Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2016

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 53

-Mọi người đều mù quáng đi trên con đường đời của mình! Vì đố ai thấy chính xác con đường ấy!
-Đường đời riêng đã không thấy thì làm sao thấy được đường đời chung, tức định mệnh của nhân loại?
-Chỉ toàn suy đoán và tưởng tượng thôi! Vì vậy, hãy thận trọng trước những " tiên tri" về xã hội!
-Và đời ta, ta không thể đánh giá đúng được mà phải để đời sau đánh giá!
-Công và tội là hai giá trị tùy thuộc vào nhận thức nên rất dễ chuyển hóa thành nhau. Tuy nhiên chân lý tuyệt đối chỉ có một!

-----------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)

Bùi Ngọc Tấn: Vẫn "Sống để kể lại"

TP - Như Marquez (Sống để kể lại là tên hồi ký của G. Marquez). Và như ông tự hứa với mình từ khi cầm bút trở lại sau 27 năm im lặng. Tháng Ba, Bùi Ngọc Tấn ra mắt tiểu thuyết mới Biển và chim bói cá bằng cuộc tọa đàm ở Hà Nội.
Tháng Tư thì bận bịu cho chuyến tham quan nước Mỹ một tháng theo lời mời của Trung tâm William Joiner. Cuộc trò chuyện với nhà văn sau tọa đàm và trước ngày ông lên đường.

Đọ sức với người Đức ở Munich  (Ảnh nhân vật cung cấp)

Thưa nhà văn Bùi Ngọc Tấn, dạo này sức khỏe ông ra sao?
Cảm ơn chị. Năm nay tôi 76 tuổi. Thất thập kê nguyệt. Các cụ nói vậy nhưng tôi chẳng tính ngày, tính tháng, tính năm. Nghĩa là cứ sống. Sống vui. Làm được đến đâu thì làm. Tôi bằng lòng với sức khỏe của tôi. Cuộc sống gian nan vất vả là thế. Vẫn giữ được thân xác như thế này là tốt rồi.
Tôi cố giữ lấy cái đầu. Cũng suy thoái nhiều đấy. Nhiều lúc cứ lẩm bẩm một mình. Như lão già câu cá Santiago (Ông già và biển cả- PV). Lại còn quên nữa. Cái xa thì nhớ, cái gần thì quên. Nhưng chưa đến nỗi hỏng hẳn. Vẫn còn nhúc nhắc ngày ngày gõ máy được chữ nào hay chữ ấy.
Một thành tích đáng khoe là cai được thuốc lá. Viêm họng quá. Đành phải từ bỏ lý thuyết: Đời còn cái gì nữa ngoài điếu thuốc.
Ít gặp, nhưng mỗi khi gặp ông, tôi lại nhớ câu "Già mà biết sống già thì cũng hay lắm chứ" hình như Nguyễn Khải viết trong "Thượng đế thì cười". Nghĩa là một tuổi già an nhiên trầm tĩnh, đôn hậu, hài hước. Ông đã thật thanh thản sau quãng đời dài không bình yên?
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh 1934 ở Thủy Nguyên, Hải Phòng. Phóng viên báo Tiền Phong 1954-1959. Tác phẩm xuất bản từ 1995 đến nay: Một thời để mất (Hồi ký 1995), Những người rách việc (Tập truyện ngắn 1996), Một ngày dài đằng đẵng (Tập truyện ngắn 1996), Chuyện kể năm 2000 (2000), Rừng xưa xanh lá (Chân dung văn học 2002), Biển và chim bói cá (Tiểu thuyết 2008).
Với tôi sống già hay sống trẻ cũng vậy thôi. Giống nhau và đều hay cả. Miễn là biết sống như một người phải sống. Trung thực. Nhân ái. Hài hước. Và làm việc...
Còn sống già, sống lâu với tôi là để thấy niềm tin của mình thành sự thật, để yêu đời hơn.
Tôi nhớ vào khoảng năm 1991-1992, Phùng Quán xuống Hải Phòng thăm tôi. Chia tay lần trước tóc còn xanh, gặp lại cả hai tóc đều bạc. Biết bao sóng gió trong quãng thời gian ấy.
Chúng tôi nói với nhau: "Phải sống dai". Nhưng chỉ năm sau Phùng Quán ra đi. Tôi cũng nói với Nguyễn Khải: "Phải sống dai". Khải còn nói thêm: "Sống dai là thắng". Cái lần gặp Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp tại Hải Phòng tôi cũng chúc Đại tướng sống lâu, sống dai để... thắng.
Tôi không chỉ thanh thản trong tuổi già, mà còn không ngờ mình có được một tuổi già như đang có. Một tuổi già  vẫn còn nhiều nghi kỵ nhưng đầy sẻ chia, có thể nói, một tuổi già hạnh phúc.
"Biển và chim bói cá" vừa xuất bản có vẻ thủ pháp không có gì mới?
Tôi kể cuộc sống tôi đã sống, tôi đã chiêm nghiệm. Còn thủ pháp có bước phát triển đấy chứ. Một thứ tiểu thuyết không có cốt truyện. Biển và chim bói cá không có nhân vật chính. Tất cả đều bình đẳng. 
Nhiều người bảo tôi dùng thủ pháp cắt dán, rồi mảnh vỡ, rằng tôi đưa phóng sự vào tiểu thuyết, một thủ pháp hiện đại. Lại có người nói tiểu thuyết của tôi khó đọc...
Thực sự tôi chỉ muốn viết sao cho sát gần cuộc sống. Và mong độc giả đọc tôi không theo cách cũ.
Tọa đàm về cuốn này ở Hà Nội, ông triết lý: "Không có gì lỏng lẻo mà chặt chẽ như cuộc sống; và quan hệ giữa con người với nhau cũng vừa gắn bó vừa rời rạc". Ông có thể nói thêm về điều này?
Cuộc sống như chúng ta đang sống, hoặc như tôi chứng kiến và viết về nó là cuộc sống của những người bình thường, không chia thành tuyến này tuyến nọ như trong phim hình sự, hay như các tác phẩm cổ điển có Iago bên này Othello bên kia; có Javert và có Jean Val Jean.
Cuộc sống phổ biến của những người lao động hôm nay không rạch ròi tuyến tính. Nó nhờ nhờ, nó co giãn, những con người  khao khát một cuộc sống tối thiểu, thụ động, quanh quéo cò con để có thể tồn tại, để nhích lên một vài centimet và chờ đợi...
Điều gắn bó là cùng một mẫu số chung. Và rời rạc vì ai cũng loay hoay, bằng lòng với kết quả xoay xỏa của mình. Lỏng lẻo mà chặt chẽ cũng là thế.
Nhớ lại, năm 2000 ở Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 6, Bùi Ngọc Tấn là nhân vật “hot” nhất. Được biết chuyện, trước đại hội, một lãnh đạo Hội Nhà văn có đến gặp ông và dặn dò, đến đó, Bùi Ngọc Tấn không nên trả lời phỏng vấn, không phát biểu, cũng không tham luận?
Đại hội năm ấy thật sự làm tôi xúc động không thể nào quên.
Trước đại hội, có tin tôi bị tước quyền đại biểu. Một buổi, nhà thơ Hữu Thỉnh- Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (trong đại hội được bầu là Tổng thư ký) xuống Hải Phòng thăm tôi, đưa tôi một chai vang Pháp, một phong bì 100 nghìn đồng, chính thức thông báo rằng tôi vẫn là đại biểu đại hội (sau này Bằng Việt có nói với tôi, dự kiến không cho tôi dự đại hội là có thực) và yêu cầu tôi ba không như chị nói.
Tôi bảo Hữu Thỉnh: "Những điều muốn nói, sách mình nói cả rồi. Mình đi họp chỉ với mục đích lớn nhất là gặp lại bạn cũ. Nếu không, có thể đến lúc chết cũng không gặp được nhau".
Xin nói thêm về ba không. Nhà văn Nguyễn Khải có nói một câu rất hay: "Mười không cũng được. Sự có mặt của Bùi Ngọc Tấn đã là bản tham luận hay nhất đại hội". Thế nhưng thật lạ là, năm 2001, gặp Nguyễn Khải ở TPHCM với mấy người nữa, tôi cảm ơn anh về câu nói ấy, anh ráo hoảnh: "Không. Mình có nói thế đâu"!
Rộng ra, tình đồng nghiệp ở giới viết ra sao, nhất là khi ông bất đồ nổi tiếng?
99,9 phần trăm là tuyệt vời, là chia sẻ, là niềm vui chung. Nhưng cũng có những phản ứng thật không thể hiểu. Có người đặt điều, bịa chuyện nói xấu sau lưng.
Có người không thể nhìn mặt tôi... Đó là những người khi nhà anh mới sắm một chiếc ti vi cũng đồng nghĩa nhà anh ta mất cắp một chiếc ti vi. Nhưng thôi…
Trước kia ông không kỳ vọng, mất niềm tin vào giải thưởng chính thống- nhất là giải Hội Nhà văn Việt Nam, nhưng rồi "Rừng xưa xanh lá" của ông nhận giải Hội Nhà văn Việt Nam 2005. Điều này chứng tỏ gì?
Chứng tỏ việc xét và trao giải không hoàn toàn sai lầm. Thật ra trong các tác phẩm được giải thưởng có những cuốn rất xứng đáng mà tiêu biểu là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, một tiểu thuyết làm vinh dự cho văn chương Việt Nam. Thế mà có thời người ta mở cuộc vận động để rút lại giải thưởng đó.
Trong nhiều hồi ký và truyện ngắn, ông kể về thời làm phóng viên Tiền Phong (1954-1959) như những ngày hạnh phúc nhất. Có phải chỉ vì đang tuổi 20…
Tuổi 20 bao giờ chẳng đẹp. Đất nước lại mới hòa bình. Xã hội tốt đẹp. Người ta được làm công việc mình khao khát. Người ta mơ ước. Người ta tin tưởng. Người ta yêu nữa. Một thời đã qua đẹp ngang thời thơ ấu....
Hồi đó ông viết gì? Một bạn văn của Bùi Ngọc Tấn nhận xét, hoàn cảnh ấy thì chỉ là những bài báo tầm phơ, nhưng công việc làm báo, đi nhiều đã cho ông cùng các bạn vốn liếng để viết văn và đó mới là cái được nhất.
Tôi viết về nông thôn. Đi nhiều. Ghi chép nhiều. Tập truyện ngắn đầu tiên Đêm tháng Mười (1962) là kết quả những năm tháng ấy. Nhưng đấy chỉ là kết quả phụ.
Cái chính tôi được khi làm phóng viên Tiền Phong là sống giữa những người bạn cùng lứa tuổi, cùng cách sống, cùng khát vọng đam mê, những Tất Vinh, Mạc Lân, Nguyễn Trí Tình, Vũ Lê Mai... Những ngày ấy, những người bạn ấy đã góp phần tạo nên tôi hôm nay.
Bây giờ ông có đọc Tiền Phong? Ông thấy báo so với thời của ông thế nào?
Tôi thường xuyên mua Tiền Phong. Cách làm báo, cách viết hiện nay khác xa thời chúng tôi. Tôi thèm được làm báo như các bạn hôm nay. Và khâm phục các bạn. Mới nhất là loạt bài điều tra về đất đai Hà Tây trước khi sáp nhập Hà Nội thu hút tôi và đông đảo bạn đọc.
Ông từng lấy làm tiếc, lẽ ra đã ở thủ đô thì cứ "Sống mãi với thủ đô". Như Nguyên Hồng - tự dưng đùng đùng đưa vợ con về Nhã Nam. Giờ ông còn tiếc nuối điều gì?
Thủ đô bao giờ cũng là thủ đô dù có thế nào chăng nữa. Nghe theo lời khuyên của Đảng, của các nhà văn đàn anh, tôi rời Hà Nội về Hải Phòng để thâm nhập thực tế, thâm nhập công nông, viết tác phẩm của đời mình. Tôi đã phải sống cạn một kiếp tôi để rồi viết về chính nó.
Giao lưu với bạn đọc ở Viện Goethe, ông kể, ông viết đúng như mình nghĩ, không pha chế, không thêm xi rô.  Trong trang viết cũng thấy ông ghét nhất sự giả dối. Vương Sóc- nhà văn và nhà phê bình hiện đại Trung Quốc mô tả bức tranh xã hội Trung Quốc là "nói dối đi nói dối lại, không biết thành thật là thế nào". Ngày nay, giả dối nhiều hay ít hơn thời của ông?
Liều lượng nói dối thời trước ít hơn, nhưng nó chính là căn nguyên của bệnh nói dối trắng trợn hôm nay. Trong một cuốn sách, tôi đã viết: "Chúng ta đã quen nghe những lời dối trá để qua đó biết được sự thật".
Và dường như có bớt đi "những người phụ trách cuộc sống" (chữ của Trần Dần)? Nên những bi kịch kiểu Bùi Ngọc Tấn chỉ còn là chuyện quá khứ?
Tôi mong rằng nó bớt đi.
Cảm ơn và chúc sức khỏe nhà văn Bùi Ngọc Tấn.

Nhà Văn Bùi Ngọc Tấn qua đời - Chuyện kể năm 2000 mãi mãi ra đi





  • Bởi Biên tập viên
    18/12/2014
    0 phản hồi
    Dân Luận: Theo tin của gia đình và của nhà văn Phạm Xuân Nguyên từ Hà Nội, nhà văn Bùi Ngọc Tấn đã qua đời vào lúc 6h15 sáng nay (18/12/2014) tại Hải Phòng sau một thời gian bị bệnh ung thư, hưởng thọ 81 tuổi. Ông Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên (Hải Phòng), năm 1954 trong đoàn quân về tiếp quản Hà Nội, sau đó làm báo Tiền Phong, rồi chuyển về Hải Phòng tiếp tục viết báo và viết văn.
    Năm 1968, ngày 8/12, ông bị bắt vì bị coi là liên quan đến vụ án “xét lại” và phải ở tù năm năm (1973). Sau hơn hai mươi năm bị im tiếng trên văn đàn, ông trở lại viết và xuất bản bằng những hồi ức về nhà văn Nguyên Hồng, bằng những truyện ngắn nổi bật, và đặc biệt là bằng cuốn tiểu thuyết mang tính tự thuật “Chuyện kể năm hai nghìn”. Ngoài ra ông còn sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị văn học cao, trong đó tiểu thuyêt "Biển và chim bói cá" (2008) đã được giải thưởng Văn học Henri Queffenlec của Pháp.
    (Vietnamthoibao) - Thương tiếc nhà văn Bùi Ngọc Tấn, anh vừa từ giã chúng ta lúc 6:30 sáng nay. Xin gửi các bạn, các anh chị lá thư tôi viết cho anh sau khi đọc bản thảo "Thời biến đổi gien", được anh đưa thành bài Tựa cuốn sách sắp ra mắt ở Mỹ với tên "Hậu chuyển kể năm 2000".
    Cầu chúc hương hồn anh an bình.
    Hoàng Hưng
    Thư gửi Bùi Ngọc Tấn sau khi đọc “Thời biến đổi gien”
    Anh Tấn ơi!
    Tôi đã đọc một mạch xong bản thảo cuốn sách trên 300 trang của anh trên suốt chặng đường Đà Nẵng – Sài Gòn 20 giờ xe đò, trừ mấy giờ ngủ chập chờn. Và cũng như cái lần đọc Chuyện kể năm 2000 (CKN2000) mà anh còn nhớ rất rõ và kể lại trong sách này, nước mắt và cả sự nghẹn ngào phải kìm để không thành tiếng nấc, cứ tự nhiên bật ra. Để rồi ngay sau đó tiếng nghẹn ngào lại biến thành tiếng “cười rinh rích” không kìm nổi.
    “Đi đến cốt lõi ngọn nguồn” của Sự thật, không né tránh, không sợ hãi, cái Sự thật bi phẫn mà anh đã trải qua, mà bạn bè anh trong đó có tôi, mà cả dân tộc này đã trải qua trong hơn nửa thế kỷ, anh đã phơi bày nó chính xác đến từng chi tiết rùng mình y như từng nắp chai nước mà hai đứa con anh chắt chiu để sống mỗi ngày; nhưng anh luôn vượt qua nó, vượt lên trên nó bằng cái hài hước quen thuộc của mình. Cái hài hước chỉ có ở những tâm hồn mạnh mẽ, không thể khuất phục, của những con người “đắm đuối cuộc sống” – chữ của một hoạ sĩ bạn đọc CKN2000 mà anh tâm đắc.
    Tinh thần kép nói trên, thấm nhuần trong những trang miêu tả và kể chuyện hấp dẫn, hồi hộp vô cùng, là sức mạnh những trang viết của anh, ở đây cũng như ở CKN2000. Ấn tượng khó quên của tôi về CKN2000 chính là ở những đoạn “căng thẳng” kỳ lạ như đoạn tả cảnh chia cơm tù ở trại, những con mắt tù hau háu, đau đáu theo dõi việc “cân” các suất cơm bằng chiếc que, những con mắt có khả năng phát hiện chính xác đến từng gam cơm thừa thiếu; còn ở “chuyện kể” mới này, là ở những đoạn gom sách nộp lại cho nhà xuất bản - những âm mưu tính toán, những cuộc điện thoại bằng “mật mã”, những cuộc hẹn hò “bí mật” với vai chính mặc áo Phổ Nghi, đội mũ “ninja”… – li kỳ như truyện trinh thám…
    Vâng, 14 năm sau “Chuyện kể”, Bùi Ngọc Tấn lại hiến cho người đọc một “chuyện kể”, lần này là chuyện kể về “chuyện kể”. Tất cả những gì liên quan đến việc viết, in, phát hành, thu hồi CKN2000, với tất cả những con người liên quan, những bình luận,
    những hậu quả khôn lường của nó. Anh đã gọi cuốn tiểu thuyết dựa trên nguyên mẫu mình là Chuyện kể…, ngược lại, bây giờ đặt cái tên rất “tiểu thuyết” cho cuốn hồi ức – tư liệu về Chuyện kể… là Thời biến đổi gien.
    Có lẽ bởi anh không muốn người đọc chỉ đọc nó như một hồi ức riêng tư. Mà là hồi ức về một thời đại. Một thời đại ghê gớm trên quê hương chúng ta mà cái “gien” NGƯỜI đã bị biến đổi đến thảm hại!
    Những con người tốt nhất, bản thân anh, người vợ thủy chung lặng lẽ kiên cường, bạn bè anh – những nhà văn nhà báo khăng khăng một niềm tin ngây thơ vào Cái Đẹp – suốt đời bị nghi ngờ, bị rình rập, bị săn đuổi, đã phải lay lắt để tồn tại như những PHÓ NGƯỜI. Những người tốt khác, ông giám đốc một nhà xuất bản hiếm có, những biên tập viên tâm huyết… dám in tiểu thuyết của anh, những người âm thầm hỗ trợ cho nó ra đời và đến tay người đọc… đã phải sống hai mặt, mặt NGƯỜI ở chốn riêng tư, mặt CÔNG CỤ ở chốn hành nghề. Những kẻ khác thì tùy mức độ, phần NGƯỜI và phần CÔNG CỤ tỷ lệ nghịch với nhau, ý thức CÔNG CỤ khác nhau từ chỗ ý thức rõ rệt, đến chỗ vô thức, bản năng, hay chỉ là một thói quen tập nhiễm.
    Tôi nhớ đến cái vườn tượng trên một sườn đồi ở Praha. Rải rác từ chân đến đỉnh đồi, là tượng những NGƯỜI không toàn vẹn hình hài, kẻ mất tay, kẻ mất chân, kẻ không đầu, kẻ không tim… Nếu nói đến tội ác của một chế độ, thì tôi xin nói rằng tội ác lớn nhất của nó chính là phá hủy TÍNH NGƯỜI trong nhiều thế hệ. Một nền kinh tế lụn bại có thể nhanh chóng phục hồi với sự tự cải tổ và trợ giúp từ bên ngoài, một nhà nước bất lực có thể được thay thế với sự đồng thuận của dân chúng, một đất nước thất trận có thể khôi phục lực lượng quân sự của mình bằng tiền bạc, kỹ thuật… Nhưng một dân tộc mà TÍNH NGƯỜI bị phá hủy thì không biết cần đến mấy thế hệ để trở lại làm NGƯỜI toàn vẹn.
    Nỗi ám ảnh ấy đã theo tôi nhiều năm nay. Và trong tâm thế ấy, tôi tâm đắc với Bùi Ngọc Tấn về ý nghĩa của việc Viết: Viết là “cuộc chiến đấu vô vọng” để “giữ sự trong sáng trong đôi mắt nhìn đời của các con tôi”. Tôi xúc động vì lời ông bác sĩ ung thư đang chờ chết nói ông đã được tiếp sức từ những trang sách như thế nào: “Tôi hiểu rằng con người không được phép bi quan, không được phép đầu hàng. Tập sách của anh đã nâng đỡ tôi sống những ngày còn lại. Còn một ngày cũng sống cho ra sống”.
    Vì thế, chúng ta phải viết. Vì những người đọc như thế. Vì chính chúng ta. Có những kẻ không muốn ta viết, ta phải viết. Họ sợ ta viết, ta phải viết. Họ cấm ta viết, ta phải viết. Họ trùy lung, tiêu hủy những trang viết của ta, ta phải viết. Họ ngăn cản những trang viết của ta đến người đọc, ta phải viết. Ta phải viết “khi cuộc sống chúng ta bị nén xuống sát gần cái chết”, phải không anh Tấn!
    Sài gòn, sau ngày biểu tình lớn chống Trung Quốc xâm lược 11/5/2014
    Hoàng Hưng
    VNexpress:
    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua đời
    Tác giả của "Biển và chim bói cá" tạ thế lúc 6h15 sáng nay, ngày 18/12, sau những năm tháng chống chọi với bệnh ung thư.
    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua đời tại nhà riêng ở Hải Phòng, hưởng thọ 81 tuổi. Gia đình ông đã báo tin cho các nhà văn, trong đó có nhà thơ, dịch giả Dương Tường - người bạn thân của Bùi Ngọc Tấn.
    Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại thành phố Hải Phòng. Trước khi viết văn ông làm báo. Theo đoàn quân tiếp quản Hà Nội năm 1954, ông tới Hà Nội, sau đó làm phóng viên báo Tiền Phong với bút danh Tân Sắc.
    Ở tuổi ngoài đôi mươi, ông đã có tác phẩm in ở các nhà xuất bản như Văn học, Lao động, Thanh Niên, Phổ thông.
    Năm 1969, ông trở về quê làm biên tập viên tại báo Hải Phòng Kiến thiết và tập trung viết báo để nuôi gia đình. Giai đoạn từ tháng 11/1968 đến tháng 3/1973 ông vướng vào lao lý. Bùi Ngọc Tấn có một thời gian "ẩn dật" với văn chương, ngừng viết từ 1974 tới 1994.
    Sau 20 năm im tiếng trên văn đàn, ông trở lại với bạn đọc bằng những trang hồi ký về nhà văn Nguyên Hồng và những truyện ngắn nổi bật.

    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn (thứ ba từ trái sang, hàng sau) cùng bạn bè hồi tháng 11/2014.
    Độc giả biết tới Bùi Ngọc Tấn qua nhiều tác phẩm như tập truyện Những người rách việc (1996), Rừng xưa xanh lá (2004), tiểu thuyết Biển và chim bói cá (2009). Bên cạnh đó, ông còn có nhiều tác phẩm nổi bật như Mùa cưới, Đêm tháng 10, Nhằm thẳng quân thù mà bắn, Nguyên Hồng thời đã mất, Một thời để mất, Một ngày dài đăng đẳng... Tiểu thuyết Biển và chim bói cá của ông được trao tặng giải thưởng Henri Quefenlec tại Liên hoan sách và biển diễn ra tại Pháp năm 2012.
    Hiện gia đình nhà văn đang bàn bạc để định ngày đưa tang ông.
    Lam Thu
  • - See more at: https://www.danluan.org/tin-tuc/20141218/nha-van-bui-ngoc-tan-qua-doi-chuyen-ke-nam-2000-mai-mai-ra-di#sthash.KXZPOQwY.dpuf



    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua đời


    Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội cho biết: “Nhà văn Bùi Ngọc Tấn mất lúc 6 giờ sáng nay 18.12. Ngày đưa tang hiện gia đình đang tính".
    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Hải Phòng. Bắt đầu viết văn, viết báo từ năm 20 tuổi, ông đã có sách in tại các nhà xuất bản Văn học, Lao động, Thanh Niên... khi mới ngoài 20 tuổi. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua đời - ảnh 1
    Ảnh tư liệu chụp từ trang cá nhân của nhà văn Bùi Ngọc Tấn
    Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí, ông nói: “Thế hệ chúng tôi đã chứng kiến biết bao biến động của lịch sử. Một thế hệ nhiều năm rồi nằm trong tầm súng bắn tỉa của thần chết, đang biến mất khỏi hành tinh này không để lại một vết xước nào. Tôi chỉ muốn thật trung thực trong khi viết để góp phần vào việc lưu giữ ký ức của dân tộc”.
    Các tác phẩm chính đã xuất bản từ năm 1995 trở lại đây: Một Thời Để Mất (hồi ký 1995), Những người rách việc (Truyện ngắn 1996), Một ngày dài đằng đẵng (Truyện ngắn 1999), Chuyện kể năm 2000 (Tiểu thuyết 2000), Rừng xưa xanh lá (Chân dung văn học 2002), Biển và chim bói cá (Tiểu thuyết 2008).
    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn từng nhận giải thưởng của Tạp chí Văn Nghệ, Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, Bộ Văn hoá, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, giải Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng), giải thưởng Hội Nhà Văn.
    Mới đây nhất, năm 2012, ông được một hội sách của Pháp trao giải thưởng Henri Queffélec tại liên hoan “Sách và Biển” cho tác phẩm Biển và chim bói cá. Cuốn sách này trước đó đã được dịch sang tiếng Pháp, dày 514 trang.
    Trinh Nguyễn

    Bùi Ngọc Tấn & Hậu Chuyện Kể Năm 2000

    Tiếng Quê Hương

    bntanBùi Ngọc Tấn (1934-2014) sinh tại làng Câu Tử Ngoại, xã Hợp Thành, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.
    Mẫu bìa: Từ Phong/Tủ sách Tiếng Quê Hương
    Mẫu bìa: Từ Phong/Tủ sách Tiếng Quê Hương
    Ông gia nhập làng báo sau khi theo đội Thanh Niên Xung Phong vào tiếp quản Hà Nội tháng 10-1954 với vai trò phóng viên cho tờ Tiền Phong. Thời gian này, ông ký bút danh Tân Sắc và bắt đầu sáng tác văn nghệ, dù có lệnh cấm nhà báo viết văn nên phải viết chui tức ký bút danh khác. Cái lệnh kỳ quái này không cản được Bùi Ngọc Tấn sáng tác và ông đã gửi một truyện ngắn – Chị Trúc – dự thi giải văn nghệ của báo Văn Nghệ. Truyện của ông được Tô Hoài khen hay nhưng không được in và tất nhiên không được chấm giải, vì bị cho là nói đến những mất mát của chiến tranh “hơi quá liều lượng.” Tất nhiên sau đó Bùi Ngọc Tấn phải điều chỉnh cách viết để có thể tiếp tục góp mặt trong sinh hoạt văn nghệ nhưng đã cố giữ khoảng cách với “hàng ngũ nhà văn cung đình.”
    Cuối năm 1959, ông chuyển về Hải Phòng làm biên tập viên báo Hải Phòng Kiến Thiết, đồng thời tiếp tục viết văn và đã có một số tác phẩm được xuất bản. Về khoảng thời gian này, trong một lần trả lời phỏng vấn, ông đã tâm sự “chuyển về thành phố quê hương Hải Phòng với ước mong thâm nhập công nông để viết được tác phẩm của đời mình.”
    Chưa kịp viết tác phẩm ấy thì tháng 11-1968, Bùi Ngọc Tấn bị tống vào tù với tội danh “tuyên truyền phản cách mạng” trong vụ án “nhóm xét lại chống Đảng, làm tay sai cho nước ngoài” có mặt các bạn ông như nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà điện ảnh Huy Vân, nhà báo Vũ Huy Cương, nhà báo Kỳ Vân… dù Bùi Ngọc Tấn chưa bao giờ là đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam và không hề biết cái tội mình bị quy kết kia mặt ngang mũi dọc ra sao. Từ đây, khúc ngoặt cuộc đời Bùi Ngọc Tấn mở ra với bước khởi đầu là 5 năm sống trong các trại tù mang mỹ danh “trại tập trung cải tạo.”
    Đầu tháng 4-1973, đúng 2 tháng 7 ngày sau khi Hiệp Định chấm dứt chiến tranh Việt Nam ký kết tại Paris, Bùi Ngọc Tấn được ra khỏi nhà tù. Tuy nhiên, những ngày sống ngoài nhà tù lại u ám ghê hãi hơn cả cảnh sống giữa những bức vách nhà tù – như ông ghi lại:
    “Trong những năm tháng hậu tù thất nghiệp đi bốc vác, kéo xe bò… thoi thóp kinh hoàng ấy, tôi có làm một cuộc khảo sát đời sống: Ra đầu phố những giờ đi làm và tan tầm, nhìn những người đạp xe qua Ngã Sáu và phát hiện một điều: Tất cả những người trên đường không một ai cười. Giống nhau. Xam xám. Đăm chiêu. Đồng phục quần áo. Đồng phục mặt người…
    Khi tôi kêu lên: “Các ông ấy bần cùng hóa nhân dân ghê quá”, Nguyên Bình nghiêm mặt bảo tôi: “Cuộc sống này gần với cuộc sống loài vật. Đâu phải cuộc sống con người.”
    Thực tế không dừng tại đó.
    Giữa cảnh đọa đầy đẩy con người xuống ngang loài vật ấy, Bùi Ngọc Tấn lại chỉ được xếp vào hạng phó người – chính xác hơn là thua cả loài vật. Cùng với những cực nhọc lam lũ do bị vây hãm bởi nhu cầu cơm áo trong thân phận phó người sống bên lề xã hội phải lao vào đủ loại việc mưu sinh khổ ải nhếch nhác là mạng lưới công an mật vụ luôn vây bọc từng giờ từng phút. Bùi Ngọc Tấn không ngừng bị cách ly, bị theo dõi, bị kiểm tra, bị dọa nạt… dưới nhiều hình thức khiến không tránh khỏi mối ám ảnh luôn bị đeo bám bởi một “người vô hình”:
    “… Ai cũng có một người vô hình để mà trình bày, để mà sợ sệt và thầm cãi lại. Người vô hình luôn bên cạnh mỗi người như hình với bóng, cả trong giấc ngủ …
    Tôi thấy rợn hết cả người khi nghĩ đã có mấy thế hệ theo dõi tôi, săn đuổi tôi, vu cáo tôi. Họ đã già đi. Đã về nghỉ, hưu trí an nhàn. Nhiều người đã chết. Một thế hệ khác tiếp tục việc theo dõi. Rồi một thế hệ tiếp theo nữa. Đời này sang đời khác.
    Tất cả đều là Gia-ve. Những Gia-ve với lòng dạ đen tối, không phải tìm sự thật mà chỉ nhăm nhăm hãm hại người lương thiện…”
    Cuộc sống không còn là cuộc sống mà chỉ là sự tồn tại. Ý nghĩa duy nhất về sự tồn tại của bản thân với Bùi Ngọc Tấn thời kỳ này là “sống vì những đứa con.” Nhưng mục đích này cũng không dễ theo đuổi vì toàn bộ gia đình thân thuộc của lớp phó người đều phải gánh chung thân phận phó người. Những đứa trẻ ngây thơ vô tội kể cả đứa chỉ mở mắt chào đời khi người cha đã bị đưa vào tù vẫn bị ngăn trở mọi sinh hoạt, kể cả việc cắp sách tới trường … khiến luôn thúc đẩy những cơn tự dằn vặt rồi bùng sôi phẫn nộ:
    “…Tôi càng thấm thía tội lỗi làm bố của mình. Chỉ vì tôi. Chỉ vì tôi nên con tôi có thể thất học… Người tôi sôi lên. Hỡi bọn chó đểu kia. Chúng mày làm gì tao thì làm, bỏ tù lại tao cũng được. Nhưng đừng triệt hạ con tao!!”
    May mắn duy nhất với Bùi Ngọc Tấn là không thể từ bỏ cây bút, dù cầm bút là chuyện thiên nan vạn nan. Vì thế kiếp sống phó người đã hiện thành những trang sách để cuối cùng góp mặt với cái tên Chuyện Kể Năm 2000. Đây là tác phẩm được Bùi Ngọc Tấn khởi viết từ cuối năm 1990 sau hơn 20 năm rời xa chữ nghĩa và tiếp tục hoàn chỉnh gần 10 năm cho tới khi có cơ hội ấn hành vào đầu năm 2000. Thế nhưng ngay khi vừa in xong, tác phẩm đã bị gom lại ghiền nát, ngâm thành bột “như thi hành án một tội phạm tử hình với khâu cuối cùng là bác sĩ khám nghiệm tử thi và chôn cất.” Riêng tác giả chưa kịp hưởng “niềm vui trúng số” vì tác phẩm được chào đời đã phải nai nịt và ngụy trang mỗi khi ra đường vào thời điểm đó:
    “… Mũ Nin-da, thứ mũ có lưỡi trai, trùm kín đầu kín tai kín mặt, xuống tận cổ, chỉ để hở hai con mắt. Rất lợi hại… Trùm vào ấm đã hẳn, người ta lại còn không biết mình là ai. Chưa kể nó bảo vệ mặt tránh được những ca át-xít… Cái cảm giác có đuôi ngày nào trước khi bị bắt năm 1968 lại phả hơi lạnh, hơi bẩn sau gáy.”
    Hậu Chuyện Kể Năm 2000 ghi lại nhiều diễn biến quanh tác phẩm Chuyện Kể Năm 2000 từ các đoạn đường hoàn thành tới khi tác phẩm chào đời và những ngày kế tiếp. Tựa đề đầu tiên của Hậu Chuyện Kể Năm 2000 là Thời Biến Đổi Gien được Hoàng Hưng diễn giải là “Một thời đại ghê gớm trên quê hương chúng ta mà cái “gien” NGƯỜI đã bị biến đổi đến thảm hại!”
    Đó là thời đại quét sạch mọi quyền sống căn bản của con người buộc toàn thể xã hội luôn cúi đầu quỳ gối tôn thờ những kẻ thủ đoạt quyền lực – thời đại mà hết thẩy người dân không được phép có một hành vi, một ý nghĩ nào khác ngoài việc tự biến thành công cụ phục vụ ý đồ của kẻ thủ đoạt quyền lực được coi là tín ngưỡng tối cao độc nhất vô nhị.
    Nhưng những dòng hồi ức Hậu Chuyện Kể Năm 2000 cho thấy mọi thủ đoạn bất nhân, mọi chủ trương tàn ác không hoàn toàn đáp ứng đúng tham vọng của kẻ thủ đoạt quyền lực.
    Qua những điều gần như vụn vặt nhỏ nhoi nhất trong cuộc sống, tình người vẫn luôn vươn lên bằng mọi cách thuộc mọi lúc và ở mọi nơi.
    Vợ con người tù tới thăm mộ chồng không dám cất tiếng khóc vì đã có lệnh cấm khóc, nhưng không lệnh nào có thể cấm được nỗi đau dâng lên trong trái tim họ. Cũng không có lệnh nào hỗ trợ nổi cho các luận điệu dối trá nói trắng thành đen để buộc mọi người phải đặt trọn niềm tin vào những điều vu cáo.
    Sự câm lặng của người vợ và những đứa con trước mộ chồng, mộ cha cũng như những cái gật đầu của đám đông trước các luận điệu dối trá chỉ biểu tỏ một tâm thế chịu đựng nhất thời trong khi sức sống của tình người hướng về thương yêu, hướng về sự thật luôn kiên trì tồn tại với độ nóng có thể còn vượt mức độ bình thường.
    Chính vì thế, cuốn sách bị kết án tử hình, bị ghiền thành bột đã lập tức phát tán khắp nơi qua mọi hình thức và được truyền tay từ người này sang người khác với số lượng khó thể ước đoán. Thêm nữa, những dòng hồi ức Hậu Chuyện Kể Năm 2000 đã ghi rõ tên tuổi từng người liên hệ tới mọi chuyện kể. Điều này không chỉ diễn tả tấm lòng tôn vinh sự thật mà còn cho thấy thái độ bất chấp mọi chủ trương trấn áp, mọi thủ đoạn bạo hành – thái độ bất khuất của ý chí kiên trì sự sống đúng nghĩa.
    Năm 2012 tại Paris vào dịp Festival Livre Et Mer trao tặng giải thưởng cho tác phẩm Biển Và Chim Bói Cá của Bùi Ngọc Tấn, nhà văn kiêm kịch sĩ Francois Bourgeon đã phát biểu:
    “… Từ khi lập ra giải thưởng này, tác phẩm của Bùi Ngọc Tấn đã hoàn toàn làm chúng tôi thoả mãn. Tác giả là người Việt Nam. Bùi Ngọc Tấn tặng cho chúng ta một cuốn tiểu thuyết nhân văn… Bùi Ngọc Tấn biết cái giá của tự do. Tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn là một tác phẩm không thể quên. Thậm chí có lẽ là… một tác phẩm làm cho ta tốt hơn.”
    Dù chỉ nêu nhận định về tác phẩm Biển Và Chim Bói Cá, nhưng Francois Bourgeon đã cho thấy cái nhìn bao quát về thế giới chữ nghĩa của Bùi Ngọc Tấn trong đó không thể vắng tác phẩm Hậu Chuyện Kể Năm 2000. Và có thể nói kết luận của Francois Bourgeon về “một tác phẩm làm cho ta tốt hơn” càng chính xác khi dành cho Hậu Chuyện Kể Năm 2000 tức Thời Biến Đổi Gien.
    Bởi Hậu Chuyện Kể Năm 2000 không chỉ phác họa trung thực chân dung “ba kiếp sống” của những thế hệ nạn nhân Việt Nam trong thời đại quyền lực độc tôn mặc tình tác ác mà đã cho thấy ý chí bất khuất và sức sống phi thường của tình người qua vô số diễn biến cụ thể trong cuộc sống thường ngày đang quằn quại dưới đủ mọi thủ đoạn bất nhân tàn khốc.
    Những dòng hồi ức của Bùi Ngọc Tấn qua Hậu Chuyện Kể Năm 2000 đã dựng lên hình ảnh một chân trời yêu thương đầm ấm với âm hưởng lời ca thúc đẩy những bước chân dũng cảm kiên trì vươn tới chân trời ấy để “làm cho ta tốt hơn” – như cảm nghĩ của Francois Bourgeon – hầu đạt tới cuộc sống tốt đẹp hơn.
    Tác giả và Chuyện kể năm 2000. Nguồn: buingoctan.wordpress.com
    Tác giả và Chuyện kể năm 2000. Nguồn: buingoctan.wordpress.com
    Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

    Nguồn: Bùi Ngọc Tấn, Hậu Chuyện Kể Năm 2000 – “Thời biến đổi gien” Tiếng Quê Hương xuất bản; In lần thứ nhất tại Hoa Kỳ, 2014. DCVOnline minh hoạ

    chuyện kể năm 2000 

    Nhà Văn Bùi Ngọc Tấn qua đời - Chuyện kể năm 2000 mãi mãi ra đi





  • Bởi Biên tập viên
    18/12/2014
    0 phản hồi
    Dân Luận: Theo tin của gia đình và của nhà văn Phạm Xuân Nguyên từ Hà Nội, nhà văn Bùi Ngọc Tấn đã qua đời vào lúc 6h15 sáng nay (18/12/2014) tại Hải Phòng sau một thời gian bị bệnh ung thư, hưởng thọ 81 tuổi. Ông Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên (Hải Phòng), năm 1954 trong đoàn quân về tiếp quản Hà Nội, sau đó làm báo Tiền Phong, rồi chuyển về Hải Phòng tiếp tục viết báo và viết văn.
    Năm 1968, ngày 8/12, ông bị bắt vì bị coi là liên quan đến vụ án “xét lại” và phải ở tù năm năm (1973). Sau hơn hai mươi năm bị im tiếng trên văn đàn, ông trở lại viết và xuất bản bằng những hồi ức về nhà văn Nguyên Hồng, bằng những truyện ngắn nổi bật, và đặc biệt là bằng cuốn tiểu thuyết mang tính tự thuật “Chuyện kể năm hai nghìn”. Ngoài ra ông còn sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị văn học cao, trong đó tiểu thuyêt "Biển và chim bói cá" (2008) đã được giải thưởng Văn học Henri Queffenlec của Pháp.
    (Vietnamthoibao) - Thương tiếc nhà văn Bùi Ngọc Tấn, anh vừa từ giã chúng ta lúc 6:30 sáng nay. Xin gửi các bạn, các anh chị lá thư tôi viết cho anh sau khi đọc bản thảo "Thời biến đổi gien", được anh đưa thành bài Tựa cuốn sách sắp ra mắt ở Mỹ với tên "Hậu chuyển kể năm 2000".
    Cầu chúc hương hồn anh an bình.
    Hoàng Hưng
    Thư gửi Bùi Ngọc Tấn sau khi đọc “Thời biến đổi gien”
    Anh Tấn ơi!
    Tôi đã đọc một mạch xong bản thảo cuốn sách trên 300 trang của anh trên suốt chặng đường Đà Nẵng – Sài Gòn 20 giờ xe đò, trừ mấy giờ ngủ chập chờn. Và cũng như cái lần đọc Chuyện kể năm 2000 (CKN2000) mà anh còn nhớ rất rõ và kể lại trong sách này, nước mắt và cả sự nghẹn ngào phải kìm để không thành tiếng nấc, cứ tự nhiên bật ra. Để rồi ngay sau đó tiếng nghẹn ngào lại biến thành tiếng “cười rinh rích” không kìm nổi.
    “Đi đến cốt lõi ngọn nguồn” của Sự thật, không né tránh, không sợ hãi, cái Sự thật bi phẫn mà anh đã trải qua, mà bạn bè anh trong đó có tôi, mà cả dân tộc này đã trải qua trong hơn nửa thế kỷ, anh đã phơi bày nó chính xác đến từng chi tiết rùng mình y như từng nắp chai nước mà hai đứa con anh chắt chiu để sống mỗi ngày; nhưng anh luôn vượt qua nó, vượt lên trên nó bằng cái hài hước quen thuộc của mình. Cái hài hước chỉ có ở những tâm hồn mạnh mẽ, không thể khuất phục, của những con người “đắm đuối cuộc sống” – chữ của một hoạ sĩ bạn đọc CKN2000 mà anh tâm đắc.
    Tinh thần kép nói trên, thấm nhuần trong những trang miêu tả và kể chuyện hấp dẫn, hồi hộp vô cùng, là sức mạnh những trang viết của anh, ở đây cũng như ở CKN2000. Ấn tượng khó quên của tôi về CKN2000 chính là ở những đoạn “căng thẳng” kỳ lạ như đoạn tả cảnh chia cơm tù ở trại, những con mắt tù hau háu, đau đáu theo dõi việc “cân” các suất cơm bằng chiếc que, những con mắt có khả năng phát hiện chính xác đến từng gam cơm thừa thiếu; còn ở “chuyện kể” mới này, là ở những đoạn gom sách nộp lại cho nhà xuất bản - những âm mưu tính toán, những cuộc điện thoại bằng “mật mã”, những cuộc hẹn hò “bí mật” với vai chính mặc áo Phổ Nghi, đội mũ “ninja”… – li kỳ như truyện trinh thám…
    Vâng, 14 năm sau “Chuyện kể”, Bùi Ngọc Tấn lại hiến cho người đọc một “chuyện kể”, lần này là chuyện kể về “chuyện kể”. Tất cả những gì liên quan đến việc viết, in, phát hành, thu hồi CKN2000, với tất cả những con người liên quan, những bình luận,
    những hậu quả khôn lường của nó. Anh đã gọi cuốn tiểu thuyết dựa trên nguyên mẫu mình là Chuyện kể…, ngược lại, bây giờ đặt cái tên rất “tiểu thuyết” cho cuốn hồi ức – tư liệu về Chuyện kể… là Thời biến đổi gien.
    Có lẽ bởi anh không muốn người đọc chỉ đọc nó như một hồi ức riêng tư. Mà là hồi ức về một thời đại. Một thời đại ghê gớm trên quê hương chúng ta mà cái “gien” NGƯỜI đã bị biến đổi đến thảm hại!
    Những con người tốt nhất, bản thân anh, người vợ thủy chung lặng lẽ kiên cường, bạn bè anh – những nhà văn nhà báo khăng khăng một niềm tin ngây thơ vào Cái Đẹp – suốt đời bị nghi ngờ, bị rình rập, bị săn đuổi, đã phải lay lắt để tồn tại như những PHÓ NGƯỜI. Những người tốt khác, ông giám đốc một nhà xuất bản hiếm có, những biên tập viên tâm huyết… dám in tiểu thuyết của anh, những người âm thầm hỗ trợ cho nó ra đời và đến tay người đọc… đã phải sống hai mặt, mặt NGƯỜI ở chốn riêng tư, mặt CÔNG CỤ ở chốn hành nghề. Những kẻ khác thì tùy mức độ, phần NGƯỜI và phần CÔNG CỤ tỷ lệ nghịch với nhau, ý thức CÔNG CỤ khác nhau từ chỗ ý thức rõ rệt, đến chỗ vô thức, bản năng, hay chỉ là một thói quen tập nhiễm.
    Tôi nhớ đến cái vườn tượng trên một sườn đồi ở Praha. Rải rác từ chân đến đỉnh đồi, là tượng những NGƯỜI không toàn vẹn hình hài, kẻ mất tay, kẻ mất chân, kẻ không đầu, kẻ không tim… Nếu nói đến tội ác của một chế độ, thì tôi xin nói rằng tội ác lớn nhất của nó chính là phá hủy TÍNH NGƯỜI trong nhiều thế hệ. Một nền kinh tế lụn bại có thể nhanh chóng phục hồi với sự tự cải tổ và trợ giúp từ bên ngoài, một nhà nước bất lực có thể được thay thế với sự đồng thuận của dân chúng, một đất nước thất trận có thể khôi phục lực lượng quân sự của mình bằng tiền bạc, kỹ thuật… Nhưng một dân tộc mà TÍNH NGƯỜI bị phá hủy thì không biết cần đến mấy thế hệ để trở lại làm NGƯỜI toàn vẹn.
    Nỗi ám ảnh ấy đã theo tôi nhiều năm nay. Và trong tâm thế ấy, tôi tâm đắc với Bùi Ngọc Tấn về ý nghĩa của việc Viết: Viết là “cuộc chiến đấu vô vọng” để “giữ sự trong sáng trong đôi mắt nhìn đời của các con tôi”. Tôi xúc động vì lời ông bác sĩ ung thư đang chờ chết nói ông đã được tiếp sức từ những trang sách như thế nào: “Tôi hiểu rằng con người không được phép bi quan, không được phép đầu hàng. Tập sách của anh đã nâng đỡ tôi sống những ngày còn lại. Còn một ngày cũng sống cho ra sống”.
    Vì thế, chúng ta phải viết. Vì những người đọc như thế. Vì chính chúng ta. Có những kẻ không muốn ta viết, ta phải viết. Họ sợ ta viết, ta phải viết. Họ cấm ta viết, ta phải viết. Họ trùy lung, tiêu hủy những trang viết của ta, ta phải viết. Họ ngăn cản những trang viết của ta đến người đọc, ta phải viết. Ta phải viết “khi cuộc sống chúng ta bị nén xuống sát gần cái chết”, phải không anh Tấn!
    Sài gòn, sau ngày biểu tình lớn chống Trung Quốc xâm lược 11/5/2014
    Hoàng Hưng
    VNexpress:
    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua đời
    Tác giả của "Biển và chim bói cá" tạ thế lúc 6h15 sáng nay, ngày 18/12, sau những năm tháng chống chọi với bệnh ung thư.
    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua đời tại nhà riêng ở Hải Phòng, hưởng thọ 81 tuổi. Gia đình ông đã báo tin cho các nhà văn, trong đó có nhà thơ, dịch giả Dương Tường - người bạn thân của Bùi Ngọc Tấn.
    Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại thành phố Hải Phòng. Trước khi viết văn ông làm báo. Theo đoàn quân tiếp quản Hà Nội năm 1954, ông tới Hà Nội, sau đó làm phóng viên báo Tiền Phong với bút danh Tân Sắc.
    Ở tuổi ngoài đôi mươi, ông đã có tác phẩm in ở các nhà xuất bản như Văn học, Lao động, Thanh Niên, Phổ thông.
    Năm 1969, ông trở về quê làm biên tập viên tại báo Hải Phòng Kiến thiết và tập trung viết báo để nuôi gia đình. Giai đoạn từ tháng 11/1968 đến tháng 3/1973 ông vướng vào lao lý. Bùi Ngọc Tấn có một thời gian "ẩn dật" với văn chương, ngừng viết từ 1974 tới 1994.
    Sau 20 năm im tiếng trên văn đàn, ông trở lại với bạn đọc bằng những trang hồi ký về nhà văn Nguyên Hồng và những truyện ngắn nổi bật.

    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn (thứ ba từ trái sang, hàng sau) cùng bạn bè hồi tháng 11/2014.
    Độc giả biết tới Bùi Ngọc Tấn qua nhiều tác phẩm như tập truyện Những người rách việc (1996), Rừng xưa xanh lá (2004), tiểu thuyết Biển và chim bói cá (2009). Bên cạnh đó, ông còn có nhiều tác phẩm nổi bật như Mùa cưới, Đêm tháng 10, Nhằm thẳng quân thù mà bắn, Nguyên Hồng thời đã mất, Một thời để mất, Một ngày dài đăng đẳng... Tiểu thuyết Biển và chim bói cá của ông được trao tặng giải thưởng Henri Quefenlec tại Liên hoan sách và biển diễn ra tại Pháp năm 2012.
    Hiện gia đình nhà văn đang bàn bạc để định ngày đưa tang ông.
    Lam Thu
  • - See more at: https://www.danluan.org/tin-tuc/20141218/nha-van-bui-ngoc-tan-qua-doi-chuyen-ke-nam-2000-mai-mai-ra-di#sthash.cohZzbMV.dpuf

    Nhà Văn Bùi Ngọc Tấn qua đời - Chuyện kể năm 2000 mãi mãi ra đi





  • Bởi Biên tập viên
    18/12/2014
    0 phản hồi
    Dân Luận: Theo tin của gia đình và của nhà văn Phạm Xuân Nguyên từ Hà Nội, nhà văn Bùi Ngọc Tấn đã qua đời vào lúc 6h15 sáng nay (18/12/2014) tại Hải Phòng sau một thời gian bị bệnh ung thư, hưởng thọ 81 tuổi. Ông Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên (Hải Phòng), năm 1954 trong đoàn quân về tiếp quản Hà Nội, sau đó làm báo Tiền Phong, rồi chuyển về Hải Phòng tiếp tục viết báo và viết văn.
    Năm 1968, ngày 8/12, ông bị bắt vì bị coi là liên quan đến vụ án “xét lại” và phải ở tù năm năm (1973). Sau hơn hai mươi năm bị im tiếng trên văn đàn, ông trở lại viết và xuất bản bằng những hồi ức về nhà văn Nguyên Hồng, bằng những truyện ngắn nổi bật, và đặc biệt là bằng cuốn tiểu thuyết mang tính tự thuật “Chuyện kể năm hai nghìn”. Ngoài ra ông còn sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị văn học cao, trong đó tiểu thuyêt "Biển và chim bói cá" (2008) đã được giải thưởng Văn học Henri Queffenlec của Pháp.
    (Vietnamthoibao) - Thương tiếc nhà văn Bùi Ngọc Tấn, anh vừa từ giã chúng ta lúc 6:30 sáng nay. Xin gửi các bạn, các anh chị lá thư tôi viết cho anh sau khi đọc bản thảo "Thời biến đổi gien", được anh đưa thành bài Tựa cuốn sách sắp ra mắt ở Mỹ với tên "Hậu chuyển kể năm 2000".
    Cầu chúc hương hồn anh an bình.
    Hoàng Hưng
    Thư gửi Bùi Ngọc Tấn sau khi đọc “Thời biến đổi gien”
    Anh Tấn ơi!
    Tôi đã đọc một mạch xong bản thảo cuốn sách trên 300 trang của anh trên suốt chặng đường Đà Nẵng – Sài Gòn 20 giờ xe đò, trừ mấy giờ ngủ chập chờn. Và cũng như cái lần đọc Chuyện kể năm 2000 (CKN2000) mà anh còn nhớ rất rõ và kể lại trong sách này, nước mắt và cả sự nghẹn ngào phải kìm để không thành tiếng nấc, cứ tự nhiên bật ra. Để rồi ngay sau đó tiếng nghẹn ngào lại biến thành tiếng “cười rinh rích” không kìm nổi.
    “Đi đến cốt lõi ngọn nguồn” của Sự thật, không né tránh, không sợ hãi, cái Sự thật bi phẫn mà anh đã trải qua, mà bạn bè anh trong đó có tôi, mà cả dân tộc này đã trải qua trong hơn nửa thế kỷ, anh đã phơi bày nó chính xác đến từng chi tiết rùng mình y như từng nắp chai nước mà hai đứa con anh chắt chiu để sống mỗi ngày; nhưng anh luôn vượt qua nó, vượt lên trên nó bằng cái hài hước quen thuộc của mình. Cái hài hước chỉ có ở những tâm hồn mạnh mẽ, không thể khuất phục, của những con người “đắm đuối cuộc sống” – chữ của một hoạ sĩ bạn đọc CKN2000 mà anh tâm đắc.
    Tinh thần kép nói trên, thấm nhuần trong những trang miêu tả và kể chuyện hấp dẫn, hồi hộp vô cùng, là sức mạnh những trang viết của anh, ở đây cũng như ở CKN2000. Ấn tượng khó quên của tôi về CKN2000 chính là ở những đoạn “căng thẳng” kỳ lạ như đoạn tả cảnh chia cơm tù ở trại, những con mắt tù hau háu, đau đáu theo dõi việc “cân” các suất cơm bằng chiếc que, những con mắt có khả năng phát hiện chính xác đến từng gam cơm thừa thiếu; còn ở “chuyện kể” mới này, là ở những đoạn gom sách nộp lại cho nhà xuất bản - những âm mưu tính toán, những cuộc điện thoại bằng “mật mã”, những cuộc hẹn hò “bí mật” với vai chính mặc áo Phổ Nghi, đội mũ “ninja”… – li kỳ như truyện trinh thám…
    Vâng, 14 năm sau “Chuyện kể”, Bùi Ngọc Tấn lại hiến cho người đọc một “chuyện kể”, lần này là chuyện kể về “chuyện kể”. Tất cả những gì liên quan đến việc viết, in, phát hành, thu hồi CKN2000, với tất cả những con người liên quan, những bình luận,
    những hậu quả khôn lường của nó. Anh đã gọi cuốn tiểu thuyết dựa trên nguyên mẫu mình là Chuyện kể…, ngược lại, bây giờ đặt cái tên rất “tiểu thuyết” cho cuốn hồi ức – tư liệu về Chuyện kể… là Thời biến đổi gien.
    Có lẽ bởi anh không muốn người đọc chỉ đọc nó như một hồi ức riêng tư. Mà là hồi ức về một thời đại. Một thời đại ghê gớm trên quê hương chúng ta mà cái “gien” NGƯỜI đã bị biến đổi đến thảm hại!
    Những con người tốt nhất, bản thân anh, người vợ thủy chung lặng lẽ kiên cường, bạn bè anh – những nhà văn nhà báo khăng khăng một niềm tin ngây thơ vào Cái Đẹp – suốt đời bị nghi ngờ, bị rình rập, bị săn đuổi, đã phải lay lắt để tồn tại như những PHÓ NGƯỜI. Những người tốt khác, ông giám đốc một nhà xuất bản hiếm có, những biên tập viên tâm huyết… dám in tiểu thuyết của anh, những người âm thầm hỗ trợ cho nó ra đời và đến tay người đọc… đã phải sống hai mặt, mặt NGƯỜI ở chốn riêng tư, mặt CÔNG CỤ ở chốn hành nghề. Những kẻ khác thì tùy mức độ, phần NGƯỜI và phần CÔNG CỤ tỷ lệ nghịch với nhau, ý thức CÔNG CỤ khác nhau từ chỗ ý thức rõ rệt, đến chỗ vô thức, bản năng, hay chỉ là một thói quen tập nhiễm.
    Tôi nhớ đến cái vườn tượng trên một sườn đồi ở Praha. Rải rác từ chân đến đỉnh đồi, là tượng những NGƯỜI không toàn vẹn hình hài, kẻ mất tay, kẻ mất chân, kẻ không đầu, kẻ không tim… Nếu nói đến tội ác của một chế độ, thì tôi xin nói rằng tội ác lớn nhất của nó chính là phá hủy TÍNH NGƯỜI trong nhiều thế hệ. Một nền kinh tế lụn bại có thể nhanh chóng phục hồi với sự tự cải tổ và trợ giúp từ bên ngoài, một nhà nước bất lực có thể được thay thế với sự đồng thuận của dân chúng, một đất nước thất trận có thể khôi phục lực lượng quân sự của mình bằng tiền bạc, kỹ thuật… Nhưng một dân tộc mà TÍNH NGƯỜI bị phá hủy thì không biết cần đến mấy thế hệ để trở lại làm NGƯỜI toàn vẹn.
    Nỗi ám ảnh ấy đã theo tôi nhiều năm nay. Và trong tâm thế ấy, tôi tâm đắc với Bùi Ngọc Tấn về ý nghĩa của việc Viết: Viết là “cuộc chiến đấu vô vọng” để “giữ sự trong sáng trong đôi mắt nhìn đời của các con tôi”. Tôi xúc động vì lời ông bác sĩ ung thư đang chờ chết nói ông đã được tiếp sức từ những trang sách như thế nào: “Tôi hiểu rằng con người không được phép bi quan, không được phép đầu hàng. Tập sách của anh đã nâng đỡ tôi sống những ngày còn lại. Còn một ngày cũng sống cho ra sống”.
    Vì thế, chúng ta phải viết. Vì những người đọc như thế. Vì chính chúng ta. Có những kẻ không muốn ta viết, ta phải viết. Họ sợ ta viết, ta phải viết. Họ cấm ta viết, ta phải viết. Họ trùy lung, tiêu hủy những trang viết của ta, ta phải viết. Họ ngăn cản những trang viết của ta đến người đọc, ta phải viết. Ta phải viết “khi cuộc sống chúng ta bị nén xuống sát gần cái chết”, phải không anh Tấn!
    Sài gòn, sau ngày biểu tình lớn chống Trung Quốc xâm lược 11/5/2014
    Hoàng Hưng
    VNexpress:
    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua đời
    Tác giả của "Biển và chim bói cá" tạ thế lúc 6h15 sáng nay, ngày 18/12, sau những năm tháng chống chọi với bệnh ung thư.
    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua đời tại nhà riêng ở Hải Phòng, hưởng thọ 81 tuổi. Gia đình ông đã báo tin cho các nhà văn, trong đó có nhà thơ, dịch giả Dương Tường - người bạn thân của Bùi Ngọc Tấn.
    Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại thành phố Hải Phòng. Trước khi viết văn ông làm báo. Theo đoàn quân tiếp quản Hà Nội năm 1954, ông tới Hà Nội, sau đó làm phóng viên báo Tiền Phong với bút danh Tân Sắc.
    Ở tuổi ngoài đôi mươi, ông đã có tác phẩm in ở các nhà xuất bản như Văn học, Lao động, Thanh Niên, Phổ thông.
    Năm 1969, ông trở về quê làm biên tập viên tại báo Hải Phòng Kiến thiết và tập trung viết báo để nuôi gia đình. Giai đoạn từ tháng 11/1968 đến tháng 3/1973 ông vướng vào lao lý. Bùi Ngọc Tấn có một thời gian "ẩn dật" với văn chương, ngừng viết từ 1974 tới 1994.
    Sau 20 năm im tiếng trên văn đàn, ông trở lại với bạn đọc bằng những trang hồi ký về nhà văn Nguyên Hồng và những truyện ngắn nổi bật.

    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn (thứ ba từ trái sang, hàng sau) cùng bạn bè hồi tháng 11/2014.
    Độc giả biết tới Bùi Ngọc Tấn qua nhiều tác phẩm như tập truyện Những người rách việc (1996), Rừng xưa xanh lá (2004), tiểu thuyết Biển và chim bói cá (2009). Bên cạnh đó, ông còn có nhiều tác phẩm nổi bật như Mùa cưới, Đêm tháng 10, Nhằm thẳng quân thù mà bắn, Nguyên Hồng thời đã mất, Một thời để mất, Một ngày dài đăng đẳng... Tiểu thuyết Biển và chim bói cá của ông được trao tặng giải thưởng Henri Quefenlec tại Liên hoan sách và biển diễn ra tại Pháp năm 2012.
    Hiện gia đình nhà văn đang bàn bạc để định ngày đưa tang ông.
    Lam Thu
  • - See more at: https://www.danluan.org/tin-tuc/20141218/nha-van-bui-ngoc-tan-qua-doi-chuyen-ke-nam-2000-mai-mai-ra-di#sthash.cohZzbMV.dpuf

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét