Sư đoàn đã đánh 29 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 682 tên địch, bắt
sống 67 tên, bắn rơi 1 máy bay trực thăng, phá hủy 1 khẩu pháo 105 mm,
thu nhiều vũ khí đạn dược và phương tiện chiến tranh của địch. Tiếp
theo, Sư đoàn được lệnh hành quân chuyển hướng về hoạt động trên chiến
trường Mỹ Tho. Sau khi nghiên cứu địa hình, Sư đoàn được lệnh tấn công
chi khu Ngã Sáu.
Nhiệm vụ được giao cho Trung đoàn 24 có sở trường đánh công kiên, Trung đoàn 320 lập trận địa phục kích trên cánh đồng Bằng Lăng nhằm tiêu diệt quân tiếp viện, Trung đoàn 207 đứng chân trên kinh Nguyễn Văn Tiếp B làm thê đội dự bị. Đêm 10 rạng ngày 11-3-1975, Sư đoàn bắt đầu nổ súng tấn công, trận đánh kéo dài 16 ngày đêm liên tục và giành được thắng lợi. Toàn Sư đoàn đã đánh 49 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 744 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, thu nhiều vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, được Bộ Tư lệnh Quân khu tặng Cờ với dòng chữ “Vượt khó, tấn công, băng đồng, dũng mạnh”. Chiến thắng Ngã Sáu là trận đánh mở màn của Sư đoàn tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau đó, Sư đoàn được lệnh thọc sâu xuống đường 4, tiến về giải phóng thành phố Mỹ Tho; đồng thời tạo thành mũi vu hồi đánh vào phía Tây Nam Sài Gòn. Lúc này, thông qua hệ thống vô tuyến điện, Sư đoàn nhận được mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu 8 và Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh: “Hành quân thần tốc, kiên quyết cắt đứt lộ 4 thành nhiều đoạn, kìm chân sư đoàn 7 và sư đoàn 9 ngụy, không cho chúng tiến quân về thành phố Sài Gòn ứng cứu và chặn đứng không cho tàn quân ngụy từ Sài Gòn chạy về Đồng bằng sông Cửu Long cố thủ”. Chấp hành mệnh lệnh chiến đấu, trong những ngày cuối tháng 4 lịch sử, Trung đoàn 320 đã cắt đứt đường 4 thành nhiều đoạn, từ cầu Bến Chùa đến phía Nam thị trấn Tân Hiệp, giữ vững trận địa, không cho địch từ miền Tây lên ứng cứu và không cho tàn quân địch từ Sài Gòn chạy về Đồng bằng sông Cửu Long cố thủ. Kìm chân địch, Trung đoàn 1 Đồng Tháp liên tục tấn công làm tan rã sư đoàn 7 ngụy. Ngày
30-4-1975, với thế đánh chẻ tre, Trung đoàn 320 đánh chiếm ngã ba Trung Lương, buộc 1 tiểu đoàn bảo an phải buông súng đầu hàng; Trung đoàn 1 Đồng Tháp đánh chiếm căn cứ Đồng Tâm, khu kho Bình Đức. Sáng 1-5-1975, Sư đoàn hợp quân tiến vào giải phóng thành phố Mỹ Tho.
Đại tá Đỗ Thanh Xuân, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn Bộ binh 8 Anh hùng tự hào: “Hằng năm, mỗi lần ôn lại truyền thống của Sư đoàn, các thế hệ CCB của Sư đoàn đều vô cùng tự hào về trận đánh mở màn của Sư đoàn tiêu diệt chi khu Ngã Sáu. Đây là trận đánh cấp sư đoàn đầu tiên của Khu Trung Nam bộ. Có thể nói, chiến thắng Ngã Sáu là trận đánh then chốt, tạo điều kiện cho Sư đoàn giải phóng thành phố Mỹ Tho và tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Cứ đến Ngày kỷ niệm Chiến thắng Ngã Sáu 10-3 hằng năm là tôi không khỏi ngậm ngùi thương tiếc những đồng đội đã anh dũng hy sinh!...”.
Sư đoàn Bộ binh 8 Anh hùng có nhiều đơn vị trực thuộc được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân gồm: Trung đoàn 1 Đồng Tháp, Trung đoàn 320, Trung đoàn 24, Trung đoàn 18, Trung đoàn 157 (2 lần được phong tặng); Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 3), Tiểu đoàn Quân y, Tiểu đoàn Thông tin, Tiểu đoàn 261A (Tiểu đoàn Hi-rôn), Đại đội Quân y, Trung đoàn 1, Đại đội 18 súng máy phòng không 12,8 mm, Trung đoàn 3 (1 lần được phong tặng) và là Sư đoàn có nhiều cán bộ, chiến sĩ được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân gồm: Hồ Văn Bé, Nguyễn Văn Đừng, Nguyễn Minh Tua, Nguyễn Minh Dứt, Nguyễn Minh Hồng, Lê Hữu Thời, Mai Văn Ánh, Lê Văn Phích, Hà Kiện Toàn, Hồ Khải Hoàn, Nguyễn Văn Tham, Đoàn Minh Triết (Bảy Đen).
Cựu chiến binh Sư đoàn Bộ binh 8 thăm lại chiến trường xưa - Khu di tích Chiến thắng Ngã Sáu. |
Nhiệm vụ được giao cho Trung đoàn 24 có sở trường đánh công kiên, Trung đoàn 320 lập trận địa phục kích trên cánh đồng Bằng Lăng nhằm tiêu diệt quân tiếp viện, Trung đoàn 207 đứng chân trên kinh Nguyễn Văn Tiếp B làm thê đội dự bị. Đêm 10 rạng ngày 11-3-1975, Sư đoàn bắt đầu nổ súng tấn công, trận đánh kéo dài 16 ngày đêm liên tục và giành được thắng lợi. Toàn Sư đoàn đã đánh 49 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 744 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, thu nhiều vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, được Bộ Tư lệnh Quân khu tặng Cờ với dòng chữ “Vượt khó, tấn công, băng đồng, dũng mạnh”. Chiến thắng Ngã Sáu là trận đánh mở màn của Sư đoàn tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau đó, Sư đoàn được lệnh thọc sâu xuống đường 4, tiến về giải phóng thành phố Mỹ Tho; đồng thời tạo thành mũi vu hồi đánh vào phía Tây Nam Sài Gòn. Lúc này, thông qua hệ thống vô tuyến điện, Sư đoàn nhận được mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu 8 và Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh: “Hành quân thần tốc, kiên quyết cắt đứt lộ 4 thành nhiều đoạn, kìm chân sư đoàn 7 và sư đoàn 9 ngụy, không cho chúng tiến quân về thành phố Sài Gòn ứng cứu và chặn đứng không cho tàn quân ngụy từ Sài Gòn chạy về Đồng bằng sông Cửu Long cố thủ”. Chấp hành mệnh lệnh chiến đấu, trong những ngày cuối tháng 4 lịch sử, Trung đoàn 320 đã cắt đứt đường 4 thành nhiều đoạn, từ cầu Bến Chùa đến phía Nam thị trấn Tân Hiệp, giữ vững trận địa, không cho địch từ miền Tây lên ứng cứu và không cho tàn quân địch từ Sài Gòn chạy về Đồng bằng sông Cửu Long cố thủ. Kìm chân địch, Trung đoàn 1 Đồng Tháp liên tục tấn công làm tan rã sư đoàn 7 ngụy. Ngày
30-4-1975, với thế đánh chẻ tre, Trung đoàn 320 đánh chiếm ngã ba Trung Lương, buộc 1 tiểu đoàn bảo an phải buông súng đầu hàng; Trung đoàn 1 Đồng Tháp đánh chiếm căn cứ Đồng Tâm, khu kho Bình Đức. Sáng 1-5-1975, Sư đoàn hợp quân tiến vào giải phóng thành phố Mỹ Tho.
Đại tá Đỗ Thanh Xuân, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn Bộ binh 8 Anh hùng tự hào: “Hằng năm, mỗi lần ôn lại truyền thống của Sư đoàn, các thế hệ CCB của Sư đoàn đều vô cùng tự hào về trận đánh mở màn của Sư đoàn tiêu diệt chi khu Ngã Sáu. Đây là trận đánh cấp sư đoàn đầu tiên của Khu Trung Nam bộ. Có thể nói, chiến thắng Ngã Sáu là trận đánh then chốt, tạo điều kiện cho Sư đoàn giải phóng thành phố Mỹ Tho và tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Cứ đến Ngày kỷ niệm Chiến thắng Ngã Sáu 10-3 hằng năm là tôi không khỏi ngậm ngùi thương tiếc những đồng đội đã anh dũng hy sinh!...”.
Sư đoàn Bộ binh 8 Anh hùng có nhiều đơn vị trực thuộc được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân gồm: Trung đoàn 1 Đồng Tháp, Trung đoàn 320, Trung đoàn 24, Trung đoàn 18, Trung đoàn 157 (2 lần được phong tặng); Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 3), Tiểu đoàn Quân y, Tiểu đoàn Thông tin, Tiểu đoàn 261A (Tiểu đoàn Hi-rôn), Đại đội Quân y, Trung đoàn 1, Đại đội 18 súng máy phòng không 12,8 mm, Trung đoàn 3 (1 lần được phong tặng) và là Sư đoàn có nhiều cán bộ, chiến sĩ được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân gồm: Hồ Văn Bé, Nguyễn Văn Đừng, Nguyễn Minh Tua, Nguyễn Minh Dứt, Nguyễn Minh Hồng, Lê Hữu Thời, Mai Văn Ánh, Lê Văn Phích, Hà Kiện Toàn, Hồ Khải Hoàn, Nguyễn Văn Tham, Đoàn Minh Triết (Bảy Đen).
ĐẬU VIẾT HƯƠNG
“Chiến dịch Hồ Chí Minh”: Đỉnh cao trí tuệ và tinh hoa nghệ thuật quân sự Việt Nam
ANTĐ Sau
những thắng lợi vang dội của chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế -
Đà Nẵng, ngày 1/4, Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm chiến lược: Giải phóng
miền Nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975.
Đây là một quyết tâm hết sức đúng đắn và
kịp thời của Bộ Chính trị, thể hiện trí tuệ của Đảng ta và tư duy quân
sự của các tướng lĩnh đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt
Nam. Ngay sau đó, Bộ Chỉ huy Miền đã họp, quán triệt Chỉ thị của Bộ
Chính trị và bàn các giải pháp thực hiện.
Ngày 8/4/1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch
giải phóng Sài Gòn - Gia Định (sau đổi tên thành Bộ Chỉ huy Chiến dịch
Hồ Chí Minh) được thành lập. Tư lệnh là Đại tướng Văn Tiến Dũng (Uỷ viên
Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam); Chính
uỷ - Phạm Hùng (Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục miền Nam).
Căn cứ vào phương châm và tư tưởng chỉ
đạo của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, Bộ Tư lệnh Chiến dịch xác
định hướng tiến công chủ yếu là Bắc và Tây Bắc, trong đó hướng Tây Bắc
là chủ yếu. Hướng Đông và Tây Nam là những hướng hiểm yếu và quan trọng.
Bộ Tư lệnh Chiến dịch xác định 5 mục
tiêu chủ yếu trong nội thành phải nhanh chóng đánh chiếm là: Bộ Tổng
tham mưu ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô, Tổng
Nha cảnh sát và Dinh Độc Lập, quy định các mũi, các cánh sau khi đánh
chiếm các mục tiêu và khu vực được phân công phải nhanh chóng đến hợp
điểm ở Dinh Độc Lập.
