Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2020

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 305



(ĐC sưu tầm trên NET)
                                   
              Chuyên án C30: Chiến dịch phản gián hoàn hảo - Phần 1 - Giữa hai chiến tuyến - antv
 
Chuyên án C30 : Chiến dịch phản gián hoàn hảo - Phần 2 : Sự hi sinh vô hình - ANTV


Nữ điệp viên sát thủ thầm lặng thời Thế chiến thứ hai

Thùy Dương |



Nữ điệp viên sát thủ thầm lặng thời Thế chiến thứ hai

Krystyna Skarbek, còn gọi là Christine Granville, là người phụ nữ đầu tiên làm điệp viên đặc biệt cho Anh trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Bà cũng là nữ điệp viên phục vụ lâu nhất cho Anh.

Theo trang military-history.org, đóng góp phi thường cho quân Đồng minh trên ba chiến trường đã mang về cho bà Huân chương George và Huân chương Đế quốc Anh do Anh trao tặng, Chiến công Bội tinh do Pháp trao tặng và rất nhiều phần thưởng khiến bất kỳ vị tướng nào cũng phải tự hào.
Tuy nhiên, khi cuộc chiến kết thúc 7 năm thì bà đã qua đời vì bị sát hại trong một khách sạn ở Nam London bằng một con dao rất giống con dao bà từng mang theo trong suốt cuộc chiến tranh.
Con đường thành điệp viên
Nữ điệp viên sát thủ thầm lặng thời Thế chiến thứ hai - Ảnh 1.
Ảnh: military-history.org
Skarbek sinh năm 1908 ở Warsaw, là con thứ hai của một nhà quý tộc Ba Lan và một người thừa kế ngân hàng Do Thái. Gia đình Skarbek rất giàu có.
Bà là một người đẹp Ba Lan thời trước chiến tranh, có nét giống cha và thích cưỡi ngựa giống ông. Thay vì ngồi nghiêng khi cưỡi ngựa giống phụ nữ thời đó, Skarbek ngồi trên lưng ngựa như đàn ông. Skarbek trở thành người trượt tuyết thành thạo trong các chuyến đi tới Zakopane ở núi Tatra, miền Nam Ba Lan.
Tuy nhiên, Skarbek không phải là người có triển vọng để làm việc trong Cục Tình báo Mật của Anh (SIS). Phần lớn sĩ quan và đặc vụ của SIS đều được tuyển dụng thông qua mạng lưới nam giới. Skarbek không phải là nam giới, cũng phải là người Anh.
Dù vậy, vào cuối năm 1939, Skarbek đã chủ động yêu cầu được xem xét tuyển dụng. Với kiến thức và kỹ năng xuất sắc, Skarbek khiến người Anh không thể từ chối.
Khi đó, Anh nóng lòng muốn biết Đức quốc xã đang tổ chức thế nào bên trong Ba Lan bị chiếm đóng. Skarbek biết nói tiếng Ba Lan, Pháp và Anh, đồng thời có mối liên lạc tuyệt vời ở Warsaw và khắp Ba Lan.
Tuy nhiên, điều khiến Skarbek trở thành ngoại lệ là trước chiến tranh, thay vì ngồi yên và sống cuộc sống buồn tẻ của một nữ bá tước, Skarbek từng thích công việc tuồn lậu thuốc lá vào Ba Lan qua dãy núi Tatra cao ngất. Do đó, bà cũng biết các tuyến đường bí mật ra và vào Ba Lan.
Sứ mệnh nguy hiểm
Nữ điệp viên sát thủ thầm lặng thời Thế chiến thứ hai - Ảnh 2.
Ảnh: backtonormandy.org
Năm sau đó, Skarbek đảm nhận các sứ mệnh nguy hiểm và bà đi lại chủ yếu bằng cách trượt tuyết từ đất nước Hungary khi đó trung lập vào Ba Lan bị chiếm đóng.
Bà mang thông tin, tiền bạc cho phong trào kháng chiến Ba Lan đang non nớt, đảm nhận nhiệm vụ tìm kiếm thông tin, chuyển thông tin, mã vô tuyến, sách mật mã và vi phim (được giấu trong găng tay) ra ngoài.
Nhiều lần, nhờ sự nhanh trí mà Skarbek đã không chỉ cứu mạng sống của chính mình mà còn cả mạng sống của các đồng nghiệp nam. Một báo cáo từ tài liệu chính thức của Anh nói rằng Skarbek thể hiện trí tuệ tuyệt vời và giúp cả mình và một sĩ quan Ba Lan được thả sau khi bị kẻ địch bắt.
“Trí tuệ tuyệt vời” mà báo cáo nhắc tới được Skarbek thể hiện trong một lần thẩm vấn. Bà cố tình ho khan để trông mình ốm yếu. Bà liên tục cắn lưỡi để làm ra vẻ là ho ra máu, một triệu chứng điển hình của bệnh lao. Rất kinh hãi bệnh này nên Đức quốc xã đã tống cả bà và sĩ quan Ba Lan ra ngoài đường vì cho rằng cả bà và viên sĩ quan đều nhiễm bệnh.
Trong số những thông tin mà Skarbek tuồn ra ngoài biên giới, có bằng chứng bằng phim đầu tiên về sự chuẩn bị của Đức quốc xã cho Chiến dịch Barbarossa - cuộc xâm chiếm đồng minh của Anh khi đó là Liên Xô.
Theo lời Sarah Oliver, con gái Thủ tướng Anh Winston Churchill khi đó, khi phim này được đặt lên bàn Thủ tướng, ông đã nhận xét rằng Skarbek là điệp viên ông yêu thích.
Phần lớn điệp viên thời đó thường làm người đưa thư hoặc điều hành vô tuyến ở nước Pháp bị chiếm đóng – nơi mà phụ nữ khỏe mạnh đi khắp nơi sẽ ít bị lực lượng chiếm đóng nghi ngờ hơn là nam giới.
Khi đó, Skarbek đang làm việc ở Ai Cập và Trung Đông, đều làm nhiệm vụ cung cấp thông tin tình báo và tiếp nhận huấn luyện. Bà học về mật mã, kể cả mã Morse, truyền phát không dây, nhảy dù, vũ khí và chất nổ và chủ đề mà bà giỏi nhất: giết người thầm lặng.
Mùa hè năm 1944, Skarbek chuẩn bị được thả xuống bằng dù đằng sau chiến tuyến ở Pháp. Tại đây, bà đảm nhiệm công việc sẽ khiến bà trở thành huyền thoại trong lực lượng đặc biệt.
Tổ chức kháng chiến
Nữ điệp viên sát thủ thầm lặng thời Thế chiến thứ hai - Ảnh 3.
Ảnh: military-history.org
Skarbek được cử tới Pháp để làm người đưa thư cho đặc vụ Francis Cammaerts của Đội Tác chiến Đặc biệt (SOE), điều phối quân nhu và huấn luyện, phụ trách liên lạc trong và ngoài nước cho quân kháng chiến Pháp để chuẩn bị cho ngày D-Day ở miền Nam nước Pháp.
Trong số nhiều thành tựu khác, bà đã thiết lập được liên lạc đầu tiên giữa các đơn vị kháng chiến Pháp và dân quân kháng chiến Italy ở hai phía dãy núi Alps. Khi xác định được một chỉ huy Italy trong một cuộc đấu súng, Skarbek nhanh chóng liên lạc và gửi yêu cầu của người này về cung cấp súng, đồng phục và thịt đóng hộp.
Sau đó, Skarbek nhanh chóng trở về núi một mình nhằm bảo đảm an toàn trên con đèo chiến lược cho toàn bộ binh lính chiến đấu cho Đức quốc xã trong một đơn vị đồn trú muốn đào tẩu. Khi có tín hiệu, lính nghĩa vụ Ba Lan tại đơn vị đồn trú này đào tẩu.
Trước tiên, họ vô hiệu hóa vũ khí hạng nặng bằng cách tháo các chốt khai hỏa tấm thép đóng khóa nòng súng. Sau đó, họ cố gắng mang theo súng máy và súng cối càng nhiều càng tốt.
Francis Cammaerts về sau bị bắt tại rào chắn cùng với hai đồng đội và bị kết án tử hình. Khi lực lượng kháng chiến địa phương thẳng thừng từ chối huy động người và nguồn lực để giải cứu họ, Skarbek đã đạp xe tới nhà tù – nơi họ bị giam và giải cứu cả ba người bằng mưu mẹo thông minh trước khi họ bị hành quyết vài tiếng.
Khi đó, Skarbek đã gặp chỉ huy cảnh sát mật Đức ở Digne-les-Baines (Pháp), nói với anh ta rằng mình là điệp viên Anh và thuyết phục anh ta vừa bằng đe dọa, nói dối lẫn bằng khoản hối lộ 2 triệu franc để thả các đặc vụ SOE. Dường như lòng dũng cảm và năng lực của Skarbek không có giới hạn.
Tình yêu và tự do
Nữ điệp viên sát thủ thầm lặng thời Thế chiến thứ hai - Ảnh 4.
Ảnh: lifedaily.com
Skarbek là một phụ nữ rất sôi nổi. Bà thích hành động và mạo hiểm. Bà có hai người chồng và rất nhiều người tình trong những năm tháng chiến tranh dữ dội.
Ngày 21/4/1930, Skarbek kết hôn với người chồng đầu tiên là một doanh nhân trẻ tên Gustaw Gettlich ở Warsaw. Họ không hợp nhau và cuộc hôn nhân nhanh chóng kết thúc. Sau đó bà có một mối tình nhưng không đi đến đâu khi mẹ của người tình không đồng ý cho con trai lấy một phụ nữ ly hôn không xu dính túi.
Một ngày nọ, khi đang trượt tuyết, Skarbek mất kiểm soát và được một người đàn ông cứu. Người đó là Jerzy Gizycki, xuất thân từ một gia đình giàu có ở Kamieniec Podolski. Họ kết hôn ngày 2/11/1938.
Không lâu sau đó, Gizycki nhận nhiệm vụ ngoại giao ở Ethiopia cho tới khi Ba Lan bị Đức chiếm đóng. Về sau Skarbek nói về Gizycki: “Anh ta kiểm soát tôi trong quá nhiều năm tới mức anh ta sẽ không bao giờ tin rằng tôi có thể bỏ anh ta mãi mãi”.
Trên hết, Skarbek yêu tự do và độc lập vì bản thân, vì Ba Lan và vì mọi nước Đồng minh đối mặt với Đức quốc xã. Bi kịch thay, cuộc đời bà lại ngắn ngủi. Sau chiến tranh không lâu, bà bị một người mà bà từ chối tình yêu sát hại. Skarbek bị đâm tới chết ở khách sạn Shelbourne tại London ngày 15/6/1952.


CIA gặp khủng hoảng vì công nghệ lật tẩy

Nhật Minh |


CIA gặp khủng hoảng vì công nghệ lật tẩy
CIA gặp khủng hoảng trong che giấu danh tính điệp viên trong thời đại công nghệ.

Các điệp viên Mỹ không còn bị các chính phủ nước ngoài bám đuôi ở khoảng 30 quốc gia, đơn giản vì tiến bộ công nghệ nhận diện khuôn mặt, sinh trắc và trí tuệ nhân tạo đã khiến họ gần như không thể giấu mình.

Khủng hoảng của CIA
Trước đó, các chính phủ phải cử người theo dõi các nhân viên Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) theo đúng nghĩa đen. Giờ đây, họ không cần làm thế vì công nghệ nhận diện khuôn mặt tại sân bay và hệ thống camera giám sát chung ở những nước này đã giúp họ theo dõi dễ hơn.
Hậu quả là các cơ quan tình báo Mỹ đang đối mặt cuộc khủng hoảng ngày càng lớn trong thu thập thông tin tình báo khi mà phát triển công nghệ khiến họ ngày càng khó bảo vệ các đặc vụ và che giấu dấu vết kỹ thuật số. Nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng này, CIA đã thiết lập một chương trình nhiều triệu đô la mang tên “Station the Future”.
Chương trình này được thành lập trong thập kỷ qua, do một cơ sở ngoại giao ở Mỹ Latinh điều hành và có sự tham gia của một nhóm điệp viên để tìm cách xây dựng công cụ và kỹ thuật kiểm tra nhằm giúp ngành tình báo trong thời đại kỹ thuật số.
Các quan chức tình báo cho biết chương trình cuối cùng đã chấm dứt trong vài năm qua vì vấn đề tài chính và quan liêu. “Station of the Future” chỉ là một trong những chương trình do CIA và Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) thiết lập để tìm cách giải quyết mối đe dọa kỹ thuật số với các điệp viên.
Ông Duyane Norman, cựu quan chức CIA và là “cha đẻ” của chương trình “Station of the Future”, nói: “Nền tảng của ngành tình báo đã bị đổ vỡ. Chúng tôi đã không thừa nhận điều này về mặt tổ chức trong nội bộ CIA và một số người vẫn chối bỏ. Cuộc tranh luận giống như quanh chuyện biến đổi khí hậu. Ai nói khác đi tức là không nhìn vào sự thật”.
Các quan chức cho biết nỗ lực giải quyết thách thức của thời đại kỹ thuật số, tiến bộ trong sinh trắc học và trí tuệ nhân tạo tiếp tục là một ưu tiên của các cơ quan tình báo.
Vậy các công nghệ làm lộ điệp viên Mỹ thế nào?
Xét nghiệm ADN
Mới đây, Lầu Năm Góc đã ra lệnh mọi quân nhân ngừng sử dụng bộ xét nghiệm ADN vì lo ngại an ninh. Sự phổ biến của bộ xét nghiệm AND được coi là một trong những khó khăn mà quan chức tình báo đang đối mặt.
Theo một biên bản do một quan chức tình báo cấp cao của Lầu Năm Góc cùng ký tên, thông tin gen do các công ty xét nghiệm ADN tại nhà thu thập có thể khiến các nhân viên tình báo gặp rủi ro cá nhân và rủi ro khi hoạt động.
Các xét nghiệm gen này phần lớn không được quản lý đúng mực và có thể làm lộ thông tin gen và thông tin cá nhân, từ đó có thể gây ra hậu quả an ninh ngoài ý muốn và tăng nguy cơ cho các sứ mệnh và lực lượng chung.
Mặc dù quân nhân bị cấm sử dụng bộ xét nghiệm gen nhưng quan chức cho rằng có thể ai đó trong gia đình họ đã có bộ xét nghiệm này.
Các chuyên gia trước đó đã cảnh báo rằng sáng chế các bộ xét nghiệm ADN kiểu này khiến việc xâu chuỗi thông tin danh tính của một người trở nên dễ dàng hơn. Họ cảnh báo rằng rất dễ lật tẩy một điệp viên vì người ta có thể lấy mẫu nước bọt từ tách trà hay điếu thuốc lá để xem người đó có hoạt động dưới tên giả hay không.
Dữ liệu sinh trắc
Thời đại bùng nổ sinh trắc học, trong đó có dấu vân tay và nhận diện khuôn mặt, cũng đặt ra rủi ro lớn cho ngành tình báo. Trong bối cảnh nhiều sân bay hay cửa khẩu áp dụng các tiến bộ về dữ liệu sinh trắc, các quan chức cho rằng điệp viên muốn có từ hai danh tính trở lên ở một quốc gia là điều gần như bất khả thi.
Đánh cắp cơ sở dữ liệu sinh trắc đã trở thành ưu tiên tối thượng với quan chức tình báo vì nó có thể dễ dàng lật tẩy điệp viên mật nước ngoài.
Một cựu quan chức tình báo nói: “Giờ cực kỳ khó thực hiện hoạt động ngầm khi cái gì cũng công khai và gần như ai cũng biết. Giờ khi bạn xuất hiện tại biên giới Nga, họ đã có trong tay kỷ yếu cấp ba của bạn, trong đó bạn từng viết về tham vọng cả đời là làm việc cho CIA. Tất cả những thứ đó đều đã được số hóa”.
Nhiều nước tăng cường khả năng giám sát và cũng gây ảnh hưởng tới khả năng ẩn náu của điệp viên. Ngày nay, giám sát càng nhiều và dữ liệu sinh trắc học càng nhiều thì điệp viên càng khó hoạt động, kể cả đi lại bằng bí danh.
Phương pháp cũ
Để đối phó, một số cơ quan nước ngoài đã sử dụng các phương pháp không liên quan công nghệ. Ví dụ như “dead drop” - phương thức hoạt động tình báo có từ lâu dùng để trao đổi các tài liệu hoặc thông tin giữa hai cá nhân tại một địa điểm bí mật mà không cần phải gặp mặt trực tiếp.
Các điệp viên Trung Quốc đã sử dụng “dead drop” tại địa điểm ít người qua lại. họ cũng bắt đầu trao đổi thông tin tình báo hữu hình hoặc đồ vật ở nơi công cộng.
Một số điệp viên khác như người Nga đã bắt đầu tổ chức cuộc họp bí mật ở những nước mà họ biết hệ thống sinh trắc chưa tiến bộ. Các đặc vụ Nga thường thích những nước ở Trung và Nam Mỹ. Peru là một địa điểm họp phổ biến – nơi các đặc vụ tình báo không bị hệ thống sinh trắc tân tiến phát hiện.
Dùng danh tính thật
Do công nghệ tiến bộ và khó có danh tính khác, một số quan chức tình báo khắp thế giới giờ chỉ đơn giản là không ẩn náu nữa. Các đặc vụ Mỹ, Nga và Trung Quốc giờ làm việc bằng danh tính thật vì dấu vết kỹ thuật số ngày càng khó che giấu.
Các cơ quan tình báo Mỹ đã thử nghiệm vài chương trình khác nhau trong 10 năm qua để tìm cách duy trì vỏ bọc đơn giản hiệu quả nhất.
CIA đã phối hợp với một số doanh nghiệp tư nhân ở Mỹ để cài điệp viên. Các điệp viên này dùng tên thật và làm việc thật, như trong ngành tài chính, phim ảnh, công nghệ.
Các quan chức cho biết CIA còn tuyển người trong các ngành mà điệp viên tiềm năng đã làm việc.
Nhờ đó, khi người đó làm việc xong với CIA, họ có thể dễ dàng trở lại làm việc bình thường trong công ty đó. Chỉ có rất ít lãnh đạo công ty biết về sự sắp xếp này với CIA.
Sử dụng các công ty nói trên đặc biệt quan trọng trong giữ bí mật cho điệp viên, nhất là khi công nghệ và dấu vết kỹ thuật số ngày càng tiến bộ.
Ngày nay, có thể nhanh chóng xác định danh tính một người chỉ bằng tìm kiếm trên Google. Các vấn đề như vậy đang ngày càng tệ hơn khi xảy ra vô số vụ xâm nhập mà hậu quả là dữ liệu cá nhân bị đánh cắp, bị rò rỉ trên mạng hoặc cho cơ quan khác.


Tình báo nhiều nước nói về nghi vấn máy bay bị bắn hạ ở Iran

Xuân Mai |


Tình báo nhiều nước nói về nghi vấn máy bay bị bắn hạ ở Iran
Nhân viên cứu hộ làm việc tại hiện trường rơi máy bay. Ảnh: AP

Giới chức tình báo Mỹ cho hay chưa có bằng chứng máy bay của hãng hàng không Ukraine bị bắn hạ ở Iran hôm 8-1.

Chiếc máy bay Boeing 737 rơi ở ngoại ô thủ đô Tehran chỉ vài giờ sau khi Iran phóng một loạt tên lửa nhằm vào các căn cứ quân sự ở Iraq có binh sĩ Mỹ đồn trú.
Trong khi thời điểm xảy ra thảm họa khiến một số chuyên gia hàng không tự hỏi liệu chiếc máy bay có bị tên lửa bắn hạ hay không thì giới chức Iran bác bỏ giả thuyết trên và cho rằng nguyên nhân là lỗi động cơ.
"Những đồn đoán về vụ rơi máy bay do bị bắn hạ là hoàn toàn sai lệch và không có chuyên gia quân sự hay chính trị nào xác nhận điều đó" - ông Genolf Abolfazl Shekarchi, phát ngôn viên của lực lượng vũ trang Iran, nhấn mạnh. Theo người phát ngôn này, tin đồn là "đòn chiến tranh tâm lý" do chính phủ các nước đối thủ đặt ra.
Tại Washington – Mỹ, một thành viên đảng Dân chủ tham dự cuộc họp với các quan chức trong chính quyền Tổng thống Donald Trump cho rằng không có thông tin tình báo nào cho thấy máy bay bị bắn hạ.
Tình báo nhiều nước nói về nghi vấn máy bay bị bắn hạ ở Iran - Ảnh 2.
Một đồng nghiệp của phi hành đoàn gặp nạn đốt nến tưởng niệm các nạn nhân ở Ukraine hôm 8-1. Ảnh: AP
Ngay sau vụ tai nạn, phát ngôn viên của Bộ Giao thông và Vận tải Iran Qassem Biniaz cho biết một trong các động cơ của máy bay bị cháy và phi công không thể kiểm soát máy bay, theo hãng tin IRNA. Tuy nhiên, hãng tin Iran không nói rõ làm thế nào chính quyền Iran biết điều đó.
Bác bỏ khả năng lỗi động cơ, Chủ tịch hãng hàng không Ukraine International Airlines (UIA) Yevhen Dykhne cho rằng chiếc máy bay gặp nạn là một trong những chiếc máy bay tốt nhất mà hãng này sở hữu cũng như phi hành đoàn trên chuyến bay đáng tin cậy và chuyên nghiệp.
"Với kinh nghiệm của phi hành đoàn, xác suất sai sót là tối thiểu. Chúng tôi thậm chí không nghĩ đến khả năng đó" – chủ tịch này khẳng định.
Trong khi đó, một nguồn tin an ninh Canada cho hay đánh giá sơ bộ của các cơ quan tình báo phương Tây không cho thấy máy bay rơi ở Iran bị tên lửa bắn hạ.
Nguồn tin này cho rằng các cơ quan tình báo nhận định máy bay Boeing 737 đã gặp trục trặc kỹ thuật và có một số bằng chứng chỉ ra rằng một trong những động cơ của máy bay quá nóng.
Thông thường các nhà điều tra mất hơn một năm để xác định nguyên nhân rơi máy bay nhưng việc lấy thông tin về tai nạn hàng không lần này đã trở nên phức tạp hơn. Giới chức Iran tuyên bố không bàn giao một trong hai hộp đen được tìm thấy cho Mỹ hoặc hãng Boeing (Mỹ) để phân tích.
Theo luật quốc tế, quốc gia nơi xảy ra vụ tai nạn sẽ kiểm soát cuộc điều tra. Hãng Boeing, Cục Hàng không Liên bang Mỹ và Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia Mỹ thường sẽ tham gia điều tra vì máy bay được sản xuất tại Mỹ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét