TAI NẠN MÁY BAY 19
(ĐC sưu tầm trên NET)
Động cơ đã ngưng hoạt động, nhưng phi công vẫn bay qua đám mây núi lửa thành công
Tai nạn máy bay quân sự 32 năm trước - Kỳ 1: 285 mất tích
Câu chuyện 6 tháng sau, lại tiếp tục hé mở những bí ẩn về vụ tai
nạn máy bay có nhiều nạn nhân nhất và thời gian tìm kiếm phát hiện lâu
nhất Việt Nam, từ sau 1975.
Lời tòa soạn: Cách đây 32 năm (ngày
16.9.1987), chiếc máy bay vận tải quân sự An-26 số hiệu 285 gặp tai nạn
tại vùng rừng núi Bảo Lộc (Lâm Đồng). Ngay sau khi sự việc xảy ra, ngành
chức năng đã khẩn trương cứu hộ cứu nạn, giải quyết hậu quả vụ việc. 32
năm sau vụ tai nạn, ngôi mộ tập thể của 62 nạn nhân vụ tai nạn máy bay
đã được đưa vào Nghĩa trang liệt sĩ TP.Bảo Lộc (Lâm Đồng).
Bặt vô âm tín
Sáng sớm ngày 16.9.1987, đại úy Vương Hữu Quý (lúc ấy 40 tuổi), Phó
phi đội trưởng An-26 thuộc Trung đoàn Không quân vận tải 918, Quân
chủng Không quân, nay là Lữ đoàn 918, Quân chủng Phòng không không quân
(QC PKKQ) dậy sớm, tạm biệt vợ là Nguyễn Thị Hiển (lúc đó 34 tuổi, giáo
viên trường cấp 2; nay là trường THCS) TT.Yên Viên, H.Gia Lâm, TP.Hà
Nội để vào đơn vị ở sân bay Gia Lâm, thực hiện nhiệm vụ lái chính - cơ
trưởng chuyến bay vận tải trên máy bay An-26 số hiệu 285, chặng bay Gia
Lâm - Đà Nẵng - Tân Sơn Nhất.
|
Ngồi với tôi, bà Nguyễn Thị Hiển (năm nay 66 tuổi) nghẹn ngào kể:
“Ông ấy nhường đồ ăn sáng cho 3 đứa con lít nhít, để vào ăn trong đơn
vị” và thẫn thờ: “Buổi trưa hôm ấy, ruột gan tôi nóng như lửa. Đến tối
thì biết tin máy bay mất tích”....
|
Trưa 16.9.1987, chị Võ Lan Phương khi đó 16 tuổi, đạp xe chở ba
mình là đại tá Võ Xuân Phong (Phó tham mưu trưởng mặt trận 579) ra sân
bay quân sự Đà Nẵng để đi máy bay vận tải quân sự vào TP.HCM họp tổng
kết chiến dịch mùa khô.
Đại tá Phong mới từ chiến trường Campuchia
về nước và tranh thủ ghé thăm gia đình, trước khi dự họp. Mãi gần trưa,
chiếc máy bay An-26 số hiệu 285 cất cánh từ sân bay Gia Lâm, mới hạ
xuống sân bay Đà Nẵng nhiều mây mù, đón đại tá Phong và vài cán bộ quân
đội, bay vào TP.HCM. Từ lúc máy bay cất cánh, chị Phương cứ bồn chồn
không yên. Buổi chiều tối, cả khu gia binh Quân khu 5 sững sờ khi nghe
tin: “Máy bay 285 mất tích. Trong số những người trên máy bay, có 3 cán
bộ thuộc Quân khu 5 mới lên từ Đà Nẵng lúc trưa 16.9. Đó là đại tá Võ
Xuân Phong, trung tá Ngô Tấn Phước và thiếu tá Phùng Tấn Vạn”.
|
“Chiều 16.9.1987, ruột gan tôi cũng cồn cào như lửa đốt. Buổi tối
nghe mấy người trong đơn vị nói máy bay quân sự mất tích, không ngờ trên
đó có chồng tôi”, bà Phạm Thị Chỉnh (64 tuổi, hiện đang ở P.9, TP.Đà
Lạt, Lâm Đồng) kể vậy khi chúng tôi tìm đến hỏi về chồng bà - thiếu tá
Nguyễn Công Toàn, trợ lý chính sách của Học viện lục quân Đà Lạt đi trên
chuyến bay An-26 số hiệu 285 bay ngày 16.9.1987. Bà Chỉnh kể: Năm 1977,
thiếu tá Nguyễn Công Toàn chuyển công tác từ Lữ đoàn đặc công 198 sang
Học viện Lục quân Đà Lạt và đưa vợ từ Hoa Lư (Ninh Bình) vào làm việc ở
Đoàn an điều dưỡng 198.
Ngày 14.8.1987, thiếu tá Toàn từ TP.Đà Lạt xuống TP.HCM ra công tác
Hà Nội dài ngày bằng máy bay vận tải quân sự và khi vào cũng vẫn đi máy
bay. Mãi không thấy chồng về, bà Chỉnh lên đơn vị hỏi nhưng mọi người
đều lắc đầu. Vài tháng sau, chỉ huy đơn vị mới nói thật: “Chưa biết sống
chết ra sao vì chưa tìm thấy máy bay vận tải”. “Hồi ấy, có lời dị nghị
máy bay trốn ra nước ngoài. Tôi vừa ngóng tin chồng vừa phải chống chọi
với tin đồn ông ấy vượt biên cùng máy bay. Đêm nào cũng nằm ôm 3 đứa con
và khóc thầm gọi chồng trở về”, bà Phạm Thị Chỉnh kể.
|
Tìm kiếm suốt ngày đêm
Đại tá Nguyễn Thế Cường, nguyên Phi đội trưởng phi đội, Lữ đoàn 918
rành rọt: “Thời điểm ấy, hàng không dân dụng không có nhiều máy bay nên
việc chuyên chở Bắc - Nam chủ yếu do máy bay An-26 đảm nhiệm. Mỗi ngày,
đều đặn có 3 - 5 chuyến từ sân bay Gia Lâm (Hà Nội) vào Tân Sơn Nhất
(TP.HCM) và ngược lại. Sáng 16.9.1987, chuyến bay số hiệu 285 là chuyến
bay đầu tiên từ Bắc vào Nam. Dự định sẽ hạ cánh Tân Sơn Nhất lúc 13 giờ,
nhưng chờ mãi, khi chuyến thứ 3 đã hạ cánh, liên lạc với 285 không
được, sở chỉ huy quân chủng báo động “285 mất tích”. Căn cứ vào thời
điểm hạ độ cao, đơn vị tổ chức cho các máy bay An-26 bay đi tìm, nhiều
nhất là khu vực An Lộc (Long Khánh, Đồng Nai). Trực thăng của trung đoàn
917 cũng bay tìm kiếm, nhưng bặt vô âm tín”.
|
“Những ngày sau đó, chúng tôi sống trong tâm trạng rất nặng nề vì không thấy tin tức
của An-26 số 285. Dư luận xã hội thì đồn thổi tổ bay điều khiển máy bay
trốn đi nước ngoài. Cơ quan chức năng thì liên tục xuống làm việc. Mãi 6
tháng sau, cuối tháng 3.1989 khi người dân ở Bảo Lộc (Lâm Đồng) phát
hiện và bộ đội tìm đến hiện trường, mới chắc chắn tổ bay không vượt
biên, không phản bội Tổ quốc”, đại tá Cường kể lại. (Còn tiếp)
Toàn bộ 62 người đi trên chuyến bay An-26 số hiệu 285
đều tử nạn. 6/62 người là dân sự, con em quân đội. 56 người là quân
nhân, gồm: 7 sĩ quan mang cấp hàm đại tá (Bùi Ủy, Phó tham mưu trưởng
quân chủng Hải quân; Võ Xuân Phong, Phó tham mưu trưởng mặt trận 579;
Nguyễn Thanh Phan, Thanh tra quân đội; Nguyễn Anh Dũng, BCHQS tỉnh Thuận
Hải (nay được tách thành tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận - PV); Nguyễn
Đình Lợi, Tổng cục Hậu cần; Phan Quốc Tâm, Tổng cục Kỹ thuật; Vũ Chu
Mộng, Học viện quân sự cấp cao). Số quân nhân còn lại mang hàm từ trung
tá trở xuống đến thượng sĩ và 7 cán sự - công nhân viên quốc phòng.
Trong 62 nạn nhân, có 15 nữ chủ yếu công tác tại các bệnh viện quân y.
Thương tâm hơn, đại tá Nguyễn Thanh Phan (thanh tra quân đội) và vợ là
bà Hoàng Thị Lương đi cùng chuyến bay 285 cùng tử nạn. Cũng trong chuyến
bay này có chị Hoàng Thị Minh Hải (công nhân viên Quân chủng Hải quân)
là con gái của chuẩn đô đốc Hoàng Hữu Thái, Phó tư lệnh Hải quân (giữ
chức Phó đô đốc - tư lệnh Hải quân giai đoạn 1990 - 1994)…
7 quân nhân trong tổ bay An-26 của Lữ đoàn 918 gặp tai
nạn ngày 16.9.1987, gồm: trung tá Đào Hữu Ngoan (SN 1936, trung đoàn
trưởng, quê Tiên Lữ, Hưng Yên); đại úy Vương Hữu Quý (SN 1947, Phó phi
đội trưởng An-26, quê Bích Sơn, Việt Yên, Bắc Giang); thượng úy Ngô Khắc
Sự (SN 1962, lái phụ máy bay An-26, quê Hòa Nam, Ứng Hòa, Hà Nội);
thượng úy Nguyễn Quốc Hòe (SN 1959, dẫn đường trên không An-26, quê Minh
Đạo, Tiên Du, Bắc Ninh); thượng úy Nguyễn Ngọc Vân (SN 1959, dẫn đường
trên không An-26, quê Trung Lương, TX.Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh); thượng úy
Triệu Minh Sơn (SN 1960, Cơ giới trên không An-26, quê Phú Xuyên, Đại
Từ, Thái Nguyên); trung úy Nguyễn Xuân Loan (SN 1959, Thông tin trên
không An-26, quê ở Nguyệt Đức, Yên Lạc, Vĩnh Phúc)…
Máy bay An-26 số hiệu 285 gặp nạn ngày 16.9.1987 tại
Lộc Châu (Bảo Lộc, Lâm Đồng), được sản xuất tại Liên Xô (cũ) với số xuất
xưởng 11707, tháng 12.1981. Vào Việt Nam tháng 7.1982. Giờ hoạt động:
980/4.000 giờ. Số lần cất hạ cánh: 820 lần. (Đại tá Nguyễn Thanh Lâm, nguyên Giám đốc nhà máy A41, QC PKKQ)
Máy bay An-26 số hiệu 285 nằm trong lô cuối của loạt An-26 viện trợ cho Việt Nam
Năm 1979, theo thỏa thuận giữa 2 nhà nước Liên Xô (cũ)
và Việt Nam, Chính phủ Liên Xô viện trợ cho Quân chủng Không quân 1
trung đoàn máy bay vận tải quân sự An-26. Đây là loại máy bay vận tải
tầm trung, chở được khoảng 50 hành khách, tốc độ bay 400 - 500 km/giờ,
tầm bay khoảng 2.000 km; phù hợp với địa hình Việt Nam.
Đầu năm 1981, loạt máy bay An-26 đầu tiên do Liên Xô
viện trợ đã về đến Việt Nam để lắp ráp, đưa vào sử dụng. Tháng 7.1981,
Trung đoàn 918 tiếp nhận phi đội máy bay An-26 thứ 2, nâng tổng số lên
20 chiếc.
Trong năm 1982, thêm một số máy bay An-26 được chuyển
từ Liên Xô sang Việt Nam và máy bay số 285 nằm trong số này. Ngay sau
khi được đưa vào biên chế, 285 đã tham gia nhiệm vụ chiến đấu đầu tiên
của trung đoàn bằng máy bay An-26 và sau đó là các chuyến bay tại tại
chiến trường Campuchia, vận tải quân sự Bắc - Trung - Nam…
Máy bay An-26 số hiệu 285 nằm trong lô cuối của loạt
An-26 viện trợ cho Việt Nam nên còn rất mới, thường được dùng làm
“chuyên cơ” chở các lãnh đạo, đoàn khách quan trọng. Hai lái chính đều
chuyển từ tiêm kích sang bay cánh quạt từ lâu, tích lũy rất nhiều giờ
bay và kinh nghiệm. Chỉ có 2 nhân viên dẫn đường là đang kèm cặp nhau. (Đại tá Nguyễn Duy Lê, nguyên Trung đoàn trưởng 918)
Ngày 16.9.1987, trong khi thực hiện chuyến bay nhiệm vụ
đường dài Gia Lâm - Tân Sơn Nhất, máy bay An-26 số 285 của tổ bay Vương
Hữu Quý (lái chính), Đào Hữu Ngoan, quyền Trung đoàn trưởng (lái phụ)
gặp tai nạn ở khu vực rừng núi tỉnh Lâm Đồng. Tổ bay và toàn bộ hành
khách đi trên chuyến bay đều tử nạn. Đây là vụ tai nạn đặc biệt nghiêm
trọng, trực tiếp ảnh hưởng tới sức chiến đấu của quân chủng Không quân
và của trung đoàn, gây chấn động trong dư luận xã hội và không khí trong
đơn vị. Do không sớm xác định được nguyên nhân tai nạn và vị trí máy
bay rơi nên vụ tai nạn đã gây hậu quả về nhiều mặt và kéo dài nhiều
tháng… (Nguồn: Lịch sử Lữ đoàn không quân 918)
Tai nạn máy bay quân sự 32 năm trước - Kỳ 2: Vừa tìm vừa canh Fulro
Ông K´Rim (SN 1952, ở xã Lộc Tân,
Bảo Lâm, Lâm Đồng) là người đầu tiên nhận nguồn tin và lên núi Lẹp xác
minh máy bay An-26 số hiệu 285 rơi.
Chúng tôi may mắn tìm gặp và được nghe thuật lại câu chuyện, trước khi ông mất, cuối tháng 8.2018.
Ngổn ngang núi Lẹp
Cuối tháng 3.1988, ông K´Rim lúc đó là đại úy, Phó chỉ huy trưởng
quân sự H.Bảo Lộc (Lâm Đồng) nhận được tin từ nhóm thanh niên thôn Đạ
Nghịch (Lộc Châu, Bảo Lộc, Lâm Đồng): “Trên núi Lẹp có cái giống như máy
bay, xung quanh có nhiều người chết ngổn ngang”. “Ban đầu cứ nghĩ là
máy bay Mỹ rơi hồi trước giải phóng. Nhưng khi lục lại điện cơ yếu của
tỉnh mới giật mình: Có phải máy bay vận tải của ta mất tích cách đây nửa
năm và Bộ Quốc phòng đã yêu cầu quân sự các địa phương tìm kiếm?”, ông
K´Rim nhớ lại và kể: “Tôi lấy một tổ trinh sát trang bị đầy đủ vũ khí,
hành quân lên địa điểm dân chỉ. Mất 1 ngày đêm mới tới nơi vì đó là khu
vực rừng nguyên sinh trên đỉnh núi cao hơn 1.000 m rất khó tiếp cận.
Xung quanh đấy lại rất nhiều bọn phản động Fulro”.
|
“Kinh hoàng” là câu ông K´Rim thốt lên khi nói chuyện với chúng
tôi. Chiếc máy bay đâm thẳng vào tảng đá to trên đỉnh, phần đuôi bị hất
văng lên là còn nguyên vẹn và nằm cách tảng đá lớn, xa vài chục mét. Các
mảnh vụn máy bay vung vãi, miếng to nhất khoảng chừng chiếc bàn. Nguyên
vạt rừng xém lá vì máy bay sà xuống. Cả hẻm núi nơi máy bay lao xuống,
vương vãi các mảnh thi thể và ngổn ngang đồ đạc vật dụng, giấy tờ sổ
sách, bản đồ…
|
“Ở dưới hang sâu cạnh tảng đá to, rất nhiều thi thể nằm đó...”, ông
K´Rim nói và lắc đầu: “Do trời tối có thể bị Fulro tập kích nên chúng
tôi nhặt một số bộ phận máy bay, giấy tờ sổ sách gùi ra báo cáo cấp
trên. Lúc ấy muốn tìm hộp đen mà không biết nó ra sao”. Xác thực của ông
K´Rim cùng một số vật chứng, được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng
chuyển gấp về Bộ Quốc phòng. Lúc ấy, các đoàn công tác của Bộ tổng tham
mưu, Quân chủng Không quân… mới tấp nập tìm đến TX.Bảo Lộc, lúc ấy còn
hiu hắt.
|
Vào hiện trường cùng nhân chứng sống
Từ câu chuyện của ông K´Rim, mới đây chúng tôi lên TP.Bảo Lộc và
H.Bảo Lâm (Lâm Đồng) tìm gặp lại những người chứng kiến, tham gia cứu
nạn. Nhân chứng đầu tiên chúng tôi gặp là ông K'Jeo, Bí thư chi bộ thôn 1
(xã Lộc Tân, H.Bảo Lâm), người trực tiếp tham gia cứu nạn, thu dọn hiện
trường cùng lực lượng quân đội. Khi chúng tôi đặt vấn đề vào lại hiện
trường, K'Jeo muốn lắm nhưng cũng chịu vì sức khỏe
yếu, nên chỉ đường tìm đến anh K'Woan - người rành rẽ mọi con đường,
hẻm đá trên núi Lẹp và biết chỗ máy bay quân sự An-26 số hiệu 285 rơi.
|
K'Woan (48 tuổi, người Châu Mạ ở thôn Đạ Nghịch, xã Lộc Châu,
TP.Bảo Lộc), tò mò nhìn 3 chúng tôi: “Khó lắm, lại rắn rết, muỗi vắt. Bị
làm sao không khiêng được đâu”. Thấy chúng tôi cương quyết, K'Woan đành
gọi 2 người trong nhóm chuyên đi rừng của mình là K'Tiền (49 tuổi),
K´Phúc (31 tuổi) đến bàn bạc kế hoạch vào hiện trường và chỉ K'Tiền: “32
năm trước, ông ấy trẻ nhất trong nhóm 7 người tìm trầm phát hiện ra máy
bay”. Sau khi tính toán chi tiết thời gian, K'Woan nhắc: “Nghỉ trước 1
ngày lấy sức, để hôm sau đi nguyên ngày. Cương quyết không ngủ lại trong
rừng. Thợ rừng còn không dám đấy”.
Sáng sớm hôm sau, 6 người chúng tôi ngồi trên 3 xe máy chuyên đi
rừng, chạy từ nhà K´Woan qua lầy lội đồi thông, cỏ gianh, rừng trồng vào
chân núi Lẹp. Sau khi giấu xe máy vào các bụi cây, 3 người thợ rừng
Châu Mạ lôi ra bịch muối ăn, quết dày từ chân lên ngang đùi, giải thích:
“Rừng già mùa mưa nên rất nhiều vắt. Đã có người bị vắt hút nhiều máu,
kiệt sức và bị chết” và dặn đi dặn lại: “Tất cả phải đi gần nhau vì
đường quanh co, hiểm trở, dễ lạc. Năm trước đã có người địa phương bị
lạc và chết cả tháng mới thấy”.
Đi bộ từ 6 giờ sáng. Con dao dài trên tay 3 người thợ rừng loang
loáng chặt cây phát cỏ lấy đường. Leo lên sườn đồi dốc, chui qua trảng
cỏ tranh, lội ngang chân vượt suối, bíu vách đá trơn nhẫy, bíu lưng áo
nhau trườn qua gốc cây rêu xanh mốc trong rừng âm u… 9 giờ sáng đến độ
cao 880 m, K´Woan dừng lại ven mấy tảng đá to, chỉ lên trên: “Đồng bào
mình thờ máy bay ở đây”. Ngẩng lên: Một bức tượng và mấy lọ cắm hoa rêu
bám đầy, được dính chặt trên tảng đá bằng xi măng. 3 người dân tộc ngồi
nhìn chúng tôi thắp hương, bảo: “Hồi trước, thi hài người rơi máy bay
được bốc lên để đây”.
Từ chỗ bàn thờ tụt xuống khoảng 200 m là địa hình có tảng đá to nhô
ra như mái nhà, che chắn cho phần bằng phẳng ngay dưới. K´Tiền chỉ:
“Hồi ấy bộ đội vào đóng quân, ăn ngủ ở đây để quy tập hài cốt người đi
máy bay” và dẫn chúng tôi vào phát cây, chỉ cho xem chỗ nấu cơm còn ám
khói, cọc sắt làm nhà bạt hoen rỉ… Lên xuống vòng vèo chừng 2 tiếng đồng
hồ, chúng tôi được dẫn chui qua hang rộng, trèo lên những tảng đá to
như mái nhà để vào khe núi, nơi máy bay An-26 số hiệu 285 đâm vào ngày
16.9.1987.
32 năm trôi qua, tảng đá to nhất trên đỉnh núi Lẹp cao chừng 30 m
vẫn nguyên xi như trong tấm hình tư liệu tôi có. Từ tảng đá nhìn ra phía
trước, vẫn thấy nguyên vạt rừng hướng Tây Bắc cây thấp bất thường,
không mọc lên nổi. K´Tiền chỉ vạt rừng thấp bảo: “Thân máy bay làm gãy
hết cây, dầu máy bay chảy xuống nên cây không lên đâu” và gượng nhẹ nhìn
xuống hang sâu dưới chân tảng đá: “Người chết đổ hết xuống đây”.
Cả
tiếng đồng hồ tìm kiếm mong gặp lại vài di vật, chúng tôi đành chịu
thua vì cơn mưa rừng bất ngờ đổ xuống ào ạt. K´Woan kéo cả đoàn bò lên
đỉnh tảng đá, che áo mưa để K´Tiền lấy trong chỗ đồ ăn mỗi thứ một chút,
bày lên tờ báo: “Ai đi qua đây cũng phải cúng chút đồ ăn uống thì mới
dễ xuống núi”. Tôi đốt bó hương, châm điếu thuốc, mở nắp chai nước đặt
cạnh chiếc bánh mì, quả dưa leo, con cá khô, nửa bát cơm trắng… Tự dưng
mưa tạnh ngắt, mây mù trên núi âm u kéo về. Cả đoàn, ai cũng gai lạnh.
32 năm vẫn sợ
Câu chuyện tìm thấy máy bay An-26 được K'Tiền dần kể lại trong hành
trình vào ra hiện trường. Năm 1988, K'Tiền mới 17 tuổi và đi cùng 6
thanh niên trong thôn đi rừng tìm lâm sản. Một buổi trưa cuối tháng
3.1988, cả nhóm tới điểm cao nhất của núi Lẹp thì thấy một khoảng rừng
bị bạt ngang tạo thành khoảng trống rất lớn. Ban đầu ai cũng nghĩ là dân
tìm trầm hạ cây, nhưng khi leo lên hòn đá cao nhất, K´Tiền mới thấy
cảnh tượng hãi hùng: Một “xe máy bay” (đó là lần đầu tiên K'Tiền thấy
máy bay - PV) to khủng khiếp bị nát vụn khi đâm vào tảng đá. Đuôi máy
bay bị búng bay ra xa ở phía trên của tảng đá còn phần đầu rớt xuống vực
phía dưới tảng đá. Trên tảng đá có hàng chục thi thể.
|
“Thấy nhiều người chết, cả bọn sợ hãi cắt rừng về nhà. Hôm sau, anh
K´Dẻo là người lớn nhất trong nhóm, lại là du kích thôn nên dẫn mấy
người trong nhóm (K'Lô, K'Chối, K'Chim) ra báo xã. Tôi thì sợ quá, nằm
nhà đến mấy ngày”, K'Tiền nói và cho hay: Ngoài xác người, xương cốt…
tại hiện trường khi đó còn có một số vật dụng rơi vãi khắp nơi như cánh
máy bay, khung sườn, lốp xe đạp, quần áo, giày dép, chăn màn, dây điện…
|
K'Tiền tiết lộ thêm: Trước khi nhóm ông phát hiện, cũng có người đi
đặt bẫy thú thấy máy bay rơi nhưng không dám báo chính quyền vì sợ mang
“ma rừng” về nhà. Sau khi có tin báo, máy bay trực thăng bay vè vè suốt
ngày và hàng trăm bộ đội, công an đổ về Lộc Châu thu nhặt, dọn dẹp hiện
trường. Quân đội đã chọn địa điểm nằm cách hiện trường chừng 500 m để
tập kết lực lượng, hậu cần và tập trung hài cốt trong hơn 1 tháng trời.
Với K'Tiền, đến giờ vẫn không dám lên núi Lẹp, vì quá hoảng sợ… (Còn tiếp)
Sau vụ máy bay rơi, địa danh núi Lẹp ở Bảo Lộc (Lâm
Đồng) được đồng bào Châu Mạ đổi tên thành “đồi máy bay”; các ngã ba của
cung đường dẫn tới hiện trường cũng có tên gọi “ngã ba máy bay 1 và 2”
như để tưởng nhớ vụ tai nạn thảm khốc.
Vừa qua, qua sự phát hiện của 1 thanh niên người dân
tộc thiểu số ở H.Báo Lộc (Lâm Đồng) các cơ quan quân sự của ta đã tìm
thấy và thu lượm được xác máy bay cùng hài cốt và giấy tờ của những
người bị nạn. Đây là chiếc máy bay An-26 mang số hiệu 285 rơi ngày
16.9.1987 trên đường bay Đà Nẵng - Tân Sơn Nhất, sau khi đâm vào 1 tảng
đá rộng 20 m trên bình độ 900 ở tây bắc TX.Bảo Lộc 13 km vào lúc mây mù
dày đặc, mưa to gió lớn. Sau vụ tai nạn này, các cơ quan quân sự đã tiến
hành nhiều biện pháp tìm kiếm, nhưng không phát hiện được vì nơi máy
bay rơi là khu vực núi non hiểm trở, ít người dân qua lại, lá rậm che
khuất… (Báo Nhân dân số 12336, ra ngày 21.4.1988)
Hồi đó vì có nhiều tin hoang báo, chuyến bay lại có
nhiều cán bộ cấp cao nên Quân chủng và Bộ Quốc phòng thành lập các đoàn
điều tra tai nạn. Nhưng kết luận thì không được rõ, vì các chứng cứ
không được thu thập đầy đủ. Đến khi tìm được vị trí máy bay gặp nạn thì
đã hơn 6 tháng, nên cũng khó cho công tác điều tra tìm hiểu. Trong điều
kiện các phương tiện kiểm tra khách quan đều thiếu và yếu, nên chỉ kết
luận để phòng ngừa và lo cho các công tác chính sách… Tới giờ, tôi vẫn
âm âm u u về vụ việc này…(Đại tá Nguyễn Duy Lê, nguyên trung đoàn
trưởng 918, nguyên trưởng phòng quản lý điều hành bay, Quân chủng Phòng
không - Không quân)
Tai nạn máy bay quân sự 32 năm trước - Kỳ 3: Thu dọn hiện trường như chiến đấu bên 'K'
'Hồi phát hiện địa điểm máy bay
An-26, khu vực Bảo Lộc (Lâm Đồng) vẫn còn nhiều Fulro nên công tác cứu
hộ cứu nạn, thu dọn hiện trường y như chiến đấu bên K', thiếu tá KRim,
nguyên Phó chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự TX.Bảo Lộc (nay là TP.Bảo
Lộc) kể.
Vừa quay phim vừa khóc
|
Cuối tháng 3.1988, ông Đặng Phước Ngọc là phóng viên (PV) quay phim
của Đài Phát thanh - Truyền hình (PTTH) Lâm Đồng. Hôm ấy đang ở nhà thì
người của đài gọi ông đến cơ quan lấy máy quay M7 và lên xe quân sự đi
“công tác bí mật”. Đến Ban chỉ huy quân sự (BCHQS) TX.Bảo Lộc, ông mới
được thông báo “vào quay phim ghi hình hiện trường máy bay An-26 rơi”.
|
Chiều hôm đó, ông Ngọc được bộ đội dẫn vào rừng, nghỉ đêm giữa
đường mòn. Gần trưa hôm sau lên đến đỉnh núi Lẹp (Lộc Châu, Bảo Lộc, Lâm
Đồng), ông Ngọc phải trượt xuống khe núi nơi máy bay rơi. Đập vào mắt
ông là hình ảnh phần đầu và thân máy bay nằm trong khe núi, phần đuôi bị
hất văng lên đỉnh phiến đá to. Sau khi quay cận cảnh máy bay An-26 số
hiệu 285, ông đến từng khu vực ghi lại toàn bộ hiện trường ngổn ngang
những mảnh vỡ, thi thể và cả vật dụng cá nhân. “Trong hang sâu dưới tảng
đá to có rất nhiều thi thể nhưng tôi không xuống được vì máy quay
nặng”, ông Đăng Phước Ngọc rành mạch và nhớ: “Phải ra ngay trong đêm để
nộp băng”.
|
Buổi sáng ra đến trụ sở BCHQS TX.Bảo Lộc, ông Ngọc và người đồng bào dân tộc dẫn đường lại được đưa lên máy bay trực thăng
để chỉ hiện trường quan sát và ghi hình từ trên cao. Xong việc, trực
thăng hạ xuống TX.Bảo Lộc, đã thấy ông Phạm Tuân (lúc đó là thiếu tướng,
Chủ nhiệm chính trị Quân chủng Không quân - QCKQ) cùng đợi sẵn.
Ông Phạm Tuân
bảo: “Anh theo tôi lên máy bay ra Hà Nội để giao tư liệu” nhưng ông
Ngọc lắc đầu: “Tôi được đài cử đi nên chỉ giao băng cho đài”. Những cuốn
băng do ông Đặng Phước Ngọc quay hiện trường vụ tai nạn máy bay An-26
số hiệu 285, ngay lập tức được lãnh đạo Đài PTTH Lâm Đồng giao cho BCHQS
tỉnh và chuyển ra Bộ Quốc phòng. “Người đồng bào dẫn đường cho chúng
tôi tên là K´Dẻo. Anh ấy là người đi trong nhóm thanh niên làng Đạ
Nghịch phát hiện máy bay rơi và về báo chính quyền. Trưa hôm ấy, K´Dẻo
còn chỉ cho tôi quay từ trên xuống dưới cái hang có rất nhiều thi thể
nằm dưới”, ông Ngọc hồi tưởng và lắc đầu: “Đã từng đi bộ đội đánh Fulro
và lúc ấy đã 36 tuổi, nhưng chưa bao giờ thấy thảm khốc vậy. Tôi vừa bấm
máy quay vừa khóc”.
|
Đục số hiệu máy bay làm chứng
Trung
tá Nguyễn Hồng Thái, cán bộ phòng Chính trị Lữ đoàn không quân 918 đến
giờ vẫn nhớ quãng thời gian đầu tháng 4.1988, khi đó mới 24 tuổi là
thượng úy, trợ lý bảo vệ an ninh của trung đoàn 918, cùng tham gia đoàn
tìm kiếm cứu nạn của Bộ tổng tham mưu (BTTM) Quân đội nhân dân Việt Nam
vào tận hiện trường máy bay An-26 số hiệu 285 gặp nạn.
Đoàn khoảng 40 người, do trung tướng Nguyễn Thế Bôn, Phó tổng tham
mưu trưởng dẫn đầu, chia làm 2 nhóm: Các sĩ quan cao cấp của BTTM, QCKQ
đi trực thăng từ Hà Nội vào TX.Bảo Lộc; nhóm đi ô tô từ TP.HCM lên, gồm
đại diện các cơ quan của Bộ Quốc phòng phía Nam và một số cán bộ, nhân
viên kỹ thuật trung đoàn 918. “Xuất phát từ TP.HCM sáng ngày 1.4.1988,
tôi nhớ rất rõ bởi hôm ấy là ngày giỗ bố tôi”, trung tá Thái chắc chắn
và hồi tưởng: “Xe chạy đến Định Quán (Đồng Nai) thì hỏng nên anh Thái
phải vẫy các loại xe nhờ cho mọi người đi trước, sau đó mới lên Bảo Lộc.
Hồi ấy, Fulro vẫn còn hoạt động mạnh ở Lâm Đồng, nên đèo Bảo Lộc bị cấm
lưu thông từ 22 giờ tới sáng hôm sau, chỉ có xe Công an, quân đội có vũ
trang được qua. Do khoác khẩu AK kèm 4 băng đạn nên chiếc xe chở anh
Thái được ưu tiên cho qua và 3 giờ sáng 2.4, anh mới tới BCHQS TX.Bảo
Lộc”.
|
Ăn sáng xong, cả đoàn lên mấy chiếc xe hành quân vào chân núi và
cuốc bộ dưới sự bảo vệ chặt chẽ của bộ đội địa phương. Lưng đeo ba lô
nước uống, cơm nắm, trứng luộc, tay lăm lăm súng AK, thượng úy Thái đưa
GS-TS Vũ Ngọc Thụ, Viện trưởng Pháp Y quân đội vào đến hiện trường đúng
buổi trưa, cùng đoàn công tác. “Từ trên vách đá đã ngửi mùi tử khí nồng
nặc dưới khe núi. Chúng tôi đu dây mây cả mấy chục mét xuống được hiện
trường và chứng kiến cảnh hài cốt đang phân hủy nằm ngổn ngang cùng với
các mảnh vỡ máy bay. Xem xét hiện trường cho thấy sau khi rơi, máy bay
không bị cháy và đây cũng là lý do khiến các máy bay tìm kiếm không phát
hiện ra. Khám nghiệm hiện trường xong, cả đoàn từ trung tướng cho đến
chiến sĩ, chia nhau đi nhặt các phần hài cốt. Tôi cùng mấy chiến sĩ leo
lên tảng đá to máy bay đâm vào để nhặt từng lọn tóc con gái còn dính
trên đó”, trung tá Thái thuật lại rồi trầm giọng: “Tôi và các anh Thân
Văn Thay (trung đội trưởng thiết bị hàng không), Nguyễn Văn Tùng (trung
đội trưởng vô tuyến điện tử), Lê Văn Tiên (trung đội trưởng máy bay động
cơ) được giao đục số hiệu 285 ở đuôi đứng máy bay, mang về báo cáo Bộ
Quốc phòng để không bị nói làm giả hiện trường và dập tan dư luận đồn
thổi máy bay trốn ra nước ngoài. Việc thu dọn hài cốt, xử lý hiện trường
sau đó được giao cho Đại đội 3, Tiểu đoàn 5, Lữ đoàn 144 và cơ quan
quân sự địa phương”. “Mấy ngày liền thu dọn dưới trời nắng nóng, mùi tử
khí nồng nặc, sương mù, muỗi vắt… nhưng ai cũng cố gắng vì đó là đồng
đội mình”, trung tá Thái nói.
|
Đại tá Nguyễn Duy Lê nhớ lại ngày 2.4.1988, ông là Phó trung đoàn
trưởng - tham mưu trưởng 918 đi cùng đoàn của BTTM vào hiện trường máy
bay rơi: “Hôm ấy có thiếu tướng Nguyễn Hồng Nhị (khi đó là Phó tư lệnh -
tham mưu trưởng QCKQ) dẫn đầu đoàn. Khám nghiệm xong, cả anh Nhị, anh
Lan (phi công Phạm Ngọc Lan, khi đó là đại tá - Cục trưởng Huấn luyện
của QCKQ) thấy tôi đang cùng anh em thả cáp hàng của An-26 xuống hang
sâu dưới tảng đá để đưa thi thể lên, cũng vào làm cùng. Khi rút ra khỏi
hiện trường, đi được một đoạn, anh Nhị bảo tôi: “Cậu cùng anh em quay
lại đục thêm cái số hiệu 285 ở thân máy bay mang về, để trưng bày cho
người dân biết là không có chuyện phi công chúng ta lái máy bay trốn
sang nước ngoài” và trầm ngâm: “Miếng số hiệu ấy to bằng cái bàn, chúng
tôi đục mãi mới xong và vất vả lắm mới khiêng được ra bìa rừng...”. (Còn tiếp)
Nhận xét
Đăng nhận xét