Từ tháng 4/1975, các binh đoàn chủ lực
trên đường hành quân tiến về Sài Gòn đã đánh địch trên đường hành tiến,
phá toang các tuyến phòng ngự vòng ngoài, từ xa của địch nhất là cánh
quân phía Đông do Trung tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy, giải phóng Phan
Rang, Bình Thuận, Bình Tuy, Xuân Lộc, Bà Rịa.
Xe tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập 11h30 ngày 30-4-1975
Ngày 9-4, quân ta bắt đầu cuộc chiến đấu
tạo thế ở Đông Bắc - Tây Nam Sài Gòn và đánh địch ở toàn miền Đông Nam
Bộ, đồng thời huy động lực lượng gồm 4 quân đoàn và một đơn vị tương
đương quân đoàn với đầy đủ binh khí, kỹ thuật, hình thành 5 cánh quân
theo 5 hướng bao vây Sài Gòn, đợi lệnh đồng loạt tấn công.
Kết hợp với đòn tấn công quân sự, đồng
chí Võ Văn Kiệt đã tổ chức và chỉ đạo kế hoạch nổi dậy của quần chúng
phối hợp với cuộc tiến công của các binh đoàn chủ lực của ta và thành
phố, phong trào nổi dậy của quần chúng ven đô và nội đô cũng đã được
chuẩn bị sẵn sàng chờ dịp vùng lên.
Ngày 26-4, cuộc Tổng tấn công quy mô lớn
vào thành phố Sài Gòn bắt đầu. Quân ta đồng loạt nổ súng tiến công mãnh
liệt trên toàn mặt trận. Năm cánh quân lớn của ta, hiệp đồng với các
lực lượng vũ trang địa phương và được sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân
nổi dậy nhất loạt tiền công với sức mạnh vũ bão.
Chỉ trong vài ngày đầu tiên của Chiến
dịch, quân ta đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng địch trên
tuyến phòng thủ vòng ngoài, cắt đứt giao thông thuỷ bộ, chặn đường rút
chạy ra biển, xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long và siết chặt vòng vây
xung quanh Sài Gòn, quân địch lúc đó như “cá nằm trong rọ”.
Chiều ngày 28-4, cuộc tập kích sân bay
Tân Sơn Nhất lần 2 của không quân ta (lần 1 do đồng chí Nguyễn Thành
Trung dẫn dắt, diễn ra vào ngày 8-4) đã phá huỷ nhiều máy bay địch gây
cho địch nhiều thiệt hại lớn, cắt đứt chi viện hỏa lực cho quân đội và
cắt đứt cầu hàng không duy nhất của địch, không cho chúng chạy ra nước
ngoài.
Đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất
Đại tướng, Tổng Tham mưu trưởng quân ngụy Cao Văn Viên đã chạy thoát khỏi Sài Gòn ngay trong ngày 28-4.
Đêm 28 rạng ngày 29-4, các Binh đoàn chủ
lực của ta đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang địa phương
đồng loạt công kích từ nhiều hướng, tiêu diệt các tập đoàn phòng ngự và
các căn cứ phòng ngự cuối cùng của địch ở các căn cứ Biên Hoà, Thủ Dầu
Một, Củ Chi, Hậu Nghĩa, Tân An. Diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng
quân sự thuộc Quân đoàn 3 ngụy và các lực lượng cơ động còn lại của
chúng.
Ngày 30-4, với sự hợp đồng chiến đấu của
các lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, các lực lượng biệt động tự vệ ở vùng
ven và nội đô kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng trong và ngoài thành
phố, các cánh quân hùng mạnh của ta đã thần tốc thọc sâu, bỏ qua một số
cứ điểm ngoại vi, đánh thẳng vào trung tâm thành phố Sài Gòn.
Lực lượng ta nhanh chóng tiến thẳng vào
chiếm các mục tiêu quan trọng, đã được phân công trong thành phố Sài Gòn
- Gia Định như: Bộ Tổng tham mưu, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát,
sân bay Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh, Bộ Quốc phòng, Bộ tổng tham mưu
ngụy và khu cảng Bạch Đằng.
10 giờ ngày 30-4, trung đoàn 66 bộ binh,
cùng với xe tăng của lữ đoàn 203 thuộc Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tiến
công thọc sâu, đập tan toàn bộ lực lượng phòng ngự của quân ngụy vượt
qua sông Sài Gòn.
Quân ta đánh chiếm Bộ quốc phòng và Bộ tổng tham mưu ngụy
10 giờ 45 phút cùng ngày, quân ta chiếm
Dinh Độc Lập (Phủ Tổng thống ngụy) giữa lúc ngụy quyền Sài Gòn đang họp
các Tổng trưởng để ra mắt “tân nội các”. Đúng 11 giờ 30 phút ngày
30-4-1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Phủ Tổng thống ngụy, Tổng
thống ngụy quyền Dương Văn Minh phải chấp nhận đầu hàng không điều kiện.
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Trên đà chiến thắng, từ ngày 30-4, đồng
bào và chiến sỹ các tỉnh Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã đồng
loạt tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, lần lượt giải phóng các tỉnh còn lại.
Lần lượt Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Long An,
Hậu Nghĩa, Mỹ Tho, Trà Vinh, Bến tre, Kiến Tường, An Giang, Châu Đốc,
Sa Đéc, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu,
Rạch Giá, Cà Mau đã đứng lên giành quyền làm chủ. Ngày 1-5-1975, toàn bộ
lãnh thổ trên đất liền miền Nam Việt Nam đã hoàn toàn giải phóng.
Cùng với các tỉnh ở đất liền, ngày 30-4,
các chiến sỹ yêu nước bị địch giam giữ ở Côn Đảo đã nổi dậy, làm chủ
hoàn toàn đảo này. Ngày 2-5, Quân giải phóng phối hợp với nhân dân tiến
công và nổi dậy, giành quyền làm chủ hoàn toàn đảo Phú Quốc.
Nhân dân Sài Gòn nô nức đổ ra đường đón Quân giải phóng
Trước đó, trong tháng 4/1975, quân ta
giải phóng các đảo dọc bờ biển trung Trung bộ và nam Trung bộ. Trong
quần đảo Trường Sa, Quân ta tiến công và giải phóng các đảo do quân ngụy
chiếm giữ như: đảo Song Tử Tây, đảo Sơn Ca, đảo Nam Yết, đảo Sinh Tồn,
đảo Trường Sa và đảo An Bang.
Trong
Chiến dịch Hồ Chí Minh (tính từ ngày 9-4 đến ngày 30-4), quân và dân ta
đã tiêu diệt, làm tan rã hơn 40 vạn tên địch, gồm 10 sư đoàn quân chủ
lực và tổng động viên, 12 chiến đoàn thiết giáp, 5 sư đoàn không quân,
đánh sập toàn bộ ngụy quyền trung ương và địa phương gồm 22 vạn tên,
giải phóng Sài Gòn - Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh) và toàn bộ
các tỉnh còn lại, kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của nhân dân ta.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao của
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Thắng lợi của Chiến
dịch Hồ chí Minh là thắng lợi vĩ đại nhất, trọn vẹn nhất, kết thúc 30
năm chiến tranh lâu dài, gian khổ, ác liệt nhất nhưng cũng vẻ vang nhất
trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta, mở ra một kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Tương quan lực lượng trong chiến dịch Hồ Chí Minh
(Kiến Thức) - Để tập trung cho chiến dịch
Hồ Chí Minh, quân ta đã huy động lực lượng lên tới 25 vạn người biên
chế trong 15 sư đoàn, 14 trung đoàn bộ binh….
* Ngày 8/4/1975, tại Lộc Ninh, Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài
Gòn-Gia Định được thành lập với thành phần: Tư lệnh: Đại tướng Văn Tiến
Dũng, Chính uỷ: Phạm Hùng, các Phó Tư lệnh: Thượng tướng Trần Văn Trà,
Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện, Quyền Tham mưu
trưởng: Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, sau đó bổ sung Trung tướng Lê Trọng
Tấn làm Phó Tư lệnh và Trung tướng Lê Quang Hòa làm Phó Chính ủy kiêm
Chủ nhiệm Chính trị. Các thành viên dự hội nghị đã nhất trí đề nghị Bộ
Chính trị cho lấy tên gọi "Chiến dịch Hồ Chí Minh" thay cho tên gọi
"Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định". Ngày 14/4, Bộ Chính trị Đảng
Lao động Việt Nam gửi bức điện số 37/TK cho Bộ Chỉ huy chiến dịch giải
phóng Sài Gòn - Gia Định: “Đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên
là Chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Sau khi phòng tuyến Xuân Lộc bị chọc
thủng, quân VNCH rệu rã lùi dần về Sài Gòn tiếp tục thực hiện mưu mô
phòng thủ ở các vị trí cửa ngõ. Trong khi đó, tình hình chính trị bên
trong thành phố Sài Gòn hết sức rối ren. Lúc này ta xây dựng kế hoạch
giải phóng Sài Gòn.
Lực lượng ta và địch ngang nhau
Tại thời điểm này quân VNCH có 5 sư
đoàn bộ binh: 22, 25, 5, 18 và sư đoàn thủy quân lục chiến; 2 lữ đoàn dù
số 1, 4; lữ 3 kỵ binh thiết giáp; 4 liên đoàn biệt động quân, bảo an và
các đơn vị khác. Tổng cộng chúng có 240.000 quân, 625 xe tăng thiết
giáp (gồm các xe M113, M41 và M48) và 400 khẩu pháo các loại…
Để thực hiện thành công việc giải phóng Sài Gòn – Gia Định (Chiến dịch Hồ Chí Minh)
về lực lượng chủ lực ta đã tập trung được khoảng 250.000 quân với 15 sư
đoàn, 14 trung đoàn bộ binh (được tổ chức thành 5 quân đoàn và tương
đương) cùng với một khối lượng vũ khí, trang bị, phương tiện rất lớn
như: pháo binh 516 khẩu (pháo 130/122/105mm), pháo cao xạ 550 khẩu (gồm
các loại súng máy 12,7mm, pháo 37/57mm) , 320 xe tăng (các loại T-54,
T-59, PT-85), thiết giáp (BTR-60PB, K63) và một khối lượng vật chất bảo
đảm tới gần 60.000 tấn...
Nhìn chung về quân số thì ta và địch
là ngang ngửa nhau, về vũ khí VNCH có nhỉnh hơn một chút về xe tăng và
đặc biệt là chúng còn lực lượng không quân rất mạnh (dù đã bị tổn hại ít
nhiều). Thế nhưng, choáng ngợp trước bước tiến thần tốc của quân giải
phóng, binh lính VNCH lúc này rệu rã tinh thần, không còn ý chí chiến
đấu, không ít chỉ huy bỏ trốn. Vì vậy, dù quân đông, vũ khí mạnh, địch
nhanh chóng bị quân giải phóng đè bẹp hoàn toàn.
Đòn quyết định
Chiến dịch Hồ Chí Minh chính
thức diễn ra lúc 17 giờ ngày 26/4, liên tiếp trong hai ngày 27 và 28/4,
các đòn tiến công quân sự đã đánh thiệt hại nặng: Sư đoàn 22, cắt Đường 4
ở Tân An – Bến Lức; Sư đoàn 18 và Thiết đoàn 3 quân Việt Nam cộng hòa ở
Trảng Bom – Biên Hòa; sư đoàn thủy quân lực chiến ở Long Bình và Lữ dù 1
ở Bà Rịa.
Ngày 29/4, đòn quân sự đã chặn đánh và
tiêu diệt các sư đoàn 22, 25, 5, 18, thủy quân lục chiến, các lữ dù, Lữ
3 kỵ binh ở tuyến ngoài của địch. Cùng ngày, các binh đoàn cơ giới hóa
thọc sâu đã tiêu diệt sư đoàn biệt động quân mới thành lập, các liên
đoàn bảo an của tuyến giữa phòng ngự vùng ven và nhanh chóng vào vùng
sát thành phố như Vĩnh Lộc, Bà Hom, Bà Quẹo, Lái Thiêu, cầu Đồng Nai...
Ngày 30/4, các đơn vị chủ lực tiếp tục
đập tan các đơn vị còn lại của địch ở ngã tư Bảy Hiền, Lăng Cha Cả, Thủ
Đức, cổng số 1 Bộ Tổng Tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, cầu Bình Phước,
Bình Triệu, cầu Sài Gòn, Rạch Chiếc… Các binh đoàn thọc sâu nhanh chóng
chiếm các mục tiêu chiến lược, bắt toàn bộ nội các của địch, buộc Dương
Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện
Phối hợp chặt chẽ với các hướng tiến
công của các binh đoàn chủ lực vào sào huyệt cuối cùng của địch, Quân
khu 7, thành ủy, thành đội Sài Gòn - Gia Định đã đưa 1.700 cán bộ cơ sở
xuống các xã, phường, quận, huyện nội thành và ngoại thành, thâm nhập
các xí nghiệp, công sở, trường học, các đoàn thể xã hội, tổ chức tuyên
truyền, vận động quần chúng sẵn sàng nổi dậy, tiếp lương thực, thực phẩm
cho bộ đội khi các cánh chủ lực đánh vào nội đô. Thành ủy, thành đội
cũng cử hàng trăm chiến sỹ biệt động, tự vệ thành ra ngoại ô dẫn đường
cho các cánh quân tiến công vào mục tiêu then chốt như sân bay Tân Sơn
Nhất, Bộ Tổng Tham mưu, Dinh Độc Lập, Biệt khu Thủ đô và Nha cảnh sát đô
thành… Các đoàn đặc công, các đội biệt động của Miền, Quân khu 7 và
thành đội Sài Gòn hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng vũ trang tại chỗ của
thành phố lúc này có: 1 lữ đoàn, 8 trung đoàn, 5 tiểu đoàn và nhiều đại
đội cùng với hơn 4.000 du kích có nhiệm vụ chủ động tổ chức tập kích các
sân bay, bến cảng, kho tàng, trận địa hỏa lực, phát động nhân dân nổi
dậy diệt các đồn, bốt nhỏ lẻ, mở rộng địa bàn đứng chân, đánh chiếm và
giữ các đầu cầu. Các lực lượng tại chỗ đã đánh chiếm hơn 100 mục tiêu
lớn nhỏ; chiếm 13 cầu, giữ 10 cầu bảo đảm cho binh đoàn chủ lực qua
sông; chiếm giữ nhiều mục tiêu quan trọng … Khi 5 cánh quân của các binh
đoàn chủ lực tiến công đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố, các lực
lượng này đảm nhiệm việc dẫn đường và làm nòng cốt cho quần chúng nổi
dậy giành chính quyền.
Sự phối hợp giữa tiến công quân sự với
sự nổi dậy của quần chúng nhân dân Sài Gòn – Gia Định đã lên tới cao
trào với 107 điểm quần chúng nổi dậy (31 điểm ở ngoại thành và 76 điểm ở
ngoại thành; trong đó, 32 điểm diễn ra trong ngày 29 tháng 4 và 75 điểm
trong ngày 30 tháng 4).
Lực lượng quần chúng ở ngoại thành dựa
vào áp lực đánh lướt qua của các binh đoàn chủ lực và sự hỗ trợ của lực
lượng vũ trang tại chỗ đã xông vào phá hủy các đồn, bốt, làm công tác
binh vận, chiếm nhiều trụ sở xã, ấp; chiếm trụ sở các huyện Củ Chi, Hóc
Môn, Bình Chánh, Gò Vấp, Thủ Đức; thu các giấy tờ, hồ sơ hạ cờ của chính
quyền VNCH, treo cờ ta. Lực lượng vũ trang tại chỗ và quần chúng nhân
dân đã chiếm nhiều cơ sở kinh tế, quân sự, chính trị cử đại diện chính
quyền cách mạng, tham gia giải phóng các huyện ngoại thành.
Ở nội thành, khi các cánh quân chủ lực
tiến vào thì quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ đã nổi
dậy, đánh chiếm đồn, bốt, treo cờ, vận động – uy hiếp làm tan rã bọn
cảnh sát, dân vệ, chiếm trụ sở khóm, phường, cơ quan hành chính quận.
Nhờ có sự nổi dậy của quần chúng và lực lượng vũ trang tại chỗ đến chiều
ngày 30/4 ta đã cơ bản làm chủ và kiểm soát tất cả các huyện, quận, xã,
phường của thành phố Sài Gòn – Gia Định.
Như vậy, chiến dịch Hồ Chí Minh được
tiến hành với các đòn tiến công quân sự mạnh mẽ của các binh đoàn chủ
lực, đã tạo ra động lực và thời cơ để các lực lượng vũ trang địa phương
hoạt động có hiệu quả, hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động nổi dậy của quần
chúng nhân dân. Đồng thời, hoạt động rộng khắp của các lực lượng vũ
trang địa phương và sự nổi dậy của quần chúng nhân dân lại tạo ra thế và
lực cho các binh đoàn chủ lực tác chiến. Hành động phối hợp tác chiến
của các lực lượng vũ trang địa phương và sự nổi dậy của quần chúng nhân
dân đã có tác dụng rất to lớn hỗ trợ cho các đòn tiến công quân sự của
các binh đoàn chủ lực.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu
vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường…, ở trong nước các thế lực
thù địch tăng cường chống phá về chính trị, kinh tế, về dân chủ, nhân
quyền, tự do, tôn giáo, tiến hành các thủ đoạn “diễn biến hòa bình”,
“bạo loạn lật đổ”…, tranh chấp trên biển Đông, xung đột lợi ích giữa các
nước trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới (nếu chiến tranh xảy ra), những bài học về nghệ
thuật quân sự trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là nghệ thuật kết
hợp giữa tiến công của binh đoàn chủ lực với nổi dậy quần chúng nhân
dân; nghệ thuật phối hợp tác chiến của ba thứ quân, lấy đòn tác chiến
của binh đoàn chủ lực làm trung tâm vẫn còn nguyên giá trị.
Ngày 29/4, quân ta tổng tiến công. Các
binh đoàn bộ đội hợp thành tiến công trong hành tiến, tiêu diệt các
cánh quân địch ngăn chặn và phản kích, nhằm thẳng các mục tiêu đã được
phân công. Sáng 30/4, trong thế thua đã rõ ràng, địch xin ngừng bắn, bộ
đội ta vẫn kiên quyết tiến công. Các quân đoàn nhanh chóng đánh chiếm
các mục tiêu. 11h30 ngày 30/4, sau khi Dinh Độc Lập thất thủ, Tổng thống
ngụy Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Ngày 1/5, toàn bộ lực lượng còn lại của quân VNCH tan rã, ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Kết quả của chiến dịch, ta tiêu diệt
quân đoàn 3 và toàn bộ các lực lượng tăng cường, diệt và làm tan rã quân
đoàn 4 cùng tất cả các lực lượng địch còn lại trên chiến trường; giải
phóng thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn, đòn quyết định làm tan rã toàn bộ
ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Bí ẩn chiến dịch di tản của người Mỹ khỏi Sài Gòn (1)
(Kiến Thức) - Sau chiến dịch giải phóng
Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng và một số tỉnh, thành phố khu vực Nam Trung Bộ,
người Mỹ bắt đầu tính đến chuyện di tản khỏi miền Nam.
Sau
chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng và một số tỉnh, thành phố
khu vực Nam Trung Bộ, người Mỹ bắt đầu tính đến chuyện di tản khỏi miền
Nam. Đây là kế hoạch tuyệt mật đã được chuẩn bị từ trước, nhưng quá
trình thực hiện không giống trong kịch bản. Thực tế, những lộn xộn từ
mặt trái của công tác tuyên truyền đã trở thành cuộc rút chạy chưa từng
có của hơn 1 triệu người. Hơn 40 năm qua đi, chuyện di tản của người Mỹ ở
Nam Việt Nam vẫn là những ẩn số và sẽ được giải mã trong loạt bài sau
đây của Báo Kiến Thức.
Kỳ 1: Ngày suy tàn đến gần
Mỹ cố đấm ăn xôi
Thi hành Hiệp định Paris, Mỹ buộc phải
rút hết quân về nước. Thế nhưng, để hà hơi tiếp sức cho chính quyền
VNCH, trước khi rút quân ra, Mỹ đã đưa vào miền Nam gần 700 máy bay các
loại, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép và rất nhiều tàu chiến, dự
kiến đưa thêm một số lớn binh khí kỹ thuật, tăng dự trữ vật tư chiến
tranh của VNCH lên mức tương đối cao, gần 2 triệu tấn.
Để vận hành các phương tiện khí tài
đặc chủng, bảo quản trang bị chiến tranh tiên tiến ở các lĩnh vực của
hoạt động quân sự, cần phải có lượng lớn kỹ thuật viên phục vụ mà quân
VNCH không làm được. Để giải quyết bài toán này, Lầu Năm Góc có kế hoạch
thay bằng những cố vấn gọi là dân sự trên cơ sở thuê theo hợp đồng. Lầu
Năm Góc muốn dùng những công dân không phải là người Mỹ, nhưng không
thể và cuối cùng lại buộc phải dựa nhiều vào nhân viên quân sự Mỹ trước
kia. Cũng theo điều khoản của Hiệp định Paris, Mỹ phải giải tán Bộ chỉ
huy viện trợ quân sự ở Sài Gòn (MACV). Thế nhưng, để hợp thức hóa sự tồn
tại của nó, Mỹ đã thiết lập một cơ quan tùy viên quốc phòng (DAO) gồm
50 sĩ quan cộng với 1.200 dân sự Mỹ mà số đông là những sĩ quan có kinh
nghiệm ở Việt Nam đã về hưu.
Vì đã vi phạm tinh thần và điều khoản
của Hiệp định, nên cơ quan DAO của Mỹ ở Nam Việt Nam hoạt động kín đáo
và số lượng nhân viên của DAO cũng không rõ ràng. Đầu tiên, Lầu Năm Góc
bào cáo con số dự định là 10.000, nhưng sau đó thì họ thừa nhận có 7.200
nhân viên dân sự, khoảng 1.000 là nhân viên cơ quan phát triển quốc tế
(AID). Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam thì tố cáo Mỹ có
từ 10.000 đến 20.000 người. Trước áp lực của dư luận và sự đấu tranh
thẳng thắn của Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
và Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam trong Ban Liên hợp quân sự 4 bên và 2 bên Trung ương, Lầu Năm
Góc thừa nhận đã thuê hơn 23.000 nhân viên qua hợp đồng, trong đó có hơn
5.000 là người Mỹ.
Trong thực tế, vì đã chót “dựng” ở Nam
Việt Nam một chính phủ bù nhìn, tham nhũng, buôn lậu, tranh dành quyền
lực, phản động nên ở thời điểm đó, số lượng người Mỹ làm nhiệm vụ giúp
đỡ Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu còn cao hơn con số thật rất nhiều.
Bởi lúc này, khi sự hiện diện quân sự của Mỹ, sức mạnh răn đe chính
không còn, khi mà các gói viện trợ cho Thiệu ngày càng bị Quốc hội Mỹ
kiểm soát gắt gao thì việc hiển diện những nhân viên quân sự đội nốt dân
sự của Mỹ trong hoàn cảnh đó là hết sức cần thiết. Nó được xem là liều
thuốc “tình cảm”, an ủi bộ máy chính quyền Tổng thống VNCH Nguyễn Văn
Thiệu và cũng ngầm nói với các nước rằng, Mỹ không hề bỏ rơi đồng minh.
Nhưng cho dù Mỹ có “cố đấm ăn xôi”,
dùng nhiều cách khác nhau để ủng hộ Thiệu đi chăng nữa thì “ngày suy
tàn” ở Nam Việt Nam vẫn cứ đến rất gần. Nguyên nhân là vì bị cắt viện
trợ và đặc biệt là do cả Mỹ và Ngụy không phán đoán đúng ý đồ tác chiến
chiến lược của Hà Nội, nên bố trí lực lượng “phòng thủ” sai và bị vỡ
trận thảm bại, buộc phải rút chạy, rời khỏi Nam Việt Nam trước ngày
30/4/1975. Chính việc đưa nhiều nhân viên Mỹ đến giúp đỡ chính quyền
Thiệu đã khiến cho chiến dịch di tản trở thành một thảm kịch, một vết
nhơ khó có thể gột rửa trong lịch sử quân đội Mỹ.
Phán đoán sai
Trong hai ngày 9 và 10/12/1973, Chính
phủ Sài Gòn tổ chức một hội nghị quan trọng dưới sự chủ trì của Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu, nhằm tìm hiểu ý đồ của Hà Nội. Sau hội nghị,
Thiệu và các sĩ quan của ông ta thống nhất nhận định rằng, những tháng
sắp tới, quân Giải phóng sẽ mở cuộc tiến công quan trọng hơn năm 1974,
nhưng chưa lớn bằng cuộc tiến công năm 1968 (đúng như tin do CIA phân
tích trước đó không lâu). Từ đây Thiệu kết luận rằng, quân đội Bắc Việt
Nam không thể đánh chiếm và giữ những thành phố quan trọng dài ngày. Họ
sẽ nhằm hướng Quân khu III, đánh Tây Ninh là chủ yếu (dự đoán của Đại sứ
Martin) và họ chỉ tiếp tục tiến công cho đến tháng 6, hết mùa khô. Sau
đó, họ ngừng để lấy lại sức và củng cố. Căn cứ vào sự phân tích trên,
Thiệu quyết định không gửi quân tiếp viện cho Quân đoàn 2 ở Tây Nguyên,
mà trái lại tập trung lực lượng dự trữ ở phía Nam đất nước.
Tin tài trợ
Từ ngày 13/12/1974, quân Giải phóng mở
chiến dịch Đông – Xuân, đánh chiếm hai thị xã phía Đông - Bắc Sài Gòn ở
Phước Long. Tại phía Nam, trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, quân Giải
phóng chiếm nhiều vị trí tiền tiêu ven đường số 4. Frank Snepp, một
nhân viên CIA kỳ cựu, đột nốt hoạt động ngoại giao dưới quyền của Đại sứ
Martin ngày đó đã kể lại trong cuốn “The Decent Interval” (Cuộc tháo
chạy tán loạn) rằng: Sau khi phân tích tình hình, mọi người ở sứ quán Mỹ
cùng nhận định, quân Giải phóng sẽ chọn một số mục tiêu chung, nhưng
không đồng ý với nhau về mục tiêu phụ. Martin, Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn
cho là, quân Giải phóng sẽ đánh Tây Ninh, còn Polgar và Frank Snepp ngã
về phía Phước Long, phía Tây Bắc Sài Gòn.
Ngày 6/1/1975, quân Giải phóng làm chủ
thị xã Phước Long. Đây là đòn đau đối với chính quyền Thiệu vì chưa bao
giờ Hoa Kỳ tỏ ra thờ ơ như lúc này. Chưa hết, sau đó khoảng 5 ngày, núi
Bà Đen, một điểm cao ở phía Bắc tỉnh Tây Ninh bị thất thủ đã càng làm
cho Thiệu và CIA tin rằng, thời gian tới, quân Giải phóng sẽ đánh Tây
Ninh, cô lập Sài Gòn.
Thêm một tình tiết nữa khiến cho nhận
định trên của CIA và Thiệu khả thi hơn khi vào cuối tháng 12/1975, Đại
tướng Viktor Kulikov, người đứng đầu lực lượng vũ trang Liên Xô đã bay
đến Hà Nội. 2 nhân viên CIA là Polgar và Frank Snepp cho rằng, sau cuộc
viếng thăm này Hà Nội sẽ tổ chức chiến dịch lớn, tương tự như cách làm
sau cuộc viếng thăm của một vị tướng Liên Xô năm 1971 trước đây. Tuy
nhiên, những nhận định của Polgar và Frank Snepp không được CIA và Bộ
Ngoại giao ở Washington chấp nhận. Họ cho rằng, Kulikov chỉ viếng thăm
thường lệ. Tuy nhiên, sau khi Kulikov đến thăm Việt Nam không lâu, qua
theo dõi thông tin, Polgar và Frank Snepp lại nhận thấy, khối lượng
thiết bị quân sự Liên Xô chở bằng đường biển tới Bắc Việt Nam tăng gấp
bốn lần so với trước đây. Điều này giúp họ sơ bộ kết luận, Moscow đã ủng
hộ hết mức cho cuộc tiến công cuối cùng của Hà Nội. Như vậy, việc Hà
Nội sẽ đánh chiếm Tây Ninh là rất khả thi.
Thế nhưng, “ngày suy tàn” đến với VNCH
và những người Mỹ ở Nam Việt Nam không phải đến từ Tây Ninh như cả Đại
sứ Martin, Thiệu và CIA nhận định mà lại đến từ một nơi rất xa Sài Gòn,
đó là một thị xã ở cao Nguyên có tên Buôn Mê Thuật.
Bí ẩn chiến dịch di tản của người Mỹ khỏi Sài Gòn (2)
(Kiến Thức) - Mặc dù chưa xong Chiến dịch
Tây Nguyên, trước nguy cơ Huế và Đà Nẵng thất thủ, người Mỹ bắt đầu rút
chạy khỏi những vùng đất này về Nha Trang, Sài Gòn.
Trước
cảnh tượng rút đi vội vã, sợ sệt, không kèn không trống, nhiều nhà bình
luận chính trị đã khôi hài gọi, đó là cuộc “tập rượt” của các công dân
cường quốc thế giới.
Kỳ 2: “Tập rượt”
Bão lửa
Ngày 9/3, quân Giải phóng đã triển
khai lực lượng cài xong thế chiến lược và chiến dịch, đã chia cắt Tây
Nguyên với vùng đồng bằng, chia cắt phía nam với phía bắc Tây Nguyên, đã
hoàn toàn bao vây và cô lập thị xã Buôn Ma Thuột.
Đúng 2 giờ sáng ngày 10/3, bộ đội đặc
công Giải phóng nổ súng đánh sân bay Hoà Bình, hậu cứ Trung đoàn 53, sân
bay thị xã và kho Mai Hắc Đế, mở màn cuộc tiến công Buôn Ma Thuột. Cùng
lúc, các loại pháo, hoả tiễn giội bão lửa vào Sư đoàn bộ 23 VNCH và kéo
dài từng loạt đến 6 giờ 30 phút, làm rối loạn và tê hệt cơ quan đầu não
địch. Chỉ trong vòng một giờ, bộ đội đặc công đã chiếm phần lớn sân bay
thị xã, phá huỷ trong nháy mắt 7 máy bay địch, chiếm một góc sân bay
Hoà Bình và toàn bộ kho Mai Hắc Đế. Lợi dụng tiếng pháo gầm, tiếng súng
nổ, các loại xe kéo pháo bắn thẳng, pháo cao xạ, xe tăng, xe thiết giáp,
ôtô chở bộ binh của ta từ các phía ào ào tiến về hướng thị xã. Có đơn
vị xe tăng của ta cách Buôn Ma Thuột 40km phải băng qua các vật chướng
ngại, bỏ qua các đồn bốt địch dọc đường, ầm ầm tiến thẳng về thị xã.
Trên dòng sông Sêrêpốc hung dữ, những chiếc phà hiện đại được lắp ghép
rất nhanh, xe tăng, xe bọc thép, pháo cao xạ, pháo cơ giới nối đuôi nhau
qua phà. Cả núi rừng Tây Nguyên chuyển động trong bão lửa.
Trong chiến dịch Tây Nguyên, ta bắt
được Đại tá Vũ Thế Quang, phó tư lệnh Sư đoàn 23 ngụy. Đại tướng Văn
Tiến Dũng kể trong cuốn “Đại thắng mùa xuân” rằng, Quang đã khai rõ việc
quân Giải phóng đánh Buôn Ma Thuột là nằm ngoài dự kiến của Bộ Tổng
Tham mưu và của Mỹ. Bởi sau trận Phước Long, Mỹ-Ngụy nhận định, Việt
Cộng chỉ có thể đánh một số thị xã nhỏ như An Lộc, Gia Nghĩa, còn thị xã
lớn như Buôn Ma Thuột, Pleiku, Tây Ninh chưa đánh được. Đến khi Buôn Ma
Thuột bị tiến công, Mỹ và Ngụy vẫn cho rằng đây chỉ là nghi binh để
đánh Gia Nghĩa. Tiếp đó, Quang hiến kế cho quân Giải phóng đánh Nha
Trang, Cam Ranh vì phòng thủ ở nơi đây rất mỏng và tinh thần binh sĩ
ngụy đang rất hoang mang.
Sau khi phản kích chiếm lại Buôn Ma
Thuật nhưng bị thất bại tại Phước An-Nông Trại-Chư Cúc, địch bắt đầu rút
bỏ Tây Nguyên. Ngay lập tức, đêm 16/3/1975, quân Giải phóng tổ chức lực
lượng truy kích địch trên đường 7 và bắt được Đại tá nguỵ Phạm Duy Tất,
Chỉ huy trưởng biệt động quân thuộc Quân khu 2. Tất khai, chiều 14/3,
trong một cuộc họp tại Cam Ranh, sau khi nắm tình hình, Tổng thống VNCH
Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định phải rút khỏi Kon Tum, Pleiku theo đường
7 để bảo toàn lực lượng, giữ đồng bằng ven biển.
Sáng 15/3, Phú và Bộ Tham mưu chính
của Quân đoàn 2 rút bằng máy bay về Nha Trang lấy lý do là để thành lập
Bộ Tư lệnh tiền phương chỉ huy tác chiến lấy lại Buôn Ma Thuột. Những
đơn vị chuyên môn rút về Phú Bổn mang theo gia đình, người thân nên lộ
bí mật, khiến sĩ quan, binh lính khiếp sợ và gia đình họ ùn ùn kéo vào
sân bay, tranh nhau lên máy bay, gây nên sự hỗn loạn. Người nào không
vào được sân bay thì dùng đủ các loại xe chạy về Phú Bổn. Đường sá tắc
nghẽn, quân lính tranh nhau đường đi, chửi bới, đánh nhau ầm ĩ, gây thêm
nhiều cảnh hỗn loạn trên đường. Ngày 16/3, khi đoàn di tản đến Phú Bổn
thì mệt mỏi, chán chường quá nên không đi nữa. Giao thông trong thị xã
bị tắc nghẽn vì lính dồn về đông. Binh lính bắt đầu phá phách, cướp bóc
trong phố, gây nên cảnh tượng rất hỗn loạn. Khi quân Giải phóng tiến vào
chiếm Phú Bổn. Phú ra lệnh cho binh sĩ bỏ hết vũ khí nặng và quân dụng,
chạy khỏi Phú Bổn.
Hoảng loạn ở Pleiku
Khi những thành phố nối tiếp nhau rơi
vào tay quân giải phóng, thì các phi công Air American chỉ còn rút lại
một nhiệm vụ chính là thực hiện các chuyến bay di tản và đó là những
điệp vụ vô cùng căng thẳng.
"Cuộc di tản diễn ra trong sự hoảng
loạn” – phi công Air American Art Kenyon kể lại: “Đám đông hoàn toàn
hoảng loạn và mất hết kiểm soát. Chúng tôi phải kéo thang dây lên, đóng
cửa những chiếc C-46 của chúng tôi lại và mọi người bắt đầu công kênh
nhau leo lên cánh máy bay, đập cửa để đòi chúng tôi cho họ vào bên trong
máy bay.
Một lần, chúng tôi kéo cầu thang máy
bay lên và cho ngừng hoạt động một động cơ của máy bay, bởi vì chúng tôi
không muốn phí thì giờ. Luôn có một khả năng rằng ắc quy của bạn cạn
kiệt và bạn phải luôn có một động cơ khác sẵn sàng khởi động. Chúng tôi
ngừng động cơ bên trái máy bay trong khi những hành khách đang lên máy
bay.
Khi đó có khoảng 9 người đang treo
lủng lẳng dưới cánh của máy bay và một nhóm khác tụm lại ở chỗ động cơ
bên trái. Bạn có thể khởi động động cơ của một chiếc C-46 bằng cách xoay
cánh quạt phía trước cánh một chút và tôi đã làm vậy. Tôi ló đầu ra
khỏi cửa máy bay và quan sát. Tôi hơi đẩy cánh quạt dẫn hướng của máy
bay khoảng một hai bộ để nếu nó có quệt vào ai đó thì cũng không khiến
cho người ta bị thương. Họ có thể nhìn thấy nó chuyển động và cảm thấy
sự nguy hiểm. Tôi tăng sức quay của cánh quạt lên 3 bộ (khoảng hơn 30
cm-ND), rồi 6 bộ và những người trên cánh máy bay dạt ra và tôi bắt đầu
khởi động động cơ. Rồi chúng tôi đẩy tất cả những người này xuống khỏi
cánh máy bay".
Các phi công thường chờ cho đến khi
máy bay đầy ứ người, nặng đến hết mức có thể rồi mới cất cánh. Theo lý
thuyết, một chiếc C-46 có thể chở được 51 người, nhưng một phi công của
Air American, trong những ngày ấy khi cất cánh khỏi Pleiku đã mang theo
anh ta 142 quân nhân trang bị đầy đủ vũ khí và nó cần phải bay tới 90
dặm để có thể lên tới độ cao khoảng 1.000 bộ (khoảng hơn 300m). Tải
trọng tối đa cho một chiếc C-46 vào khoảng 46.000 pound, nhưng sau
chuyến bay này, các phi công ước tính rằng họ đã chuyên chở một trọng
lượng nặng tới 57.000 pound. Còn những chiếc C-47, thông thường chở
khoảng 30 người thì trong những ngày ấy thường xuyên phải chở tới 80
người. Riêng loại máy bay vận tải hạng nặng DC-6 của Air American thì đã
ghi nhận được là có chuyến chở tới 340 người.
"Tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh
tượng trên con đường dẫn ra khỏi Pleiku" - Fred Anderson, một phi công
của Air American nhớ lại. "Cả một khối người đen đặc di chuyển trên
đường, mang vác theo tất cả những gì mà họ có thể mang vác được. Có lẽ
có hàng ngàn người chết mỗi ngày trong cái cảnh tượng hỗn loạn đó".
Đấy là thời gian mà sự căng thẳng thần
kinh luôn chế ngự tất cả. Những người di tản tụ tập tấn công các máy
bay, bắn chỉ thiên, trong khi những binh sĩ quân đội Sài Gòn trong tình
trạng thất vọng thậm chí còn nguy hiểm hơn cả kẻ thù. "Tất cả những phát
súng bắn vào chúng tôi trong những ngày Pleiku sụp đổ đều là do quân
Nam Việt Nam bắn” - Wayne Lannin, một phi công khác của Air American kể
lại. “Tràn ngập một không khí thất vọng và vỡ mộng. Tất cả mọi người đều
ở trong tình trạng bị kích động, họ chỉ muốn thoát ra khỏi vùng chiến
sự càng nhanh càng tốt và không muốn suy nghĩ bất cứ điều gì. Đó là một
tình trạng vô chính phủ hoàn toàn, khi con người bị hạ xuống đến mức
thấp nhất về nhân cách".
Bí ẩn chiến dịch di tản của người Mỹ khỏi Sài Gòn (3)
(Kiến Thức) - Khi Đà Nẵng bị đe dọa thì
Mỹ dùng máy bay các loại và 3 chiếc tàu lớn cùng sà lan để di tản người
vào Sài Gòn và Cam Ranh.
Cảnh
tượng bi thảm này đã đã được ví như cuộc chốn chạy khỏi địa ngục. Đã có
khoảng 60 nghìn người di tản bằng đường biển, trong đó có 16 nghìn lính
VNCH. Tổng 4 sư đoàn, trong đó có sư đoàn lính thủy đánh bộ, sư đoàn
thiện chiến nhất của Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân khu 1 đã không còn
là đơn vị chiến đấu.
Kỳ 3: Cảng Đà Nẵng, ngày bi thảm
Bỏ Đà Nẵng
Sau khi mất Huế, Tam Kỳ, Quảng Ngãi,
Chu Lai, Quân đoàn 2 và Khu 5 quân giải phóng đột kích vào Đà Nẵng. Việc
này đã khiến cho người Mỹ phải vội vã rời bỏ về Sài Gòn. Kế hoạch rút
chạy do CIA khởi thảo đã không thực hiện được vì thiếu máy bay và họ
phải di chuyển bằng tàu biển, với những cảnh tượng hãi hùng.
Ngày 25/3, Frank Snepp, nhân viên CIA
kỳ cựu hoạt động dưới quyền của Đại sứ Martin kể lại trong cuốn “The
Decent Interval” viết báo cáo gửi về trung tâm. Anh ta ghi: Tám tỉnh đã
mất trong ba tuần qua, bốn tỉnh khác đang bị uy hiếp. Hơn một triệu
người không có nhà ở. Họ trở thành một gánh nặng không tính nổi cho nền
kinh tế... ở Đà Nẵng, quân đội Nam Việt Nam đi chân đất, không vũ khí,
gào khóc hò hét giữa phố, bất chấp người đi lại. Chúng tập họp thành
từng nhóm trên vỉa hè, cầm tay nhau, đằng sau đôi mắt thất thần là nguy
cơ hãm hiếp, đốt, cướp, phá phách.
Trước tình huống bi đát ấy, ngày 25/3,
Tướng Smith cho 5 tàu kéo rơ-moóc, sáu tàu chở khách và ba tàu chở hàng
ra Đà Nẵng để giúp tản cư người tị nạn. Trước đó, Al Francis ra lệnh
gia đình các nhân viên lãnh sự quán người Mỹ làm theo hợp đồng và những
người Mỹ ở rải rác trong thành phố phải tản cư ngay về Sài Gòn. Ngày 26,
hàng trăm sĩ quan Nam Việt Nam xông vào những sứ quán, đòi giúp đỡ gia
đình họ tản cư. Nhiều người Mỹ buộc phải đẩy vợ con họ trà trộn với
những người giúp việc sắp đi Cam Ranh hay Sài Gòn. Máy bay 727 của hãng
Hàng không thế giới, máy bay lên thẳng và máy bay vận tải C.47 của hãng
Hàng không Mỹ bay đi, bay về cả ngày. Mỗi lần cầu thang hạ xuống, hàng
trăm người Việt Nam xô tới, một tay cầm tấm vé quý giá, tay kia dắt con,
bế lợn, ôm gà...
Sáng 26/3, 12 viên chức bộ ngoại giao,
cơ quan thông tin và Chi nhánh CIA làm việc trong lãnh sự quán Mỹ ở Tuy
Hòa cũng thu xếp hành lý để bay đi Nha Trang về Sài Gòn. Trưa 27, các
phòng làm việc của CIA, gần lãnh sự quán ở Đà Nẵng, người Việt Nam chờ
tản cư tăng lên tăng lên khủng khiếp. Mỗi máy bay có thể chở ba trăm
người nhưng cùng lúc ấy thì ba trăm người khác đã vượt rào thế chỗ, mong
mỏi người Mỹ cứu họ.
Frank Snepp tả lại chi tiết sự việc
tản cư về Sài Gòn của những nhân viên CIA tại Đà Nẵng: “Khoảng một giờ
rưỡi sáng ngày 28/3, sau nhiều nỗ lực, cuối cùng Ron Howard, nhân viên
của CIA đã nói chuyện được bằng radio với Custer. Howard cố giữ bình
tĩnh để trình bày rõ tình hình: Người Việt Nam phá xe, cướp của cải, đốt
kho... Anh nghe thấy tiếng nói của Custer giật giọng như tiếng gươm:
Nên bình tĩnh. Rời trụ sở, ra bờ biển, cho ca nô xuống nước. Howard vừa
khóc vừa cố làm cho Custer hiểu anh không ra được, đang bị bao vây.
Bi thảm
Ngày 28/3, ngoài bến tàu, dòng người
sợ hãi đã đông nghịt. Những tấm gỗ xám, lâu đời kêu răng rắc dưới sức
nặng của hàng nghìn người Việt Nam. Họ chen lấn, xô đẩy nhau. Đây là
chuyến đi cuối cùng. Chung quanh mỗi cột cầu tàu, thuyền và tàu kéo đậu
thành ba hàng, chở người tị nạn đứng ngồi như nhét khoai tây.
Khoáng 4 giờ sáng, Francis, Trưởng
Lãnh sự quán tại Đà Nẵng báo cho nhóm 30 người Mỹ, những người Việt Nam
và người nước ngoài khác đang tình hình rất xấu, buộc tản cư ngay lập
tức. Một số người trong nhóm đi lẫn lộn vào đám đông, tới sân bay nhỏ ở
bên kia đường dành cho máy bay lên thẳng của ủy ban quốc tế kiểm soát.
Khi máy bay 727 đầu tiên của hãng Hàng
không thế giới hạ cánh, một đoàn xe quân sự chở gia đình, binh lính
Việt Nam đến đỗ ở đường băng và cho người xuống. Tức thì, năm nghìn
người Việt Nam khác, kiên nhẫn chờ ngoài cửa, chạy ập tới máy bay, dẫm
lên cả đàn bà, trẻ con. Khi máy bay lăn bánh, rất nhiều tay người còn
bám lấy cửa máy bay chưa đóng. Hàng chục người còn bị treo lơ lửng khi
máy bay rời đường băng.
Quá trưa ngày 28/3, sư đoàn 3 Nam Việt
Nam đóng ở phía Tây Nam Đà Nẵng tan rã nhanh. Trên tàu Contender,
15.000 lính Nam Việt Nam chen chúc ở mặt boong, một số đánh nhau, một số
bắn những người dân đứng lẫn với họ. Lính Nam Việt Nam giết những người
nghi là Việt cộng, nhưng thực tế đó là lính và dân đánh nhau đến chết
để tranh một chỗ ở boong dưới. Lính Nam Việt Nam muốn đi Philippines và
đã nhốt thuyền trưởng trong ca bin. Sau khi được 35 người tị nạn Mỹ ở
gần buồng lái giải cứu, người thuyền trưởng nói: Ở Sài Gòn, không một ai
trong chúng tôi có ý niệm gì về sự khổ cực của các bạn đồng nghiệp ở
Quân khu I. Suốt buổi chiều, tàu Contender vẫn tiếp nhận người tản cư.
Những thuyền, xuồng áp mạn tàu đến đâu thì trên tàu lại thả thang và cho
cầu xuống đến đấy. Những người tị nạn mạo hiểm trèo lên boong. Nhiều
người, nhất là người già và trẻ em, trượt chân ngã xuống biển, bị thuyền
buồm nhận chìm hoặc sóng cuốn đi. Thuyền, xuồng cũng bị sóng vỗ va vào
tàu.
Tin tài trợ
Ở sở chỉ huy của Ngô Quang Trưởng,
phần lớn bộ tham mưu đã đào ngũ. Ba người phương Tây giúp ông ta đốt tài
liệu rồi cùng lên máy bay lên thẳng của Trưởng bay về bộ tư lệnh hải
quân Việt Nam, đặt trên một bán đảo ở gần bến lớn cảng Đà Nẵng. Sáng
29/3, tướng Ngô Quang Trưởng phải bơi và trôi giữa những con sóng nguy
hiềm ở ngoài khơi cảng Đà Nẵng. Đằng xa, những người lính còn lại của
các sư đoàn mà ông ta từng tự hào, đang cướp phá, đốt thành phố thứ hai
của Nam Việt Nam. Trong số hai triệu người còn lại ở Đà Nẵng, một trăm
nghìn người là binh lính đào ngũ thuộc các sư đoàn thứ nhất, thứ nhì và
thứ ba và sư đoàn lính thủy đánh bộ, tất cả đều bị bao vây như đàn
chuột. Chúng sẵn sàng phản bội, ăn cướp, giết người để khỏi sa vào vực
thẳm và để cứu gia đình.
Ngày 29/3, Tổng thống Ford báo cho
Quốc hội biết bốn tàu vận tải của Hải quân Mỹ và nhiều tàu đi thuê khác
đang tiến về vùng biển Nam Việt Nam để tham gia vào việc tản cư, Ford
coi công việc này hoàn toàn “có tính nhân đạo". Tàu đậu bên ngoài khu
vực có những trận đánh. Ở Sài Gòn, sứ quán cũng đồng thời báo tin tổ
chức một cầu hàng không cấp tốc, bằng những máy bay mới chở dụng cụ y tế
và thiết bị quân sự từ Mỹ sang.
Chiều ngày 31, 6 tàu Việt Nam và Mỹ
lại quay lại Đà Nẵng để đón người tị nạn. Hôm sau, nhà chức trách Sài
Gòn đề nghị Liên Hợp quốc can thiệp với Bắc Việt Nam cho những người tị
nạn còn ở lại trong vùng họ kiểm soát, nhận thực phẩm và viện trợ.
Dù rất khuya, nhưng máy bay từ Đà Nẵng
vẫn tiếp tục hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn. Người Việt
Nam và người Mỹ bước xuống đường băng, đầy nước mắt. Người Mỹ được phân
loại nhanh chóng đi khách sạn hay những biệt thự của sứ quán. Nhưng
không ai sắp xếp chỗ ăn, ở cho người Việt Nam, phần đông họ chưa ra khỏi
Đà Nẵng bao giờ. Những cơ sở tiếp nhận họ ở Cam Ranh và vùng đồng bằng
chưa chuẩn bị xong.
Bí ẩn chiến dịch di tản của người Mỹ khỏi Sài Gòn (4)
(Kiến Thức) - Nhận thấy sức mạnh của quân
Giải phóng ngày càng tăng nhanh, người Mỹ ở Nam Việt Nam đã bắt đầu
tính đến kế hoạch di tản, rút khỏi Sài Gòn.
Việc di tản của người Mỹ ở Sài Gòn được bắt đầu từ những đứa trẻ mà dư luận gọi là chiến dịch Babylift tai tiếng vì nhiều ẩn số cho những ý định sau này.
Kỳ 4: Bí ẩn thảm họa trong chiến dịch Babylift
Chuẩn bị di tản
Sau khi Nha Trang thất thủ, Mỹ đã
thành lập một lực lượng “can thiệp" để điều hòa các kế hoạch tản cư. Lúc
này Nhà Trắng tránh bất cứ bình luận trực tiếp nào về cuộc khủng hoảng
Đông Dương đang có xu hướng ngày càng lan rộng. Ở thời điểm này, quân
Giải phóng đã thâm nhập sâu vào tỉnh Tây Ninh, giữ đường tiến về Sài Gòn
ở phía Nam. Ngày 3/4, quân Giải phóng đánh chiếm Chơn Thành, cách Sài
Gòn 70 kilômet về phía Bắc. Khi tin ấy về tới Sài Gòn, kiều dân phương
Tây muốn rời khỏi Việt Nam. Chỉ một đêm, số người giữ chỗ trên chuyến
máy bay quốc tế của hãng Pan Am tăng gấp hai lần. Hãng hàng không China
Airline không còn chỗ cho đến ngày 9/4.
Ngày 3/4, Tổng thống Ford đang nghỉ hè
ở Palm Springs, nhưng vẫn phải tuyên bố với các nhà báo: Thiệu vội vàng
rút lui khỏi Tây Nguyên nên việc di tản 6.000 Mỹ ở Việt Nam đã được đề
ra. Ford giải thích rằng, đạo luật qui định quyền hạn của tổng thống
trong chiến tranh cho phép ông ta dùng lực lượng vũ trang để giúp việc
tản cư công dân Mỹ ở bất cứ vùng nào trên thế giới.
Ở thời điểm đó, theo quy định của Mỹ,
các sứ quán Mỹ trên thế giới đều phải một bản kế hoạch di tản dày 400
trang đề phòng trường hợp bất trắc có thể xảy ra. Đây là tài liệu mật
chỉ được sử dụng khi cần thiết. Đại tá Garvin Mc Curdy, tùy viên không
quân, đại tá Cornelius Carmody, tùy viên hải quân được giao phụ trách
việc này. Được một ê kíp nhỏ giúp việc, họ nhanh chóng thảo ra một kế
hoạch cụ thể di tản những người Mỹ ở các quân khu và Sài Gòn. Từ tài
liệu gốc, họ chỉ còn giữ lại một số người di tản không quá 6.800 người, phần lớn là người Mỹ.
Điểm lưu ý là, trong kế hoạch di tản
này không hề có việc di tản những em bé mồ côi hay những đứa trẻ lai,
một phần từ hậu quả của chiến tranh trước đó. Mà kế hoạch này được xuất
phát từ chính Graham Martin. Chuyện là, khi Giám đốc hãng Hàng không thế
giới là Ed Daly ngỏ ý muốn tổ chức một cầu hàng không chở những đứa trẻ
mồ côi Việt Nam sang Hoa Kỳ thì Martin đã nhanh chóng xin phép Nhà
Trắng thực hiện mục đích. Graham Martin tuyên bố, cuộc di tản này "sẽ
giúp đảo ngược ý kiến của công luận Mỹ về lợi thế của chính quyền miền
Nam Việt Nam". Còn trong thư gửi cho bộ trưởng Nam Việt Nam phụ trách
vấn đề tị nạn, Martin mong rằng cái cảnh hàng trăm em bé Việt Nam được
người Mỹ nhận nuôi sẽ gây được cảm tình của toàn thế giới đối với người
Nam Việt Nam.
Được Nhà Trắng bật đèn xanh, ngày 2/4,
những viên chức chi nhánh cơ quan CIA báo tin mở cầu hàng không "cứu
giúp từ thiện", để 2.000 em bé Việt Nam trở thành con nuôi ở Hoa Kỳ, phù
hợp với một luật về nhập cư. Tuy nhiên, nhiều nhà bình luận thời đó thì
cho rằng, về mặt nào đó, cầu hàng không trẻ em là một mưu đồ hậu chiến.
Tướng Smith, tùy viên quân sự nhận
thấy việc này có lợi, là một dịp rất tốt để cho về Hoa Kỳ một số đông
nhân viên của phái bộ quân sự sẽ cải trang đóng giả làm nữ y tá, người
giặt giũ. Chỉ sau mấy giờ Nhà Trắng chấp nhận, ông đã ra lệnh cho các bà
vợ, các nữ thư ký chuẩn bị lên đường.
Thảm kịch cạnh đường băng
Trưa ngày 4/4, chung quanh những ngôi
nhà của phái bộ quân sự Mỹ ở Sài Gòn có một sự náo nhiệt đặc biệt. Nhiều
thợ mộc và thợ khác đã hạ cánh cửa, để chuẩn bị cho một trung tâm tiếp
đón người tị nạn. Buổi sáng hôm ấy, một chiếc Galaxy C-5A của không
quân, máy bay vận tải lớn nhất thế giới hạ cánh. Đó là máy bay chở vật
liệu chiến tranh cho quân đội Sài Gòn. Trong khi người ta chở hàng, nhân
viên phái bộ quân sự tập hợp 243 trẻ mồ côi. Các em được máy bay này
chở ngay đi Philippines cùng với 44 nhân viên phái bộ quân sự và một số
người Mỹ khác. Đó là chuyến bay đầu tiên của cầu hàng không Trẻ em.
Tin tài trợ
Chiếc phi cơ vận tải khổng lồ C-5A chở
243 trẻ em và một số người lớn, rời Sài Gòn, đang bay ra bờ biển, chợt
người lái trông thấy ánh sáng đỏ nhấp nháy trên bảng, báo hiệu một cửa
bị hỏng. Anh báo tin cho trạm kiểm soát sân bay, máy bay sẽ quay lại. Nó
đang hạ xuống cánh đường băng, một tiếng nổ vang dội. Một phần máy bay
bị phá hủy làm cho ca bin bên trong thiếu không khí. Phần lớn 50 trẻ em
và người lớn ngồi trong đó chết ngay vì ngạt thở, một số bị bật tung ra
ngoài, qua cửa không đóng được.
Máy bay bị nạn rơi xuống và trượt xa
800 mét đến một phía thửa ruộng phía Nam Tân Sơn Nhất. Phần lớn những
người thoát chết lúc máy bay nổ và rơi nay lại bị chết đuối. Máy bay lên
thẳng của hãng Hàng không Mỹ đến ngay, chở những người sống sót và hấp
hối về trạm cứu thương đặt trên đường băng. Một nữ nhân viên CIA ra tiễn
các em tả lại: không thể biết chắc được những em đưa từ máy bay lên
thẳng sang trạm cứu thương còn sống hay chết. Hầu hết đều phủ đầy bùn từ
đầu tới chân. Mãi đến lúc đưa các em từ trạm cứu thương đến bệnh viện
mới phân biệt được đứa sống, đứa chết. Các nữ y tá đặt các em dưới vòi
nước hoa sen, rửa người các em rồi nói: "em này còn sống, em này đã
chết”. Một lát sau được mấy người Mỹ giúp đỡ, họ xếp các em còn sống lên
xe jeep và xe hơi đem trả các em về các trại mồ côi. Nhiều em sợ quá
không còn khóc được nữa, nhiều em khác giống như những giẻ rách trong
tay nhân viên.
Tai nạn làm khiến hơn hai trăm trẻ em
qua đời. Sống sót có một người, còn tất cả nữ nhân viên của phái bộ quân
sự đều bỏ mạng. Nguyên nhân là do một cái cửa không được đóng kín.
Tướng Smith rất đau buồn về thảm kịch này. Chính ông là người thiết tha
yêu cầu cho nữ nhân viên người Mỹ đi với các em, nhưng ông từ chối không
chịu bỏ nhiệm vụ đã ấn định. Hôm sau, trong lúc những kíp của phái bộ
quân sự bới tìm xác chết giữa những đống sắt thép của máy bay, ông lại
cho hàng trăm trẻ mồ côi và những nhân viên không cần thiết lắm lên
những máy bay vận tải khác để tiếp tục di tản.
Đại sứ Martin không còn biết làm gì để
có thể ổn định được tinh thần của nhân viên sứ quán về tai nạn xảy ra.
Alan Carter, phụ trách cơ quan thông tin Mỹ, là người được ông giao việc
đầu tiên. Hôm sau ngày xảy ra tai nạn, Carter viết một điện gửi về Nhà
Trắng để báo tin: lộn xộn ngày càng lớn ở Sài Gòn sắp dần tới hoảng
loạn.
Bí ẩn chiến dịch di tản của người Mỹ khỏi Sài Gòn (6)
Cuộc di tản của người Mỹ khỏi Sài Gòn ban đầu được tổ chức
thoạt nhiên nghe rất quy mô, chặt chẽ, thế nhưng khi thực hiện nó đã trở
thành “thảm họa”.
Kỳ 6: Đậy nắp “hố đen”
Khi
thòng lọng vòng vây Sài Gòn của quân Giải phóng ngày càng khép chặt,
khi thời điểm Quốc hội Mỹ quyết định cái giá cho di tản chưa đến, trước
sức ép từ nhiều phía, Thiệu phải từ chức. Cuộc di tản khỏi Sài Gòn chính thức trở thành thảm họa đen trong lịch sử.
Những “chuyến bay đen”
Chỉ
một, hai ngày sau khi Mỹ công bố các điều kiện có thể nhập cư vào Mỹ
thì hằng trăm công dân Mỹ sống ở Hồng Kông. Bangkok, Singapour kéo đến
Sài Gòn để kết hôn hay sống hợp pháp với những cô bạn nhỏ hoặc nhận nuôi
những trẻ em Việt Nam. Bên cạnh những người tốt bụng, có khá nhiều kẻ
lợi dụng việc nhận “nuôi" người Việt Nam để làm tiền, lấy vàng. Phải mất
hàng nghìn đô la, mươi lạng vàng mới được họ bảo lãnh như thế. Lại còn
nhiều binh lính trong quân đội Mỹ đã đào ngũ nhiều năm, nay bất ngờ xuất
hiện trước sứ quán với những người phải nuôi, xin ghi tên tản cư. Kết
qua chỉ trong một, hai ngày, danh sách người Mỹ xin ra đi lên tới hơn
một nghìn người.
Người di tản Việt Nam lên CH-53 ở bãi đáp Lz39.
Tướng
Smith bắt đầu cho tản cư những người Việt Nam mà tính mạng dễ bị uy
hiếp nhất. Chiều 15/4, tùy viên không quân, Đại tá Mc. Cardy, đã triển
khai những "chuyến bay đen". Cardy thương lượng được với nhân viên an
ninh Việt Nam ở Tân Sơn Nhất để cho người Việt Nam bí mật lén vào đường
băng càng nhiều càng tốt. Để trả công, ông sẽ dành cho gia đình các sĩ
quan những chỗ trên máy bay. Từ ngày 4/4, ngày nào cũng có 4 máy bay vận
tải lớn chở người di tản đến căn cứ Clark ở Philippines, trong đó có
nhiều chuyến bay lậu. Những máy bay này không chở người Việt Nam có vấn
đề về chính trị mà chở bạn bè, thân thuộc của các sĩ quan phái bộ quân
sự Mỹ. Những người không có giấy tờ muốn vượt được hàng rào sân bay phải
đút lót cảnh sát quân sự khoảng 50.000 USD. Đối với những người Việt
Nam không có bạn bè, người bảo lãnh và người Mỹ, thì giá chuyến đi đắt
kinh khủng. Trong hai tuần, tiền đút lót để có một dấu xuất cảnh hay một
hộ chiếu tăng từ năm trăm lên ba nghìn đô la. Giá vàng nhảy vọt 725 đô
la một lạng. Chỉ trong năm ngày, trên chợ đen, giá một đô la đã tăng từ
1.200 lên 2.000 đồng.
Thiệu ra đi
Lúc
này tình hình chính trị ở Sài Gòn rất hỗn loạn, trong khi đó các quan
thầy Mỹ "đổ thêm dầu vào lửa". Bộ trưởng quốc phòng Schlesinger rêu rao
những giả thuyến đen tối "nếu cộng sản nắm chính quyền thì có thể hai
trăm nghìn người Việt Nam sẽ bị giết". Sáng hôm sau, tờ báo Pacific
Starsand Stripes (tờ báo của quân đội Mỹ), xuất bản ở Sài Gòn, đăng lại
lời tuyên bố ấy bằng chữ đậm, làm cho người dân miền Nam càng thêm hoảng
sợ.
Trước tình hình ấy, Martin cho phép giám
đốc vô tuyến truyền hình Mỹ CBS (Columbia Broadcasting System) bí mật tổ
chức một cầu hàng không để di tản khoảng sáu trăm người Việt Nam. Các
cơ quan tình báo, viên chức dân sự và quân sự Mỹ tranh nhau để được di tản sớm. Họ đưa ra nhiều lý do, nào là cấp bậc, nghề nghiệp, quyền lợi bản thân...
Lính thủy đánh bộ Mỹ bảo vệ bãi đáp trong khu DAO.
Sáng
18/4, để làm yên lòng những người đối lập, Thiệu ra lệnh bắt, tống giam
nhiều sĩ quan. Buổi chiều, Kỳ định tổ chức đảo chính, nhưng Martin đã
thuyết phục được Kỳ không thực hiện. Đây là dịp may cho Thiệu.
Ngoài
những người định lật đổ và Bắc Việt Nam, Thiệu còn vấp phải một vấn đề
nữa, đó là tiền. Trước đó gần một tháng, ông ta đã gửi tàu thủy đi Đài
Loan và Canada phần lớn gia tài và đồ đạc. Nhưng 16 tấn vàng đáng giá
120 triệu đôla chiếm gần hết dự trữ của nhà nước vẫn chưa được gửi đi.
Trước đó, Thiệu định giữ kín và gửi đi Paris cho ngân hàng quốc tế, ở
đấy đã giữ một phần vàng của Nam Việt Nam đáng giá năm triệu đôla. Nhưng
mấy ngày trước khi gửi đi, một công tác viên của Martin cho là không
thể tin được Thiệu, nên đã tố cáo với giới báo chí. Kết quả là các hãng
Hàng không Thiệu điều đình để chở số vàng ấy đi, không nhận nữa. Martin
khuyên Thiệu gửi vàng sang ngân hàng New York. Ngày 16/4, sứ quán điện
về Nhà Trắng xin một chuyến máy bay quân sự đặc biệt được bảo hiểm để
chở số vàng đi New York. Nhưng không quân và ngân hàng New York không
sẵn sàng bảo hiểm một tài sản lớn như thế gửi từ một nước đang có chiến
tranh. Thế là vàng vẫn nằm nguyên trong kho ngân hàng quốc gia.
Cởi nút
Tối
21/4, Thiệu tuyên bố từ chức và giao quyền cho phó tổng thống Trần Văn
Hương. Ngày 21/4, đô đốc Gayler cho cầu Hàng không hoạt động suốt 24
giờ, máy bay C-141 bay ban ngày, máy bay C-130 bay ban đêm. Thoạt đầu,
mỗi máy bay chở một trăm người, nhưng sau hạn chế cho mỗi người chỉ được
đem theo một va li nên chở được gấp đôi. Hơn 1.500 người Mỹ và Việt
Nam, tăng gấp ba lần hôm trước, được di tản đến căn cứ không quân Clark ở
Philippines trong 12 giờ. Ở đấy đã có hơn ba nghìn người tị nạn, họ ở
trong một làng dựng tạm bằng nhà bạt trên sân chính của căn cứ, người ta
gọi làng ấy là “ làng vui trên bãi cỏ”.
Hàng
trăm người Việt Nam, ngồi trên ghế vải gấp, trước lãnh sự quán Mỹ chờ
giấy tờ hoặc xin dấu xuất cảnh. Cả những người giàu có, tầng lớp đã Âu
hóa cũng đánh nhau để dành một chỗ trong chuyến bay chở người tị nạn.
Một số đông chưa hề bán mình cho CIA ngày nào, nay cũng sẵn sàng làm
việc đó để được ra đi. Một tin đăng trên tờ Sài Gòn Post: “Nữ sinh viên
trẻ, đẹp, 18 tuổi, đỗ tú tài, biết chơi dương cầm, con một gia đình khá
giả, muốn làm con nuôi hoặc kết hôn với một người nước ngoài quốc tịch
Mỹ, Pháp, Anh, Đức hay nước nào khác có thể đưa cô ta sống ở nước ngoài
để tiếp tục học tập. Tiền phí tổn cô chịu...".
Sau
khi Thiệu từ chức, nhịp độ tản cư tăng gấp đôi. Thứ ba, ngày 22, hơn ba
nghìn người rời Sài Gòn nhờ phái bộ quân sự can thiệp. Như vậy từ đầu
tháng đến nay đã có hơn mười nghìn người. Mỗi giờ có hai máy bay chở
hàng Mỹ cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất.
Ngày
22/4, theo đề nghị khẩn cấp của Kissinger, thượng nghị viện đã thông qua
luật bãi bỏ những trở ngại cho 130.000 người nước ngoài từ Đông Dương
vào nước Mỹ, trong số này có 50.000 người tính mạng bị uy hiếp. Bình
thường, mỗi năm chỉ cấp cho một nước 20.000 hộ chiếu. Chiều 22/4, đám
người tị nạn ở căn cứ không quân Clark ở Philippines tràn qua khu vực
đón tiếp như nước vỡ bờ. Ngay sau đó, đảo Guam chuẩn bị đón mỗi ngày năm
nghìn người tị nạn, sẵn sàng cho họ ăn, ở trong 90 ngày. Chỉ mấy giờ
sau, những người tị nạn đã được đưa đến căn cứ không quân Anderson ở
Guam, được ở trong những baraque bằng kim loại gọi là thành phố đồ hộp.
Thoạt
tiên, các viên chức cơ quan nhập cư ở Guam và Clark áp dụng triệt để
luật pháp. Giấy tờ của người tị nạn được kiểm tra, kiểm soát cẩn thận đề
phòng nhầm lẫn và giấy giả. Tội phạm hình sự, gái điếm, người nghiện
cần sa đều được vạch mặt và cho cách ly. Nhưng chỉ một, hai ngày sau, số
người tị nạn quá đông, không còn kiểm soát, kiểm tra được gì nữa. Nếu
làm việc cẩn thận như cũ thì các viên chức cơ quan nhập cư sẽ gây ách
tắc và ngăn cản cầu hàng không hoạt động.
Bí ẩn chiến dịch di tản của người Mỹ khỏi Sài Gòn (7)
Trong hai ngày 29-30/4/1975, Quân đội Mỹ tiến hành chiến
dịch cuối cùng ở Việt Nam - di tản hàng nghìn người khỏi Sài Gòn.
Kỳ 7: “Chiến dịch Gió Lớn”
Trước
tình hình quân Giải phóng liên tục tấn công Sài Gòn, Tổng thống Mỹ
Gerald Forrd hạ lệnh cho Bộ quốc phòng Hoa Kỳ phải xây dựng kế hoạch
“rút dần trong trật tự” những quan chức Việt Nam Cộng hòa và thân quyến
của họ. Cuộc rút chạy vội vã đã trở thành bi kịch như một “hố đen” trong
lịch sử nước Mỹ.
Cảnh hỗn loạn trong những giờ cuối cùng trước sứ quán Mỹ.
Người di tản trước cửa sứ quán Mỹ, những ngày cuối tháng 4/1975.
Từ
ngày 17/4, Tổng thống Mỹ Gerald Forrd hạ lệnh lần lượt sơ tán khoảng
200.000 người, bao gồm: Các quan chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa và
gia quyến; “tay chân”, “vợ hờ” của các quan chức quân sự, dân sự Mỹ và
những đứa trẻ có huyết thống Mỹ. Tốp đầu tiên có thể được di tản bằng
máy bay ở sân bay Tân Sơn Nhất. Tính đến trước ngày 28/4, máy bay Hoa Kỳ
đã di tản được 50.493 người Mỹ và người tị nạn miền Nam Việt Nam (trong
đó có 2.678 trẻ mồ côi Việt Nam trong Chiến dịch Babylift) được di tản từ Tân Sơn Nhất. Các phi công Mỹ đã bay tổng cộng 1.054 giờ và 682 chuyến bay trong suốt các đợt di tản.
Khi
cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger và phó cố vấn an ninh quốc gia
Brent Scowcroft đã cắt ngang một cuộc họp tại Nhà Trắng và đưa cho Tổng
thống Ford một bức điện, trên đó có viết: “Sân bay Tân Sơn Nhất đã bị
Việt Công pháo kích, khiến 2 lính thủy đánh bộ Mỹ tử vong”. Bức điện
nhấn mạnh, Sài Gòn có thể thất thủ trong một sớm một chiều, phi trường
duy nhất của Mỹ tại Việt Nam đã không còn an toàn cho các cuộc không
vận. Washington lệnh tiến hành chiến dịch mang mật danh “Operation
Frequent Wind” (Chiến dịch Gió Lớn) được tiến hành vào ngày 28/4/1975.
Tàu sân bay Midway với các máy bay CH-53 của KQ Mỹ làm nhiệm vụ trong chiến dịch di tản Frequent Wind, ảnh chụp ngày 24/4/1975.
Chiến dịch này sử dụng máy bay trực thăng của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ từ các tàu chiến ngoài khơi bờ biển Việt Nam, sơ tán những công dân Hoa Kỳ
cuối cùng rời mảnh đất đau thương đối với người Mỹ. Cụ thể, Mỹ huy động
50 chiếc tàu thuyền, trong đó có tàu đổ bộ chỉ huy LCC-19 USS “Blue
Ridge”, tàu sân bay CV-19 USS Hancock, CV-41 USS Midway và tàu khu trục
FF-1087 USS Kirk… để thực hiện chiến dịch “Operation Frequent Wind”.
Ngoài ra, kế hoạch này còn bao hàm một số hoạt động khác.
30
phút sau khi Tổng thống Ford nhận được bức điện, Đài phát thanh Sài Gòn
đột nhiên phát chương trình âm nhạc “Giáng sinh trắng” (White
Christmas). Đây chính là mật hiệu quy ước cho tất cả công dân Hoa Kỳ và
quan chức Việt Nam Cộng hòa còn lưu lại Sài Gòn nhanh chóng đến các khu
vực tập kết quy định trước để di tản chuyến cuối cùng.
Cuộc
di tản bắt đầu lúc 11 giờ 51 phút, nhưng không ai biết là giờ
Washington hay giờ Sài Gòn. Hậu quả là đến trưa, không một máy bay lên
thẳng quân sự nào bay đi Sài Gòn. Martin gọi trực tiếp cho Gayler đề
nghị giải thích. Mười lăm phút sau, lính thủy của lực lượng can thiệp
được lệnh bay. Đến 12 giờ 30 phút, một phi đoàn gồm 36 máy bay lên thẳng
đầu tiên rời cầu tàu USS Hancock, có nhiều trực thăng AH-1 Cobra vũ
trang hộ vệ. Một phút sau, những máy bay tiêm kích phản lực Phantom từ
các căn cứ ở Thái Lan bay tới bầu trời Việt Nam yểm hộ thêm. Một giờ
rưỡi trôi qua kể từ lúc tổng thống bật đèn xanh cho chiến dịch "Gió
lớn", sợ phản ứng của quân đội Bắc Việt nên Lầu Năm Góc ra lệnh cho tàu
bè đậu cách bờ biển hơn 12 hải lý, bên trong là hải quân VNCH.
Người Mỹ di tản lên trực thăng trong DAO.
Lên trực thăng từ một bãi đáp là nóc nhà.
Ở
sứ quán Sài Gòn, phần lớn mọi người không biết chiến dịch "Gió lớn" đã
bắt đầu và gặp một số khó khăn. Bên ngoài ven tường sứ quán, lính thủy
đứng gác. Biết bao nhiêu cánh tay bám vào cửa ra vào. Hàng trăm người
Việt Nam, trong đó có nhiều người giơ những mảnh giấy trắng lên vẫy,
chắc là giấy thông hành, - van nài xin vào sứ quán. Bên trong, nhiều
đồng bào họ, may mắn hơn - phần lớn là bồi bếp - đến sứ quán từ sáng sớm
với ông chủ làm việc ở đấy. Ngoài sân chơi, gần một nghìn người Việt
Nam đứng hết sức lộn xộn. Một số người đã lặng lẽ nậy cửa gian hàng tạp
phẩm.
Đại sứ quán Mỹ trở nên hỗn loạn, toàn bộ
nhân viên được huy động, bao gồm cả lái xe, đầu bếp… để đóng gói tài
liệu, vật tư; lính thủy đánh bộ Mỹ đã rải trong sứ quán một “Cây nhiệt
đới” lớn để giúp máy bay trực thăng hạ cánh thuận tiện, đồng thời đứng
trấn trên các bờ tường căng hàng rào thép gai để ngăn người Việt Nam
trèo qua hàng rào 4m vào Đại sứ quán. Phía bên ngoài hàng vạn người tập
trung trước Đại sứ quán hy vọng có thể kiếm được cơ hội lên máy bay ra
nước ngoài.
Trực thăng di tản của KQ VNCH bay ra tàu sân bay Midway.
Tình hình di tản
càng căng thẳng hơn khi một nhân viên tình báo nắm được thông tin, đúng
18 giờ, giờ Sài Gòn, quân Bắc Việt Nam sẽ nã khoảng 20.000 phát đại bác
130 ly vào dinh tổng thống, giữa Sài Gòn. 20.000 trái đạn 130 ly, điều
đó có nghĩa là không những dinh tổng thống tan ra như tro bụi mà cả sứ
quán Mỹ, sứ quán Pháp ở gần đấy nữa.
Máy bay đậu
ở ba nơi: Sân ném bóng, sân quần vợt và sân trước nhà phụ. Dòng người
di tản nhanh chóng xếp hàng dọc mỗi sân. 17 giờ 30 phút, tướng Smith báo
cho hạm đội di tản biết còn khoảng 1.300 người nữa, trong đó có đơn vị
an ninh hải quân gồm 840 người. Chập tối, trời đổi gió. Buổi chiều, trời
nóng bức thế mà bây giờ, gió thổi ào ào.
23 giờ
30 phút, đại tá Gray và một nhóm lính thủy phá hủy sở chỉ huy phái bộ
quân sự. Nhóm phá hoại đặt nhiều mìn mạnh chung quanh hệ thống. Một lính
thủy kể lại: Vừa có lệnh, một tiếng nổ rung trời, ánh sáng bùng lên,
không khí nóng ran, mọi cái tan tành! Mấy phút sau, đại tá Gray và lính
thủy đặt bom nổ chậm và bom cháy vào các hầm nhà rồi chạy lên máy bay.
Máy bay vừa cất cánh thì lửa đã bao phủ các ngôi nhà. Sức nóng rất cao,
đến nỗi mái nhà vững như thép của đồn lũy chỉ huy Hoa Kỳ ở Việt Nam sụp
đổ như tấm sắt tây.
Không còn chỗ hạ cánh xuống tàu Midway, một phi công bỏ máy bay nhảy xuống biển.
Nguyễn Cao Kỳ trên tàu Midway.
Ở
Nhà Trắng, Kissinger báo cáo với tổng thống Ford: “Phái bộ quân sự đã
hoàn thành việc di tản. Hơn 4.500 người đi bằng máy bay lên thẳng trong
đó có 450 người Mỹ. Theo một báo cáo của hải quân vừa gửi về, một máy
bay CH-53 rơi xuống biển, bên cạnh đằng lái một con tàu. Không có người
tị nạn trên đó nhưng phi công và người phụ lái đều mất tích. Có thể họ
đã chết. Cầu hàng không hoạt động gần 6 giờ, thời tiết quá xấu, chẳng
thấy rõ mấy, lại thấm mệt nên viên phi công đã tính sai khoảng cách từ
máy bay đến chỗ đỗ. Trước 12 giờ đêm, Kissinger gặp các nhà báo ở bộ
ngoại giao và thông báo, cuộc di tản tiến hành tốt, tất cả người Mỹ đều
đã rời Sài Gòn. Kissinger trở lại phòng tác chiến ở Nhà Trắng thì đã 0
giờ 45 phút, giờ Sài Gòn”.
3 giờ 45 phút, kết
thúc cuộc di tản, Martin đi ra sân sứ quán, nhìn nhanh đám đông, ra hiệu
cho đại tá Madison: "Những người Việt Nam còn lại sẽ đi bằng máy bay
CH-53. Ai còn chờ trong sứ quán thì ra sân đợi. Cầu hàng không trên mái
nhà dành riêng cho người Mỹ”.
Nhận được tin
chiến dịch kết thúc, Colby, Giám đốc cục tình báo Trung ương CIA viết:
"Nhân dịp này, tôi muốn bày tỏ niềm tự hào và sự bằng lòng của mình đối
với chi nhánh về công việc các đại diện nó đã làm. Hàng nghìn người Việt
Nam được cứu sống và có tương lai nhờ sự nỗ lực của các ông".
“Chiến
dịch Gió Lốc” được coi là chiến dịch cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ
trong chiến tranh Việt Nam. Trong vòng 19 giờ đồng hồ, 81 máy bay trực
thăng của hải quân đánh bộ Mỹ đã chở hơn 1.000 người Mỹ và gần 6.000
người Việt Nam ra các tàu sân bay ở ngoài khơi. 7 giờ 53 phút sáng ngày
30/4, chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh bay ra biển, chiến dịch chính
thức chấm dứt. Tại chiến dịch này, phía Mỹ có hai quân nhân tử vong là
Hạ sĩ Charles McMahon và Chuẩn hạ sĩ Darwin Judge. Đây cũng là hai binh
sĩ cuối cùng của Mỹ tử trận trong khi làm nhiệm vụ ở chiến trường Việt
Nam.
Nhận xét
Đăng nhận xét