CÁC BẬC NHÂN TÀI KHOA HỌC 21

(ĐC sưu tầm trên NET)

61-Thales
Thales_1557.jpg
-624-547
Hy Lạp
Toán Học

Thales - Người đầu tiên đo chiều cao kim tự tháp Ai Cập

Góc thiếu nhi | 07:16 Chủ Nhật ngày 03/06/2012
Thales là người mở đầu cho khoa học của nhân loại. Ông là triết gia đầu tiên trong số bảy nhà hiền triết Hy Lạp cổ đại. Thales đã tìm cách giải thích nguyên nhân sâu xa sự hình thành của thế giới tự nhiên, của vạn vật. Chính vì vậy, nhà hiền triết Hy Lạp Aristotle đã gọi Thales là người sáng lập ra triết học tự nhiên, cha đẻ của khoa học.

Ngày nay, hầu như chúng ta không có tài liệu nguyên bản nào của Thales. Các học thuyết, định lý của ông chỉ được ghi lại ở những thế hệ ngay sau ông. Thales sinh khoảng năm 625 hoặc 624 trước Công nguyên (TCN) và mất khoảng năm 547 hoặc 546 TCN. Ông sinh ra ở thành phố Miletos, một thành phố cổ trên bờ biển gần cửa sông Maeander của Thổ Nhĩ Kỳ. Với sự thông minh hơn người và tính ham học hỏi, ông đã đi nhiều nơi để học tập và tìm kiếm tri thức khoa học cho mình. Ông từng đến đảo Crete, Phoenici, Ai Cập... Ông đã học thiên văn học ở Babilon. Năm 585 TCN, Thales trở về thành phố Miletos và ông đã dự báo chính xác ngày 28-5 năm đó sẽ có nhật thực ở thành phố này. Trước đó, các nhà thiên văn đã biết rằng cứ sau khoảng 18 - 19 năm thì sẽ xảy ra hiện tượng nguyệt thực nhưng rất khó dự đoán được nhật thực vì tại một điểm cụ thể trên Trái đất rất ít khi nhìn thấy nhật thực. Dựa vào tính toán của mình, nhưng vì là lần đầu tiên nên Thales chỉ ước đoán như vậy.

Về toán học, ông đã đóng góp 6 định lý về hình học, trong đó có tính chất về góc, tam giác cân, đường tròn và tỷ lệ đoạn thẳng. Đây được coi là những định lý cơ bản của hình học, làm cơ sở cho các nhà toán học sau ông tiếp tục phát triển bộ môn hình học. Bằng công thức đồng dạng, ông đã đo được chiều cao của các kim tự tháp Ai Cập căn cứ vào bóng của chúng trên mặt đất.

Thales được coi là người đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu về sự sống ngoài Trái đất, một sự khởi nguồn lâu dài mà cho đến ngày nay, loài người vẫn đang ra sức tìm hiểu nhưng vẫn chưa có kết quả.

Tên ông được đặt cho một miệng núi lửa trên Mặt trăng.

Giải bài kỳ trước: Tỷ lệ để 4 người bạn thân có cùng sinh nhật là 1/49027896.

Câu hỏi kỳ này: Bạn có biết định lý nổi tiếng nào của Thales không?

Câu trả lời gửi về chuyên mục "Toán học - học mà chơi", tòa soạn Báo Hànộimới, 44 Lê Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Vũ Kim Thủy - Hoàng Trọng Hảo
NHÀ TOÁN HỌC TALÉT
Thalès de Milet hay theo phiên âm tiếng Việt là Ta-lét (tiếng Hy Lạp: Θαλῆς ὁ Μιλήσιος; khoảng 624 TCN – khoảng 546 TCN), là một triết gia, một nhà toán học người Hy Lạp sống trước Socrates, người đứng đầu trong bảy nhà hiền triết của Hy Lạp. Ông cũng được xem là một nhà triết gia đầu tiên trong nền triết học Hy Lạp cổ đại, là "cha đẻ của khoa học". Tên của ông được dùng để đặt cho một định lý toán học do ông phát hiện ra. 
Mặc dù chúng ta biết rằng Thales sinh ra và sống tại Miletus, trên bờ biển của những vùng bây giờ thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, chúng ta biết rất ít về cuộc sống của ông. Không có bất kỳ tác phẩm nào của ông, nếu thực sự ông có soạn ra, còn sót lại. Tuy nhiên, danh tiếng của ông như là một trong những nhà tư tưởng Hy Lạp quan trọng thời kỳ đầu dường như rất xứng đáng, và ông được đề cập chi tiết bởi cả Aristotle và Diogenes Laertius, người viết tiểu sử của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ thứ 3. 
Những bằng chứng cho thấy là một nhà triết học Thales đã tích cực tham gia chính trị và là một thương gia thành đạt. Người ta thường hay kể câu chuyện sau đây về Thales: theo quan sát, Thales suy luận cụ thể điều kiện thời tiết, mà không cầu khẩn với các vị thần, dẫn đến một vụ mùa tốt. Bằng việc dự đoán năng suất cao của ô liu trong một năm, ông cho biết đã mua tất cả các dụng cụ ép ô liu ở địa phương, sau đó thu lợi bằng cách cho thuê chúng để đáp ứng nhu cầu gia tăng.

Ông được cho là đã đi du lịch rộng rãi trên khắp miền đông Địa Trung Hải, và trong khi đến thăm Ai Cập, ông đã học được hình học ứng dụng (practical geometry) mà đã trở thành cơ sở lập luận suy diễn của ông. Tuy nhiên, trên tất cả Thales là một người thầy đầu tiên của các triết gia phái Milesian. Anaximander, học trò của ông đồng thời mở rộng các giả thuyết khoa học của ông, và lần lượt trở thành cố vấn cho Anaximenes, người được cho là đã dạy nhà toán học Pythagoras.

Trong thời kỳ cổ đại (khoảng giữa thế kỷ thứ 8-6 TCN), các dân tộc của bán đảo Hy Lạp dần dần sắp xếp vào một nhóm các thành bang. Họ đã phát triển một hệ thống thứ tự các chữ cái cũng như sự khởi đầu của những gì được công nhận là triết học phương Tây. Nền văn minh trước đây đã dựa vào tôn giáo để giải thích hiện tượng trong thế giới xung quanh họ; cho đến lúc này một hạt giống mới của các nhà tư tưởng đã nảy chồi, những người đã cố gắng tìm kiếm lời giải thích hợp lý và tự nhiên.

Người đầu tiên trong số những nhà tư tưởng khoa học mới mà chúng ta biết được là Thales thành Miletus. Không còn tác phẩm sót lại nào của ông nhưng chúng ta biết rằng ông đã nắm bắt tốt hình học và thiên văn học, và được cho là đã dự đoán nhật thực toàn phần của mặt trời vào khoảng năm 585 TCN. Tư duy thực tế này (practical turn of mind) lần lượt khiến ông tin rằng các sự kiện trên thế giới không phải do sự can thiệp siêu nhiên, nhưng do tự nhiên gây ra mà lý luận và sự quan sát sẽ cho biết.

Chất nền cơ bản
Thales cần thiết lập một nguyên lý đầu tiên để từ đó mà làm việc, vì vậy ông đặt ra câu hỏi, “Chất liệu cơ bản của vũ trụ là gi?”. Ý tưởng cho rằng tất cả mọi thứ trong vũ trụ có thể được tinh giản (reduce) đến mức tận cùng (ultimately) với một chất duy nhất là lý thuyết của “nhất nguyên luận”, Thales và những người theo ông là những người đầu tiên đề xuất “nhất nguyên luận” trong triết học phương Tây.

Lý do Thales cho rằng các chất liệu cơ bản của vũ trụ phải là một cái gì đó mà trong đó tất cả mọi thứ khác có thể được hình thành, cũng như cần thiết cho cuộc sống và có khả năng chuyển động và do đó biến đổi. Ông nhận xét rằng nước rõ ràng là cần thiết để duy trì mọi dạng sống, nó di chuyển và thay đổi, mang các hình thức khác nhau - từ dạng lỏng đến rắn và hơi. Vì vậy, Thales kết luận rằng vạn vật, bất kể các đặc điểm rõ ràng của nó, phải có nước ở một số giai đoạn chuyển đổi.

Thales cũng lưu ý rằng tất cả các vùng đất rộng dường như đi đến một kết thúc tại mép nước. Từ điều này ông suy luận rằng toàn bộ đất phải được thả nổi trên một chiếc “giường” nước (bed of water), mà từ đó nó đã xuất hiện. Khi xảy ra bất cứ điều gì gây ra gợn sóng hoặc chấn động trong giường nước này, Thales cho rằng, chúng ta kinh nghiệm chúng như là động đất.

Tuy nhiên, sự thú vị trong chi tiết các giả thuyết của Thales là chúng [các giả thuyết này] không phải là lý do chính giải thích tại sao ông được xem là một nhân vật quan trọng trong lịch sử triết học. Tầm quan trọng thực sự của ông là ở chỗ ông là nhà tư tưởng đầu tiên được biết đến đã tìm kiếm trong tự nhiên câu trả lời hợp lý cho các câu hỏi cơ bản, chứ không gán cho các đối tượng và các sự kiện các ý tưởng bất chợt của các vị thần thất thường. Bằng cách làm như vậy, ông và các nhà triết học sau này của phái Milesia đặt nền móng cho khoa học tương lai và tư tưởng triết học xuyên suốt thế giới phương Tây.
 
Triết học Hy Lạp cổ đại: Thales

Thales - Nhà toán học có nhiều đóng góp cho thiên văn học

Chúng ta thường nhắc đến Thales như một trong những nhà triết gia, nhà toán học đầu tiên của Hi Lạp, ít ai biết rằng ông còn là người có rất nhiều đóng góp cho thiên văn học.
Mi lơ là cái nôi của nền triết học Hi Lạp. Đây là một thành phố giàu mạnh nằm bên bờ biển của vùng Tiểu Á của thời bấy giờ. Mi lơ nằm gần vương triều Lydia giàu có, là nơi giao nhau của các nền văn hóa Hi Lạp, Lưỡng Hà và Ai Cập cổ đại. Tại đây, Thales(Θαληζ Μιλήσιος) được sinh ra vào năm 624 TCN. Ông là con trai của ExamyesCleobuline. Quê hương của họ có thể là Mi lơ, nhưng cũng có tài liệu cho rằng quê hương của họ là Phoenician. Có thể vì mối liên hệ đó mà Thales có thể đưa kĩ năng, kinh nghiệm hàng hải của Phoenician về cho Mi lơ. Trong một cuốn sách viết về hàng hải, ông đã hướng dẫn chi tiết phương pháp định hướng đi biển theo chòm sao Tiểu Hùng tinh.

Thales được ghi nhận là một trong những nhà Triết học tự nhiên đầu tiên của phái Mi lơ, ông còn là một nhà toán học, nhưng lại có nhiều đóng góp cho Thiên văn học. Ông là một trong bảy nhà hiền triết nổi danh của Hi Lạp cổ đại : SolonAthenes, ChilonSparte, BiasPriene, CleobulusLindoss, PittacusMitylenePeriander Corinth.
Thales đã từng đến đảo Crete, Phoenici, Ai Cập, … để học tập và tìm kiếm tri thức khoa học cho mình. Ông đã học Thiên văn học ở Babilon. Khi quay trở về MI lơ, ông đã nổi tiếng nhờ dự báo đúng năm xảy ra Nhật Thực. Lúc đó nhân loại đã nhận thức được rằng sau khoảng 18 - 19 năm nguyệt thực sẽ lặp lại giống y như lần trước (tính chu kì) nhưng rất khó dự đoán được Nhật Thực, vì tại một điểm trên Trái Đất rất ít khi nhìn thấy Nhật Thực. Nên Thales chỉ ước đoán khoảng năm đó sẽ có Nhật Thực xảy ra.
Các tác phẩm của Thales hầu như bị thất lạc. Quan điểm triết học của Thales được Aristotle viết trong tác phẩm Metaphysics như sau: “Mọi vật đều là nước”. Thalestin rằng Trái Đất bằng phẳng nổi trên mặt đại dương nước mênh mông không có giới hạn, còn mọi vật đều có cội nguồn từ nước. Và do đó Thales giải thích hiện tượng động đất trên cơ sở đó, đây là lần đầu tiên một hiện tượng này trên cơ sở ý chí chứ không phải bằng phương pháp siêu nhiên.
Thales là người đưa ra năm định lí cơ bản của hình học :
1.Góc chắn nửa đường tròn thì bằng một vuông.
2.Đường kính chia đôi đường tròn thành hai phần bằng nhau.
3.Hai góc đáy của tam giác cân thì bằng nhau.
4.Hai tam giác nếu có hai cặp góc đối và cặp cạnh tương ứng bằng nhau thì bằng nhau.
5.Hai góc đối đỉnh thì bằng nhau.
Các kiến thức hình học đó đã giúp ông rất nhiều trong việc nghiên cứu thiên văn. Ban đầu ông chỉ có ý định đo chiều cao của các vật thể không thể đo bằng các phương pháp trực tiếp như Kim tự tháp, đo khoảng cách lớn như khoảng cách các tàu tên biển … Cũng nhờ quan sát thực tế mà ông tìm ra khái niệm và tính chất của hai tam giác đồng dạng.
Định lý Thales :


* Định lý Thales: Hai đường thẳng song song định ra trên hai đường thẳng giao nhau những đoạn thẳng tỷ lệ.

Thales ra đi rất nhẹ nhàng khi ông đang xem biểu diễn điền kinh trong kì thi Olempia ở Mi lét, đó là vào năm 547 TCN. Khán giả vẫn tưởng vẫn tưởng ông đang chìm đắm trong giấc ngủ bình yên và lặng lẽ.
Để tôn vinh và tưởng nhớ những đóng góp của ông cho Thiên văn học, người ta lấy tên ông để đặt cho miệng núi lửa có tọa độ 61,5 vĩ độ bắc, 50,3 kinh độ đông trên Mặt Trăng, miệng núi này rộng 32km, sâu 1,8km.

62-Guglielmo Marconi
Guglielmo_Marconi_650.jpg 
1874-1937
Ý
Vật Lý
 

Guglielmo Marconi - Cha đẻ của vô tuyến điện

Đăng lúc: Thứ năm - 20/01/2005 16:02 - Người đăng bài viết: Administrator

Guglielmo Marconi - Cha đẻ của vô tuyến điện

Ngày 25 tháng 4 năm 1874, tại vùng Bologne nước ý có một cậu bé chào đời, đó là Giuglielmo Marconi - người sau này bằng phát minh của mình đã tạo nên một cuộc cách mạng trong công nghiệp truyền thông.

Gia đình Marconi khá giàu có, cha cậu là một điền chủ, họ sống trong ngôi biệt thự lộng lẫy ở Pontechio, mùa đông họ chuyển đến sống ở Florence - nơi có khí hậu ấm áp hơn. Guglielmo được chăm sóc rất đầy đủ, cậu có các gia sư riêng nhưng cậu rất lười học và không bao giờ được gọi là một đứa trẻ ngoan. Tuy nhiên cậu cũng có hai nét tính cách mà sau này tỏ ra hữu ích trong công việc, đó là cậu có thể tập trung cao độ để làm việc trong một thời gian dài và cậu có thể thuyết phục được người khác tin vào những cái cậu làm. ở trường học cậu chỉ thích các môn hoá học, vật lý và đặc biệt là điện.

Trước khi Marconi ra đời 10 năm - năm 1864, một nhà bác học xứ ê-cốt là James Clerk Maxwell đã đưa ra lý thuyết: Sự biến đổi dòng điện trong một vật dẫn sẽ gây ra một sự phát sóng trong không trung, giống như một hòn đá thả xuống nước tất sẽ sinh ra những vòng sóng lan toả ra xung quanh. Những sóng ấy vừa là từ, lại vừa là điện nên người ta gọi nó là sóng điện từ. Chúng có thể được dò ra nhờ các thiết bị điện. Maxwell còn nêu ra ý kiến rằng những tia sáng chỉ là một dạng có thể nhìn thấy được của các sóng điện từ. Tất cả các sóng điện từ đều tự lan truyền với tốc độ của ánh sáng. Điều đó sau này đã được chứng minh hoàn toàn chính xác.

Vào tuổi 20, Marconi lao vào nghiên cứu khoa học. Marconi say mê nghiên cứu lý thuyết của Maxwell và nhất là các công trình của Heinrich Hertz - một nhà khoa học Đức. Hertz không cần dây dẫn đã phóng được sóng ête (điện từ) trên một khoảng cách vài mét và ông đã dò ra được chúng. Từ việc làm của Hertz, Marconi nảy ra ý định: với máy điện báo và điện thoại, người ta có thể phát đi qua dây dẫn những thông tin dưới dạng những ký hiệu điện. Vậy thì người ta có thể phát đi những sóng điện từ cũng mang những thông tin ấy dưới dạng ký hiệu được không? Thế là từ đó Marconi nghiên cứu tập trung vào ý tưởng “điện báo vô tuyến” đến khi thành công.

Quá trình nghiên cứu Marconi gặp thuận lợi vì được thừa hưởng một số thành tựu của những nhà bác học đi trước. Năm 1890, nhà vật lý người Pháp là Edouard Branly đã nghĩ ra máy “liên kết bằng mạt” cho phép người ta có thể thu được những ký hiệu vô tuyến. Máy của Branly là một máy dò sóng héc (điện từ) được cấu tạo bởi một ống thuỷ tinh chứa mạt kim loại và hai đầu được đóng kín bằng hai cực điện. Dưới tác động của sóng, các hạt kim loại đó tập hợp lại thành mạch và trở thành vật dẫn điện. Marconi đã dùng hai gian phòng rộng trên gác xép của biệt thự để làm thí nghiệm. Cậu thử lại rồi nâng cao những thí nghiệm của Hertz và những người khác. Những thiết bị chủ yếu trong phòng thí nghiệm đều do Marconi tự chế tạo. Trong gia đình chỉ duy nhất bà mẹ hiểu và khích lệ công việc của cậu, cũng chỉ có bà mới được vào phòng thí nghiệm. Vào một đêm tháng 12 năm 1895, Marconi đánh thức mẹ dậy và khoe với bà thành công đầu tiên của cậu. Phía cuối của gian phòng đặt một máy phát sóng vô tuyến, còn ở đầu kia là một máy thu mắc nối với một cái chuông nhỏ. Khi Marconi ấn vào nút điện đặt ở máy phát, máy phát ra những sóng điện từ và lập tức ở đầu kia máy thu nhận được chúng và tiếng chuông reo lên. Mẹ cậu không ngớt lời ca ngợi thành công này còn ông bố thì thản nhiên cho rằng cậu mất thời gian vào một việc lẩm cẩm, theo ông để làm cho chuông reo có nhiều cách đơn giản hơn nhiều, không việc gì cần đến hai cỗ máy cồng kềnh kia.

Sau thành công đầu tiên, Marconi chuyển qua chặng đường nghiên cứu tiếp theo. Cậu tiến hành các thí nghiệm ở ngoài trời, giữa khu vườn của biệt thự. Bố cậu không tán thành công việc này bởi ông sợ có người sẽ bị vấp ngã vì vướng phải những sợi dây cáp giăng mắc lằng nhằng ở trong vườn. Marconi đã chế ra chiếc máy phát mạnh hơn và máy thu nhạy hơn. Máy phát mà Marconi sáng chế gồm một máy dao động điện nhanh, gắn với dòng điện có hai cực đặt sát nhau, ở giữa phóng ra những tia sáng tạo sóng. Trên một cực, Marconi mắc một sợi dây nối với một xilanh bằng kim loại, cực kia nối với một tấm kim loại chôn dưới đất. Tia sáng càng lớn thì sóng vô tuyến càng mạnh. Sóng vô tuyến kết tụ những phân tử các-bon hay những phân tử kim loại chứa trong chiếc hộp hình ống để cho dòng điện chạy qua. Marconi cũng cải tiến cả anten. Cậu đã thử nghiệm trên nhiều cự li, nhiều vị trí đặt, nhiều kiểu cấu trúc anten và ở những chiều cao khác nhau để chỉnh anten làm sao cho các sóng có thể lan truyền được xa nhất. Mỗi lần cải tiến lại cho phép Marconi và nhóm công nhân giúp việc của cậu dò ra được những sóng vô tuyến (hay sóng hec) trên một khoảng cách ngày càng xa, mới đầu còn trong khu vườn biệt thự, sau đó vượt khỏi vườn. Máy có thể truyền đi những thông tin được mã hoá bằng ký hiệu Moóc, nghĩa là thay chữ cái bằng các gạch ngang và dấu chấm. Cuối cùng ngay cả ông Giuseppe Marconi cũng bị cuốn hút vào công việc của cậu con trai. Nhóm của cậu con với bộ đồ nghề gồm những cuộn bô bin, những ống thuỷ tinh và dây điện đã có thể phát đi những sóng vô tuyến và thu được nó bằng một máy thu đặt tít phía bên kia đồi, khuất hẳn khỏi tầm nhìn. Đến đầu năm 1896 máy phát và máy thu có thể đặt cách nhau xa tới 2 km. Marconi đã hoàn thành được thiết bị đầu tiên về điện báo không dây. Cậu có thể phát đi những bức điện bằng ký hiệu Moóc trên những khoảng cách mỗi ngày một xa. Thành công này của Marconi là một cuộc cách mạng vĩ đại của công nghiệp truyền thông.

Năm 1896, Marconi đến London, ông đã gặp William Preece là kỹ sư trưởng của sở bưu điện London. Preece đã đứng ra tổ chức một cuộc giới thiệu về điện báo không dây của Marconi và đã thành công tốt đẹp. Cũng trong năm này Marconi đã nhận được bằng sáng chế đầu tiên về thiết bị vô tuyến điện báo. Giấc mơ của Marconi là tăng thêm tầm xa của sóng vô tuyến. Ông tiếp tục tiến hành những thí nghiệm để cải tiến thiết bị. Vào những năm 1897 - 1898, máy vô tuyến điện đã bước vào giai đoạn ứng dụng trong thực tế. Một trạm vô tuyến đã được xây dựng ở Alum Bay trên đảo Wight với cột tín hiệu cao 37m. Năm 1898, Marconi đã đặt một hệ thống vô tuyến trên bờ biển phía Bắc Ailen, nó được ghép với ngọn hải đăng Rathlin Island, hệ thống thứ hai được dựng lên ở Ballycastle. Từ đó những tàu biển đi lại ngoài khơi có thể nhận được những thông tin từ đất liền. Vào tháng 7 năm 1898, tờ Tin nhanh Dublin của Ailen là tờ báo đầu tiên nhận được tin tức bằng vô tuyến. Trong một cuộc đua thuyền buồm ở biển Island, Marconi đích thân đứng ra đưa tin. Ông theo đoàn đua trên một tàu kéo và điện báo những tin tức của cuộc đua cho một trạm thu đặt ở Kingstown. Cũng trong năm 1898, thái tử xứ Uên (sau này là vua Edouard VII) do bị đau đầu gối nên ở lại trên du thuyền, nữ hoàng thì ở đảo Wight. Để tiện liên lạc giữa hai nơi, Marconi đợc mời đến đặt một trạm vô tuyến trên du thuyền và một trạm nơi ở của nữ hoàng. Trong 16 ngày nữ hoàng và thái tử đã trao đổi với nhau khá dễ dàng khoảng 150 bức điện. Ngày 3/3/1899, một con tàu chạy bằng hơi nước bị mắc cạn ở Goodwin Sands, tàu hải đăng đánh điện về đất liền, lập tức những tàu cứu hộ được điều đến ứng cứu. Tất cả thuỷ thủ đoàn và chuyến hàng trị giá trên 50.000 bảng Anh đã được cứu thoát.

Ngày 1/3/1899, từ một trạm phát ở Wimereux của Pháp, bức điện đầu tiên bằng vô tuyến điện đã được phát đi, vượt qua biển Manche để tới nước Anh (hai trạm đặt cách nhau 51 km). Cuộc thử nghiệm thành công đã gây ấn tượng mạnh mẽ với chính phủ các nước về tác dụng của vô tuyến. Rất nhiều nước đã đặt hàng vô tuyến điện báo. Thành công này đã khiến Marconi có ước muốn những sóng vô tuyến có thể vượt Đại Tây Dương. Marconi và nhóm của ông bắt tay vào cải tiến các thiết bị vô tuyến thêm một bước. Năm1900, ông nhận thêm bằng sáng chế cho những máy phát và máy thu có gắn thêm một hệ thống điều chỉnh mới và chỉ có một anten có khả năng phát và thu trên nhiều tần số khác nhau. Tháng 7 năm 1900, ông cho xây một trạm vô tuyến có công suất mạnh ở Poldhu (Anh), một trạm thu khác được xây dựng ở Saint Johns thuộc phía đông Canada ở bên kia Đại Tây Dương, cách trạm phát hơn 2700 km. Ngày trọng đại đã đến: Ngày 12 tháng 12 năm 1901, Marconi nghe thấy ba tiếng “tic...tic...” yếu ớt trong máy thu từ nước Anh truyền đến. Những tiếng tic... tic lặp đi lặp lại, đó chính là chữ S trong tín hiệu Moóc. Chữ S được lựa chọn vì nó dễ nhận biết. Thế là vô tuyến đã vượt được Đại Tây Dương, tin này thật bất ngờ và kinh ngạc, ngay cả nhà phát minh vĩ đại của nước Mỹ Thomas Edison cũng phải hỏi lại: “Có thể ông thu phải những tín hiệu nhiễu chăng?”.

Tuy nhiên vô tuyến giữa hai châu lục lúc này hoạt động rất yếu, không thể bằng hệ thống cáp ngầm đặt dưới đáy biển. Marconi hiểu rằng nếu không cải tiến điều này thì vô tuyến không thể cạnh tranh được với hệ thống điện báo bằng cáp ngầm. Ông và các đồng sự bắt tay vào cải tiến thiết bị, họ phải tạo ra được những tia sáng mạnh có bước sóng dài 5 cm. Giáo sư Ambrose Fleming, một đồng nghiệp của Marconi đã nghĩ ra một biến áp kép để làm cho điện áp mạnh lên rất nhiều trước khi phát. Sang năm 1903, việc truyền tin giữa hai châu lục tiến hành tốt, các bức điện đã chuyển một cách dễ dàng. Thomas Edison rất ca ngợi thành tựu của Marconi, ông khẳng định người ta sẽ khó mà thấy hết được tầm cỡ công trình của Marconi.

Năm 1906, ứng dụng kỹ thuật điều biên (AM), nhà vật lý người Mỹ Reginald Fessenden đã truyền đi qua vô tuyến tiếng nói của mình đến các tàu đang xuôi ngược trên Đại Tây Dương, đây là một tiến bộ lớn bởi trước đó vô tuyến mới chỉ chuyển được những thông tin điện báo bằng ký hiệu Mooc nghĩa là bằng các gạch và dấu chấm. Sau đó kỹ thuật vô tuyến nhờ phát minh ra đèn 3 cực của Lee de Forest đã có bước tiến lớn. Đèn này có thể khuếch đại những tín hiệu điện yếu mà máy nhận được. Cho đến lúc bấy giờ dòng điện có được là dòng điện sinh ra trong anten bởi các sóng vô tuyến, nó rất yếu và chỉ đủ để chạy một máy nghe. Nay với đèn 3 cực, những tín hiệu ấy được khuếch đại và có thể chạy qua loa phóng thanh mạnh.

Với những phát minh của mình, Marconi đã lên đến tột đỉnh vinh quang. Năm 1909, ông đã được trao giải Nobel về vật lý vì đóng góp to lớn của ông về điện báo không dây. Càng ngày phát minh của Marconi càng đóng vai trò to lớn trong đời sống con người. Năm 1912, tàu Titanic bị chìm làm 1500 người chết, 700 người khác nhờ có vô tuyến phát đi tín hiệu cấp cứu đã được cứu thoát. Trong chiến tranh vô tuyến đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc liên lạc, truyền tin tức. Vào những năm 20, đài phát thanh - một ứng dụng của vô tuyến đã đi vào đời sống con người. Những năm 1950-1960, truyền hình bắt đầu tiếp bước cho vô tuyến bằng cách sử dụng sóng vô tuyến. Ngày nay sóng vô tuyến có mặt ở khắp nơi: vô tuyến truyền hình, máy thu thanh, điện thọai di động, điều khiển từ xa, Rada... Nhờ Marconi mà thế giới bước vào kỷ nguyên của thông tin vô tuyến điện.

Anh Duy
Nguồn: Steve Parker, Giuglielmo Marconi và vô tuyến điện, NXB Kim Đồng, 2001.
--------------------

Vô tuyến vòng quanh Trái đất

Một số nhà khoa học không tin Marconi có thể chuyển những tín hiệu vô tuyến vượt Đại Tây Dương. Vì sóng vô tuyến dễ chuyển theo đường thẳng như ánh sáng, do đó chúng sẽ bị chặn lại bởi đường cong của Trái đất và sẽ mất đi trong không trung.

Nhưng thực tế thì những tín hiệu hoàn toàn có thể vượt Đại Tây Dương nhờ vào một tầng khí quyển trên cao, tầng này phản xạ những sóng vô tuyến như một tấm gương. Đó là tầng điện ly, trong đó vật chất tồn tại dưới dạng ion nhiều hơn là dưới dạng nguyên tử.

Tầng điện ly phản xạ những sóng vô tuyên khi chúng lan truyền quanh bề mặt uốn cong của Trái đất.

Tầng điện ly nằm giữa độ cao 60 đến 600 km. Về đêm, tầng này vận động nới rộng tầm phản xạ làm cho sóng lan truyền được xa hơn, như nhận xét của Marconi.

Tiếng người nói trên sóng điện

Năm 1906, ứng dụng kỹ thuật AM (điều biên), lần đầu tiên nhà vật lý người Mỹ Reginald Fessenden (1866 - 1932) đã truyền qua vô tuyến điện tiếng nói của ông cùng nhạc của Haendel đến các tàu đang ngược xuôi trên Đại Tây Dương. Đó là một tiến bộ lớn bởi trước đó vô tuyến mới chỉ chuyển được thông tin điện báo bằng ký hiệu Moóc (những gạch và dấu).

Sóng điện từ

Sóng điện từ tạo thành một dạng năng lượng. Chúng tự lan truyền từ nguồn của chúng dưới dạng kết hợp giữa điện và từ. Chúng xuyên qua không trung, qua nhiều vật liệu và vượt cả khoảng cách giữa các vì sao.

Chúng ta không thể nghe được chúng, cảm nhận được chúng nhưng chúng ta có thể quan sát được một số sóng điện từ: những tia sáng mà chúng ta nhìn thấy là một dạng của những tia điện từ, hay cảm nhận một số sóng dưới dạng nhiệt.

Sóng điện từ di chuyển với tốc độ của ánh sáng (299.792 km/s). Trong một giây, chúng có thể chu du quanh Trái đất tới 7,5 vòng.

Sóng vô tuyến được phân biệt bởi chiều dài bước sóng của chúng. Đó là khoảng cách giữa một điểm của sóng này và một điểm đồng nhất của sóng tiếp theo.

AM và FM

Lời nói và âm nhạc là những sóng âm thanh có thể biến đổi. Để đưa chúng vào vô tuyến, những sóng này phải điều biến một tín hiệu điện, tín hiệu này sẽ tải thông tin (lời nói, âm nhạc) đó đi.

AM: Điều biến biên độ

Với sự điều biến biên độ (gọi tắt là điều biên) như Fessenden đã sử dụng, những sóng vô tuyến sẽ thay đổi biên độ tuỳ theo những tín hiệu âm thanh. Người ta thường sử dụng điều biên với những biên độ nhỏ, biên độ lớn và sóng ngắn.

FM: Điều biến tần số

Từ năm 1925, Edurin Amstrong (1890 - 1954) đã nghĩ tới một thiết bị cho phép làm thay đổi tần số của những sóng vô tuyến theo nhịp độ của những thông tin. Đó là điều biến tần số hay FM (gọi tắt là điều tần), có cái lợi là khử được phần chủ yếu của nhiễu.

Vi sóng (hay vi ba)

Đó là những sóng điện từ giống như sóng vô tuyến nhưng có bước sóng rất ngắn, khoảng từ 30 cm đến 1 mn. Marconi đã tiên đoán rằng các dải sóng chưa được thăm dò ấy có thể sẽ được dùng trong thông tin ở cự li ngắn.

Hiện nay, những vi sóng mới chỉ đặc biệt được sử dụng trong rađa. Chúng chuyển tải những chương trình truyền hình. Máy phát và máy thu đặt cách nhau xa nhất không quá 50 km. Chùm sóng của chúng nối mặt đất với vệ tinh thông tin. Ngày nay, chúng còn được sử dụng để làm tan giá hay làm chính thức ăn trong các lò vi sóng.
Nguồn: Steve Parker, Giuglielmo Marconi và vô tuyến điện, NXB Kim Đồng, 2001.

63- Pierre Curie
Pierre_Curie_680.jpg
1859-1906
Pháp
Vật Lý, Hóa Học

Pierre Curie - Cuộc đời và sự nghiệp

Pierre Curie sinh ngày15/05/1859 và mất ngày 19 /04/1906 tại Paris. Người ta biết ông nhờ những công trình về phóng xạ, từ trường và tính áp điện ( piézo-électricité). Ông cùng vợ, Marie Skłodowska Curie, đi tiên phong trong việc nghiên cứu hiện tượng bức xạ. Hai ông bà Pierre và Marie nhận được  giải Nobel Vật lý năm 1903, cùng với Henri Becquerel.


Tiểu sử:

Pierre Curie là con của y sĩ đạo Tin lành Eugène Curie (1827-1910) và  bà Sophie-Claire Depouilly (1832-1897). Ông cùng người anh cả, Jacques (1856-1941)  phát hiện  ra áp điện (piézo-électricité). Ông nội của Pierre, Paul Curie (1799-1853), bác sĩ y khoa, là một nhà từ thiện dấn thân, kết hôn với Augustine Hofer, con gái của John Hofer  cũng là cháu ngoại của Jean-Henri Dollfus, một nhà công nghiệp lớn  cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19.

Pierre không đi học trường Tiểu học lẫn Trung học vì luật Ferry về cưỡng bách giáo dục  ở Pháp ra đời năm 1881. Cậu được cha mẹ dạy, sau đó nhờ ông Bazille, bạn của gia đình dạy bổ sung cho cậu cơ bản toán học và toán đặc biệt (maths spe), vì vậy cậu bé Pierre có nhiều khả năng  phát triển  trí tuệ  để hướng tới khoa học. Năm 1875, Pierre đậu tú tài Khoa học lúc chỉ mới 16 tuổi và   ghi danh vào phân khoa khoa học tại Đại học Paris. Hai năm sau, cậu đỗ Cử nhân vật lý.  Tháng Giêng 1878 Pierre nhận một chân giảng nghiệm viên phòng thí nghiệm do giáo sư Paul Desain, một trong hai giáo sư của khoa vật lý.

Trước khi nghiên cứu và và thử nghiệm trên các chất phóng xạ, Pierre Curie nghiên cứu  với anh, Jacques, về tính chất của các tinh thể. Năm 1880, hai anh em khám phá một hiện tượng quan trọng, áp lực điện: một áp lực nhất định trên một số tinh thể sẽ tạo ra một điện thế (potentiel électrique) . Năm 1881, Gabriel Lippman (1) công bố một bài báo và hai anh em Curie đã chứng minh được hiệu ứng áp điện ngược: các tinh thể có thể bị biến dạng khi bị tác dụng của một điện trường. Năm 1883 ông được bổ nhiệm công tác tại Trường Cao đẳng Vật Lý và Hóa Học Công Nghiệp  Paris (Ecole supérieure de Physique et de Chimie Industrielles của Paris). Tại đây ông tập trung nghiên cứu tính đối xứng và sự lặp lại trong môi trường pha lê, trước khi đi sâu về từ học. Năm 1895 ông trình luận án về từ tính trên các vật thể theo những nhiệt độ khác nhau và kết luận: vật rắn có tính từ, khi bị nung nóng trên một nhiệt độ nào đó, sẽ mất từ tính. Sau này người ta lấy tên ông để đặt cho luật này: luật Curie (2). Năm 1895, Pierre Curie được bổ nhiệm làm giáo sư điện học và từ học tại trường  Cao đẳng vật lý và hóa học Công nghệ Paris Năm 1905 Paul Langevin (1872-1946), học trò của của Pierre, đã cung cấp các lý thuyết giải thích luật Curie. Cũng trong năm này, ông lập gia đình với Maria Sklodowska, cô sinh viên người Ba Lan đến Paris học tại trường Sorbonne từ năm 1892. Marie rất quan tâm đến những khám phá của Wilhelm Roentgen trên tia X và các công trình của Henri Becquerel, người đầu tiên phát hiện ra chất phóng xạ từ năm 1896. Do đó Pierre Curie bỏ công trình nghiên cứu về từ tính để cùng vợ nghiên cứu chất uranium.
Đám cưới Marie và Pierre Curie, Wilhelm Roentgen
Paul Langevin
Gabriel Lippman, Henri Becquerel, Paul Langevin


 

Pierre và Marie Curie trong phòng thí nghiệm
 

Sự khám phá polonium và radium

Bà dùng tĩnh điện kế (électromètre = máy đo électron. Dòng điện phát sinh do sự di chuyển của điện tử) mà Pierre đã hiệu chính, rất thích hợp với những nghiên cứu của bà. Bà thử xác định bằng nhiều thí nghiệm phân tích xem có phải chỉ một mình quặng Uranium mới có sự phát xạ không. Bà khám phá ra rằng những hợp chất của Thorium phát ra cùng một loại tia.
Khoáng Uranium (Pechblende) còn hoạt động gấp bốn lần dự tính. Marie kết luận rằng nếu quặng Uranium hoạt động mạnh như thế là do sự hiện diện của những yếu tố gọi là Radioactif (chất phóng xạ) là những chất có đặc tính là tự biến ra chất khác rồi phát ra năng lượng trong quặng, nhưng với một lượng rất nhỏ nên khó thấy được bằng phương pháp phân tích hóa học cổ điển. Lần đầu tiên  thuật ngữ "radioactivité"(activity, phóng xạ) được sử dụng.

Lúc bấy giờ Pierre cộng tác với Marie. Họ lao vô công việc phân chia chất hóa học một cách nặng nhọc và tỉ mỉ. Thời kỳ đó cuộc nghiên cứu không được tài trợ như ngày nay, nhưng căp vợ chồng trẻ đã xin được một kho trống mà cách nhiệt rất kém, ẩm thấp trong khi mưa gió tuyết bất thường. Ông bà Curie làm việc với một người giúp việc tên André Debierne. Nhờ máy đo tĩnh điện, họ lấy được số đo phóng xạ trong những phần tạo ra do sự phân rã chất hóa học.

Tháng 7 năm 1898 họ khám phá ra chất phóng xạ đầu tiên, đặt tên là Polonium, để kỷ niệm quê hương của Marie.

Sự phân tích chất Baryum thu được trong lúc sử dụng khoáng uranium đã cho phép họ chứng tỏ rắng có một nguyên tố phóng xạ thứ hai hiện diện với một lượng rất nhỏ mà họ gọi là Radium và công bố sự khám phá của họ năm 1898 vừa nhấn mạnh rằng sự phóng xạ của chất này rất cao. Họ đo được cường độ bức xạ của nguyên tử polonium và radium rồi đưa ra một  phương pháp hóa xạ (radiochemical) để xác định chính xác nguồn gốc của bức xạ từ quặng uranite. Phương pháp này được dùng để cô lập chất đã phát ra bức xạ. Lần đầu tiên  nguyên tử radium và polonium được chứng minh rằng chúng tồn tại nhưng không ổn định.
Họ cũng lập ra một bảng ghi tất cả những nguyên tố phóng xạ được biết vào năm 1910. Những đặc điểm chung để trên cùng một hàng.
 

Những nguyên tố phóng xạ được biết năm 1910

  Thorium Uranium
Actinium MésoThorium 1 RadioUranium
  MésoThorium 2 Uranium X
RadioActinium RadioThorium Ionium
Actinium X Thorium X Radium
    Radium A
Actinium A Thorium A Radium B
Actinium B1 Thorium B Radium C
Actinium B2 Thorium B Radium C
    Radium D
Actinium C Thorium D Radium E
    Radium F (Polonium

Pierre và một trong những học sinh của ông  khám phá về năng lượng hạt nhân, bằng cách xác định các sự phát nhiệt  liên tục của các phần tử radium. Đồng thời ông cũng nghiên cứu sự phóng xạ bằng cách sử dụng từ trường, ông chứng mình rằng có một số phóng xạ mang tích điện dương, một số tích điện âm và một số khác không tích điện. Đó là các tia  alpha, beta và gamma.

Cũng trong năm này cả hai được huy chương Davy. Pierre Curie được phong chức giáo sư  vật lý tại Đại học Khoa học Paris. Năm 1905, ông được bầu làm thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp.

 

Tai nạn nghiệt ngã:

Pierre Curie  mất ngày 19 tháng tư 1906 trong một tai nạn giao thông. Khi băng qua một đường phố trong mưa, vì bị cái dù che khuất nên Pierre không nhìn thấy chiếc xe đang trờ tới đẩu ông ngã.. Ông cố gắng bám vào một trong những con ngựa, nhưng bị trượt dưới chân chúng. Bị bánh xe sau bên trái nghiền nát đầu,  ông chết ngay tại chỗ. Tai nạn thảm khốc đã giết người bạn đời đồng hành của Marie Curie. Nỗi cảm xúc của cộng đồng khoa học chắc chắn có đóng góp vào quyết định bổ nhiệm Marie Curie làm nữ giáo sư đầu tiên của Sorbonne. Ngày 21 tháng tư 1995 tro của ông bà Curie được chuyển từ nghĩa trang  gia đình ở Sceaux đến viện Pantheon Paris. 

Các con:

Irène Joliot-Curie (1897 - 1956) cũng đoạt giải Nobel Vật lý với chồng là Frédéric Joliot-Curie về những công trình  phóng xạ nhân tạo, như cha mẹ cô. Eve Curie (1904 Paris - 2007, New York), viết tiểu sử về người mẹ nổi tiếng thế giới của mình, lập gia đình với Henry Labouisse (1904-1987) nhận giải Nobel Hòa bình năm 1965.
Gia đình  Irène và Frédéric Joliot-Curie,  Lãnh giải Nobel
Từ phải qua trái: Eve Curie, Marie Curie, Irène Curie, Marie  Meloney Brown
Eve Curie sống tại New York và tổ chức ngày sinh nhật thứ 100 vào ngày 6/12/2004.

Giai thoại

Pierre Curie viết về những lần dạo chơi trong rừng gần ao La Minière tại Guyancourt, Yvelines: "Vâng, tôi sẽ luôn ghi nhớ và biết ơn rừng Minière! Tôi đã nhìn thấy tất cả mọi ngõ ngách, là nơi tôi yêu thích nhất, là nơi mà tôi là người sung sướng nhất. Tôi thường xuyên đi vào buổi chiều, bước lên thung lũng và trở về với hai mươi ý tưởng trong đầu ...
***
Một ngày nọ, một nhà báo Mỹ đến viếng phòng thí nghiệm của ông bà Curie và được trả lời là không có chủ nhà. Nhà báo nhìn người đàn bà ăn mặc xốc xếch rồi hỏi "Có phải chị là quản gia của họ không?". -Phải. -Chủ của chị có ở trong nhà không? - Không. -Khi nào bà ấy trở về?. -Tôi không biết - Chị có thể cho tôi biết những điều bí mật về của bà chủ của chị không? Bà Curie "quản gia" trả lời:
-That is: be less curious about people and more curious about ideas." ________  (1) Gabriel Lippman (1845-1921) nhà vật lý người Pháp được giải Nobel Vật lý năm 1908 về phương pháp tái tạo màu sắc hình ảnh, dựa trên hiện tượng giao thoa. Giáo sư Đại học Khoa học Paris (Faculté des Sciences de Paris) và là viện sĩ viện Hàn lâm Khoa học.
Năam 1881, ông dự đoán có hiện tượng hiệu ứng áp điện đảo - dưới tác dụng của điện trường, bề mặt của một số tinh thể bị biến dạng, một công trình mà anh em ông Curie đã khám phá từ một năm trước. (2) Curie là một đơn vị phóng xạ (3.7 x 1010 phân rã cho mỗi giây).  Hội nghị phóng xạ (Congrès de radiologie) 1910 lấy tên Curie để tưởng nhớ đến công trình của Pierre Curie. Điểm Curie hoặc nhiệt độ Curie được ký hiệu là TC, là nhiệt độ ở đó một vật bị mất từ tính.  Thí dụ nhiệt độ Curie của sắt khoảng 770 °C. Trên nhiệt độ này, sắt sẽ mất từ tính.
              ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org    Võ Thị Diệu Hằng

Ông bà Curie



Bạn nào muốn tìm hạnh phúc trong hôn nhân nên nhớ câu: “Yêu nhau không phải là ngồi ngó nhau suốt ngày mà là cùng ngó chung về một hướng” của Saint Exupéry; và phải đọc tiểu sử của ông bà Curie, một cặp vợ chồng kiểu mẫu làm cho nguyệt lão cũng phải ghen, rất mực khác nhau mà lại cực kỳ hòa hợp với nhau.
 
Vâng, ông bà Curie có nhiều điểm bất đồng, có thể nói là tương phản nữa. Ông là người Pháp, bà là người Ba Lan, ngôn ngữ và phong tục không giống nhau. Bên ông là một gia đình mà thời đó người ta gọi là hạng “Tư tưởng tự do”, nghĩa là không theo một tôn giáo nào cả; còn bên bà thì theo đạo Ki Tô đã từ mấy đời. Tính tình cũng khác: ông có vẻ mơ mộng hiền lành, bà thì lanh lợi, hoạt động, hơi bướng bỉnh. Và chí hướng, lúc chưa cưới còn khác xa nữa: bà là công dân một nước nô lệ chỉ muốn đem hết tài lực ra hy sinh cho tổ quốc, khai hóa dân trí và bẻ gẫy cùm xích của Nga; còn ông, thì không biết những ranh giới quốc gia, chỉ nhắm mục đích phụng sự khoa học và nhân loại.
Như vậy thì ai chẳng bảo rằng cặp vợ chồng đó khó ở đời với nhau được. Nhưng kết quả thì ngược lại: trong lịch sử khoa học, người ta chưa thấy cuộc hôn nhân nào đẹp đẽ hơn, đầm thắm hơn,, mà lại ích lợi cho nhân loại

 

                                                 ***


Ông, tên là Pierre Curie, sanh ngày 15 – 5 – 1859 trong một gia đình trung lưu, gốc gác ở Alsace, lập nghiệp ở Ba Lê ( Paris). Thân phụ là một lương y thích nghiên cứu về khoa học, rất săn sóc sự học của các con. Tánh chậm chạp, mơ mộng, nhưng có khiếu về toán và vật lý, lại nhờ được cha và thầy ( ông A. Bazille, một giáo sư toán có tài) khéo dìu dắt nên năm mười sáu tuổi, Pierre Curie, đậu tú tài khoa học, rồi hai nmă sau đậu cử nhân vật lý. Năm mười chin tuổi, ông được làm một chân giúp việc thí nghiệm cho các giáo sư trường Đại học Khoa học ở Ba Lê, và gặp cơ hội thuận tiện, ông bắt đầu tìm tòi về Khoa Học. tài của ông xuất hiện liền. Ông nghiên cứu về các tinh thể, kiếm được một cách để đo những điện lượng rất nhỏ, chế được một kiểu cân rất nhạy. sau mười lăm năm cặm cụi cho khoa học như vậy, danh ông đã được nhiều nhà bác học ngoại quốc biết tới, nhất là ông Kelvin ở Anh rất hâm mộ ông – nhưng chính phủ Pháp vẫn chưa hề để ý tới ông, vẫn chỉ trả ông một số lương là 300 quan một tháng, tức lương của một ngưòi thợ chuyên môn thời đó. Ông không lấy vậy làm buồn, chỉ buồn là chưa kiếm được người tri kỷ. Xét những thiếu nữ chung quanh ông thấy họ rất tầm thường. Năm hai mươi hai tuổi, ông đã chán ngán, ghi vào nhật ký:
 
               “Đàn bà còn yêu cuộc đời vui vẻ trẻ trung hơn đàn ông chúng ta nhiều; thật hiếm thấy phụ nữ có thiên tài. Cho nên khi chúng ta bị một tình yêu huyền bí nào thúc đầy mà muốn tiến vào một con đường trái với thiên nhiên, khi chúng ta để hết cả tâm tư vào một công trình nó bắt ta phải cách biệt nhân loại mà ta thương mến thì chúng ta phải chiến đấu với phụ nữ; - và trong cuộc chiến đấu đó, gần như luôn luôn ta thua họ vì họ viện lý rằng phải sống vui vẻ, hợp với luật tự nhiên, để rán kéo chúng ta về con đường của họ”
 
            Những hàng đó ghi rõ chí hướng của ông. Ông nhất định lựa một người bạn trăm năm có thiên tài để cùng nhau phụng sự khoa học và nhân loại. Và ông phải đợi trên mười hai năm mới tìm được người vừa ý. Người đó là cô Marie Sklodowska, một sinh viên Ba Lan (Polonaise), theo học ban khoa học ở trường Đại học Sorbonne.
 
                                           * * *


        Gia đình cô Marie rất nghèo, nhưng rất hiếu học. Thân phụ cô dạy môn vật lý ở một trường Trung học Ba Lan, thân mẫu cô làm hiệu trưởng một trường ở Varsovie trong một thời gian, sau bị bệnh lao phổi, phải nghỉ. Cô là con út, sanh ngày 7 – 11 – 1867, có bốn anh và chị. rất thông minh: bài nào chỉ đọc hai lần là thuộc; lại rất tò mò, gặp sách gì cũng đọc, mà một khi cúi đầu trên trang sách thì hàng giờ không nhúc nhích, và bạn bè, anh chị phá phách gì ở bên cạnh, cô cũng không hề biết. Cũng như Pierre Curie, năm 16 tuổi, cô đậu bằng cấp Trung học; nhưng vì cha già, phải nghĩ học, và ít tháng sau, phải làm  nghề kèm trẻ em học trong các nhà giàu để kiếm tiền giúp gia đình. Có dư thì giờ, cô còn dạy không cho các người nghèo, tin rằng khai dân trí là bước đầu để giành lại độc lập cho tổ quốc. Nhưng cô vẫn thấy sức học còn kém, vẫn mong được qua học bên Pháp, nên bàn với chị là cô Bronia, góp sức với nhau để có tiền du học: cô chị sẽ qua Ba Lê trước, học Y khoa; trong thời gian đó cô em dạy học, để dành tiền gởi cho chị; chị thành tài rồi, về nước, sẽ chu cấp cho cô em qua Ba Lê học về Khoa học.
 
         Chương trình đó được thực hành liền. Một gia đình giàu có ở thôn quê đón cô Marie về dạy học cho trẻ và trả cô một số lương khá hậu. Cô nhận lời, vừa dạy học, vừa tự học thêm về vật lý. Được hơn một năm, cậu con chủ nhà yêu cô; cô cũng mến người phong nhã đó. Nhưng khi cậu xin phép cha mẹ để hỏi cô thì bị cha mẹ mắng cho một trận dữ dội: “Tao mà lại đi làm thong gia với lão giáo quèn đó à? Mày là con chủ nhà mà lại đi cưới cái hạng gần như toi đòi à?”. Cuộc tình duyên tới đó chấm dứt hẳn. Cô Marie, chua xót trong long, nhưng cũng rán nuốt hận, làm bộ không hay biết gì hết, ở lại thêm một năm, dành dụm thêm ít tiền; và khi cô chị không cần tiền phụ cấp của cô nữa, thì cô xin phép cha qua Ba Lê du học liền.
 
                                             *  *  *


      Mùa thu năm 1891, cô tới Ba Lê, ghi tên vào ban Khoa học ở trường Đại học Sorbonne. Mới đầu, cô tạm sống chung với chị và anh rể ( một người Ba Lan, làm y sĩ) sau ra ở riêng trong một gác xép chật hẹp. Lúc đó cô gặp mọi nỗi thiếu thốn; nhưng tính khẳng khái, không muốn nhờ cậy anh chị, cô âm thầm chịu đói, chịu rét. Một lần cô té xỉu trước mặt một người bạn. Người này đi báo cho ông anh rể của cô hay. Ông ta tới, lục xét trong phòng không thấy không thấy một món ăn nào, lò thì lạnh mà đĩa chén thì sạch nhẵn, đoán được căn do, hỏi gạn cô một hồi, cô mới chịu thú là hai ngày rầy, chỉ ăn trái anh đào, mà phải thức đến ba giờ sáng để học. Ông nổi giận, kéo cô về nhà ông, bắt cô phải nghỉ ngơi, bổ dưỡng trong ít nữa.
        Nhưng cô tuyệt nhiên không thấy khổ. Trái lại, ngồi trong giảng đường, nghe những nhà bác học như Lippmann, Paul Appel giảng bài, cô còn thấy thích thú lạ lùng, quên cả đói và rét.
Cuối niên học đó, cô về thăm nhà, vui vẻ với gia đình. Nhưng thu tới, gần đến kỳ tựu trường, cô lại lo lắng, không biết kiếm đâu được tiền để học hết niên khóa sau. Cũng may, năm 1893, cô được một học bổng là 600rúp (1) và hết hè cô lại được qua Ba Lê.
 
                                                *
        Đầu năm sau, cô gặp Pierre Curie tại nhà một người quen. Hai người nói chuyện với nhau về khoa học, và khi chia tay, Pierre Curie bâng khuâng, hỏi một câu vớ vẩn :
-        Cô sẽ ở hoài bên đây chứ ?
Cô Marie hơi ngạc nhiên, nhưng tươi cười đáp :
-        Thưa ông không ạ. Hè này nếu thi đậu, tôi sẽ về Varsovie. Nếu có tiền ăn học, qua thu tới sẽ trở lại đây học nốt cử nhân toán rồi về nước dạy học. Tôi không có quyền bỏ xứ sở trong lúc này.
     Pierre Curie hơi thất vọng, nghĩ ngợi : « Cái cô Sklodowska nay cũng lạ lùng. Ở Ba Lan qua đây học. Đậu cử nhân vật lý nắm ngoái, năm nay lại học cử nhân toán. Thông minh như vậy, sao không phụng sự Khoa học mà lại muốn làm chính trị ? Phải tìm hiểu thêm cô ta mới được ».
Và càng tìm hiểu, ông càng phục, càng mê cô gái Ba Lan đó. Ông gặp cô mấy lần ở hội Nghiên cứu Vật lý, ở phòng thí nghiệm của giáo sư Lippmann ; ông gởi tặng cô một tập nghiên cứu về điện của ông vừa mới xuất bản, rồi xin phép được lại thăm cô trong phòng chật hẹp của cô. Thấy đời sống nghèo nàn của Marie, ông lại càng quý mến cô và tin chắc rằng đã gặp được một thiếu nữ có thiên tài mà mình hằng mơ tưởng mười mấy năm nay. Còn cô, đối với ông, tuy cũng có nhiều cảm tình, nhưng chỉ là cảm tình của những bạn khoa học với nhau mà thôi : sau một lần trắc trở về tình duyên, lòng cô cơ hồ đã lạnh.
         Hè năm đó, cô về Ba Lan. Ông ân cần dặn :
-        Tháng mười, cô trở lại đây nhé ? Cô hứa với tôi là trở lại đây nhé ? Ở Ba Lan thì làm sao tiếp tục học được ? Mà cô không có quyền bỏ khoa học !
            Ông muốn nói : « Cô không có quyền bỏ tôi » đấy.
Cô Marie thản nhiên đáp :
-        Tôi cũng muốn được vậy lắm.
Xa cô, ông nhớ nhung đánh bạo viết thư hỏi cưới. Cô từ chối. Lấy một người Pháp rồi bỏ gia đình, xứ sở đi à ? Cha thì già mà nước nhà ở trong cảnh nô lệ. Bỏ đi sao đành ? Không thể được !
       Ông thất vọng. Cô an ủi, xin đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ. Ông đành vâng lời, nhưng vẫn gửi những bức thư nồng nàn cho cô. Trong một bức, ông viết.
 
       “Chúng ta đã hứa với nhau (phải vậy chăng?) ít nhất cũng giữ được tình than với nhau. Miễn cô đừng đổi ý! Vì không có lời hứa nào là bó buộc cả; những cái đó, không có ai ép được ai. Nhưng nếu chúng ta được sống bên cạnh nhau, mê man trong những mộng của chúng ta: mộng giúp nước của cô, mộng giúp nhân loại và mộng khoa học của chúng ta, thì đời sẽ đẹp biết mấy nhỉ? Ôi, có thể như vậy được chăng?
          Trong những mộng đó, theo tôi chỉ có mộng cuối cùng là chánh đáng. Tôi muốn nói rằng chúng ta không thể thay đổi tình trạng xã hội được, và nếu có thay đổi được đi nữa, thì chúng ta cũng không biết nên làm cái gì, và khi hoạt động theo một chiều nào đó, chúng ta không bao giờ chắc chắn được là lợi nhiều hơn hại, vì biết đâu ta chẳng làm chậm lại một cuộc biến hóa không sao tránh được. Về phương diện khoa học, trái lại, chúng ta có thể hy vọng làm được cái gì: ở đây, địa vực vững vàng và mỗi phát minh, dù nhỏ đến đâu, cũng là một thâu hoạch vĩnh viễn.
    …. Chúng ta đã đồng ý là giữ tình thân với nhau, nhưng nếu trong một năm nữa, cô vĩnh biệt nước Pháp mà chúng ta không bao giờ gặp nhau nữa, thì tình thân đó chẳng là viễn vông quá ư ? Cô ở lại với tôi có phải là hơn không ? »
 
    Bức thư đó so với bức thư của Pasteur gởi cho cô Marie Laurent (cũng lại Marie nữa) để cầu hthì giọng đầm thắm, kh ảái hơn nhiều. Ai ngờ một nhà khoa học đã ba mươi lăm tuổi mà lời tình tứ như vậy nhỉ ?
   Mùa thu năm đó, cô marie lại trở qua Ba Lê để học. Pierre Curie mừng rơn, lại càng gắng công đeo đuổi. Ông năn nỉ cô cho ông được làm việc trong một căn phòng ở bên cạnh phòng của cô. Tất nhiên hai phòng cách biệt hẳn nhau. Cô từ chối. Ông lại đòi cuối niên học, theo cô qua Ba Lan : ở đó, ông sẽ dạy Pháp ngữ để sống, rồi khảo cứu về khoa học với cô. Ông biết rằng ở Ba Lan không đủ thuận tiện để khảo cứu, nhưng mặc, miễn là được ở gần cô. Cô vô cùng cảm động, nhưng không thể nhận một sự hy sinh lớn lao tới bực đó. Ông không thất vọng, dễ gì kiếm được một thiếu nữ có thiên tài ! cho nên đã gặp, thì ông định níu lấy.
 
       Rút cục, mãi tới mười tháng sau, cô Marie mới xiêu lòng và nhận lời. Lễ cưới định vào ngày 25 -7 -1895. Lễ rất đơn sơ, khác hẳn thế tục. Cô dâu không bận áo trắng, (cô chỉ may một chiếc áo xanh dương để cưới xong, có thể bận đi làm được), không đeo nhẫn cưới, không bầy tiệc cưới, không làm lễ tại nhà thờ (vì một năm nay, cô đã chịu ảnh hưởng của Pierre Curie, chuyên tâm vào khoa học mà nhác việc đi lễ), mà cũng chẳng mời trưởng khế tới dự : gia tài của hai bên có gì đâu, ngoài hai chiếc xe máy mới mua do tiền mừng của một người thân.
 
       Nhưng cuộc hôn nhân giản dị nhất đó lại là cuộc hôn nhân thành công nhất cổ kim, thành công vì đã gây được hạnh phúc cho hai bên, và cho cả nhân loại. Chắc chắn là nếu hai ông bà không sống chung với nhau thì sự nghiệp khoa học của bà không có gì mà sự nghiệp của ông cũng không được rực rỡ như sau này ta sẽ thấy.
 
                                               *
      Thế là sau một năm rưỡi đeo đẳng, ông đã hoàn toàn cảm hóa được bà, mà những bất đồng giữa hai bên đã san phẳng : bà đã thành một người « tư tưởng tự do » như ông, đã tạm quên cái nhiệm vụ công dân ba Lan mà hướng tâm về khoa học; còn ông, khi cưới xong, cũng bắt đầu học tiếng Ba Lan và coi Varsovie là quê hương thứ nhì của mình. Cả hai đều nhắm chung một mục đích : nghiên cứu và phát minh.
 
               Mùa hè năm đó, hai ông bà sống những ngày thần tiên. Họ cưỡi xe máy đi dạo khắp miền phụ cận Ba Lê; tới đâu ăn đó, khi thì chia nhau những miếng bánh, những trái lê dưới bóng cây trong rừng thưa ; khi thì giải khát trong những quán trọ miền quê, bên một con đường thiên lý. Họ thơ thẩn dạo mát trên đồi, vừa đi vừa suy nghĩ về những nghiên cứu khoa học.
 
            Họ mướn một căn ba phòng. Đồ đạc rất sơ sài vì họ không có tiền để mướn người ở, cũng không có thì giờ để dọn dẹp. Trong phòng chính chỉ kê mỗi một cái bàn bằng gỗ tạp không sơn với hai chiếc ghế ở hai đầu. Hai ông bà đã quyết định là không tiếp khách mà cũng chẳng giao du với ai. Ông lúc đó đã đậu tiến sĩ vậy lý và dạy ở trường Vật lý, lương được năm trăm quan một tháng, vừa đủ chi tiêu. Bà học thêm thạc sĩ để hy vọng sau này cũng dạy học giúp ông.
 
    Những bà nội trợ nào phàn nàn rằng tối tăm mặt mũi về công việc nhà cửa, nên coi chương trình làm việc mỗi ngày của bà Curie : nghiên cứu ở phòng thí nghiệm tám giờ, lo việc nhà hai hay ba giờ, rồi lại học thi thạc sĩ nữa. Có khi hai ba giờ khuya bà chư nghỉ : còn phải tính sổ chi tiêu, vá áo cho ông và coi sách lám bếp. Không thể bắt chồng ăn toàn baáh mì với bơ và trái cây được. Vả lại còn phải giữ tiếng với họ hàng bên chồng chứ. Dù đậu cử nhân hay thạc sĩ cũng mặc, một phụ nữ Ba Lan không thể « đoảng » về bếp núc được. Mà cái môn nấu nướng thực cũng khó khăn, bí mật như môn hóa học chứ kém gì : phải đổ bao nhiêu nước, thêm bao nhiêu muối, luộc bao nhiêu phút ? Ba ghi hết thảy những thành công và thất bại của bà y như y những thí nghiệm khoa học vậy. Điều cần nhất là phải làm sao cho đỡ tốn thì giờ : bà bèn sáng chế những món ăn, nhưng cách nấu không tốn công, để cho thức ăn tự nó chín trong khi bà lại trường. Vừa coi nhà, vừa đi học như vậy, mà năm sau bà thi thạc sĩ, đậu thủ khoa. Pierre Curie mới đeo đuổi bà một năm rưỡi chứ có đeo đuổi mười lăm năm cũng là đáng.
             Năm 1997, bà sanh con gái đầu lòng, em Irène – sau này cùng với chồng là Frédéric Joliot cũng được giải thưởng Nobel – và ba tháng sau công bố kết quả những thí nghiệm khoa học của bà.
 
                                                 *
               Từ đó, bà vừa nuôi con, vừa nghiên cứu với chồng để  phát minh chất ra đi (radium-quang chất).
     Sau khi nhà bác học Roentgen đã phát mình được quang tuyến, nhiều người tiếp tục khảo cứu về các chất có huỳnh quang, và năm 1896, ông Henri Becquerel nhận thấy rằng nh’ưng chất muối urane tự nó phát ra những tuyến lạ lùng, c ảnhững khi trong tối. Hiện tượng phóng xa      (đó, chưa ai biết nguyên do ở đâu. Hai ông bà Curie cùng nhau nghiên cứu nó.
                Trước hết phải tìm một phòng thí nghiệm. Ông xin được một phòng bỏ trống, ở trường Vật lý. Phòng thiếu mọi tiện nghi. Mặc, Hai ông bà bắt tay vào việc liền và vài tuần lễ sau, bà tìm được cách đo lượng phóng xạ của uranium. Rồi bà nghiên cứu tất cả những chất hóa học để xem có chất nào cũng phóng xạ như uranium nữa không, và bà thấy được một chất nữa, chất thorium.
               Bà đặt ra giả thuyết này là những chất như uranium, thorium sở dĩ phóng xạ vì nó chứa một chất mới, có tính cách phóng xạ mà từ trước chưa ai biết. Bà quyết tâm tìm ra được chất đó. Hai ông bà dùng chất pechblende - một khoáng chất urane, phóng xạ rất mạnh - để nghiên cứu, phân tích, loại lần lần những phần tử không phóng xạ, như mtộ viên cảnh sát đi lùng từng nhà một để bắt một tội nhân, trốn tránh vậy. Kết quả, là hai ông bà thấy chất phóng xạ trốn ở trong hai phần tử của chất pechblende. Như vậy là đã kiếm được hai chất mới. Lòng nhớ tổ quốc vẫn dào dạt, bà đề nghị với pong gọi một trong hai chất đó là polonium ( Pologne là tên tổ quốc của bà), còn chất kia gọi là radium. Cuối năm1898, ông bà tuyên bố kết quả ở Hàn lâm viện Khoa học.
 
                                           * * *
     Nhưng đó chỉ là bước đầu. Tiếp theo là bốn năm lao tâm, lao lực nữa ; vì muốn cho thế giới nhận thuyết mới mẻ, táo bạo đó, ông bà phải làm cách nào tách riêng được chất polonium - rồi tính được trọng lượng nguyên tử của nó, tóm lại là phải cho thiên hạn thấy được radium nghuên chất. Muốn vậy phải giải quyết được ba vấn đề này :
-        Kiếm cho được thật nhiều chất pechblende để nấu.
-        Kiếm được chỗ để nấu,
-        Kiếm được tiền chi tiêu vào việc nghiên cứu đó.
        Vấn đề thứ nhất, ông bà giải quyết được dễ dàng.
Chất pechblede tuy đắt, nhưng cặn của nó thì rẻ mạt, mà dùng để nấu raradium được. Một bạn thân ở Áo sẵn sàng gởi tặng cho ông bà hàng tấn cặn đó.
        Về vấn đề thứ nhì, ông xin trường Đại học Sorbonne một chỗ để thí nghiệm. Người ta từ chối, ông đành xin một cái kho bỏ không lát gạch mà chỉ có một lớp hắc ín, còn đồ đạc thì chỉ có vài cái bàn, mọt, một cái bảng đen và một lò bằng gang. Nhưng thôi, cũng tạm được, có chỗ để thí nghiệm còn hơn là không.
       Còn vấn đề thứ ba thì không nhờ cậy được ai hết. Ông bà đành bóp bụng, giảm mọi chi tiêu trong gia đình để mua dụng cụ, vật liệu thí nghiệm.
            Và ở trong cái kho tồi tàn, ẩm thấp, lạnh lẽo đó, ông bà đã nấu hàng tấn cặn pechblende ; ông thì thí nghiệm, bà thì coi lò. Tay bà chai lên vì xúc than, xúc cặn pechblende ; bà sặc cụa vì khói, vì bụi, mùa hè thì chịu nóng như thiêu mà mùa đông thì phải nép trong một góc để tránh dột hoặc gió. Quả là một đời sống «trái với thiên nhiên» như ông đã dự tính từ hồi hai mươi tuổi. Nhưng ông bà thấy đời sống trái thiên nhiên đó thích thú vô cùng, và sau này, nhắc lại kỷ niệm xưa. Bà viết « Lúc ấy chúng tôi sống như trong một giấc mộng ». Thỉnh thoảng ông lại ngừng tay hỏi bà :
-        Mình, mình thử đoán chất radium sẽ nấu được, màu sắc ra sao.
Hoặc bà hỏi ông :
-        Mình, em đố mình biết nó sẽ nặng hay nhẹ đấy?.
          Rồi ông bà nhìn nhau cười.
Tháng tháng trôi qua mà chất radium vẫn chưa xuất hiện. Rồi hết một năm, hai năm, ba năm. Hồi trẻ bà có lần nói :« Đời sống đâu phải là dễ dàng. Phải kiên nhẫn, thứ nhất là phải tự tin. Phải tin rằng mình có khiếu để làm một cái gì, và cái đó phải làm cho kỳ được. » Thì bây giờ bà thực hành đúng lời đó. Bà tin rằng chất radium phải xuất hiện. Không thể khác được. Cho nên bà kiên nhẫn nấu, dù có khòm lưng, mờ mắt, lao phổi. (Bà đâu có quên rằng thân mẫu mất về bệnh đó) thì cũng cứ nấu ! Bà nấu hàng tấn cặn pechblende, hết đống này đến đống khác, và kết quả là sau bốn mươi lăm tháng bà đã nấu ra được chất radium nguyên chất. Bạn đã sắc thuốc bắc lần nào chưa nhỉ ? Sắc một thang giải cảm mất độ nửa giờ, bạn đã thấy sốt ruột ; canh một thang thuốc bổ mất một hai giờ, bạn bực mình muốn đổ bớt thuốc đi cho nó mau cạn ? vậy xin vạn hãy tưởng tượng cho tôi công phu nấu cạn pechblende trong bốn mươi lăm tháng của bà. Và bạn có biết bà nấu ra được bao nhiêu radium không ? Chỉ có một phần mười gam. Ông bà vội vàng đo trọng lượng nguyên tử của chất mới đó, được con số 225.
      Đêm hôm đó, khoảng chín giờ rưỡi, đợi cho cô Irène ngủ rồi, bà rủ ông lại kho để ngắm chất radium mới nấu được. Vừa mới mở cửa kho ra, bà kêu lên :
-        Mình, ngó kìa.
Ở trong bóng tối, một hào quang chiếu ra, xanh xanh, dịu dịu. Hai ông bà đứng trân trân nhìn một hồi lâu. Ông sẽ vuốt mái tóc bà, nói : « Chất Radium của chúng ta tự nó phát ra ánh sáng. » Kẻ nào tìm ra được dạ minh châu chắc cũng không vui bằng cặp vợ chồng trẻ tối đêm đó.                                            
        Tin đó đưa ra, các nhà bác học Anh, Đức, Ý … đều ngưỡng mộ ông bà vào bực kỳ tài, duy có chính phủ Pháp là cơ hồ không thèm lưu ý tới. Ông không có tham vọng gì cả, chỉ ước ao được một chân giáo sư đại học và một phòng thí nghiệm có đủ dụng cụ thôi ; nhưng chính phủ không cho, lấy lý rằng những phát minh của ông không thuộc phạm vi vật lý hóa ! Thành thử lương ông vẫn là năm trăm quan một tháng, không đủ tiêu, vì nhà đã thêm trẻ.
     Mãi đến khi chính phủ Thụy Sĩ, trọng tài ông, mời cả hai ông bà qua dạy trường đại học Genève, mà ông từ chối, vì muốn ở Ba Lê tiếp tục nghiên cứu về chất radium, chính phủ Pháp mới chịu nhận giá trị của ông, mời ông dạy lớp Vật Lý Hóa - Tự nhiên ở trường đại học Sorbonne và mời bà làm giáo sư ở trường Cao đẳng Nữ sư phạm Sèvres. Nhưng phòng thí nghiệm thì vẫn không cho.
      Năm 1902, nhiều bạn thân thúc ông xin ứng cử vào Hàn lâm viện Khoa học. Ông không chịu, cho cái thủ tục bắt các ứng cử viên phải đi chào các ông Hàn trong viện là nhục nhã, cô nghĩa. Nhưng nể lòng bạn, ông đành ra ứng cử, và kết quả là ông thua. Phần đông các cụ Hàn nhà ta không ưa ứng cử viên « khả ố » không chịu khom lưng đó, nên bầu ông Amagat, một kẻ bất tài, vô danh, chỉ đáng khen ở chỗ lưng mềm.
         Ít lâu sau, một vị bộ trưởng đề nghị thưởng ông Bắc đẩu bội tinh. Ông cương quyết từ chối :
-«  Tôi xin đa tạ ông bộ trưởng và thưa với ông rằng, tôi không thấy cần có huy chương mà chỉ cần có một phòng thí nghiệm thôi ».
         Từ đó hai ông bà hết trông cậy vào sự giúp đỡ của chính phủ, lại tự lực tiếp tục thí nghiệm bằng những phương tiện rất thiếu thốn. Có lần ông làm việc quá mà muốn đau, chán nản, nói với bà :
-« Cuộc đời chúng ta đã chọn, vậy mà khó nhọc quá chứ !
Đã mấy tháng nay, ông lo sẽ chết sớm. Bà an ủi :
-«  Mình … rán vui lên, mình.
Nhưng rồi, không nén được lòng, bà nghẹn ngào nói tiếp :
-        Nếu trời bắt tội một đứa trong chúng ta chết trước … thì kẻ còn lại cũng không sống được đâu, mình nhỉ.
Ông lắc đầu, cương quyết :
-        Em lầm rồi. Dù sao thì sao, dù chỉ còn là cái xác không hồn thì chúng ta cũng vẫn phải làm việc.
Và càng thiếu sự nâng đở, ông bà càng làm việc mạnh. Từ năm 1899 đến năm 1904, ông bà đã công bố được ba mươi hai nghiên cứu về khoa học. Chất radium được dùng để chữa vài loại ung thư và bắt đầu được các nhà kỹ nghệ đòi hỏi. Khi đã nấu được  một gam radium, ông muốn công bố cách thức chế tạo cho cả thế giới biết, chứ không giữ riêng bằng cấp sáng chế, nhưng còn dò ý bà đã :
-« Đời chúng ta vất vả mà chúng ta cần có một phòng thí nghiệm đàng hoàng. Rồi còn tương lai của con cái nữa. Em nghĩ sao ? Nên giữ quyền sáng chế hay không ?
Bà không do dự, đáp :
-        Giữ quyền đó cho riêng mình là trái với tinh thần khoa học. Em nghĩ sự phát minh đó phải để cho cả nhân loại  hưởng chung.
Và ông vui vẻ công bố liền cách chế tạo cho các kỹ sư ngoại quốc.
 


                                               *
         Lúc đó, danh tiếng ông bà dậy lên như sóng. Các quốc gia tranh nhau đón tiếp ông bà. Trước hết là Anh. Năm 1903 Viện Hoàng gia ở Luân Đôn mời ông bà qua diễn thuyết. Cả thành phố Luân Đôn xôn xao muốn được coi mặt những người đã khai sanh cho chất radium. Ông bà phải dự các tiệc danh dự, ông với bộ đồ đen thường ngày, bà cũng với chiếc áo sẫm thường này mà chung quanh toàn là những nhà quý phái y phục sang trọng, vàng son rực rỡ.
Khi tan tiệc, về phòng, bà bảo ông:
-        “ Em không ngờ rằng ở đời có những châu ngọc đẹp như vậy.
Ông mỉm cười:
-        Mình thử đoán xem trong bữa tiệc anh nghĩ tới gì ? … Anh tính phỏng giá tiền của tất cả những vàng ngọc đó đủ để cất được biết bao những phòng thí nghiệm.
          Về tới Ba Lê, ông bà nhận ngay được một chiếc huy chương bằng vàng ở Luân Đôn gởi qua. Không biết dung làm gì, ông cho cô Irène chơi. Bạn bè tới mừng và đòi coi, ông chỉ cô Irène, bảo:
-“ Cháu nó thích đồng xu mới lớn đó lắm!
         Rồi tới Thụy Điển tặng ông bà một nửa giải thưởng Nobel về Vật lý, nửa kia về Henri Becquerel, vì cả ba đều có công phát mnìh về tánh phóng xạ.
         Bạn đã biết giải thưỏng Nobel giá trị ra sao chứ? Đó là một giải thưởng quốc tế khoản 10 tỉ quan mỗi năm phát một lần cho những văn nhân và nhà bác học nào có công lớn lao với nhân loại.(2)
nếu bạn đưọc giải thưởng đó thì bạn sẽ làm vẻ vang cho cả dân tộc Việt nam, và cả cho Châu Á nữa, vì từ hồi giải thưởng thành lập – năm 1896 - đến nay, ở Châu Á mới có bốn người được nhận nó, tức thi hào Tagore ở Ấn Độ, nhà bác học Hideki Yukawa ở Nhật và mới năm ngoái đây, hai thanh niên Trung Hoa: Tchen Ning Lang và Tsung Lao Lee mà thế giới ngưỡng mộ là tài ngang Einstein. Vậy mà cả hai ông bà Curie đều được giải thưởng. Vinh dự đó chưa từng thấy trong giới khoa học. Nhất là sau này bà lại được them một giải thường Nobel về Hóa học. Rồi cô Irène và chống là Joliot nối nghiệp cha mẹ, chiếm một giải nữa. Gia đình Curie quả đã chiếm tối cao kỷ lục về giải đó.


      Nhưng từ khi được giải thưởng, ông bà chỉ thấy bực mình hơn là vui. Trong một bức thư cho một người anh, bà viết:
 
     “ Thư từ gởi tới ngập cả nhà, rồi thì các nhà nhiếp ảnh, các ký giả tràn vào. Chúng em muốn độn thổ để được yên ổn.”
 
      Đúng như Einstein đã nói: “danh vọng không làm cho người ta sung sướng”; mà nhiều danh vọng quá còn làm cho ông bà hóa quạu:
 
       “Lúc nào nhà cũng ồn ồn lên. Người ta kiếm mọi cách cản trở công việc của vợ chồng em. Bây giờ em cương quyết không tiếp ai hết - Vậy mà cũng không được yên. Đời chúng em đã hoàn toàn tiêu ma vì danh vọng.”
 
        Hễ được ngày nào rảnh là ông bà phải bỏ nhà, trốn đi, đạp xe máy về miền quê, đổi tên họ để được ngủ yên trong những quán trọ. Nhưng các ký giả vẫn theo dò, và một lần một ký giả Mỹ vượt Đại tây dương qua, nhận được mặt bà ở ngưỡng cửa một gia đình đánh có nọ, vội chạy lại phỏng vấn. Bà bất đắc dĩ phải đáp, đến khi ký giả đó hỏi về đời tư của bà, bà cắt ngang câu chuyện:
-        Về khoa học, chúng tôi chỉ lưu tâm đến vật chứ không để ý đến người.
       Thật vậy, bà không để ý tới ai hết, không phải là bà kiêu căng mà vì công việc đó vô ích. Khi người ta là thiên tài đem cả tâm hồn ra phụng sự nhân loại thì người ta không cần theo quy tắc Đắc nhân tâm của xã hội. Tuy nhiên bà vẫn tỏ ra lịch thiệp, nhã nhặn.
Một lần Tổng thống Loubet mời ông bà dự tiệc ở điện Elysée. Một bà quý phái lại gần bà, hỏi:
-        Bà muốn tôi giới thiệu bà với đức vua Hy Lạp không? Bà nhỏ nhẹ đáp:
-        Thưa, tôi không thấy có ích gì ạ.
Rồi nhận ra được bà đó là bà Tổng thống Loubet, Marie curie ngượng ngùng, vội chữa:
-        Dạ … tất nhiên rồi ạ, tôi xin tuân ý bà.
 
        Chính phủ Pháp tới lúc đó mới chịu tặng ông một ghế giáo sư đại học thực thụ; còn phòng thí nghiệm ông xin từ tám năm trước để có đủ phương tiện phụng sự cho quốc gia và nhân loại, thì chính phủ chưa xét tới. Và đến năm 1905, ông chịu ứng cử vào Hàn lâm viện khoa học một lần nữa, thì chỉ vừa đủ thăm để được lựa, vì có tới hai mưoi hai cụ Hàn bỏ thăm cho một người vô danh nào đó. Năm ấy ông đã bốn mươi sáu tuổi và đã hy sinh cho khoa học trong một phần tư thế kỷ.
 
                                          *


         Lễ Phục Sinh năm 1906, ông bà nghỉ ngơi ở miền quê ít bữa, rồi ông trở lại Ba Lê trước, ôm theo một bó hoa để chưng trong phòng làm việc. Hôm sau bà dắt hai người con về, thấy ông đứng đợi ở cửa sổ.
Ngày 19 tháng 4 năm 1906, ăn cơm trưa xong, ông xách dù lại đường Dauphine. Xe cộ đông, ông muốn băng qua đường, bổng trượt chân. Có tiếng người kêu: “Ngừng lại, ngừng lại.” Người đánh xe ghì dây cương. Nhưng đã quá trể. Một bánh sau của chiếc xe chở nặng sáu tấn, đụng phải một vật gì rồi nghiền nát ra. Một đầu người: bộ óc của Pierre Curie.
Thiên hạ bu lại. hai người cáng ông tới một tiệm thuốc, rồi tới ti cảnh sát. Người ta xét giấy tờ của ông. Nghe tới tên ông, quần chúng phẫn nộ muốn hành hung người đánh xe.
   Khi than phụ ông hay tin, cụ lặp đi lặp lại câu:
-“ Nó lại mơ mộng về cái gì nữa!
        Sáu giờ chiều, bà Marie về, vẫn vui vẻ, chưa biết gì cả, tới cửa thấy có gì khác thường. Nghe ông Khoa trưởng đại học Paul Appell kể lại tai nạn, bà đứng trân trân, như mất hồn, không khóc, cũng không than thở. Một hồi lâu bà mới mấp máy môi, hỏi:
-        Anh Pierre mất rồi à? … Mất rồi à ? … Mất thật rồi à ?
-        Tới tối, người ta chở di vật cùng thây của ông về. Chiếc đồng hồ vẫn còn đập, miếng kính không hề bể. bà ôm thây ông, không muốn rời ra nữa. Người nhà phải kéo bà đi.
        Đám táng rất đơn giản. bà từ chối mọi sự phúng viếng của nhà cầm quyền và quốc dân.
         Trong mấy tuần lễ sau, bà thẫn thở, tâm hồn như theo người quá cố, không nói năng, làm lụng gì hết.
       Chính phủ yêu cầu bà thay chân giáo sư Đại học cho ông. Bà dửng dưng đáp :« Để tôi gắng sức xem ». Rồi bà nhớ lại lời nói của ông :« Dù sao thì sao, dù chỉ còn là cái xác không hồn thì chúng ta cũng vẫn phải làm việc » và quyết định tiếp tục sự nghiệp của chồng.
 
       Ngày tựu trường năm đó, sinh viên cùng những người trong mọi giới trí thức xúm nhau lại ở trường đại học Sorbonne để nghe nữ giáo sư đầu tiên của trường giảng bài. Theo lệ, hễ một giáo sư nào thay chân giáo sư khác thì buổi đầu, phải có ít lời cảm ơn ông bộ trưởng, ông khoa trưởng và ca tụng người mình thế chân.
      Cửa giảng đường mở, bà tiến lại ghế. Tiếng vỗ tay vang dậy. Bà cúi đầu chào, đợi cho phòng yên lặng rồi nói:
-        « Khi người ta xét những tiến bộ về Vật lý trong mười năm nay … »
Bà đã lặp lại đúng lời giảng cuối cùng của ông mấy tháng trước. Thính giả đều cảm động.
 
                                         *


         Thật vậy. Dù chỉ còn là cái xác không hồn bà vẫn phải làm việc, mà bà còn làm việc gấp hai trước, cũng làm thay cả phần của chồng nữa.
Ở nhà, bà săn sóc sự học của các con. Bà muốn cho cô Irène học rất ít nhưng rất kỹ lưỡng. Bà gom độ một chục trẻ, mời những giáo sư danh tiếng lại dạy mỗi người một môn.
        Đích thân bà dạy môn Vật lý cho các em đó mỗi chiều thứ năm, tập cho chúng thích khoa học, chịu gắng sức, làm việc có phương pháp. Một phần nhờ cách học tập đó mà sau này cô Irène thành một nhà bác học như bạn đã biết.
          Ở trường, bà dạy tăng giờ lên, vừa thay chồng dạy ở Đâi học Sarbonne, vừa tiếp tục dạy ở trường Cao đẳng nữ sư phạm. Bà lại còn điều khiển phòng thí nghiệm.
         Bận việc như vậy mà trong bốn năm, bà vẫn có thì giờ soạn được một bộ về Tính phóng xạ dầy non một ngàn trang, gần bằng bộ Chiến tranh và Hòa bình của Tolstoi ; ấy là chưa kể công sắp đặt lại, sửa chữa những tác phẩm của chồng mà bà gom lại thành một tập sáu trăm trang. Sức làm việc của bà đã kinh thiên chưa ?
        Giới khoa học ở mọi nơi đều hướng cả về bà. Những bằng cấp tấn sị danh dự, những giấy chứng chỉ hội viên Hàn lâm viện, rồi những huy chương chất đầy các hộc tủ.
       Chính phủ Pháp tặng bà Bắc đẩu bội tinh, bà từ chối. Cũng do bạn bè thúc, bà phải ứng cử vô Hàn lâm viện Khoa học, để người ta khỏi trách mình làm cao. Nhưng trong viện chia làm hai phe, một phe không ưa bà, và rút cục bà thiếu một thăm.
       Tức thì, các nhà bác học Thụy Điển như muốn sửa lại sự bất công đó, tặng bà giải thưởng Nobel về hóa học (1911). Để vớt lại danh dự, chính phủ Pháp cho cất viện radium ở đường pierre Curie, mời bà điều khiển. Ngày khánh thành viện đó là một trong những ngày vui nhất của bà, vì thấy cái mộng của chồng đã thực hiện được. Nhưng vừa cất xong, thì đại chiến thứ nhất bùng nổ.
 


                                                   *
        Bà xin nhập ngũ, tuy là để giúp Pháp mà cũng là để gián tiếp giúp tổ quốc vì nếu đồng minh thắng thì Ba Lan tất được trả lại tự do.
       Bà tổ chức một trạm quang tuyến lưu động trên khắp các mặt trận để trị bệnh trong quân đội. Trạm gồm một chiếc xe cam nhông chứa đủ dụng cụ về quang tuyến. Nhân viên chỉ có người cầm lái và bà. Khi nào người cầm lái mắc việc hoặc ađu thì đích thân bà lái lấy. Trời mưa hay lạnh cũng mặc, bà hăng hái, nhảy xuống đường lầy để sửa xe, gỡ bánh hay chùi máy, rồi bà đích thân khuân vác đồ đạc. Cũng ăn bằng gào mên, cũng ngũ dưới lều vải, y như lính hạng nhì.
           Chiến tranh kết liễu. Nước Ba Lan, sau nửa thế kỷ nô lệ, lại hiện trên bản đồ thế giới. Bà mừng vô cùng ; bổn phận công dân của bà nay mới làm tròn được.
         Nhưng sức bà đã suy – bà đã ngoài ngũ tuần và đã lao lực trên mười năm, từ hồi ông mất – mà số tiền dành dụm được thì tiêu tan gần hết vì sự phá giá của đồng quan. Bà lo lắng không biết còn đủ sức nuôi con không.
 
                                          *


         Viên chủ nhiệm một tờ báo ở Nữu ước (New York), bà William Brown Meloney, suốt trong mấy năm, tìm mọi cách để tiếp xúc với Marie Curie mà không được. Sau bà ta phải cậy một bác học giới thiệu mới được Marie Curie tiếp ở viện Radium.
         Quen thấy những phòng thí nghiệm đồ xộ, tối tân ở Mỹ, bà ta ái ngại khi nhìn những dụng cụ thô sơ của viện, bèn hỏi:
-        Thưa bà, bà có cần mua sắm them cái gì không? Marie Curie đáp:
-        Tôi muốn có một gam radium để nghiên cứu, nhưng không thể mua được, vì giá đắ quá.
         Về Mỹ, bà Meloney nẩy ra một ý là quyên tiền để tặng Marie Curie một gam radium. Bà tax in mười nhà tỉ phú mỗi nhà giúp cho một vạn mỹ kim, nhưng chỉ có ba nhà chịu quyên. Bà bèn hô hào hết thẩy phụ nữ Mỹ, nghèo cũng như giàu, mỗi người giúp một chút, và không đầy một năm sau, bà báo tin cho Marie Curie: “ Thưa bà, tiền đã kiếm được, gam radium là của bà đấy.” Rồi dân tộc Mỹ mời Marie qua thăm xứ họ để họ được tiếp rước.
         Bà do dự, ngại đám đông, ngại tiệc tùng. Bà Meloney rán thuyết phục, bà phải nhận lời, năm 1921 đáp tàu qua Nữu Ước.
          Quần chúng hoan hô nhiệt liệt, báo chí in chữ lớnở trang đầu; để ca tụng nhà “nữ bác học ăn bận nghèo nàn” .
         Tại Bạch Ốc, Tổng thống Harding trao cho bà một hộp bằng chì chứa một gam radium tượng trưng, còn miếng radium thực thì để  ở xưỏng, vì sức phóng xạ của nó rất nguy hiểm. Bà nhận với điều kiện là trên giấy tặng, không đề tên bà mà đề phòng thí nghiệm của bà, như vậy cho mọi người thấy rằng gam radium đó không phải là tặng riêng bà.
Rồi bà đi thăm các trường Đại học, các viện thí nghiệm. Hàng núi bông chất ở dưới chân bà, hàng chồng điện tín nằm trên bàn.
        Sau lần viễn du đó bà tự thấy không có quyền được giam mình trong phòng thí nghiệm nữa! Danh bà lớn quá, khắp giới khoa học đều ngưỡng mộ thì bà phải đi xứ này, xứ khác để khuyến khích sự tìm tòi, khảo cứu. Hết thảy các nước Âu châu đều tranh nhau đón bà tới diễn thuyết và dự những hội nghị khoa học.
      Ở Ba Lan dân chúng, kẻ góp công, người góp của, dựng lên một viên radium và đạt tên là Viện Marie Sklodowka Curie. Viện cất xong, nhưng thiếu tiền mua một gam radium. Bà lại hướng về Mỹ, nhờ bà Meloney giúp sức và dân chúng Mỹ lại tặng bà một gam radium nữa.


         Còn ở Pháp? Năm 1922, ba mươi lăm ông Hàn ở Hàn lâm viện Y học ký tên trên một bản thỉnh nguyện xin viện bỏ thủ tục, bầu cử bà vào viện mà không buộc bà phải ra ứng cử. Toàn thể viện hoan hô ý kiến đó, làm cho các ông Hàn ở Hàn lâm viện Khoa học bẽ mặt.
           Năm sau, chính phủ ký một đạo luật tặng bà một phần thưởng quốc gia, một số lợi nhuận là bốn chục ngàn quan mội năm, có thể chuyển qua hai người con  của bà là Irène và Eve Curie.


         Năm sáu mươi lằm tuổi, sức đã suy nhiều mà bà vẫn làm việc mười hai hay mười bốn giờ một ngày. Nhiều người khuyên quá, bà chịu nghỉ ngơi một chút, kiếm một tập thơ hoặc một tiểu thuyết để đọc, nhưng chỉ độ nửa giờ, lại bỏ sách xuống, cầm cây viết ghi bài tính, những thí nghiệm. Có đêm, hai ba giờ sáng, bà còn thức. Trong mười lăm năm, từ hồi đại chiến thứ nhất kết liễu, bà bố cáo được ba mươi mốt công trình nghiên cứu, lại viết một cuốn tiểu sử cho chồng, tức cuốn Pierre Curie, do nhà Denoël xuất bản.


        Năm 1920, hai con ngươi của bà đục lần lần, trông cái gì cũng mờ mờ như sau một lớp sương mù. Bác sĩ lo sẽ thành bệnh mù. Bà cương quyết chống với bệnh và dặn người nhà không cho ai biết, để báo chí khỏi loan tin.
      Tới nhà thương bà mượn một tên giả là Carée và buộc bác sĩ phải gọi bà bằng tên đó. Đi đâu cũng phải có người dắt; vậy mà cũng không bỏ một buổi nào ở phòng thí nghiệm. Bà phải dùng kiếng hiển vi để nhìn và những cộng sự viên than tín phải viết chữ thật lờn để bà đọc. Các nhà giải phẩu mổ mắt bà bốn lần, đến năm 1930, bà qua được tai nạn.
      Có lần bà đã thất vọng, muốn về quê nghỉ ngơi, làm vườn, nhưng không được; cả ngàn công việc ở Viện níu chặt bà lại, bắt bà phải làm việc tới khi chết. Những nhà hảo tâm ở Khắp nơi gởi tiền về biếu Viện như ông Rochefeller, ông Henri de Rostchild, hai anh em ông Lagard. Cảm động nhất là một người nào đó đã tặng Viện ba triệu bốn trăm ngàn quan mà tìm đủ cách để giấu tên. Rồi biết bao nhà bác học trẻ tuổi ở thế giới lien lạc với bà, nhờ bà chỉ bảo, dắt dẫn. Như vậy thì làm sao mà về vườn được, mặc dầu tuổi đã trên lục tuần. Biết rằng mình không còn sống bao lâu nữa, và lại còn lo cho tương lai của Viện, bà thường than thở: “Tôi chết đi không biết Viện sẽ ra sao;” Vì đã có ai thay thế bà được đâu; sự hiểu biết, kinh nghiệm của bà về tính phóng xạ đã tới mức mà còn phải lâu lắm mới có người theo kịp.
 
                                           *


        Cuối năm 1933, chiếu điện thấy có một cục sạn lớn ở trong trái mật, bà bắt buộc phải nghỉ ngơi ít lâu; dự định cất một biệt thự ở Sceaux để dưỡng lão. Nhưng chưa kịp thì bà đã ngọa bệnh, lên cơn sốt hoài. Mới đầu bà không chịu đi bác sĩ, bảo:“ Làm phiền các ông ấy quá, trả tiền thì các ông ấy không chịu nhận.” Sao mà bà lẩn thẩn đến bực đó! Và vẫn mỗi ngày hai buổi tới Viện Radium.
     Sức đã quá suy bà phải nằm liệt giường. Các bác sĩ mò bệnh không ra: người cho bà bị bệnh cúm, người thì bảo là đau cuống phổi. Rọi kiếng hai lần, có kẻ ngờ là đau phổi: hồi xưa thân mẫu bà chẳng chết vì bệnh đó ư? Nóng lên tới bốn mươi độ. Hồng huyết cầu mất đi một cách rất mau. Vẫn không ai biết là bệnh gì. Trong cơn mê sảng, bà nhắc tới những tên Radium và Mésothorium.


      Sau cùng khi bà mất rồi (tháng 7 năm 1934) các y sĩ mới đoán được bệnh: bà bị chất phóng xạ hại. Đúng như lời giáo sư Regaud, bà là nạn nhân của những chất mà chính ông bà đã tìm ra được.
Theo lời trối trăng của bà, đám tang rất đơn giản, như đám tang của ông. Bà yên nghỉ ở chung một huyệt với ông, và dưới hai hàng chữ:


Pierre Curie
1859 -1906
Người ta khắc thêm hai hàng này nữa :
Marie Curie – Sklodowska.
1867 - 1934 
 
Chú thích :

1 - Tiền Nga
2 – Có 5 giải: Vật lý, Hóa học, Y học, Văn chương và Hòa bình
 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH