KÝ ỨC CHÓI LỌI 91/f
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hồi ký: Trung đoàn Một thời chiến trận 16 + 17 + 18
“Đây là nhiệm vụ vô
cùng quan trọng, để hoàn thành nhiệm vụ nên tôi phải cân nhắc mọi
chuyện thật kỹ lưỡng. Sau bao lần cân nhắc, tôi giao nhiệm vụ cho
Đại Đội 3, Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn Phú Xuân mang cờ từ căn cứ
về Huế để cắm trên Kỳ đài Ngọ Môn. Lúc đó, đồng chí Đại Đội
trưởng giao cho đồng chí Trần Văn Hà, quê ở tỉnh Hà Nam, có
nhiệm vụ vận chuyển lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam từ căn cứ Mỏ Tàu (Huyện Phú Lộc) cùng Trung đoàn tức tốc
hành quân 5 ngày đêm đường rừng về trung tâm TP Huế”, Đại tá Huỳnh
An kể.
Số 1 ra ngày 16/11/1945, in tại nhà in Ngô Tử Hạ, đường Gia Long (nay là Phan Đăng Lưu) TP. Huế, xuất bản được 39 số, mỗi tháng ba số, có tháng bốn số, cũng có tháng chỉ ra được hai số. Mỗi số có 4 trang, 8 trang, thi thoảng có số 12 trang, khổ 20 x 27cm; mấy số đầu phát hành 1.000 tờ, do nhu cầu của các chiến sĩ và bạn đọc, mấy số sau tăng lên 1.500 tờ.
Báo mở nhiều chuyên đề, trong đó có mục TRÊN ĐÀI DANH DỰ để tôn vinh những người lính Vệ Quốc đã chiến đấu và hy sinh anh dũng trên các mặt trận.
Trong quá trình nghiên cứu lịch sử báo chí, chúng tôi đã tiếp cận đủ 39 số báo Chiến Sĩ và gặp ở đây rất nhiều Vệ Quốc Quân được vinh danh TRÊN ĐÀI DANH DỰ, họ là những chiến sĩ đã hy sinh lúc còn rất trẻ (đa số họ chưa lập gia đình).
Dưới đây là danh sách Vệ Quốc Quân quê ở Thừa Thiên Huế, hy sinh tại các mặt trận từ cuối năm 1945 đến giữa đầu năm 1946 được đăng trên báo Chiến Sĩ. Do chiến tranh kéo dài, đất nước bị chia cắt làm hai miền, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên có thể những người lính “Chết vì Tổ quốc” này chưa được công nhận liệt sĩ. Với hy vọng, sau khi nhật báo Thừa Thiên Huế công bố sẽ giúp được phần nào cho thân nhân của các Anh có cơ sở xác minh, làm thủ tục đề nghị Nhà nước công nhận Liệt sĩ để hương linh các Anh dưới chín suối mỉm cười.
TRÊN ĐÀI DANH DỰ TỔ QUỐC GHI TÊN CÁC CHIẾN SĨ
I. Chiến sĩ hy sinh tại mặt trận Xuân Lộc, Biên Hòa và Bình Thuận:
1. Lê Văn Phùng, sinh ngày 8/8/1916, quê làng An Cựu, H. Hương Thủy; tử trận tháng 10/1945, tại mặt trận Xuân Lộc.
2. Nguyễn Văn Giao, sinh ngày 12/8/1925, quê làng Vân Thê, H. Hương Thủy; tử trận ngày 3/1/1946, tại mặt trận Biên Hòa.
3. Bảo Trị, sinh ngày 25/10/1925, quê làng Vĩ Dạ, H. Phú Vang; tử trận ngày 31/1/1946, tại làng Vĩnh Bảo, tỉnh Bình Thuận.
II. Chiến sĩ hy sinh tại mặt trận Nha Trang:
4. Ngô Niệm, sinh ngày 15/10/1921, quê phường Phú Thọ, TP. Thuận Hóa.
5. Nguyễn Mỹ Trí, sinh ngày 12/9/1927, quê làng Hà Thanh, H. Phú Vang.
6. Tôn Thất Bảng, sinh ngày 13/3/1927, quê phường Phú Vinh, TP.Thuận Hóa.
7. Nguyễn Vinh, sinh ngày 20/9/1925, quê làng An Thuận, H. Hương Trà.
8. Đặng Tấn, sinh ngày 1/7/1912, quê làng An Xuân, H. Quảng Điền.
9. Nguyễn Văn Sự, sinh ngày 7/4/1929, quê làng Dương Nỗ, H. Phú Vang; tử trận ngày 22/10/1945.
10. Đinh Văn Tài, sinh ngày 1/9/1925, quê làng Nam Trung, H. Phú Vang; tử trận ngày 2/12/1945.
11. Mai Cảnh, sinh năm 1927, quê làng Viễn Trình, H. Phú Vang; tử trận ngày 2/12/1945.
12. Nguyễn Tiếp, sinh ngày 12/5/1925, quê làng Dưỡng Mông Thượng, H. Phú Vang; tử trận ngày 2/12/1945.
13. Nguyễn Phúng, quê làng Hà Cẩn, H. Quảng Điền; tử trận ngày 2/12/1945.
14. Bửu Đà, sinh ngày 23/12/1921, quê làng Vĩ Dạ, H. Phú Vang; tử trận ngày 11/1/1946.
15. Nguyễn Văn Tiêm, quê làng Vân Thê, H. Hương Thủy; tử trận ngày 2/12/1945.
16. Lê Thiềm, quê làng Lang Xá, H. Hương Thủy; tử trận ngày 2/12/1945.
17. Phan Bỉ, quê làng Lang Xá, H. Hương Thủy; tử trận ngày 2/12/1945.
18. Đặng Văn Tiền, quê làng Thanh Thủy, H. Hương Thủy; tử trận ngày 2/12/1945.
19. Ngô Tá Tảo, quê làng Lang Xá, H. Hương Thủy, tử trận ngày 2/12/1945.
20. Phan Văn Lia, sinh năm 1925, quê làng Phú Cát, H. Hương Trà; tử trận ngày 7/12/1945.
III. Các chiến sĩ hy sinh tại mặt trận Phà Lan, Đồng Hến, Mường Phìn:
21. Tôn Thất Vỹ, sinh ngày 15/10/1921, quê làng Phú Nhuận, H. Hương Thủy.
22. Nguyễn Đình Trúc, quê làng Thành Trung, H. Quảng Điền.
23. Nguyễn Khánh Thành, sinh năm 1924, quê làng Phú Hòa, H. Hương Trà.
24. Đinh Doãn Thọ, sinh ngày 9/12/1924, quê làng Truyền Nam, H. Phú Vang.
25. Nguyễn Thời, sinh ngày 6/10/1921, quê làng Phú Bình, H. Hương Trà; tử trận ngày 22/10/1945, tại mặt trận Đồng Hến.
26. Phạm Yến, quê làng Phước Hưng, H. Phú Lộc, tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
25. Nguyễn Sum, quê làng Chí Long, H. Phong Điền, tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
26. Phan Văn Cầu, quê làng Phú Hòa, H. Hương Trà; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
27. Bửu Đồng, quê làng Nam Phổ, H. Phú Vang; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
28. Huỳnh Tế, quê H. Phú Lộc, tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
29. Nguyễn Còi, quê làng Cao Đôi, H. Phú Lộc; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
30. Trương Hàng, quê H. Hương Thủy; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
31. Trần Quốc Phú, quê làng Kim Sơn, H. Hương Thủy; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
32. Huỳnh Liên, quê làng Hiền Sĩ, H. Phong Điền; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
33. Nguyễn Duệ, quê làng Ô Sa, H. Quảng Điền; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
34. Nguyễn Kinh, quê làng Thanh Thủy, H. Hương Thủy; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
35. Mai Quang Chương, quê ở Gia Hội, TP. Thuận Hóa; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
36. Nguyễn Ngọc Từ, quê làng Phú Ngạn, H. Quảng Điền; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
37. Nguyễn Thái, quê làng An Ninh Thượng, H. Hương Trà; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
38. Võ Hanh Vĩnh, quê làng An Ninh Thượng, H. Hương Trà. Tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
39. Nguyễn Trung, quê TP. Thuận Hóa; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
40. Phan Văn Tùng, quê H. Phú Lộc; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
41. Trương Chất, quê làng Đại Lộc, H. Phong Điền; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
42. Nguyễn Quế, quê làng Nam Phổ, H. Phú Vang; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
43. Võ Văn Lồng, quê làng An Ninh, H. Hương Trà. Tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
44. La Kim Lợi, quê phố Hàng Bè, TP. Thuận Hóa; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
45. Võ Cân, quê làng Cầu Hai, H. Phú Lộc; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
46. Nguyễn Phúng, quê làng Hòa Xuân, H. Phong Điền; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
47. Trần Khương, quê làng Hòa Xuân, H. Phong Điền; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
48. Nguyễn Nguyên, quê làng Diêm Trường, H. Phú Lộc; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan
49. Lê Loi, quê làng An Nông, H. Phú Lộc; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
50. Nguyễn Cầu, quê làng Minh Hương, H. Hương Trà; tử trận ngày 24/3/1946, tại mặt trận Sê Pôn.
51. Võ Cẩn, sinh tháng 3/1921, quê làng Gia Cốc, H. Phú Lộc; tử trận ngày 9/3/1946, tại mặt trận Phà Lan.
IV. Các chiến sĩ hy sinh tại mặt trận Phan Rang, Phan Thiết và Lâm Viên:
52. Võ Hanh Phiếm, sinh ngày 25/3/1927, quê làng An Ninh Hạ, H. Hương Trà; tử trận ngày 10/11/1945, tại mặt trận Phan Thiết.
53. Bửu Túc, sinh ngày 17/12/1922, quê làng Vĩ Dạ; tử trận ngày 10/11/1945, tại mặt trận Phan Thiết.
54. Nguyễn Văn Vinh, sinh ngày 7/9/1920, quê làng Địa Linh, H. Hương Trà; tử trận ngày 11/11/1945, tại mặt trận Phan Thiết.
55. Trần Văn Xuân, sinh ngày 5/5/1923, quê làng Phú Cát, H. Hương Trà; tử trận ngày 11/11/1945, tại mặt trận Phan Thiết.
56. Tôn Thất Lương, sinh ngày 5/12/1925, quê làng Phú Cát, H. Hương Trà; tử trận ngày 11/11/1945, tại mặt trận Phan Thiết.
57. Bửu Thân, sinh ngày 14/5/1927, quê làng Kim Long, H. Hương Trà; tử trận ngày 11/11/1945, tại mặt trận Lâm Viên.
58. Phan Khang, sinh năm 1923, quê làng Phong Lai, H. Quảng Điền; tử trận ngày 11/3/1946, tại mặt trận Mã Trai (cách Phan Rang 12 cây số).
59. Tôn Thất Kỳ, sinh ngày 15/7/1922, quê xã Hương Phú, H. Hương Trà; tử trận ngày 31/1/1946, tại Đá Bàng (cách Phan Thiết 16 cây số).
V. Các chiến sĩ hy sinh tại mặt trận Ban Mê Thuột:
60. Đoàn Khiêm, quê làng Phú Bình, H. Hương Trà; tử trận ngày 30/1/1946.
61. Phan Đức Đôn, quê làng Vĩ Dạ, H. Phú Vang; tử trận ngày 30/1/1946.
62. Lê Văn Thu, quê ở Bến Ngự, Thuận Hóa; tử trận ngày 30/1/1946.
63. Đoàn Như Quê, ở khu vực ga Thuận Hóa; tử trận ngày 30/1/1946.
64. Nguyễn Chiêm, ở phường Phú Thọ, Thuận Hóa; tử trận ngày 30/1/1946.
65. Hồ Cân, quê làng Nguyệt Biều, H. Hương Thủy; tử trận ngày 30/1/1946.
Cuối mỗi ĐÀI DANH DỰ TỔ QUỐC GHI TÊN CÁC ANH, "Chiến Sĩ" đều ghi câu: "Chiến Sĩ xin nghiêng mình trước vong linh các anh. Chiến Sĩ lại yêu cầu các Ủy ban Nhân dân địa phương cùng đồng bào săn sóc đến các tang gia, để tỏ lòng biết ơn của chúng ta đối với những người chết vì Tổ quốc".
Những người lính Trung đoàn Phú Xuân hồi tưởng cuộc chiến giải phóng Thừa Thiên Huế
Thứ Ba, 26/12/2017 14:32 GMT+7
(PLO) -Chiến tranh đã lùi xa vào quá
khứ, nhưng những năm tháng chiến đấu hào hùng một thuở, vẫn vẹn nguyên
trong ký ức những người lính năm xưa. Họ là những người lính của Trung
đoàn Phú Xuân, nay đều đã ở tuổi “cổ lai hy”, nhưng có chung một cảm xúc
khi nhắc lại những ngày tháng cũ.
Bộ đội tiến vào Huế, hai bên đường là những vũ khí, phương tiện quân Sài Gòn bỏ lại
Được thành lập vào ngày
10/10/1965, Trung đoàn Phú Xuân (Trung đoàn 6) là Trung đoàn chủ
lực Quân khu Trị Thiên, với nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu trên
chiến trường Trị - Thiên. Trung đoàn Phú Xuân đã vang danh với
những trận đánh ác liệt trong cuộc tổng tiến công, nổi dậy
Tết Mậu Thân năm 1968 và cuộc chiến giải phóng Thừa Thiên Huế năm
1975.
Đã gần nửa thế kỷ kể từ
khi cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đến nay, nhưng
với Đại tá Phan Sỹ Khứ (nguyên Hiệu trưởng trường Quân sự Bình Trị
Thiên, ngụ phường Thủy Xuân, TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế) đó mãi là
những ký ức đẹp nhất trong cuộc đời mình.
Năm 1960, đại tá Khứ
tham gia quân đội. Đến năm 1962, ông tham gia chiến đấu tại chiến trường
Lào. Ông bảo, lúc Tổ quốc lâm nguy, mình cũng như tất cả thanh niên
trai trẻ thời ấy, đều xung phong tham gia kháng chiến và chiến đấu hết
mình độc lập tự do của đất nước.
Người dân Huế chào đón Quân Giải phóng |
Năm 1967, khi thành lập
các Trung đoàn để chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân năm
1968, ông được phong làm Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 4. Lúc này Trung
đoàn ông chỉ huy có nhiệm vụ tấn công địch ở vùng Phú Lộc và phía đèo
Hải Vân.
Trận thắng toàn diện
Trong suốt những năm
kháng chiến, đại tá Khứ đã tham gia rất nhiều trận đánh, nhưng ông nhớ
nhất lần tham gia trận đánh vào tháng 12/1971. Trận đánh đó chính là
“chìa khóa” góp phần mở ra con đường đi đến giải phóng Huế. Ông là Trung
đoàn trưởng, cũng là người chỉ huy hơn 600 binh sĩ phục kích xe của
địch từ Đà Nẵng ra đến địa bàn huyện Phú Lộc.
Trận phục kích đó, ông
cùng đồng đội đã tiêu diệt hơn 100 tên địch, trong đó có 37 lính Mỹ và
53 xe. “Trận đánh có thể nói là chiến thắng toàn diện bởi quân ta không
hi sinh một ai. Và đây cũng là trận đánh cuối cùng của Trung đoàn 4
trước khi sát nhập Trung đoàn 6 để chuẩn bị cho cuộc chiến giải phóng
Thừa Thiên Huế năm 1975”, vị đại tá hồi ức.
Quân Sài Gòn tháo chạy khỏi Thừa Thiên – Huế |
Một nhân chứng khác,
Đại tá Bùi Trung Thành, bày tỏ niềm tự hào về những tháng ngày chiến đấu
trong Trung đoàn Phú Xuân. Tháng 3/1971, ông cùng Trung đoàn hành quân
vào chiến trường Trị Thiên. Đến tháng 6/1971 Đại đội của ông được phân
công tấn công địch ở địa bàn xã Hồng Thủy, huyện A Lưới. Để chuẩn bị cho
chiến dịch 1972, nhiệm vụ đầu tiên mà đại đội ông phải hoàn thành là dụ
địch ra khỏi căn cứ điểm.
Lần đánh cứ điểm 131vào
ngày 31/10/1973, đại đội ông sau nhiều giờ chiến đấu liên tục đã tiêu
diệt được 15 tên địch, bắt sống 3 tên, đẩy đối phương ra khỏi cứ điểm
131. Kết thúc trận đánh, quân ta lại rơi vào tình trạng thiếu gạo để ăn
vì địch ngăn chặn tất cả người dân A Lưới không cho mua bán gạo. “Nhưng ý
Đảng lòng dân, bà con hồi ấy đã dùng đủ mọi cách che dấu quân thù. Họ
mua gạo mang về chôn dưới chuồng heo để không bị địch phát hiện. Cũng
nhờ những bao gạo chôn dưới chuồng heo của đồng bào, đã cứu sống biết
bao người lính như chúng tôi”, đại tá Thành hồi ức.
Trung đoàn trưởng trung
đoàn Phú Xuân ngày ấy chính là Đại tá Huỳnh An. Dù đã ở độ tuổi 90,
nhưng những ký ức về những trận chiến năm xưa ông vẫn còn nhớ rất rõ.
Xác xe cộ và phương tiện quân sự bỏ lại ngổn ngang tại cửa biển Thuận An, khi quân Sài Gòn tháo chạy cuối tháng 3/1975 |
Để chuẩn bị cho cuộc
chiến giải phóng Thừa Thiên Huế, tất cả anh em chiến sỹ Trung đoàn 6 đã
chiến đấu không biết mệt mỏi, đã có rất nhiều chiến sỹ đã hi sinh khi
thắng lợi cận kề. Năm 1975, khi tuyến phòng ngự khu vực đường 14
và quanh căn cứ Phú Bài bị vỡ, cánh cửa giải phóng Huế như mở
ra. Ngày 25/3/1975, Trung đoàn 101 của Sư đoàn 325 và một bộ
phận của Trung đoàn 271 chỉ trong một buổi sáng đã đánh chiếm
căn cứ Ấp 5 và căn cứ Phú Bài.
Trong suốt 13 ngày đêm
giằng co chiến đấu với đối phương, cuối cùng quân ta cũng đã phá vỡ
được phòng tuyến của quân Sài Gòn. Cánh cửa giải phóng Thừa
Thiên - Huế từ phía Nam đã được mở ra. Đòn quyết định chiến
dịch này còn mở ra thế và lực mới cho quân và dân ta tiến công
giải phóng Đà Nẵng chỉ mấy ngày sau đó thuận lợi hơn.
Nghĩa tình đồng đội
Đúng 6h30 sáng
26/3/1975, lá cờ Mặt trận dân tộc Giải phóng tung bay trên đỉnh
Ngọ Môn, cả kinh thành Huế vui sướng vỡ òa trong niềm vui giải
phóng. Trung đoàn Phú Xuân được vinh dự giao nhiệm vụ vận chuyển,
kéo cờ Tổ quốc trên Kỳ đài Ngọ Môn Huế để báo hiệu Thừa Thiên - Huế
hoàn toàn giải phóng.
Huế tháng 6/1975 - Lễ chào cờ của nữ sinh Đồng Khánh |
Qua bao nhiêu ngày đêm
băng rừng, lội suối vất vả, với bao hiểm nguy rình rập từ
phía quân thù, rạng sáng ngày 26/33, Trung đoàn Phú Xuân mang cờ
qua cầu Bạch Hổ rồi theo đường Lê Lợi tiến vào Ngọ Môn.
Từ cuộc tổng tiến công
Tết Mậu Thân năm 1968 đến khi cờ giải phóng bay trên Kỳ đài Ngọ Môn Huế,
đã có hơn 12 ngàn chiến sỹ của trung đoàn anh dũng hi sinh vì độc lập
dân tộc, giải phóng quê hương. Để tri ân các anh hùng, liệt sỹ của Trung
đoàn đã chiến đấu hi sinh để bảo vệ nền độc lập cho dân tộc cũng như
cho tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng, năm 2013 Ban liên lạc Trung đoàn cùng
chính quyền địa phương đã xây dựng bia Chiến tích của Trung đoàn Phú
Xuân tại Sân bay Tây Lộc.
Bãi xác xe pháo tại Huế tháng 4/1975 cho thấy các tiếp liệu của Mỹ bị phá hủy bởi pháo binh Quân Giải phóng |
Những năm tháng chiến
đấu trên đất cố đô, đã khiến nhiều cán bộ chiến sĩ có tình cảm sâu nặng
với mảnh đất này. Như với Đại tá Thành, đây chính là quê hương thứ hai,
để lại trong ông nhiều kỷ niệm mà suốt cuộc đời không thể nào quên được.
Sau ngày Huế giải phóng, ông về Thanh Chương (Nghệ An) đưa người bạn
đời của mình vào định cư tại đây. Gắn bó cuộc đời trên mảnh đất mà anh
em, đồng đội đã hy sinh xương máu, đó cũng là cách để ông tri ân những
đồng đội của mình.
Chiến tranh kết thúc,
hòa bình về khắp mọi miền của tổ quốc, nhưng vẫn còn đó những trăn trở.
“Có quá nhiều chiến sỹ hi sinh đến nay vẫn chưa tìm thấy mộ. Đây cũng là
công việc mà nhiều anh em còn sống chúng tôi vẫn đang tiếp tục tìm
kiếm, và cũng là ước nguyện của chúng tôi”, Đại tá Thành chia sẻ.
Chén cháo ân tình:
Những năm tháng chiến
đấu trên chiến trường, đã khiến tình chiến sỹ thân thiết như tình cảm
ruột thịt. “Hồi đó, chiến tranh kéo dài, ở chiến trường xa xôi mọi thứ
đều khan hiếm. Có một hôm khi đồng chí Trịnh Tố Tâm (quê Ứng Hòa, Hà
Tây) chuẩn bị để sáng ngày mai lên khu mới nhận nhiệm vụ thì lúc này cả
đại đội không còn một hạt gạo nào. Vì đói nên chúng tôi hái rau rừng nấu
để ăn nhưng do đói quá nên khi ăn xong anh Tâm bị say rau không thể đi
nổi. Cũng may lúc đó, có nhiều anh em chiến sỹ ở đội khác đi qua thấy
vậy nên đã về lấy gạo của tiểu đội mình sang cho chúng tôi nấu cháo ăn.
Nhờ chén cháo đầy nghĩa tình sẻ chia của đồng đội hôm ấy, mà cơn say rau
của đồng chí Tâm cũng qua khỏi”, Đại tá Khứ hồi ức.
THỪA THIÊN HUẾ TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954-197
Của HUE TRONG TOI · Cập nhật
Đấu
tranh chính trị và xây dựng lực lượng cách mạng, tiến lên Đồng khởi
miền núi (1954 – 1960) Đế quốc Mỹ sau khi thay chân thực dân Pháp thống
trị miền Nam đã ráo riết thực hiện âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa
kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta.
Cuối tháng 6/1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về làm Thủ tướng Chính phủ
“Việt Nam cộng hòa”. Ngô Đình Diệm sau khi lên cầm quyền đã thi hành một
loạt chính sách phản động, vi phạm các điều khoản trong Hiệp định
Genève, tăng cường các lực lượng quân sự, khủng bố trả thù cách mạng.
Thừa Thiên Huế có Huế là trung tâm chính trị thứ hai ở miền Nam sau Sài
Gòn, tiếp giáp với miền Bắc. Vì vậy, ngoài bộ máy ngụy quyền tỉnh Thừa
Thiên và thành phố Huế, chính quyền Ngô Đình Diệm còn thiết lập ở Huế
một bộ máy cai trị cấp miền (gồm các tỉnh từ Quảng Trị đến Bình Thuận và
các tỉnh Tây Nguyên). Ngoài ra, anh ruột Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Thục
giữ chức Tổng giám mục địa phận Huế. Có thể nói Huế là “một triều đình
thứ hai” sau Sài Gòn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ngô Đình Cẩn. Tại
Thừa Thiên Huế, Mỹ - Diệm tập trung xây dựng và củng cố thế lực nhằm
kiểm soát và kìm kẹp nhân dân, tiến đến tiêu diệt phong trào cách mạng.
Chúng lập các Trung tâm cải huấn ở Thanh Tân (Phong Điền), Thành Nội
(Huế), chia lại địa bàn hành chính, thành lập các xã mới, tăng cường lực
lượng quân sự ở Nam Giao, Phú Bài, Thuận An, Thừa Lưu, Tứ Hạ, Hòa Mỹ...
Dưới bàn tay của bạo chúa Ngô Đình Cẩn, chính quyền Ngô Đình Diệm đã
triển khai chính sách “tố cộng, diệt cộng” ở Thừa Thiên Huế hết sức ác
liệt nhằm tiêu diệt tận gốc mầm mống cách mạng trong nhân dân. Chính
sách “tố cộng, diệt cộng” đã gây ra tình trạng hết sức căng thẳng trong
nhân dân. Hàng ngày, có hàng trăm người đi dọc ven bờ sông Hương, sông Ô
Lâu, sông Bồ, sông Nong, sông Truồi, sông Đại Giang... tìm kiếm xác
người thân, hoặc tập trung tại các quận lỵ dò tin tức người thân. Sự tàn
bạo của chính quyền Mỹ - Diệm càng đẩy phong trào đấu tranh của nhân
dân ta lên cao. Thực hiện tinh thần của Hội nghị Trung ương lần thứ 6
khóa II (7/1954), có nội dung cơ bản là chuyển cuộc đấu tranh vũ trang
của nhân dân miền Nam trong chiến tranh sang đấu tranh chính trị trong
hòa bình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Tỉnh ủy Thừa Thiên,
nhân dân Thừa Thiên Huế đã dấy lên một phong trào đấu tranh sôi nổi từ
thành thị đến nông thôn đòi địch thi hành Hiệp định Genève, chống khủng
bố những người kháng chiến, đòi dân sinh dân chủ. Một số phong trào nổi
bật trong thời kỳ này là phong trào Hòa bình của trí thức, phong trào
đấu tranh của chị em tiểu thương, của công nhân và tù chính trị. Tại các
quận huyện nhân dân liên tục nổi dậy uy hiếp, hỗ trợ cho cán bộ làm
nhiệm vụ, cùng cán bộ đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève. Tiêu biểu
là các trận bao vây đồn Kim Đôi kêu gọi lính ngụy về với nhân dân của
nhân dân Quảng Điền (2/8/1954); bao vây địch để bảo vệ cán bộ đang tổ
chức cho dân chúng học tập chính trị tại Phú Vang (7/11/1954); vây đồn
Thế Chí Tây và bắt viên trưởng đồn tại Phong Điền (31/10/1954)... Nổi
bật hơn cả là phong trào đấu tranh đòi địch đắp đập Thuận An, diễn ra
gần như đều khắp các quận trong Tỉnh. Trong kháng chiến chống pháp, miền
núi hầu hết là vùng tự do, nhưng sau Hiệp định Genève, chính quyền Mỹ -
Diệm đã cho quân chiếm đóng toàn bộ và thiết lập bộ máy cai trị. Toàn
miền núi Thừa Thiên Huế có tới 18 đồn bốt, và phát triển đạo Tin Lành
nhằm nắm chặt đồng bào, chia rẽ đồng bào Kinh - Thượng. Tháng 11/1957,
Tỉnh ủy Thừa Thiên họp tại bản Ấp Rùng, xã Thượng Long miền Tây Thừa
Thiên Huế. Hội nghị đã quyết định xây dựng miền núi Thừa Thiên Huế thành
căn cứ cách mạng. Tỉnh ủy bố trí cán bộ từ đồng bằng lên, cùng với một
số cán bộ đã cắm bản từ trước kiên trì bám trụ. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đồng bào nhanh chóng giác ngộ, phong trào đấu tranh chính trị kết
hợp với đấu tranh vũ trang tự vệ bằng vũ khí thô sơ đã nảy sinh trong
phong trào quần chúng. Giữa lúc phong trào cách mạng miền núi Thừa Thiên
Huế đang có bước chuyển biến quan trọng thì ánh sáng Nghị quyết 15
(1/1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) về đường lối cách
mạng miền Nam được truyền đến Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà. Tỉnh uỷ khẩn
trương tổ chức học tập và triển khai thực hiện Nghị quyết 15 của Trung
ương. Một trong những nhiệm vụ chiến lược của Nghị quyết Trung ương 15
là việc mở đường 559 - đường Hồ Chí Minh. Miền núi Thừa Thiên Huế với
con đường 559 nối liền mạch máu với cả nước từng bước trở thành căn cứ
địa cách mạng vững chắc làm chỗ dựa cho đồng bằng. Sau một thời gian
triển khai Nghị quyết Trung ương lần thứ 15, tháng 2 năm 1960 Tỉnh uỷ đã
họp và nhận định tình hình đồng bằng và miền núi. Về tình hình đồng
bằng phong trào đấu tranh chính trị được dấy lên như chống luật 10/59,
chống bắt dân đi dinh điền, chống cưỡng bức vào công giáo, vạch mặt bọn
đầu cơ gạo... các cuộc đấu tranh đã hạn chế được sức phá hoại của địch.
Các huyện đã bắt đầu triển khai thế đứng chân ở vùng giáp ranh, tiến
hành tuyên truyền vũ trang. Nông thôn đã bắt đầu xây dựng được cơ sở
quần chúng. Ở miền núi, Tỉnh uỷ chủ trương phát động khởi nghĩa tiến tới
làm chủ miền núi, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đưa cán bộ xuống nhân
dân, trực tiếp chỉ huy đấu tranh trực diện, chống càn quét, khủng bố,
cướp phá mùa màng... Phát động phong trào thanh niên làm vũ khí như
chông, bẫy..., luyện tập quân sự, đào tạo cán bộ xã đội, thôn đội, mở
lớp huấn luyện quần chúng nổi dậy... Sự phát triển của phong trào cách
mạng miền núi làm cho nguỵ quyền hết sức lo sợ, nên chúng dùng nhiều thủ
đoạn để tiêu diệt phong trào miền núi như: tổ chức các đội thám báo
biệt kích để truy tìm cơ quan, kho tàng, đường Trường Sơn, mở các cuộc
càn quét... Tháng 10/1960 địch mở cuộc hành quân với quy mô lớn, từ 2- 3
tiểu đoàn, không cho nhân dân thu hoạch lúa, chúng đốt rẫy, giết dân...
những tội ác ấy gây sự căm phẫn, uất ức đối với đồng bào dân tộc. Thời
cơ khởi nghĩa đã chín muồi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đêm 18/10/1960,
15.000 đồng bào các dân tộc Pa-cô, Ka-tu, Vân Kiều, Pa-hy đã đồng loạt
nổi dậy, thực hiện vũ trang tuyên truyền vùng Khe Tranh, vây bắt bọn ác
ôn và mở phiên toà xét xử tại chỗ, trừng trị tên Viên Tự, Chánh tổng
“Cần lao”. Hơn 2000 đồng bào mitting ở Hương Lâm, 2000 đồng bào mitting ở
Phong Lâm... khắp nơi trên địa bàn miền núi Thừa Thiên Huế nổi dậy khởi
nghĩa, tuyên bố xoá bỏ nguỵ quyền, thiết lập chính quyền cách mạng. 18
đồn bốt lớn nhỏ của địch ở miền núi bị nhân dân và lực lượng vũ trang
vây chặt. Trước sức mạnh của phong trào, địch phải rút bỏ 15 vị trí chỉ
còn lại những đồn bốt lớn như A So, Khe Tre, Nam Đông. Nhiều cuộc hành
quân nhằm giành lại miền núi đều bị bẻ gẫy, miền núi Thừa Thiên Huế căn
bản được giải phóng. Phong trào đồng khởi của các dân tộc miền núi Trị
Thiên đã cùng lúc với phong trào đồng khởi chung của toàn miền Nam; Mặt
trận dân tộc giải phóng Thừa Thiên Huế cũng đã được hình thành và ra lời
kêu gọi đánh dấu bước ngoặt mới của cách mạng, cổ vũ mạnh mẽ cán bộ,
đảng viên và nhân dân trên toàn tỉnh, cán bộ trở về hoạt động ở đồng
bằng và thành phố, luồn sâu vào các thôn xóm gây dựng lại cơ sở cách
mạng.Đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh quân sự, tiến hành đồng khởi
đồng bằng, góp phần đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961 –
1965)
Từ năm 1961, trước sự tấn công mạnh mẽ và dồn dập của quân dân miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai lúng túng, bị động, chúng nhanh chóng tiến hành “chiến tranh đặc biệt”, “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam”. Đối với Trị Thiên Huế chúng lập phòng tuyến ngăn chặn cách mạng ở đường miền núi và hành lang chiến lược, mục tiêu là bình định được đồng bằng sau đó tập trung giành lại miền núi. Bằng âm mưu và những thủ đoạn này, chúng đã gây cho ta nhiều khó khăn trong việc xây dựng cơ sở và phong trào cách mạng ở đồng bằng. Trước tình hình đó, từ ngày 21 đến 26 tháng 4 năm 1961 Đại hội đại biểu Đảng bộ Thừa Thiên Huế đã họp tại chòi Con Hiên, làng Tà Pat, có 52 đại biểu dự Đại hội. Nhiệm vụ trọng tâm của Đại hội là vạch phương hướng lãnh đạo nhân dân vùng lên chống phá “ấp chiến lược”, nhanh chóng phát triển lực lượng, tiến công từ rừng núi xuống đồng bằng, đẩy mạnh tuyên truyền và hoạt động vũ trang, xây dựng cơ sở chính trị rộng rãi, kiên quyết giành dân, giành quyền làm chủ, đưa chiến tranh cách mạng phát triển lên bước mới, đưa phong trào cách mạng của Tỉnh tiến kịp phong trào toàn khu và toàn miền Nam.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội, những năm 1961, 1962 các lực lượng vũ trang đã thực hiện đánh 37 trận, diệt 154 tên, và thu 37 súng các loại, phá ấp chiến lược 37 lần, diệt 35 tên. Nhiều trận đánh có tiếng vang lớn tạo điều kiện cho đấu tranh chính trị, đưa phong trào cách mạng phát triển. Địch buộc phải giảm các hoạt động quân sự ở miền núi và quay lại đối phó với đồng bằng và thành phố. Lần đầu tiên sau nhiều năm, ta đã hình thành và xây dựng được thế liên hoàn cả ba vùng chiến lược, hình thành thế tiến công địch ở đồng bằng và thành phố.
Trước thắng lợi của cách mạng, uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng ngày càng sâu rộng trong nhân dân. Mâu thuẫn giữa tầng lớp nhân dân với chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm ngày càng sâu sắc. Xu hướng chống Diệm ở thành phố Huế phát triển cao đưa đến cuộc đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp nhân dân thành phố Huế chống Diệm - Nhu mùa hè năm 1963.
Ngày 7 tháng 5 năm 1963, theo lệnh của Ngô Đình Diệm, cảnh sát ngụy quyền Thừa Thiên Huế đã hạ cờ Phật giáo trong ngày lễ Phật Đản. Tối ngày 7 tháng 5 năm 1963 đông đảo nhân dân mà phần lớn là đồng bào theo đạo Phật kéo đến trước dinh Tỉnh trưởng để phản đối ngụy quyền. Đó cũng là mở đầu cho phong trào nhân dân liên kết, xuống đường công khai chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm. Phong trào diễn ra mạnh mẽ gần 4 tháng với các cuộc mitting, biểu tình, tiến hành đại lễ trước sự cấm đoán của chính quyền, làm lễ cầu siêu và đặc biệt có nhiều tu sĩ tự nguyện tử vì đạo như Hoà thượng Thích Quảng Đức, Đại đức Thanh Tuệ, Hoà thượng Thích Tiêu Diêu... Phong trào đấu tranh chính trị này diễn ra với quy mô lớn, có tính chất nhân dân rộng rãi, đã tập hợp được đông đảo các tầng lớp, các giới ở một trung tâm chính trị, làm nổi loạn thành phố, nơi mà kẻ địch cho là an toàn nhất. Cuộc đấu tranh góp phần vạch trần bộ mặt tàn ác của chế độ Mỹ - Diệm trước dư luận trong nước và thế giới, đây cũng là phong trào mở đầu cho phong trào đấu tranh đô thị trên toàn miền Nam.
Sau năm 1963, Tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế tích cực, khẩn trương chuẩn bị mọi mặt nhằm đưa phong trào lên một thời kỳ mới, thời kỳ phá kìm, giành dân, đưa phong trào đồng bằng lên thế đấu tranh chính trị, quân sự, tiến công địch bằng cả ba mũi giáp công: chính trị, quân sự, binh vận.
Đầu năm 1964, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế chủ trương: “Phát huy sức mạnh của quần chúng có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, lợi dụng sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn mà tổ chức lực lượng, tiến công mạnh mẽ, đều khắp, làm tan rã, tê liệt chính trị, tư tưởng và tổ chức, phá ấp chiến lược, chuẩn bị thiết thực cho việc phá thế kìm kẹp của địch”. Thực hiện chủ trương trên, nhân dân Thừa Thiên Huế bước vào phong trào đồng khởi đồng bằng năm 1964.
Đên mồng 5 rạng ngày 6/7/1964, phong trào đồng khởi diễn ra khắp vùng đồng bằng trong tỉnh. Ở phía Bắc tỉnh, nhân dân nhiều xã nổi dậy phối hợp với bộ đội và đội công tác võ trang tiến hành tấn công địch, phá ấp chiến lược, xóa bỏ ngụy quyền, tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở cơ sở và chính quyền tự quản của nhân dân. Phong trào Đồng Khởi đã mở ra một vùng giải phóng rộng lớn gồm nhiều xã: Phong Sơn, Phong An, Phong Thái, Phong Hòa, Phong Bình, Phong Chương (Phong Điền), Phong Nhiêu, Quảng Thái (Quảng Điền) và Hương Vân, Hương Thọ, Hương Hồ, Hương Mai, Hương Thái, Hương Bình, Hương Thạnh (Hương Trà). Ở phía Nam, lực lượng vũ trang phối hợp với nhân dân tấn công và nổi dậy giải phóng các xã Phú Đa, Phú Hồ và một số thôn của Vinh Phú, Vinh Thái, Phú Xuân, Phú Lương (Phú Vang); Lộc An, Lộc Tụ (Phú Lộc); nhiều thôn xã của xã Thủy Bằng, Thủy Thanh, Thủy Phương (Hương Thủy).
Cùng với phong trào Đồng khởi ở vùng nông thôn, phong trào đấu tranh chính trị ở thành phố Huế cũng diễn ra mạnh mẽ. Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên dưới các hình thức biểu tình, hội thảo, bãi khóa phản đối “Hiến chương Vũng Tàu”, chống ngụy quyền Nguyễn Khánh. Phong trào đấu tranh của Phật giáo biểu tình, tuần hành phản đối Hiến chương 16/8/1964. Tiểu thương các chợ Đông Ba, Bến Ngự, An Cựu bãi thị để hưởng ứng. Khắp nơi trong toàn tỉnh Thừa Thiên, các quận, xã gửi tuyên ngôn ủng hộ lập trường đấu tranh của sinh viên, học sinh, giáo chức và các giới Huế.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đô thị, mà trước hết là Huế, ngụy quyền Nguyễn Khánh đã có sự nhượng bộ như thu hồi “Hiến chương Vũng Tàu”, giải tán Hội đồng quân đội.
Nổi bật trong phong trào đô thị Huế ở thời điểm này là sự ra đời của Hội đồng nhân dân cứu quốc ngày 28/8/1964, bao gồm hầu hết các lực lượng đấu tranh chống chính quyền độc tài Nguyễn Khánh tại Thừa Thiên Huế.
Phong trào đô thị Huế trong năm 1964 nói chung, Hội đồng nhân dân cứu quốc nói riêng đã góp phần tích cực vào việc phá lỏng thế kìm kẹp của địch ở thành phố, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng Thừa Thiên Huế phát triển không chỉ ở thành phố mà cả ở nông thôn và đồng bằng.
Từ cuối tháng 11/1964 đến 5/1965, quân và dân Thừa Thiên Huế liên tục đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị, giữ vững vùng giải phóng ở miền núi và giáp ranh, mở rộng quyền làm chủ đồng bằng và ven biển. Trong đợt này toàn tỉnh đã giải phóng được 76 thôn, 4 nông trường và giành được 4 vạn dân.Đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị, thực hiện tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, góp phần đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968)
Các cuộc tiến công và nổi dậy mạnh mẽ của quân dân miền Nam làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Đầu năm 1965, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh Mỹ và chư hầu trực tiếp thực hiện chiến tranh xâm lược miền Nam.
Tại Thừa Thiên Huế, Phú Bài trở thành căn cứ đầu tiên đóng quân của quân đội viễn chinh Mỹ để triển khai chiến lược “chiến tranh cục bộ” trên địa bàn hai tỉnh Trị - Thiên.
Ngày 25/7/1965, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên họp tại vùng núi huyện Hương Trà. Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ mới để lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn gian khổ, dũng cảm đương đầu với quân Mỹ, dám đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Tháng 4/1966 Khu ủy và Quân khu Trị - Thiên Huế được thành lập do Thiếu tướng Trần Văn Quang làm Bí thư Khu ủy kiêm Tư lệnh Quân khu. Nhiệm vụ của Quân khu là: “Tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, ra sức chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang thành phố để phục vụ kế hoạch tổng công kích và tổng khởi nghĩa khi có điều kiện chín muồi... Cắt đứt đường giao thông chiến lược của địch, xây dựng đường hành lang của ta, giành thắng lợi về mọi mặt và tạo nên một tình thế mới trên chiến trường Trị - Thiên, phối hợp tốt với các chiến trường khác trong mọi tình huống”.
Hội nghị Tỉnh ủy Thừa Thiên tháng 6 và tháng 12/1966 nhằm quán triệt và cụ thể hóa các nhiệm vụ của Khu ủy giao.
Tại Thừa Thiên Huế các vành đai diệt Mỹ đã được xây dựng xung quanh căn cứ Phú Bài, Đồng Lâm, đường 12, đường 14. Tháng 11/1965, một sự kiện quân sự có ý nghĩa lớn đối với ta là quân dân hai huyện Phong Điền, Quảng Điền đánh tan cuộc càn quét của Mỹ - Ngụy có xe bọc thép M.113 yểm trợ được xem là trận đánh phủ đầu chiến thuật “thiết xa vận” mà Mỹ sử dụng để càn quét đồng bằng, nhất là vùng kháng chiến của ta.
Bước vào nửa đầu năm 1966 nói riêng và cả năm 1966 nói chung, những hoạt động quân sự đã tiếp tục góp phần giữ vững thế trận, đưa phong trào cách mạng vượt qua những thử thách mới. Sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích các xã đã đánh bại các trận càn của Mỹ ngụy.
Để mở rộng vùng giải phóng làm chỗ đứng chân cho lực lượng cách mạng, từ tháng 6/1966, nhân dân ba xã Quảng Ninh, Quảng Hòa, Quảng Đại (Quảng Điền) đã tiến hành đồng khởi, giải phóng một số thôn. Số thôn còn lại, dưới sự lãnh đạo của các đội công tác vũ trang, nhân dân đã kiên trì bám trụ đánh địch phản kích, đến thắng 11/1966 cả ba xã hoàn toàn giải phóng, tạo địa bàn quan trọng cho cách mạng, mở ra thế trận cho cả ba vùng và tạo thế cho sự phát triển của phong trào trong những năm tiếp theo.
Cùng với các hoạt động quân sự là phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân ở các vùng đồng bằng, nông thôn và thành phố Huế góp phần tạo nên những đòn đánh trực diện vào chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
Phong trào đấu tranh chính trị sôi nổi của sinh viên Huế tháng 8/1965 với các cuộc biểu tình, tuần hành, phát thanh, “những đêm không ngủ” đã góp phần nâng cao ý thức chính trị trong nhân dân, giúp các tầng lớp trung gian hiểu rõ hơn về chính sách xâm lược của Mỹ và bản chất tay sai của chính quyền Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho Huế bước vào cao trào đấu tranh chính trị suốt mùa hè năm 1966.
Ngày 9/3/1966, tướng Nguyễn Chánh Thi - Tư lệnh Quân đoàn I kiêm Tư lệnh vùng I Chiến thuật bị cách chức. Nắm lấy cơ hội địch mâu thuẫn, các tầng lớp nhân dân đã xuống đường đòi hòa bình, chống chiến tranh, đòi lật đổ Thiệu - Kỳ. Cả Huế vùng lên, tăng ni Phật tử mitting, sinh viên, học sinh bãi khóa, tiểu thương bãi thị, công chức bãi việc, quần chúng tổ chức lễ tẩy chay Mỹ. Cuộc đấu tranh đã hình thành một mặt trận rộng rãi, tạo nên phong trào liên minh hành động có tính chất bạo lực chống Mỹ và tay sai giữa nhân dân lao động, sinh viên học sinh với Sư đoàn I ngụy ly khai khỏi ngụy quyền Sài Gòn.
Cuộc đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp nhân dân đã đẩy kẻ thù rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng, địch không kiểm soát được thành phố Huế. Chính quyền Sài gòn đã cho máy bay chở hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến và dù ra Đà Nẵng hòng đàn áp phong trào. Phản ứng trước việc chính quyền Sài Gòn đem quân đàn áp ở Đà Nẵng, ngày 5/4/1966 Đoàn Thanh niên quyết tử Huế gồm 66 sinh viên, do Nguyễn Đắc Xuân làm Đoàn trưởng được thành lập, ngày 8/4 một bộ phận lên đường vào chi viện cho Đà Nẵng. Qua tháng 5/1966, một tổ chức mang tên Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức cũng được thành lập bởi người thầy giáo yêu nước Ngô Kha, tập hợp lực lượng chống Mỹ - Thiệu.
Sau sự kiện thành lập Đoàn sinh viên quyết tử và Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức, tinh thần võ trang tranh đấu lan rộng đến nhiều tầng lớp nhân dân, lần lượt xuất hiện một số tổ chức như Đoàn học sinh ứng chiến, Công chức chống đàn áp, Giáo chức tranh thủ dân chủ, Nữ sinh cứu thương...
Sau ba năm (1963 - 1966), cuộc đấu tranh chính trị hoàn toàn bất bạo động, đến mùa hè năm 1966, phong trào đấu tranh ở Huế từ đấu tranh chính trị chuyển sang đấu tranh vũ trang tự vệ, đánh dấu một bước ngoặt mới của phong trào trong sự nghiệp chung chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Thành tựu quan trọng nhất của những ngày sôi nổi khí thế chống Mỹ - Thiệu trong năm 1966 của các tầng lớp nhân dân Huế chính là đã tập dượt, chuẩn bị thiết thực cho lần nổi dậy với quy mô lớn chỉ hơn một năm sau đó trong Xuân 1968.
Sáu tháng cuối năm 1966, các lực lượng vũ trang bao gồm bộ đội địa phương và du kích đã tích cực chống địch bình định, bảo vệ vùng giải phóng, đồng thời phát động quần chúng nổi dậy phá thế kìm kẹp.
Qua năm 1967, phong trào chiến tranh du kích tiếp tục phát triển mạnh mẽ, góp phần củng cố và mở rộng vùng giải phóng và vùng tranh chấp. Đó là năm có nhiều chiến công của lực lượng vũ trang trong tỉnh: chiến công của tiểu đoàn 4 (K4) và du kích Vinh Thái (Phú Vang) đánh tan 6 trung đội địch càn quét bình định, trong đó có ba cố vấn Mỹ (1/1967); trận du kích thôn Lợi Nông (Hương Thủy) đánh bại cuộc càn quét của địch, bảo vệ thôn xóm (2/1967); trận Tiểu đoàn 4 cùng bộ đội địa phương, du kích phú Vang tiến công chi khu quận lỵ Phú Thứ (2/1967); trận phá ấp chiến lược Dưỡng Mong của bộ đội địa phương tỉnh; trận tiêu diệt căn cứ mã thám của Mỹ và đánh nát sân bay trực thăng Mỹ ở Phú Bài; trận tập kích vào khách sạn Hương Giang...
Cùng với chiến công trên mặt trận quân sự, phong trào đấu tranh chính trị cũng có bước chuyển quan trọng, phong trào Phật giáo phát triển mạnh, nhiều sinh viên, học sinh Huế thoát ly lên chiến khu, một số bám sát địa bàn, bí mật xây dựng cơ sở.
Cuối năm 1967, Bộ Chính trị họp và đi đến quyết định tiến hành Tổng tấn công, tổng khởi nghĩa trên toàn miền. Chiến trường Huế được coi là một trong hai chiến trường trọng điểm (Sài Gòn - Huế). Nhiệm vụ là thực hành tổng tiến công, nổi dậy đồng loạt đánh chiếm thành phố Huế, các thị xã thị trấn, đánh tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng nông thôn, thiết lập chính quyền cách mạng, tạo điều kiện tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Tại Huế, 2 giờ ngày 31 tháng 1 năm 1968 pháo binh của ta đồng loạt nã vào những căn cứ của địch mở đầu cuộc tổng tấn công lịch sử. Sau 7 giờ chiến đấu, đến 9 giờ ngày 31 tháng 01 năm 1968, cờ MTDTGP phấp phới trên đỉnh cao cột cờ Phu Văn Lâu quân ta làm chủ hoàn toàn thành phố. Quân ta đã làm chủ thành phố trong 26 ngày đêm. Trong 26 ngày đêm tấn công nổi dậy, quân ta đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, đập nát cơ quan đầu não, đánh tan rã hệ thống kìm kẹp của địch từ tỉnh đến cơ sở. Ngày 25 tháng 2 năm 1968 do tương quan lực lượng không cân sức, quân đội ta chiến đấu ở thành phố lâu ngày đã bộc lộ nhiều khó khăn, cấp trên ra lệnh rút khỏi thành phố, kết thúc chiến dịch Xuân Mậu Thân.
Thắng lợi của cuộc tiến công, nổi dậy Xuân 68 góp phần quan trọng vào việc đánh bại chiến tranh cục bộ của Mỹ, buộc chúng phải xuống thang và thay đổi chiến lược chiến tranh. Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát huy thắng lợi tết Mậu Thân, thực hiện “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc.
Vượt qua khó khăn, chống địch bình định, góp phần đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973)
Sau chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, đế quốc buộc phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc và chấp nhận đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Paris. Tuy nhiên, sau khi lên làm Tổng thống Mỹ, Nixon bắt đầu cho thi hành ở Việt Nam chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt” bằng vũ khí và đô la của Mỹ, do Mỹ chỉ huy, cùng một lúc thực hiện ba loại hình chiến tranh: Giành dân, bóp nghẹt và hủy diệt để bình định nông thôn đồng bằng, hòng làm cho lực lượng cách mạng mất chỗ dựa dễn đến suy yếu.
Thừa Thiên Huế được Mỹ cho là một trong những chiến trường trọng điểm thực hiện ba loại hình chiến tranh kể trên.
Ở thành phố Huế và các thị trấn quận lỵ, địch tiến hành khủng bố khốc liệt, đồng thời kiểm soát và kềm kẹp rất chặt. Ở nông thôn đồng bằng, địch tập trung lực lượng triển khai kế hoạch “bình định cấp tốc” (từ tháng 10/1968). Ở vùng rừng núi, địch liên tiếp mở các cuộc hành quân với quy mô lớn và vừa, sử dụng hỏa lực phi pháo và máy bày B.52 bắn phá ác liệt, đồng thời dùng chất độc hóa học phát quang cây cối, phá hoại mùa màng, cắt đứt đường giao thông vận chuyển của ta, phá hoại các kho tàng, ngăn chặn tiếp viện từ miền Bắc.
Tiếp sau “bình định cấp tốc” là “bình định đặc biệt”, kết hợp với kế hoạch “Phượng hoàng” và hàng nghìn cuộc hành quân càn quét khốc liệt. Chính quyền Sài Gòn đã kiểm soát gần trọn đồng bằng, ngăn chặn được ta ở vùng giáp ranh và liên tục đánh phá hành lang, kho tàng, hậu cứ của ta ở miền núi.
Dưới sự lãnh đạo của các cơ sở Đảng, nhân dân đã dũng cảm đứng lên đấu tranh một mất một còn với kẻ thù, quyết không để địch thực hiện ý đồ cào xúc dân, bắt lính, cũng như quyết đòi về làng cũ khi đã bị dồn vào các khu tập trung.
Sau một thời gian khôi phục và củng cố lực lượng, từ giữa năm 1969, phong trào đấu tranh của nhân dân thành phố Huế bắt đầu sôi sục trở lại. Các tầng lớp tiểu thương, dân nghèo thành thị, thanh niên, sinh viên và học sinh liên tục đấu tranh chống tăng thuế, chống bắt lính, đòi tự do dân chủ, đòi hòa bình, chống khủng bố, đòi chấm dứt chiến tranh.
Song song với phong trào đấu tranh chính trị, sang đến năm 1969, bộ đội chủ lực của ta đã tổ chức chống càn thắng lợi. Miền núi phía Tây Thừa Thiên được củng cố, thế đứng chân của lực lượng vũ trang và hậu cứ kho tàng được xác lập.
Cán bộ, chiến sĩ Khu ủy Trị Thiên Huế tổ chức để tang Bác Hồ
Ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Phong trào “đau thương nhớ Bác” diễn ra khắp nơi trong tỉnh. Nhiều người trong cộng đồng các dân tộc ở miền Tây Trị Thiên đã đổi sang họ Hồ để ghi nhớ công ơn to lớn của Người.
Những năm 1970, 1971, 1972 lực lượng của ta lớn mạnh vượt bậc. Cục diện chiến tranh trên toàn miền Nam nói chung và ở chiến trường Trị Thiên Huế nói riêng ngày càng có lợi cho ta. Trên chiến trường Trị Thiên bên cạnh những thắng lợi về mặt quân sự có ý nghĩa nắm thế chủ động trên chiến trường như trận ABia (1969); Cô Ca Va (A Lưới); trận tiêu diệt 7 đoàn bình định, mở đợt diệt ác, phá kìm, giành dân ở vùng giáp ranh xã Phong Hòa, Phong An (1969), Quảng Hòa, Hương Vân, Hương Thái; Ba đợt tiến công địch năm 1970, thắng lợi trận đường 9 - Nam Lào 1971, cuộc tiến công chiến lược năm 1972... , chúng ta đẩy mạnh đấu tranh chính trị, phong trào đấu tranh công khai diễn ra sôi nổi khắp thành phố. Tính từ tháng 3/1969 đến 11/1970 có 25 cuộc xuống đường có qui mô lớn và vừa cùng hàng trăm cuộc đấu tranh lẻ tẻ khác. Đặc biệt phong trào học sinh, sinh viên phát triển mạnh mẽ với một số phong trào nổi bật như: “Hát cho đồng bào tôi nghe”; in và phát hành tờ báo “Tiếng nói sinh viên”, “Tự quyết”...
Học sinh, sinh viên và đồng bào Huế biểu tình chống Mỹ năm 1971
Sang đến năm 1971, từ tháng 5 đến tháng 12/1971 đã diễn ra 66 cuộc đấu tranh công khai với quy mô vừa và lớn. Đặc biệt nhiều cuộc đấu tranh có tổ chức lãnh đạo và huy động được 10 vạn lượt người tham gia giương cao các khẩu hiệu: “Hòa bình, hòa hợp dân tộc”; “Mĩ rút hết quân”; “Thiệu phải từ chức”...
Đến năm 1972, Thường vụ Tỉnh ủy đã họp đề ra kế hoạch “Tích cực tranh thủ thời cơ, mạnh dạn dưa phong trào thành phố lên thành cao trào cách mạng của quần chúng phối hợp với nông thôn, quận lỵ, thị trấn làm lung lay tận gốc ngụy quyền”.
Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của quân và dân Thừa Thiên Huế, tuy không thực hiện được kế hoạch đề ra là giải phóng quê hương, song là một bước nhảy vọt của cách mạng, tạo ra cục diện mới để đánh bại chiến lược “Việt nam hóa chiến tranh” của Mỹ, góp phần cùng chiến thắng cả nước và buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về Việt Nam.
Cùng cả nước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn (1973 – 1975)
Cuộc đấu tranh của quân dân Thừa Thiên Huế những năm 1973, 1974 đòi đối phương thi hành Hiệp định và chống bình định lấn chiếm đã góp phần tạo điều kiện cho cuộc tiến công nổi dậy vào mùa xuân năm 1975.
Đến cuối năm 1974 đầu năm 1975, so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng. Tháng 10 và tháng 12/1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong vòng 2 năm 1975 - 1976. Ngoài kế hoạch cơ bản trên, Bộ Chính trị còn dự kiến phương án: “Nếu thời cơ đến thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.
Họp bàn kế hoạch giải phóng Trị-Thiên-Huế Xuân 1975
Ngày 10/2/1975, Quân ủy Trung ương phê chuẩn kế hoạch năm 1975 của Quân khu Trị Thiên với nội dung cơ bản là: “Tập trung toàn bộ lực lượng Quân khu và Quân đoàn II, tranh thủ thời cơ thuận lợi của năm 1975, đẩy mạnh tiến công tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch ở Trị - Thiên, giành 35 vạn dân ở nông thôn đồng bằng, phát động cao trào đấu tranh chính trị ở thành phố, đánh mạnh vào kho tàng hậu cứ, triệt phá giao thông; tích cực sáng tạo thời cơ và sẵn sàng chớp thời cơ tiến lên giành thắng lợi lớn, kể cả giải phóng Huế”.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ở miền Nam đã diễn ra gần hai tháng (từ 4/3 đến 30/4) với ba chiến dịch lớn: Chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đánh thẳng vào Sài Gòn.
Năm giờ 45 phút sáng ngày 8/3/1975, ở cánh Nam Huế, pháo của Sư đoàn 324 (Quân đoàn II) bắt đầu dội bão lửa xuống các cứ điểm địch, mở màn chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Và 6 giờ 30 phút ngày 26/3/1975, Trung đoàn 6 bộ binh Quân khu chính thức kéo lá cờ MTDTGP miền Nam Việt Nam dài 12m, rộng 8m lên đỉnh Cột cờ, đánh dấu mốc lịch sử Thừa Thiên Huế hoàn toàn giải phóng.
Sau 18 ngày đêm chiến đấu (từ 8 đến 26/3/1975), quân và dân Thừa Thiên Huế đã hoàn toàn giải phóng quê hương, đập tan tấm lá chắn mạnh nhất của địch ở phía Bắc, làm thất bại kế hoạch “Phòng ngự co cụm chiến lược” của địch ở các tỉnh duyên hải miền Trung, góp phần quyết định vào thắng lợi chiến dịch Huế - Đà Nẵng, tạo đà thần tốc chiến thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Bản tin chiến sự cuối cùng về quân đội Sài Gòn ở Huế được hãng UPI tường thuật ngắn gọn: “Hôm nay 26/3/1975, các lực lượng Việt Nam (quan đội Sài Gòn) đã thực sự trao thành phố Cố đô Huế cho những người cộng sản. nhiều nguồn tin đều nói các đơn vị còn lại trong thành phố Huế đã đầu hàng”.
Lễ mít tinh chào mừng Thừa Thiên Huế hoàn toàn giải phóng (21/4/1975)
Sau chiến dịch Huế - Đà Nẵng là chiến dịch Hồ Chí Minh mà đỉnh cao là thắng lợi lịch sử ngày 30/4/1975, là một mốc son trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, đồng thời là một trong những cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường nhất của các dân tộc trên thế giới trong thời đại ngày nay, đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh ở trong bản Di chúc của Người:
“Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, nhân dân Thừa Thiên Huế đã cùng đồng bào cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1961, trước sự tấn công mạnh mẽ và dồn dập của quân dân miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai lúng túng, bị động, chúng nhanh chóng tiến hành “chiến tranh đặc biệt”, “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam”. Đối với Trị Thiên Huế chúng lập phòng tuyến ngăn chặn cách mạng ở đường miền núi và hành lang chiến lược, mục tiêu là bình định được đồng bằng sau đó tập trung giành lại miền núi. Bằng âm mưu và những thủ đoạn này, chúng đã gây cho ta nhiều khó khăn trong việc xây dựng cơ sở và phong trào cách mạng ở đồng bằng. Trước tình hình đó, từ ngày 21 đến 26 tháng 4 năm 1961 Đại hội đại biểu Đảng bộ Thừa Thiên Huế đã họp tại chòi Con Hiên, làng Tà Pat, có 52 đại biểu dự Đại hội. Nhiệm vụ trọng tâm của Đại hội là vạch phương hướng lãnh đạo nhân dân vùng lên chống phá “ấp chiến lược”, nhanh chóng phát triển lực lượng, tiến công từ rừng núi xuống đồng bằng, đẩy mạnh tuyên truyền và hoạt động vũ trang, xây dựng cơ sở chính trị rộng rãi, kiên quyết giành dân, giành quyền làm chủ, đưa chiến tranh cách mạng phát triển lên bước mới, đưa phong trào cách mạng của Tỉnh tiến kịp phong trào toàn khu và toàn miền Nam.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội, những năm 1961, 1962 các lực lượng vũ trang đã thực hiện đánh 37 trận, diệt 154 tên, và thu 37 súng các loại, phá ấp chiến lược 37 lần, diệt 35 tên. Nhiều trận đánh có tiếng vang lớn tạo điều kiện cho đấu tranh chính trị, đưa phong trào cách mạng phát triển. Địch buộc phải giảm các hoạt động quân sự ở miền núi và quay lại đối phó với đồng bằng và thành phố. Lần đầu tiên sau nhiều năm, ta đã hình thành và xây dựng được thế liên hoàn cả ba vùng chiến lược, hình thành thế tiến công địch ở đồng bằng và thành phố.
Trước thắng lợi của cách mạng, uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng ngày càng sâu rộng trong nhân dân. Mâu thuẫn giữa tầng lớp nhân dân với chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm ngày càng sâu sắc. Xu hướng chống Diệm ở thành phố Huế phát triển cao đưa đến cuộc đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp nhân dân thành phố Huế chống Diệm - Nhu mùa hè năm 1963.
Ngày 7 tháng 5 năm 1963, theo lệnh của Ngô Đình Diệm, cảnh sát ngụy quyền Thừa Thiên Huế đã hạ cờ Phật giáo trong ngày lễ Phật Đản. Tối ngày 7 tháng 5 năm 1963 đông đảo nhân dân mà phần lớn là đồng bào theo đạo Phật kéo đến trước dinh Tỉnh trưởng để phản đối ngụy quyền. Đó cũng là mở đầu cho phong trào nhân dân liên kết, xuống đường công khai chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm. Phong trào diễn ra mạnh mẽ gần 4 tháng với các cuộc mitting, biểu tình, tiến hành đại lễ trước sự cấm đoán của chính quyền, làm lễ cầu siêu và đặc biệt có nhiều tu sĩ tự nguyện tử vì đạo như Hoà thượng Thích Quảng Đức, Đại đức Thanh Tuệ, Hoà thượng Thích Tiêu Diêu... Phong trào đấu tranh chính trị này diễn ra với quy mô lớn, có tính chất nhân dân rộng rãi, đã tập hợp được đông đảo các tầng lớp, các giới ở một trung tâm chính trị, làm nổi loạn thành phố, nơi mà kẻ địch cho là an toàn nhất. Cuộc đấu tranh góp phần vạch trần bộ mặt tàn ác của chế độ Mỹ - Diệm trước dư luận trong nước và thế giới, đây cũng là phong trào mở đầu cho phong trào đấu tranh đô thị trên toàn miền Nam.
Sau năm 1963, Tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế tích cực, khẩn trương chuẩn bị mọi mặt nhằm đưa phong trào lên một thời kỳ mới, thời kỳ phá kìm, giành dân, đưa phong trào đồng bằng lên thế đấu tranh chính trị, quân sự, tiến công địch bằng cả ba mũi giáp công: chính trị, quân sự, binh vận.
Đầu năm 1964, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế chủ trương: “Phát huy sức mạnh của quần chúng có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, lợi dụng sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn mà tổ chức lực lượng, tiến công mạnh mẽ, đều khắp, làm tan rã, tê liệt chính trị, tư tưởng và tổ chức, phá ấp chiến lược, chuẩn bị thiết thực cho việc phá thế kìm kẹp của địch”. Thực hiện chủ trương trên, nhân dân Thừa Thiên Huế bước vào phong trào đồng khởi đồng bằng năm 1964.
Đên mồng 5 rạng ngày 6/7/1964, phong trào đồng khởi diễn ra khắp vùng đồng bằng trong tỉnh. Ở phía Bắc tỉnh, nhân dân nhiều xã nổi dậy phối hợp với bộ đội và đội công tác võ trang tiến hành tấn công địch, phá ấp chiến lược, xóa bỏ ngụy quyền, tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở cơ sở và chính quyền tự quản của nhân dân. Phong trào Đồng Khởi đã mở ra một vùng giải phóng rộng lớn gồm nhiều xã: Phong Sơn, Phong An, Phong Thái, Phong Hòa, Phong Bình, Phong Chương (Phong Điền), Phong Nhiêu, Quảng Thái (Quảng Điền) và Hương Vân, Hương Thọ, Hương Hồ, Hương Mai, Hương Thái, Hương Bình, Hương Thạnh (Hương Trà). Ở phía Nam, lực lượng vũ trang phối hợp với nhân dân tấn công và nổi dậy giải phóng các xã Phú Đa, Phú Hồ và một số thôn của Vinh Phú, Vinh Thái, Phú Xuân, Phú Lương (Phú Vang); Lộc An, Lộc Tụ (Phú Lộc); nhiều thôn xã của xã Thủy Bằng, Thủy Thanh, Thủy Phương (Hương Thủy).
Cùng với phong trào Đồng khởi ở vùng nông thôn, phong trào đấu tranh chính trị ở thành phố Huế cũng diễn ra mạnh mẽ. Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên dưới các hình thức biểu tình, hội thảo, bãi khóa phản đối “Hiến chương Vũng Tàu”, chống ngụy quyền Nguyễn Khánh. Phong trào đấu tranh của Phật giáo biểu tình, tuần hành phản đối Hiến chương 16/8/1964. Tiểu thương các chợ Đông Ba, Bến Ngự, An Cựu bãi thị để hưởng ứng. Khắp nơi trong toàn tỉnh Thừa Thiên, các quận, xã gửi tuyên ngôn ủng hộ lập trường đấu tranh của sinh viên, học sinh, giáo chức và các giới Huế.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đô thị, mà trước hết là Huế, ngụy quyền Nguyễn Khánh đã có sự nhượng bộ như thu hồi “Hiến chương Vũng Tàu”, giải tán Hội đồng quân đội.
Nổi bật trong phong trào đô thị Huế ở thời điểm này là sự ra đời của Hội đồng nhân dân cứu quốc ngày 28/8/1964, bao gồm hầu hết các lực lượng đấu tranh chống chính quyền độc tài Nguyễn Khánh tại Thừa Thiên Huế.
Phong trào đô thị Huế trong năm 1964 nói chung, Hội đồng nhân dân cứu quốc nói riêng đã góp phần tích cực vào việc phá lỏng thế kìm kẹp của địch ở thành phố, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng Thừa Thiên Huế phát triển không chỉ ở thành phố mà cả ở nông thôn và đồng bằng.
Từ cuối tháng 11/1964 đến 5/1965, quân và dân Thừa Thiên Huế liên tục đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị, giữ vững vùng giải phóng ở miền núi và giáp ranh, mở rộng quyền làm chủ đồng bằng và ven biển. Trong đợt này toàn tỉnh đã giải phóng được 76 thôn, 4 nông trường và giành được 4 vạn dân.Đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị, thực hiện tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, góp phần đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968)
Các cuộc tiến công và nổi dậy mạnh mẽ của quân dân miền Nam làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Đầu năm 1965, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh Mỹ và chư hầu trực tiếp thực hiện chiến tranh xâm lược miền Nam.
Tại Thừa Thiên Huế, Phú Bài trở thành căn cứ đầu tiên đóng quân của quân đội viễn chinh Mỹ để triển khai chiến lược “chiến tranh cục bộ” trên địa bàn hai tỉnh Trị - Thiên.
Ngày 25/7/1965, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên họp tại vùng núi huyện Hương Trà. Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ mới để lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn gian khổ, dũng cảm đương đầu với quân Mỹ, dám đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Tháng 4/1966 Khu ủy và Quân khu Trị - Thiên Huế được thành lập do Thiếu tướng Trần Văn Quang làm Bí thư Khu ủy kiêm Tư lệnh Quân khu. Nhiệm vụ của Quân khu là: “Tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, ra sức chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang thành phố để phục vụ kế hoạch tổng công kích và tổng khởi nghĩa khi có điều kiện chín muồi... Cắt đứt đường giao thông chiến lược của địch, xây dựng đường hành lang của ta, giành thắng lợi về mọi mặt và tạo nên một tình thế mới trên chiến trường Trị - Thiên, phối hợp tốt với các chiến trường khác trong mọi tình huống”.
Hội nghị Tỉnh ủy Thừa Thiên tháng 6 và tháng 12/1966 nhằm quán triệt và cụ thể hóa các nhiệm vụ của Khu ủy giao.
Tại Thừa Thiên Huế các vành đai diệt Mỹ đã được xây dựng xung quanh căn cứ Phú Bài, Đồng Lâm, đường 12, đường 14. Tháng 11/1965, một sự kiện quân sự có ý nghĩa lớn đối với ta là quân dân hai huyện Phong Điền, Quảng Điền đánh tan cuộc càn quét của Mỹ - Ngụy có xe bọc thép M.113 yểm trợ được xem là trận đánh phủ đầu chiến thuật “thiết xa vận” mà Mỹ sử dụng để càn quét đồng bằng, nhất là vùng kháng chiến của ta.
Bước vào nửa đầu năm 1966 nói riêng và cả năm 1966 nói chung, những hoạt động quân sự đã tiếp tục góp phần giữ vững thế trận, đưa phong trào cách mạng vượt qua những thử thách mới. Sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích các xã đã đánh bại các trận càn của Mỹ ngụy.
Để mở rộng vùng giải phóng làm chỗ đứng chân cho lực lượng cách mạng, từ tháng 6/1966, nhân dân ba xã Quảng Ninh, Quảng Hòa, Quảng Đại (Quảng Điền) đã tiến hành đồng khởi, giải phóng một số thôn. Số thôn còn lại, dưới sự lãnh đạo của các đội công tác vũ trang, nhân dân đã kiên trì bám trụ đánh địch phản kích, đến thắng 11/1966 cả ba xã hoàn toàn giải phóng, tạo địa bàn quan trọng cho cách mạng, mở ra thế trận cho cả ba vùng và tạo thế cho sự phát triển của phong trào trong những năm tiếp theo.
Cùng với các hoạt động quân sự là phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân ở các vùng đồng bằng, nông thôn và thành phố Huế góp phần tạo nên những đòn đánh trực diện vào chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
Phong trào đấu tranh chính trị sôi nổi của sinh viên Huế tháng 8/1965 với các cuộc biểu tình, tuần hành, phát thanh, “những đêm không ngủ” đã góp phần nâng cao ý thức chính trị trong nhân dân, giúp các tầng lớp trung gian hiểu rõ hơn về chính sách xâm lược của Mỹ và bản chất tay sai của chính quyền Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho Huế bước vào cao trào đấu tranh chính trị suốt mùa hè năm 1966.
Ngày 9/3/1966, tướng Nguyễn Chánh Thi - Tư lệnh Quân đoàn I kiêm Tư lệnh vùng I Chiến thuật bị cách chức. Nắm lấy cơ hội địch mâu thuẫn, các tầng lớp nhân dân đã xuống đường đòi hòa bình, chống chiến tranh, đòi lật đổ Thiệu - Kỳ. Cả Huế vùng lên, tăng ni Phật tử mitting, sinh viên, học sinh bãi khóa, tiểu thương bãi thị, công chức bãi việc, quần chúng tổ chức lễ tẩy chay Mỹ. Cuộc đấu tranh đã hình thành một mặt trận rộng rãi, tạo nên phong trào liên minh hành động có tính chất bạo lực chống Mỹ và tay sai giữa nhân dân lao động, sinh viên học sinh với Sư đoàn I ngụy ly khai khỏi ngụy quyền Sài Gòn.
Cuộc đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp nhân dân đã đẩy kẻ thù rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng, địch không kiểm soát được thành phố Huế. Chính quyền Sài gòn đã cho máy bay chở hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến và dù ra Đà Nẵng hòng đàn áp phong trào. Phản ứng trước việc chính quyền Sài Gòn đem quân đàn áp ở Đà Nẵng, ngày 5/4/1966 Đoàn Thanh niên quyết tử Huế gồm 66 sinh viên, do Nguyễn Đắc Xuân làm Đoàn trưởng được thành lập, ngày 8/4 một bộ phận lên đường vào chi viện cho Đà Nẵng. Qua tháng 5/1966, một tổ chức mang tên Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức cũng được thành lập bởi người thầy giáo yêu nước Ngô Kha, tập hợp lực lượng chống Mỹ - Thiệu.
Sau sự kiện thành lập Đoàn sinh viên quyết tử và Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức, tinh thần võ trang tranh đấu lan rộng đến nhiều tầng lớp nhân dân, lần lượt xuất hiện một số tổ chức như Đoàn học sinh ứng chiến, Công chức chống đàn áp, Giáo chức tranh thủ dân chủ, Nữ sinh cứu thương...
Sau ba năm (1963 - 1966), cuộc đấu tranh chính trị hoàn toàn bất bạo động, đến mùa hè năm 1966, phong trào đấu tranh ở Huế từ đấu tranh chính trị chuyển sang đấu tranh vũ trang tự vệ, đánh dấu một bước ngoặt mới của phong trào trong sự nghiệp chung chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Thành tựu quan trọng nhất của những ngày sôi nổi khí thế chống Mỹ - Thiệu trong năm 1966 của các tầng lớp nhân dân Huế chính là đã tập dượt, chuẩn bị thiết thực cho lần nổi dậy với quy mô lớn chỉ hơn một năm sau đó trong Xuân 1968.
Sáu tháng cuối năm 1966, các lực lượng vũ trang bao gồm bộ đội địa phương và du kích đã tích cực chống địch bình định, bảo vệ vùng giải phóng, đồng thời phát động quần chúng nổi dậy phá thế kìm kẹp.
Qua năm 1967, phong trào chiến tranh du kích tiếp tục phát triển mạnh mẽ, góp phần củng cố và mở rộng vùng giải phóng và vùng tranh chấp. Đó là năm có nhiều chiến công của lực lượng vũ trang trong tỉnh: chiến công của tiểu đoàn 4 (K4) và du kích Vinh Thái (Phú Vang) đánh tan 6 trung đội địch càn quét bình định, trong đó có ba cố vấn Mỹ (1/1967); trận du kích thôn Lợi Nông (Hương Thủy) đánh bại cuộc càn quét của địch, bảo vệ thôn xóm (2/1967); trận Tiểu đoàn 4 cùng bộ đội địa phương, du kích phú Vang tiến công chi khu quận lỵ Phú Thứ (2/1967); trận phá ấp chiến lược Dưỡng Mong của bộ đội địa phương tỉnh; trận tiêu diệt căn cứ mã thám của Mỹ và đánh nát sân bay trực thăng Mỹ ở Phú Bài; trận tập kích vào khách sạn Hương Giang...
Cùng với chiến công trên mặt trận quân sự, phong trào đấu tranh chính trị cũng có bước chuyển quan trọng, phong trào Phật giáo phát triển mạnh, nhiều sinh viên, học sinh Huế thoát ly lên chiến khu, một số bám sát địa bàn, bí mật xây dựng cơ sở.
Cuối năm 1967, Bộ Chính trị họp và đi đến quyết định tiến hành Tổng tấn công, tổng khởi nghĩa trên toàn miền. Chiến trường Huế được coi là một trong hai chiến trường trọng điểm (Sài Gòn - Huế). Nhiệm vụ là thực hành tổng tiến công, nổi dậy đồng loạt đánh chiếm thành phố Huế, các thị xã thị trấn, đánh tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng nông thôn, thiết lập chính quyền cách mạng, tạo điều kiện tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Tại Huế, 2 giờ ngày 31 tháng 1 năm 1968 pháo binh của ta đồng loạt nã vào những căn cứ của địch mở đầu cuộc tổng tấn công lịch sử. Sau 7 giờ chiến đấu, đến 9 giờ ngày 31 tháng 01 năm 1968, cờ MTDTGP phấp phới trên đỉnh cao cột cờ Phu Văn Lâu quân ta làm chủ hoàn toàn thành phố. Quân ta đã làm chủ thành phố trong 26 ngày đêm. Trong 26 ngày đêm tấn công nổi dậy, quân ta đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, đập nát cơ quan đầu não, đánh tan rã hệ thống kìm kẹp của địch từ tỉnh đến cơ sở. Ngày 25 tháng 2 năm 1968 do tương quan lực lượng không cân sức, quân đội ta chiến đấu ở thành phố lâu ngày đã bộc lộ nhiều khó khăn, cấp trên ra lệnh rút khỏi thành phố, kết thúc chiến dịch Xuân Mậu Thân.
Thắng lợi của cuộc tiến công, nổi dậy Xuân 68 góp phần quan trọng vào việc đánh bại chiến tranh cục bộ của Mỹ, buộc chúng phải xuống thang và thay đổi chiến lược chiến tranh. Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát huy thắng lợi tết Mậu Thân, thực hiện “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc.
Vượt qua khó khăn, chống địch bình định, góp phần đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973)
Sau chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, đế quốc buộc phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc và chấp nhận đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Paris. Tuy nhiên, sau khi lên làm Tổng thống Mỹ, Nixon bắt đầu cho thi hành ở Việt Nam chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt” bằng vũ khí và đô la của Mỹ, do Mỹ chỉ huy, cùng một lúc thực hiện ba loại hình chiến tranh: Giành dân, bóp nghẹt và hủy diệt để bình định nông thôn đồng bằng, hòng làm cho lực lượng cách mạng mất chỗ dựa dễn đến suy yếu.
Thừa Thiên Huế được Mỹ cho là một trong những chiến trường trọng điểm thực hiện ba loại hình chiến tranh kể trên.
Ở thành phố Huế và các thị trấn quận lỵ, địch tiến hành khủng bố khốc liệt, đồng thời kiểm soát và kềm kẹp rất chặt. Ở nông thôn đồng bằng, địch tập trung lực lượng triển khai kế hoạch “bình định cấp tốc” (từ tháng 10/1968). Ở vùng rừng núi, địch liên tiếp mở các cuộc hành quân với quy mô lớn và vừa, sử dụng hỏa lực phi pháo và máy bày B.52 bắn phá ác liệt, đồng thời dùng chất độc hóa học phát quang cây cối, phá hoại mùa màng, cắt đứt đường giao thông vận chuyển của ta, phá hoại các kho tàng, ngăn chặn tiếp viện từ miền Bắc.
Tiếp sau “bình định cấp tốc” là “bình định đặc biệt”, kết hợp với kế hoạch “Phượng hoàng” và hàng nghìn cuộc hành quân càn quét khốc liệt. Chính quyền Sài Gòn đã kiểm soát gần trọn đồng bằng, ngăn chặn được ta ở vùng giáp ranh và liên tục đánh phá hành lang, kho tàng, hậu cứ của ta ở miền núi.
Dưới sự lãnh đạo của các cơ sở Đảng, nhân dân đã dũng cảm đứng lên đấu tranh một mất một còn với kẻ thù, quyết không để địch thực hiện ý đồ cào xúc dân, bắt lính, cũng như quyết đòi về làng cũ khi đã bị dồn vào các khu tập trung.
Sau một thời gian khôi phục và củng cố lực lượng, từ giữa năm 1969, phong trào đấu tranh của nhân dân thành phố Huế bắt đầu sôi sục trở lại. Các tầng lớp tiểu thương, dân nghèo thành thị, thanh niên, sinh viên và học sinh liên tục đấu tranh chống tăng thuế, chống bắt lính, đòi tự do dân chủ, đòi hòa bình, chống khủng bố, đòi chấm dứt chiến tranh.
Song song với phong trào đấu tranh chính trị, sang đến năm 1969, bộ đội chủ lực của ta đã tổ chức chống càn thắng lợi. Miền núi phía Tây Thừa Thiên được củng cố, thế đứng chân của lực lượng vũ trang và hậu cứ kho tàng được xác lập.
Cán bộ, chiến sĩ Khu ủy Trị Thiên Huế tổ chức để tang Bác Hồ
Ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Phong trào “đau thương nhớ Bác” diễn ra khắp nơi trong tỉnh. Nhiều người trong cộng đồng các dân tộc ở miền Tây Trị Thiên đã đổi sang họ Hồ để ghi nhớ công ơn to lớn của Người.
Những năm 1970, 1971, 1972 lực lượng của ta lớn mạnh vượt bậc. Cục diện chiến tranh trên toàn miền Nam nói chung và ở chiến trường Trị Thiên Huế nói riêng ngày càng có lợi cho ta. Trên chiến trường Trị Thiên bên cạnh những thắng lợi về mặt quân sự có ý nghĩa nắm thế chủ động trên chiến trường như trận ABia (1969); Cô Ca Va (A Lưới); trận tiêu diệt 7 đoàn bình định, mở đợt diệt ác, phá kìm, giành dân ở vùng giáp ranh xã Phong Hòa, Phong An (1969), Quảng Hòa, Hương Vân, Hương Thái; Ba đợt tiến công địch năm 1970, thắng lợi trận đường 9 - Nam Lào 1971, cuộc tiến công chiến lược năm 1972... , chúng ta đẩy mạnh đấu tranh chính trị, phong trào đấu tranh công khai diễn ra sôi nổi khắp thành phố. Tính từ tháng 3/1969 đến 11/1970 có 25 cuộc xuống đường có qui mô lớn và vừa cùng hàng trăm cuộc đấu tranh lẻ tẻ khác. Đặc biệt phong trào học sinh, sinh viên phát triển mạnh mẽ với một số phong trào nổi bật như: “Hát cho đồng bào tôi nghe”; in và phát hành tờ báo “Tiếng nói sinh viên”, “Tự quyết”...
Học sinh, sinh viên và đồng bào Huế biểu tình chống Mỹ năm 1971
Sang đến năm 1971, từ tháng 5 đến tháng 12/1971 đã diễn ra 66 cuộc đấu tranh công khai với quy mô vừa và lớn. Đặc biệt nhiều cuộc đấu tranh có tổ chức lãnh đạo và huy động được 10 vạn lượt người tham gia giương cao các khẩu hiệu: “Hòa bình, hòa hợp dân tộc”; “Mĩ rút hết quân”; “Thiệu phải từ chức”...
Đến năm 1972, Thường vụ Tỉnh ủy đã họp đề ra kế hoạch “Tích cực tranh thủ thời cơ, mạnh dạn dưa phong trào thành phố lên thành cao trào cách mạng của quần chúng phối hợp với nông thôn, quận lỵ, thị trấn làm lung lay tận gốc ngụy quyền”.
Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của quân và dân Thừa Thiên Huế, tuy không thực hiện được kế hoạch đề ra là giải phóng quê hương, song là một bước nhảy vọt của cách mạng, tạo ra cục diện mới để đánh bại chiến lược “Việt nam hóa chiến tranh” của Mỹ, góp phần cùng chiến thắng cả nước và buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về Việt Nam.
Cùng cả nước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn (1973 – 1975)
Cuộc đấu tranh của quân dân Thừa Thiên Huế những năm 1973, 1974 đòi đối phương thi hành Hiệp định và chống bình định lấn chiếm đã góp phần tạo điều kiện cho cuộc tiến công nổi dậy vào mùa xuân năm 1975.
Đến cuối năm 1974 đầu năm 1975, so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng. Tháng 10 và tháng 12/1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong vòng 2 năm 1975 - 1976. Ngoài kế hoạch cơ bản trên, Bộ Chính trị còn dự kiến phương án: “Nếu thời cơ đến thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.
Họp bàn kế hoạch giải phóng Trị-Thiên-Huế Xuân 1975
Ngày 10/2/1975, Quân ủy Trung ương phê chuẩn kế hoạch năm 1975 của Quân khu Trị Thiên với nội dung cơ bản là: “Tập trung toàn bộ lực lượng Quân khu và Quân đoàn II, tranh thủ thời cơ thuận lợi của năm 1975, đẩy mạnh tiến công tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch ở Trị - Thiên, giành 35 vạn dân ở nông thôn đồng bằng, phát động cao trào đấu tranh chính trị ở thành phố, đánh mạnh vào kho tàng hậu cứ, triệt phá giao thông; tích cực sáng tạo thời cơ và sẵn sàng chớp thời cơ tiến lên giành thắng lợi lớn, kể cả giải phóng Huế”.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ở miền Nam đã diễn ra gần hai tháng (từ 4/3 đến 30/4) với ba chiến dịch lớn: Chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đánh thẳng vào Sài Gòn.
Năm giờ 45 phút sáng ngày 8/3/1975, ở cánh Nam Huế, pháo của Sư đoàn 324 (Quân đoàn II) bắt đầu dội bão lửa xuống các cứ điểm địch, mở màn chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Và 6 giờ 30 phút ngày 26/3/1975, Trung đoàn 6 bộ binh Quân khu chính thức kéo lá cờ MTDTGP miền Nam Việt Nam dài 12m, rộng 8m lên đỉnh Cột cờ, đánh dấu mốc lịch sử Thừa Thiên Huế hoàn toàn giải phóng.
Sau 18 ngày đêm chiến đấu (từ 8 đến 26/3/1975), quân và dân Thừa Thiên Huế đã hoàn toàn giải phóng quê hương, đập tan tấm lá chắn mạnh nhất của địch ở phía Bắc, làm thất bại kế hoạch “Phòng ngự co cụm chiến lược” của địch ở các tỉnh duyên hải miền Trung, góp phần quyết định vào thắng lợi chiến dịch Huế - Đà Nẵng, tạo đà thần tốc chiến thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Bản tin chiến sự cuối cùng về quân đội Sài Gòn ở Huế được hãng UPI tường thuật ngắn gọn: “Hôm nay 26/3/1975, các lực lượng Việt Nam (quan đội Sài Gòn) đã thực sự trao thành phố Cố đô Huế cho những người cộng sản. nhiều nguồn tin đều nói các đơn vị còn lại trong thành phố Huế đã đầu hàng”.
Lễ mít tinh chào mừng Thừa Thiên Huế hoàn toàn giải phóng (21/4/1975)
Sau chiến dịch Huế - Đà Nẵng là chiến dịch Hồ Chí Minh mà đỉnh cao là thắng lợi lịch sử ngày 30/4/1975, là một mốc son trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, đồng thời là một trong những cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường nhất của các dân tộc trên thế giới trong thời đại ngày nay, đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh ở trong bản Di chúc của Người:
“Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, nhân dân Thừa Thiên Huế đã cùng đồng bào cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chiến dịch Trị Thiên - Huế: Đòn tiến công chiến lược mùa Xuân 1975
QĐND Online - Thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Quân khu Trị Thiên, Quân đoàn 2, đã mở chiến dịch Trị Thiên - Huế (từ ngày 5-3 đến 26-3-1975) nhằm bao vây, tiêu diệt tập đoàn phòng ngự thuộc Quân đoàn 1 - Quân khu 1 quân đội Sài Gòn ở Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975...
QĐND Online
- Trong lúc chiến dịch Tây Nguyên tập trung phản kích đánh địch ở Buôn
Ma Thuột và tổ chức trận đánh tiêu diệt các lực lượng còn lại của Quân
đoàn 2 ngụy rút chạy trên đường số 7. Thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy
Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Quân khu Trị Thiên, Quân đoàn 2, đã mở
chiến dịch Trị Thiên - Huế (từ ngày 5-3 đến 26-3-1975) nhằm bao vây,
tiêu diệt tập đoàn phòng ngự thuộc Quân đoàn 1 - Quân khu 1 quân đội Sài
Gòn ở Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân 1975.
Trên
chiến trường Trị Thiên - Huế từ cuối năm 1974 đến đầu năm 1975, địch tổ
chức thành các cụm cứ điểm nằm trong tầm hỏa lực chi viện của pháo
binh, tạo thành một hệ thống phòng ngự liên hoàn khá chặt chẽ. Trung
bình từ 15 đến 25km địch tổ chức và xây dựng một căn cứ cấp trung đoàn
hoặc sư đoàn, các căn cứ này vừa là điểm then chốt của hệ thống phòng
ngự, vừa là bàn đạp để triển khai lực lượng phản kích. Ở đây, địch bố
trí lực lượng có Sư đoàn bộ binh 1, Lữ đoàn dù 2, Liên đoàn biệt động
quân 15, 3 lữ đoàn thủy quân lục chiến (147, 258 và 369), 2 liên đoàn và
21 đại đội bảo an, 3 thiết đoàn (7, 17, 20), 8 tiểu đoàn pháo binh, 319
trung đội dân vệ và 36.000 phòng vệ dân sự... tổ chức phòng ngự thành
các khu vực, lấy đơn vị trung đoàn, lữ đoàn chủ lực làm nòng cốt, tập
trung vào ba trọng điểm: Quảng Trị, tây Huế và tây Quốc lộ 1 từ nam Huế
đến đèo Hải Vân.
Về
ta, để chuẩn bị cho đợt hoạt động trong năm 1975, đã đảm bảo được 14
tháng lương thực cho bộ đội, xăng dầu, đạn dược đủ cho chiến đấu… lực
lượng ta tham gia chiến dịch, có Quân đoàn 2 (thiếu Sư đoàn 304) phối
hợp với Quân khu Trị - Thiên (3 trung đoàn, 9 tiểu đoàn và 12 đại đội bộ
binh, 2 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 đại đội xe tăng,
150 đội vũ trang công tác và du kích địa phương). Bộ tư lệnh chiến dịch
do đồng chí Lê Tự Đồng, Bí thư Khu ủy được cử giữ chức Bí thư Đảng ủy
Chiến dịch Trị Thiên - Huế. Riêng về chỉ huy, không tổ chức Bộ chỉ huy
chiến dịch, Bộ Tổng tư Lệnh và Bộ Tổng tham mưu trực tiếp chỉ đạo chiến
dịch.
Chiến
dịch diễn ra 2 đợt. Đợt 1 (từ ngày 5 đến 20-3) ta tiến hành nghi binh ở
bắc Quảng Trị đồng thời sử dụng lực lượng địa phương đánh nhỏ trên các
trục giao thông, bao vây uy hiếp địch ở tuyến giáp ranh, kết hợp hoạt
động vũ trang tuyên truyền. Từ ngày 8-3, các đơn vị chủ lực đồng loạt
tiến công, đánh chiếm các căn cứ, vị trí phòng ngự của địch ở vùng giáp
ranh và đồng bằng (chủ yếu hướng đường số 12 và đường số 14 với các điểm
cao 75, 76, 224, 273, 300, 303, cứ điểm Chúc Mao...), đập tan mọi cố
gắng phản kích của địch, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang địa phương
và nhân dân nổi dậy giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị và một phần bắc
Thừa Thiên. Phối hợp với hoạt động ở Trị Thiên, từ ngày 10 đến 17-3, lực
lượng vũ trang và nhân dân Quảng Nam, Quảng Ngãi kết hợp tiến công và
nổi dậy, giải phóng các huyện Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Hà, Trà
Bồng..., gây sức ép ở nam Đà Nẵng, buộc địch phải rút các lữ đoàn thủy
quân lục chiến 258 và 369 về đối phó. Đợt 2 (từ ngày 21 đến 26-3-1975),
tiến công tiêu diệt địch ở Núi Bông (21-3), đánh chiếm các điểm cao 294,
520, 560 và núi Kim Sắc; cắt đứt đường số 1 đoạn Huế - Đà Nẵng, áp sát
sân bay Phú Bài và thành phố Huế. Trước sức ép của ta, địch tháo chạy
khỏi Huế ra cửa Thuận An, Tư Hiền để theo đường biển về Đà Nẵng. Ta kịp
thời triển khai lực lượng chặn đánh địch rút chạy ở khu vực đông nam Huế
(từ ngày 23 đến 26-3-1975), đồng thời đẩy mạnh tiến công trên các hướng
bắc, nam và tây nam, đến ngày 26-3, giải phóng thành phố Huế và toàn
tỉnh Thừa Thiên.
Kết
quả, sau 21 ngày đêm chiến đấu liên tục, ta diệt, bắt và làm tan rã
phần lớn lực lượng quân đội Sài Gòn (gồm Sư đoàn 1 bộ binh, Lữ đoàn 147
thủy quân lục chiến, hai liên đoàn biệt động quân 14 và 15, Lữ đoàn 1 kỵ
binh thiết giáp, 3 thiết đoàn, 8 tiểu đoàn pháo binh, 15 tiểu đoàn và
21 tiểu đội bảo an, 319 trung đội dân vệ, 7.000 tên cảnh sát cùng các
đơn vị bảo đảm…) và bộ máy chính quyền địch ở Quảng Trị, Thừa Thiên và
TP Huế (khoảng 16.000 quân địch chạy thoát về Đà Nẵng), thu toàn bộ vũ
khí, trang bị gồm 140 xe tăng thiết giáp, 800 xe tải, một vạn tấn đạn...
Thắng
lợi của chiến dịch Trị Thiên - Huế là một trong những thắng lợi to lớn
nhất, triệt để nhất của quân và dân ta ở Trị Thiên - Huế, có ý nghĩa
chiến lược và ý nghĩa chính trị rất quan trọng, góp phần xứng đáng vào
thắng lợi trọn vẹn của toàn chiến trường miền Nam trong cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Chỉ trong một thời gian ngắn, quân,
dân Trị Thiên - Huế cùng Quân đoàn 2 đã đập tan hệ thống căn cứ quân sự
trọng yếu, tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn một bộ phận bộ máy quân sự
to lớn gồm nhiều đơn vị sừng sỏ, có một phần lực lượng tổng dự bị chiến
lược cùng các loại vũ khí trang bị hiện đại của địch.
Thắng
lợi đó là một đòn phủ đầu giáng vào kế hoạch phòng thủ co cụm chiến
lược mới của địch ở vùng đồng bằng ven biển miền Trung. Mỹ - ngụy chủ
trương lấy Trị Thiên - Huế làm một trong những trung tâm phòng ngự cố
thủ, án ngữ ở phía Bắc hệ thống, bố trí chiến lược quân sự mới, che chở
bảo vệ cho trung tâm phòng ngự Quảng Nam-Đà Nẵng. Được sự chỉ đạo, chỉ
huy sáng tạo kịp thời của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư
lệnh, quân dân Trị Thiên - Huế và Quân đoàn 2 đã nắm vững thời cơ chiến
lược thuận lợi, nhanh chóng tiến công, nổi dậy mau lẹ tiêu diệt làm tan
rã hoàn toàn lực lượng của địch, làm thất bại kế hoạch co cụm ở Trị
Thiên - Huế và kế hoạch bảo toàn lực luợng rút chạy về co cụm ở Đà Nẵng
của chúng bị phá sản. Thắng lợi của chiến dịch đã đập tan lá chắn mạnh
nhất của địch, mở toang cánh cửa án ngữ dày đặc của địch ở phía Bắc, tạo
điều kiện thuận lợi cho các lực lượng của ta phát triển tiến công vào
phía Nam, giải phóng thành phố Đà Nẵng và một loạt các căn cứ, thành
phố, thị xã khác của quân địch.
Thắng
lợi to lớn của ta, thất bại thảm hại của địch ở Trị Thiên - Huế đã góp
phần gây ra phản ứng dây chuyền, giáng một đòn mạnh vào tinh thần và sức
chiến đấu của quân ngụy, càng đẩy quân đội Sài Gòn lao nhanh hơn nữa
đến suy sụp lớn về tinh thần và tổ chức; uy hiếp trực tiếp tới tập đoàn
phòng ngự của chúng ở Quảng Nam-Đà Nẵng; thế trận của địch đã bị co hẹp,
rối loạn nay càng bị co hẹp rối loạn thêm. Kết quả của chiến dịch đã
làm thay đổi hẳn tương quan lực lượng địch - ta trên hướng tiến công
chiến lược phía Bắc, góp phần để ta củng cố quyết tâm tiếp tục mở chiến
dịch tiến công vào Đà Nẵng và giành thắng lợi.
Chiến
dịch đã giải phóng được hoàn toàn Trị Thiên - Huế, trong đó thành phố
Huế là một trong những trung tâm chính trị, văn hóa lớn ở miền Nam, là
nguồn cổ vũ mạnh mẽ to lớn đối với cả nước và có ảnh hưởng lớn về chính
trị đối với thế giới; đã chứng minh sức mạnh tiến công và nổi dậy của
quân và dân ta không những có khả năng tiêu diệt, quét sạch những tập
đoàn phòng ngự mạnh của địch ở chiến trường rừng núi, mà còn có khả năng
giải phóng những vùng đồng bằng, thành phố rộng lớn, nơi địch cố sức
bảo vệ.
Riêng
đối với Trị Thiên - Huế, thắng lợi triệt để và trọn vẹn của chiến dịch
đã tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng bộ và quân dân Trị Thiên - Huế nhanh
chóng xây dựng chính quyền nhân dân, ổn định cuộc sống, thiết lập trật
tự và phát huy được sức mạnh mới của cách mạng, trước mắt là tập trung,
động viên sức người, sức của chi viện cho cuộc tổng tiến công giải phóng
Đà Nẵng và các tỉnh miền Trung.
Chiến
dịch Trị Thiên - Huế diễn ra trong khoảng thời gian ngắn giành thắng
lợi có ý nghĩa rất lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
1975. Từ một chiến dịch ở một hướng phối hợp, khi thời cơ đến, quân và
dân Trị Thiên - Huế cùng Quân đoàn 2 đã tiến công, nổi dậy kiên quyết,
táo bạo, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch, giải phóng hoàn toàn
Quảng Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế.
NGUYỄN TRỌNG THÀNH, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam Những chiến sĩ người Thừa Thiên Huế hy sinh và có thể chưa được công nhận liệt sĩ
TTH - Sau ngày 23/8/1945 chỉ
ít tuần, thực hiện chỉ đạo của Xứ ủy Trung Kỳ, tại Huế đã có 15 tờ báo
cách mạng được xuất bản. Tuần báo Chiến Sĩ, cơ quan Huấn luyện và Tuyên
truyền của Giải Phóng Quân Nguyễn Tri Phương, là một trong ba tờ báo đầu
tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Báo Chiến Sĩ và chuyên mục "Trên đài danh dự"
Tòa soạn "Chiến Sĩ" đóng tại số 8 đường Tự Đức, TP. Thuận Hóa (nay là
số 8 đường Hùng Vương, TP. Huế), do ông Ngô Điền, thầy giáo dạy toán ở
Trường Khải Định, học viên Trường Thanh niên Tiền tuyến Huế trước cách
mạng, Trưởng ban Tuyên truyền Ủy ban Quốc phòng Thừa Thiên làm chủ bút.
Tham gia Ban Biên tập và công việc của tòa soạn đồng thời là phóng viên
có: Hồ Thanh Kha, Võ Văn Kỳ, Lê Bá Toại, Cao Văn Tường, Thái Quang Trai,
Dương Tường, về sau thêm Thân Trọng Ninh làm quản lý.Số 1 ra ngày 16/11/1945, in tại nhà in Ngô Tử Hạ, đường Gia Long (nay là Phan Đăng Lưu) TP. Huế, xuất bản được 39 số, mỗi tháng ba số, có tháng bốn số, cũng có tháng chỉ ra được hai số. Mỗi số có 4 trang, 8 trang, thi thoảng có số 12 trang, khổ 20 x 27cm; mấy số đầu phát hành 1.000 tờ, do nhu cầu của các chiến sĩ và bạn đọc, mấy số sau tăng lên 1.500 tờ.
Báo mở nhiều chuyên đề, trong đó có mục TRÊN ĐÀI DANH DỰ để tôn vinh những người lính Vệ Quốc đã chiến đấu và hy sinh anh dũng trên các mặt trận.
Trong quá trình nghiên cứu lịch sử báo chí, chúng tôi đã tiếp cận đủ 39 số báo Chiến Sĩ và gặp ở đây rất nhiều Vệ Quốc Quân được vinh danh TRÊN ĐÀI DANH DỰ, họ là những chiến sĩ đã hy sinh lúc còn rất trẻ (đa số họ chưa lập gia đình).
Dưới đây là danh sách Vệ Quốc Quân quê ở Thừa Thiên Huế, hy sinh tại các mặt trận từ cuối năm 1945 đến giữa đầu năm 1946 được đăng trên báo Chiến Sĩ. Do chiến tranh kéo dài, đất nước bị chia cắt làm hai miền, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên có thể những người lính “Chết vì Tổ quốc” này chưa được công nhận liệt sĩ. Với hy vọng, sau khi nhật báo Thừa Thiên Huế công bố sẽ giúp được phần nào cho thân nhân của các Anh có cơ sở xác minh, làm thủ tục đề nghị Nhà nước công nhận Liệt sĩ để hương linh các Anh dưới chín suối mỉm cười.
TRÊN ĐÀI DANH DỰ TỔ QUỐC GHI TÊN CÁC CHIẾN SĨ
I. Chiến sĩ hy sinh tại mặt trận Xuân Lộc, Biên Hòa và Bình Thuận:
1. Lê Văn Phùng, sinh ngày 8/8/1916, quê làng An Cựu, H. Hương Thủy; tử trận tháng 10/1945, tại mặt trận Xuân Lộc.
2. Nguyễn Văn Giao, sinh ngày 12/8/1925, quê làng Vân Thê, H. Hương Thủy; tử trận ngày 3/1/1946, tại mặt trận Biên Hòa.
3. Bảo Trị, sinh ngày 25/10/1925, quê làng Vĩ Dạ, H. Phú Vang; tử trận ngày 31/1/1946, tại làng Vĩnh Bảo, tỉnh Bình Thuận.
II. Chiến sĩ hy sinh tại mặt trận Nha Trang:
4. Ngô Niệm, sinh ngày 15/10/1921, quê phường Phú Thọ, TP. Thuận Hóa.
5. Nguyễn Mỹ Trí, sinh ngày 12/9/1927, quê làng Hà Thanh, H. Phú Vang.
6. Tôn Thất Bảng, sinh ngày 13/3/1927, quê phường Phú Vinh, TP.Thuận Hóa.
7. Nguyễn Vinh, sinh ngày 20/9/1925, quê làng An Thuận, H. Hương Trà.
8. Đặng Tấn, sinh ngày 1/7/1912, quê làng An Xuân, H. Quảng Điền.
9. Nguyễn Văn Sự, sinh ngày 7/4/1929, quê làng Dương Nỗ, H. Phú Vang; tử trận ngày 22/10/1945.
10. Đinh Văn Tài, sinh ngày 1/9/1925, quê làng Nam Trung, H. Phú Vang; tử trận ngày 2/12/1945.
11. Mai Cảnh, sinh năm 1927, quê làng Viễn Trình, H. Phú Vang; tử trận ngày 2/12/1945.
12. Nguyễn Tiếp, sinh ngày 12/5/1925, quê làng Dưỡng Mông Thượng, H. Phú Vang; tử trận ngày 2/12/1945.
13. Nguyễn Phúng, quê làng Hà Cẩn, H. Quảng Điền; tử trận ngày 2/12/1945.
14. Bửu Đà, sinh ngày 23/12/1921, quê làng Vĩ Dạ, H. Phú Vang; tử trận ngày 11/1/1946.
15. Nguyễn Văn Tiêm, quê làng Vân Thê, H. Hương Thủy; tử trận ngày 2/12/1945.
16. Lê Thiềm, quê làng Lang Xá, H. Hương Thủy; tử trận ngày 2/12/1945.
17. Phan Bỉ, quê làng Lang Xá, H. Hương Thủy; tử trận ngày 2/12/1945.
18. Đặng Văn Tiền, quê làng Thanh Thủy, H. Hương Thủy; tử trận ngày 2/12/1945.
19. Ngô Tá Tảo, quê làng Lang Xá, H. Hương Thủy, tử trận ngày 2/12/1945.
20. Phan Văn Lia, sinh năm 1925, quê làng Phú Cát, H. Hương Trà; tử trận ngày 7/12/1945.
III. Các chiến sĩ hy sinh tại mặt trận Phà Lan, Đồng Hến, Mường Phìn:
21. Tôn Thất Vỹ, sinh ngày 15/10/1921, quê làng Phú Nhuận, H. Hương Thủy.
22. Nguyễn Đình Trúc, quê làng Thành Trung, H. Quảng Điền.
23. Nguyễn Khánh Thành, sinh năm 1924, quê làng Phú Hòa, H. Hương Trà.
24. Đinh Doãn Thọ, sinh ngày 9/12/1924, quê làng Truyền Nam, H. Phú Vang.
25. Nguyễn Thời, sinh ngày 6/10/1921, quê làng Phú Bình, H. Hương Trà; tử trận ngày 22/10/1945, tại mặt trận Đồng Hến.
26. Phạm Yến, quê làng Phước Hưng, H. Phú Lộc, tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
25. Nguyễn Sum, quê làng Chí Long, H. Phong Điền, tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
26. Phan Văn Cầu, quê làng Phú Hòa, H. Hương Trà; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
27. Bửu Đồng, quê làng Nam Phổ, H. Phú Vang; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
28. Huỳnh Tế, quê H. Phú Lộc, tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
29. Nguyễn Còi, quê làng Cao Đôi, H. Phú Lộc; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
30. Trương Hàng, quê H. Hương Thủy; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
31. Trần Quốc Phú, quê làng Kim Sơn, H. Hương Thủy; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
32. Huỳnh Liên, quê làng Hiền Sĩ, H. Phong Điền; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
33. Nguyễn Duệ, quê làng Ô Sa, H. Quảng Điền; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
34. Nguyễn Kinh, quê làng Thanh Thủy, H. Hương Thủy; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
35. Mai Quang Chương, quê ở Gia Hội, TP. Thuận Hóa; tử trận ngày 1/2/1946, tại mặt trận Đồng Hến.
36. Nguyễn Ngọc Từ, quê làng Phú Ngạn, H. Quảng Điền; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
37. Nguyễn Thái, quê làng An Ninh Thượng, H. Hương Trà; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
38. Võ Hanh Vĩnh, quê làng An Ninh Thượng, H. Hương Trà. Tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
39. Nguyễn Trung, quê TP. Thuận Hóa; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
40. Phan Văn Tùng, quê H. Phú Lộc; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
41. Trương Chất, quê làng Đại Lộc, H. Phong Điền; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
42. Nguyễn Quế, quê làng Nam Phổ, H. Phú Vang; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
43. Võ Văn Lồng, quê làng An Ninh, H. Hương Trà. Tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
44. La Kim Lợi, quê phố Hàng Bè, TP. Thuận Hóa; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
45. Võ Cân, quê làng Cầu Hai, H. Phú Lộc; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
46. Nguyễn Phúng, quê làng Hòa Xuân, H. Phong Điền; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
47. Trần Khương, quê làng Hòa Xuân, H. Phong Điền; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
48. Nguyễn Nguyên, quê làng Diêm Trường, H. Phú Lộc; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan
49. Lê Loi, quê làng An Nông, H. Phú Lộc; tử trận ngày 9/2/1946, tại mặt trận Phà Lan.
50. Nguyễn Cầu, quê làng Minh Hương, H. Hương Trà; tử trận ngày 24/3/1946, tại mặt trận Sê Pôn.
51. Võ Cẩn, sinh tháng 3/1921, quê làng Gia Cốc, H. Phú Lộc; tử trận ngày 9/3/1946, tại mặt trận Phà Lan.
IV. Các chiến sĩ hy sinh tại mặt trận Phan Rang, Phan Thiết và Lâm Viên:
52. Võ Hanh Phiếm, sinh ngày 25/3/1927, quê làng An Ninh Hạ, H. Hương Trà; tử trận ngày 10/11/1945, tại mặt trận Phan Thiết.
53. Bửu Túc, sinh ngày 17/12/1922, quê làng Vĩ Dạ; tử trận ngày 10/11/1945, tại mặt trận Phan Thiết.
54. Nguyễn Văn Vinh, sinh ngày 7/9/1920, quê làng Địa Linh, H. Hương Trà; tử trận ngày 11/11/1945, tại mặt trận Phan Thiết.
55. Trần Văn Xuân, sinh ngày 5/5/1923, quê làng Phú Cát, H. Hương Trà; tử trận ngày 11/11/1945, tại mặt trận Phan Thiết.
56. Tôn Thất Lương, sinh ngày 5/12/1925, quê làng Phú Cát, H. Hương Trà; tử trận ngày 11/11/1945, tại mặt trận Phan Thiết.
57. Bửu Thân, sinh ngày 14/5/1927, quê làng Kim Long, H. Hương Trà; tử trận ngày 11/11/1945, tại mặt trận Lâm Viên.
58. Phan Khang, sinh năm 1923, quê làng Phong Lai, H. Quảng Điền; tử trận ngày 11/3/1946, tại mặt trận Mã Trai (cách Phan Rang 12 cây số).
59. Tôn Thất Kỳ, sinh ngày 15/7/1922, quê xã Hương Phú, H. Hương Trà; tử trận ngày 31/1/1946, tại Đá Bàng (cách Phan Thiết 16 cây số).
V. Các chiến sĩ hy sinh tại mặt trận Ban Mê Thuột:
60. Đoàn Khiêm, quê làng Phú Bình, H. Hương Trà; tử trận ngày 30/1/1946.
61. Phan Đức Đôn, quê làng Vĩ Dạ, H. Phú Vang; tử trận ngày 30/1/1946.
62. Lê Văn Thu, quê ở Bến Ngự, Thuận Hóa; tử trận ngày 30/1/1946.
63. Đoàn Như Quê, ở khu vực ga Thuận Hóa; tử trận ngày 30/1/1946.
64. Nguyễn Chiêm, ở phường Phú Thọ, Thuận Hóa; tử trận ngày 30/1/1946.
65. Hồ Cân, quê làng Nguyệt Biều, H. Hương Thủy; tử trận ngày 30/1/1946.
Cuối mỗi ĐÀI DANH DỰ TỔ QUỐC GHI TÊN CÁC ANH, "Chiến Sĩ" đều ghi câu: "Chiến Sĩ xin nghiêng mình trước vong linh các anh. Chiến Sĩ lại yêu cầu các Ủy ban Nhân dân địa phương cùng đồng bào săn sóc đến các tang gia, để tỏ lòng biết ơn của chúng ta đối với những người chết vì Tổ quốc".
Dương Phước Thu
(sưu tầm, giới thiệu)
Nhận xét
Đăng nhận xét